Trúc Thư Dao - Tập 2: Nước Tấn - Chương 17
KHI QUỐC SĨ VÔ SONG
Thập đặt nắm que tính xuống, liếc nhìn con số ghi trên tấm lụa, lòng thầm kinh hãi. Kẻ này rốt cuộc là ai mà buôn bán lớn nhường này? Từ Bắc đến Nam, vung tiền như rác, số tiền mua vào bán ra đủ nuôi sống dân chúng trong cả tòa thành.
Gió càng lúc càng mạnh, bầu trời xám xịt mây đen bắt đầu lác đác vài bông tuyết, mấy người bọn Thập guồng chân chạy thật nhanh. Ngũ Phong, Triệu Vô Tuất và Bá Doanh đang đợi sẵn bên bờ đằng trước, phía sau Chúc Độc cũng cõng Mật Tào chạy đến.
“Tìm thấy nơi cắm lều rồi à? E rằng trận tuyết này sẽ càng ngày càng lớn!” Thập bảo Triệu Vô Tuất.
“Chào cô em, lâu rồi không gặp!” Thình lình, một giọng nữ lảnh lót cất lên từ sau lưng Triệu Vô Tuất làm Thập sởn cả gai ốc.
“Sao cô ta lại ở đây?” Thập kéo tay áo Triệu Vô Tuất, cố nấp ra sau lưng hắn.
“Đây là Lan Cơ nước Trịnh, thuyền họ cũng bị kẹt, hôm nay sẽ dựng lều nghỉ lại cùng chúng ta.” Triệu Vô Tuất ngoái đầu đáp.
“Sao hai người lại quen nhau?” Thập sầm mặt nhìn vào mắt Triệu Vô Tuất.
“Thử hỏi thiên hạ này có người đàn ông nào không biết Lan Cơ ta? Chúc Độc, chàng nói thử xem?” Lan Cơ che miệng cười khẽ, sóng mắt long lanh liếc nhìn Chúc Độc phía sau Thập.
Chúc Độc đặt Mật Tào trên lưng xuống, đưa mắt nhìn Lan Cơ từ trên xuống dưới, vừa nhếch môi đã lại biến thành gã du hiệp phóng đãng cợt nhả trước kia.
“Lan Cơ là khách quen trên yến tiệc của quý khanh nước Tấn, lần này sang Tấn dự tiệc của tông chủ Trí Dao tộc Trí.” Triệu Vô Tuất nhẹ nhàng giải thích.
“Vậy …” Tuy biết trước mắt bao người, Lan Cơ không dám động tới mình, song nhớ lại cảnh trước kia bị cô ta cùng gã đàn ông đeo mặt nạ thú truy sát bên ngoài giáo phường, Thập lại thấy lạnh toát sống lưng.
“Ngũ tướng quân còn đứng đằng trước kia kìa, mới một năm cô em đã đổi người rồi ư?” Lan Cơ nhìn Triệu Vô Tuất đầy thâm ý rồi lắc hông uyển chuyển đi tới trước mặt Thập, nhếch môi cười khẩy, “Năm xưa ở trong nhà lao còn bất chấp tính mạng giội cả nước đá lên đầu, ta cứ tưởng cô em là hạng gái si tình, tình sâu như biển thế nào, hóa ra cũng chỉ vậy thôi.”
Ả vừa dứt lời, Ngũ Phong, Bách Lý đại phu, Bá Doanh, Triệu Vô Tuất nhất loạt đổ dồn mắt vào Thập. Thập sầm mặt, cao giọng đáp, “Thập này bất tài song cũng được học bốn năm lễ giáo trong phủ tướng quân, muốn tôi đi theo kẻ như tội thái tử thì thà chết còn hơn!”
Bách Lý đại phu nghe vậy vuốt râu cảm thán với Ngũ Phong, “Cô bé này đúng là được dạy dỗ đâu ra đấy, tiếc rằng Hồng Dược nhà ta không có phúc được cùng cô ấy kết làm chị em, nâng đỡ lẫn nhau.”
Mặt Ngũ Phong hằn rõ vẻ đau đớn, y đờ đẫn gật đầu, song ánh mắt vẫn dán chặt vào Thập.
Lúc này trời càng lúc càng âm u, tuyết rơi lả tả, nháy mắt đã phủ một lớp băng mỏng lên mặt đất. Rặng núi đằng xa đã khuất dạng, ngoài trăm trượng chỉ thấy xám ngắt một màu. Mọi người rảo bước chạy đến vạt rừng ven sông, tìm một bãi cỏ bằng phẳng dựng lều rồi đốt lửa.
Đêm khuya trong rừng yên tĩnh lạ thường, chỉ nghe tiếng tuyết rơi lộp độp cùng tiếng củi khô đang cháy nổ lách tách. Ngũ Phong và Bách Lý đại phu ngồi gần nhau rì rầm trò chuyện; Triệu Vô Tuất và mấy gã du hiệp tụ lại một chỗ lặng lẽ lau kiếm; Chúc Độc không ngờ lại bỏ Mật Tào, chui vào lều của Lan Cơ và đám vũ nữ, tiếng cười trầm thấp của đàn ông cùng tiếng mắng mỏ giỡn hát của con gái hòa lẫn vào nhau, khiến người ta không ngăn được nghĩ ngợi vẩn vơ. Bá Doanh nhìn chằm chằm Ngũ Phong không chớp, Mật Tào thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía lều Lan Cơ, song ngoài mặt vẫn tỏ vẻ bất cần.
“Ôi…” Thập xoa hàng mày trái vẫn giàn giật này giờ, dựa đầu vào vai Tư, “Chóng mặt quá…”
“Cậu mệt thì ngủ sớm đi!” Tư kéo tấm da gấu hai cô đang đắp chung lên, “Tối qua cậu cứ trằn trọc mãi có ngủ yên được đâu.”
“Đừng ngủ!” Thập vừa nhắm mắt thì Vô Tà bên cạnh chợt đứng bật dậy nhìn vào cánh rừng tối om đằng sau, cảnh giác nhắc, “Có người tới!”
Vừa nghe Vô Tà kêu có người, Triệu Vô Tuất lập tức đưa mắt ra hiệu cho bọn A Lục, sáu gã du hiệp nhất loạt cầm kiếm đứng dậy. Lại nói sáu người này từ đầu đã trà trộn vào trại địch nửa tháng, về sau vì biểu hiện quá xuất sắc nên trước trận được cử đi canh giữ lương thảo ở hậu phương cho liên quân Ba, Thục. Họ không giết được thái tử Thượng song đã đốt trụi lương thảo của kẻ địch, ép hai nước Ba, Thục phải đầu hàng trong vòng ba ngày, cũng coi như lập được công lớn, ai nấy đều được Tần bá ban thưởng trăm nén vàng.
“Chúng tôi không phải kẻ cướp, chỉ là lái buôn đi ngang qua đây thì thuyền bị mắc kẹt, thấy có ánh lửa nên tìm tới mà thôi.” Một giọng đàn ông sang sảng cất lên từ trong bóng tối.
Bọn A Lục dẫn bốn người trong rừng ra, người đàn ông đi đầu dẫu có lăm lăm gươm xuất hiện trước mặt Thập, cô cũng không bao giờ coi y là kẻ cướp, trái lại y còn phải lo liệu cô có bỗng dưng đổi ý muốn chuyển nghề, không làm vu sĩ mà đi làm kẻ cướp không.
Câu này không ngoa chút nào. Người đàn ông trước mặt khoảng ngoài ba mươi, trán cao mũi thẳng, mặt mày sáng sủa, đội mũ vàng, xỏ hia da. Trên mũ đính một viên minh châu to tướng, sáng bóng lên dưới ánh lửa, như vầng trăng sáng treo ngay trên đầu. Bên dưới là tấm áo gấm chần bông họa tiết quả trám màu chàm, nẹp áo thêu san sát những hoa văn mây và sấm bằng chỉ vàng nhạt. Tấm áo gấm này, khoan bàn đến chất liệu, chỉ riêng hoa văn trên nẹp áo, một cô gái giỏi thêu thùa phải thêu mất ba tháng. Càng khỏi nói tới chiếc thắt lưng da nạm bạch ngọc chạm thành hình quỳ long và túi thơm có chuỗi hạt lưu ly đeo bên hông y, thứ nào cũng đều là của báu hiếm có trên đời.
Ngũ Phong nhìn bốn người rồi bảo Triệu Vô Tuất, “Chắc là thương nhân đi ngang qua thôi, tuyết lớn thế này, để họ ở lại đây trú một đêm đi!”
Triệu Vô Tuất quan sát mấy người kia một hồi rồi vẫy tay, bọn A Lục tức thời thả họ ra, để họ tự tìm chỗ ngồi.
Người đàn ông dẫn đầu nhìn quanh một vòng, cuối cùng đi đến ngồi xuống phía sau Vô Tà.
Lái buôn tuy giàu có, nhưng chung quy thân phận thấp kém, trông Ngũ Phong và Bách Lý đại phu có vẻ không giống kẻ sĩ tầm thường, đám Triệu Vô Tuất lại lăm lăm đao kiếm, hung hăng dữ tợn, nhìn đi nhìn lại hiển nhiên là bên phía bọn Thập có vẻ hiền hòa hơn.
“Vô Tà, dịch lại đây một chút.” Thập nép vào Tư, rồi thân thiện bảo người nọ, “Tiên sinh ngồi gần vào, ngồi xa không ấm đâu.”
“Cảm ơn anh bạn!” Người nọ dịch lên trước, ngồi bên cạnh Vô Tà.
“Nào, mọi người uống ít nước nóng cho ấm!” Tư múc mấy bát nước nóng từ chiếc nồi treo giữa bãi cắm trại, tươi cười đưa cho bốn kẻ mới đến. Họ cảm kích nhận lấy, luôn miệng cảm ơn.
Nhân lúc họ cúi đầu uống nước, Thập âm thầm quan sát kỹ động tác và vẻ mặt họ. Bỗng dưng Lan Cơ ở đầu xuất hiện khiến cô đâm ra sợ bóng sợ gió. Nếu vũ nữ lừng danh thiên hạ có thể là thích khách tàn độc quyết liệt thì lái buôn ăn vận xa hoa kia đến lúc đêm khuya thanh vắng cũng có thể biến thành kẻ giết người không chớp mắt lắm chứ.
Nhưng sự việc xảy ra sau đó lại hoàn toàn nằm ngoài tưởng tượng của Thập, kẻ cầm đầu uống hết bát nước, không ngờ lại thong dong lôi trong tay nải ra một nắm que tính bằng vàng, rải xuống đất hí hoáy tính toán ngay trước mặt họ. Giữa thời loạn lạc thế này, lái buôn nào cũng biết phải giấu kín tiền bạc không để lộ ra ngoài, vậy mà y lại hành động ngang nhiên như thế, khiến người ta không khỏi sinh nghi.
“Tiên sinh mang theo nhiều que tính vàng như vậy không sợ giữa đường gặp cướp sao?” Thập hỏi.
“Không sợ, nếu kẻ cướp nghèo túng khốn khó, tôi sẽ cho hơn tiền; nếu thổ phỉ bị tiền tài mê hoặc, tôi sẽ dạy hắn nhân nghĩa. Huống hồ đến thủ lĩnh đám trộm cướp trong thiên hạ tôi cũng gặp rồi, tuy hắn cướp bóc của người ta, song cũng không phải kẻ xấu.” Người nọ ngẩng lên nhìn thẳng vào Thập, lời nói cử chỉ đều toát lên vẻ tiêu sái hiếm có.
Thủ lĩnh đám trộm cướp trong thiên hạ mà y nhắc tới hẳn là tên ác quỷ Đạo Chích xuất thân danh môn nước Lỗ nhưng không theo lễ giáo, trộm cướp vơ vét, không việc ác gì không làm. Thuở bé, mỗi khi Thập ngang bướng, Bách Phụ lại lôi chuyện Đạo Chích ra dọa. Nghe đồn kẻ này xuất quỷ nhập thần, ba đầu sáu tay, uống máu ăn thịt người, thích nhất là ăn tim gan trẻ con.
Người trước mặt lời nói cử chỉ không phải hạng phàm tục, lại nói mình từng gặp Đạo Chích, khiến Thập đâm ra tò mò. Cô bèn huých Vô Tà một cái, nói nhỏ, “Đổi chỗ cho tôi đi!”
“Không được, mau ngủ đi!” Vô Tà dẩu môi đẩy vào đầu Thập một cái. Đúng lúc ấy con khỉ tuyết trên vai cậu bỗng nhảy xuống, hấp háy mắt nhìn quanh rồi thò tay ra vơ một nắm que tính vàng dưới đất, tót lên cây.
“A ha ha ha…” Vô Tà chỉ một người nọ cười phá lên, “Giờ kẻ trộm là khỉ, chú định làm sao đây? Ha ha ha…”
Thập véo Vô Tà một cái thật đau rồi gập ngón tay lại huýt lên một tiếng. Con khỉ tức thì tụt xuống, nem nép đặt nắm que tính xuống đất rồi dẩu môi liếc Thập, lại leo tót lên cây.
Thập lấy khăn tay lau kỹ nắm que tính một lượt rồi ấn đầu Vô Tà xuống hành lễ với lái buôn kia, “Cậu em tôi không biết lễ giáo, xin tiên sinh bỏ quá cho!”
“Không sao, tôi tính lại từ đầu là được.” Người nọ xua tay cười rồi cầm tấm lụa ghi công nợ, lại xếp ra một dãy số dưới đất.
“Tiên sinh, dám hỏi có thể cho người khác xem nội dung trên tấm lụa này không?” Tư ló ra từ sau lưng Thập, cười duyên dáng hỏi.
“Dĩ nhiên là được rồi, cô nương cùng tính với tôi được không?” Người kia cười nhìn Tư.
“Tiên sinh bảo kẻ này tính giúp cho, bảo đảm vừa nhanh vừa chuẩn!” Tư nhoẻn miệng cười trỏ Thập, trông đắc ý như thể coi Thập là quả bầu nậm vừa chín, còn mình là bà già bán bầu ngoài chợ.
“Nếu tiên sinh không ngại, tôi xin giúp một tay”
“Anh bạn cũng biết phép tính toán ư?” Người nọ cười khanh khách, đưa hết đống que tính vàng và tấm lụa ghi công nợ vào tay Thập.
Thập đặt nắm que tính xuống, liếc nhìn con số ghi trên tấm lụa, lòng thầm kinh hãi. Kẻ này rốt cuộc là ai mà buôn bán lớn nhường này? Từ Bắc đến Nam, vung tiền như rác, số tiền mua vào bán ra đủ nuôi sống dân chúng trong cả tòa thành.
“Tiên sinh chuyến này định đem da thuộc đất Bắc đổi lấy gỗ chá và sừng tê đặc sản hai nước Ba, Thục, theo con số ghi trên tấm lụa này cùng giá cả mua vào bán ra, tổng cộng phải thu được đến năm trăm dật tám cân hai thù vàng*.
“Cậu không cần dùng que tính, chỉ nhìn qua đã tính được rồi ư?” Lái buôn nọ hiền hòa hỏi, song vẻ mặt không giấu được hoài nghi.
Thập trả lại tấm vải và nắm que tính cho y, cười đáp, “Tôi chỉ nhìn qua cũng biết tiên sinh từ Lỗ tới, lần này chở da thuộc tới Ba, Thục, làm thành áo giáp cho binh sĩ để bán cho liên quân Ba Thục đánh Tần; rồi lại mua gỗ chá, sừng tê ở Ba làm thành cung quý bán cho nước Yên phương Bắc, đúng không?”
Nghe Thập nói, cặp mắt sáng rực của người kia đồng thời hiện lên vẻ kinh ngạc, trầm ngâm và tán thưởng, “Không ngờ ngoài rừng vắng đồng hoang ở Tần lại có thể gặp được người như cậu, chẳng trách thầy ta dạy rằng, kẻ sinh sau đáng sợ, sao biết ngày sau họ không bằng người nay?”
“Tiên sinh quá khen rồi.” Thập cúi đầu khiêm tốn đáp, lại trỏ một đoạn ghi chép hỏi, “Ở Ba, Thục, tiên sinh đã chuộc thân cho sáu người Lỗ bị bán làm nô lệ. Tôi nghe nói nước Lỗ có lệnh, phàm kẻ nào chuộc thân cho những người Lỗ bị bán làm nô lệ ở nước khác, khi về nước có thể đến kho vàng lấy lại tiền, có thật không?”
“Lỗ Công nhân đức, quả có lệnh này.”
“Vậy cộng thêm tiền tiên sinh chuộc thân cho mấy nô lệ, tiên sinh phải được tới năm trăm dật mười hai cân tám thù vàng.”
“Chuộc thân cho người Lỗ về nước cũ là kẻ hèn này làm việc nghĩa, sao có thể đi đòi bệ hạ bốn cân sáu thù vàng ấy được?” Người nọ cười nói, đoạn chân thành khuyên nhủ Thập, “Anh bạn đây thông minh lanh lợi, nhưng chớ nên chỉ chăm chăm vào tiền tài như thế. Phú quý ai chẳng ham, nhưng muốn lấy phải có đạo lý, trước là đạo nghĩa sau mới tới lợi lộc, việc gì cũng nên đặt đạo nghĩa lên đầu.”
“Cảm ơn tiên sinh đã dạy bảo. Tôi trộm nghĩ trong thiên hạ thứ quý giá hơn tiền tài đâu đâu cũng có, như bạn bè, như thầy giỏi, nếu con người ta chỉ sống vì tiền thì có khác gì thú vật trong núi rừng ngày ngày chỉ biết kiếm ăn đâu. Nhưng hôm nay tiên sinh bỏ bốn cân sáu thù vàng này, lại làm mất đạo nghĩa ngày sau của người Lỗ rồi.”
“Nói vậy nghĩa là sao?” Lái buôn nọ nhướng mày nghi hoặc hỏi.
“Tiên sinh không màng tới số tiền này là bởi tiên sinh giàu có, nhưng lái buôn nước Lỗ được mấy ai giàu có như tiên sinh?”
“Không ai cả.”
“Vậy đúng rồi.” Thập chỉ cười không nói. Kẻ trước mắt giàu có lừng lẫy một phương, hơn nữa phẩm đức tu dưỡng vượt xa những thương nhân bình thường. Nếu một người gặp kẻ cướp nghèo khổ túng quẫn mà còn tặng tiền tặng bạc, dĩ nhiên sẽ cho rằng chuộc những người Lỗ bị bán làm nô lệ về nước là đạo nghĩa nên làm, không lý nào lại tới quan phủ nhận lại khoản tiền chuộc. Nhưng y đã quên một điểm vô cùng quan trọng, ấy là nếu y bỏ tiền ra chuộc nô lệ về mà không nhận lại một xu là đạo nghĩa, vậy những kẻ khác chuộc nô lệ rồi tới quan phủ nhận lại tiền sẽ thành kẻ “không có đạo nghĩa”, song khắp thiên hạ này được mấy người giàu có như y?
Đổi lại là người bình thường, nếu bỏ ra ba tháng tiền chi dùng chuộc một nô lệ từ nước khác, sau khi về Lỗ không đi nhận lại tiền thì không có tiền sinh sống; mà đi lại sợ bị người ta chê cười là không có đạo nghĩa. Lâu dần, người bỏ tiền ra chuộc nô lệ sẽ ngày càng ít, người Lỗ sẽ vì đạo nghĩa bề ngoài mà quên đi đạo nghĩa thực sự.
Người nọ chưa nói năng gì thì một kẻ khác ngồi phía sau y đã tức giận chen lên, trừng mắt quát Thập, “Ranh con đừng nói bậy! Đoan Mộc tiên sinh là người đạo nghĩa nhất trên đời, sao lại làm mất đạo nghĩa của người Lỗ được?”
Đoan Mộc tiên sinh ư?
Thập quay phắt sang nhìn người bên cạnh, lòng thầm rúng động. Là lái buôn, khéo ứng đối, hay làm việc nghĩa, giàu có lẫy lừng một phương, lẽ nào y chính là Đoan Mộc Tứ? Quốc sĩ Đoan Mộc Tứ học trò Khổng Khâu nước Lỗ, chỉ dựa vào ba tấc lưỡi mà giữ Lỗ, loạn Tề, phá Ngô, giúp Tấn hùng mạnh, giúp Việt xưng bá ấy ư?
Kẻ đầu đội mũ vàng, ăn vận hoa lệ này chính là Đoan Mộc Tứ mà cô hằng kính ngưỡng!
Nhận ra người trước mắt chính là Đoan Mộc Tứ lừng danh thiên hạ, Thập không nén nổi nụ cười vồn vã, hơi rướn người tới nắm chặt lấy tay y, “Tiên sinh có phải học trò Khổng đại phu, tên chỉ có một chữ Tứ không?”
Giật mình trước thay đổi đột ngột của Thập, Đoan Mộc Tứ vô thức rút tay lại, dịch người về phía sau, từ tốn đáp, “Chính là tại hạ đây. Vừa rồi cậu nói ta làm mất đạo nghĩa của người Lỗ…”
Thập vội lắc đầu xua tay, “Không can gì, không can gì! Ôi… thực không ngờ lại gặp được tiên sinh ở đây…” Trong cơn kích động, Thập cũng chẳng biết phải nói gì, đành ngậm miệng chăm chú quan sát y.
Đoan Mộc Tứ, tên chữ Tử Cống, là một trong những học trò đắc ý của đại phu Khổng Khâu nước Lỗ. Trước khi gặp Đoan Mộc Tứ, Thập đã nhiều lần tưởng tượng ra dáng vẻ y trong tâm trí. Hôm nay được gặp tận mắt mới phát hiện y cao hơn, râu cũng dài hơn cô nghĩ, nhưng cặp mắt lại giống hệt như trong tưởng tượng, hơi hẹp mà dài, song thâm thúy sắc sảo.
Khổng đại phu có ba nghìn học trò, trong đó bảy mươi hai người tinh thông cả lục nghệ*, được người thiên hạ vô cùng ngưỡng mộ. Thầy Thái năm xưa cũng từng xách một tảng thịt khô làm học phí, tới xin bái Khổng Khâu làm thầy, ngày ngày nghe giảng bài bàn lễ. Lúc sinh thời, mỗi khi bàn tới lễ nghi đức hạnh, thầy đều hết lời ca tụng vị đại phu nước Lỗ này, nghe mãi khiến Thập có cảm giác không thực.
Người không ai hoàn mỹ, một kẻ hoàn mỹ vô khuyết thường sẽ làm người ta cảm thấy xa cách, sau đó cảm thấy không thực. Năm xưa Đoan Mộc Tứ du thuyết năm nước, thể hiện tài trí phi phàm đã khiến Thập cảm thấy y không giống người sống, mà như một vị thần nhìn không được sờ chẳng thấy. Nhưng hôm nay thấy y châu báu đầy người, áo gấm đai ngọc, Thập lại cảm thấy y dễ gần hẳn, bất luận có tục hay không, ít ra y cũng là một người thực sự tồn tại, giơ tay ra chạm đến được.
“Này, gì mà nhìn chằm chằm thế, làm chú ấy sợ rồi kìa!” Vô Tà giơ tay bịt mắt Thập rồi bảo Đoan Mộc Tứ, “Chú đừng sợ, cậu ta bị choáng đấy thôi, không phải muốn ăn thịt chú đâu.”
Đoan Mộc Tứ bị Thập nhìn đến mức phát ngượng, thấy cô bị Vô Tà kéo đi mà vẫn nhìn mình chằm chằm, bèn nhắm mắt lại vờ ngủ.
“Cậu làm người ta sợ rồi đấy.” Tư ghé tai Thập cười khì bảo.
“Ông ấy sợ cái gì cơ?”
Tư và Vô Tà nhìn nhau đầy bất lực.
“Giờ cậu ăn mặc như đàn ông, lại nhìn ông ấy chằm chằm đầy vẻ ái mộ, cậu bảo ông ấy sợ cái gì?” Tư nhịn cười đáp.
Thập nghe nói cũng thấy buồn cười, hành vi bất thường như vậy đúng là bị choáng rồi.
“Đó là ai vậy? Mình chưa bao giờ thấy cậu coi trọng người lạ nào như thế cả.” Tư xích lại gần, ghé tai sát miệng Thập.
Thập liền kéo tai bạn, hạ giọng cười nói, “Ấy là người nổi tiếng nhất, giàu có nhất trong thiên hạ ngày nay, mình định nịnh hót ông ta hòng kiểm chút lợi lộc ấy mà.”
“Cậu có thiếu gì đâu, nịnh nọt ông ấy làm gì?” Tư véo tay Thập, nhướng đôi mày thanh tú căng thẳng hỏi, “Không phải cậu thấy tướng quân sắp lấy vợ nên cũng định tìm đại một người giàu có tiếng tăm để đi theo đấy chứ? Con gái không được mai mối cưới hỏi mà tự theo người ta, địa vị còn thấp hơn cả hầu thiếp, cậu phải hiểu rõ chuyện này hơn mình chứ?”
“Nghĩ lung tung gì đấy!” Thập ngồi thẳng dậy, len lén nhìn quanh, sợ có ai nghe được lời Tư, “Mình muốn kết giao với ông ta, để sau này nếu có cơ hội đến Lỗ, biết đâu lại gặp được Khổng Khâu thôi. Cậu mới muốn lấy chồng đến phát điên thì có! Hừm, không phải lo, về đến Tấn, mình sẽ cắt vải thêu áo cưới cho cậu ngay!”
“Ai da, mình chịu thua cậu rồi!” Tư đỏ bừng mặt đập cho bạn một cái rồi quay người chui vào lều, “Đừng nói cái gì Khổng đại phu với thầy Lỗ nữa, mau đi ngủ đi, nếu mai thuyền không đi được thì phải cuốc bộ đấy!”.
Thập quay sang nhìn Đoan Mộc Tứ đang nhắm mắt dưỡng thần, nghĩ bụng chẳng biết Khổng Khâu có nhận nữ đệ tử không, hay là hai năm nữa mình cũng xách một xâu thịt khô sang Lỗ nộp học phí nhỉ!
“Thập ơi, cậu giữ con chim của thầy Thái đi này, mình chỉ sợ đánh mất thôi!” Tư ló đầu ra, đưa trả con chim hai đầu bằng gốm Thập giao cho mình giữ.
“Cái gì đây? Trông lạ thế.” Vô Tà tay dài, chộp ngay lấy xem.
“Đừng có làm rơi vỡ nhé.” Thấy Vô Tà nắm đuôi chim xoay qua xoay lại, Tư vội nhắc.
Thập giằng lại con chim gốm từ tay Vô Tà, nghiêm giọng nói, “Tôi có việc quan trọng cần dùng tới thứ này, cậu mà làm vỡ, tôi sẽ lôi cậu ra thí nghiệm tất cả đám thảo dược chép trong cuốn sách thuốc độc kia đấy!”
“Thử một loại là chết rồi, cô khỏi phải mất công!” Vô Tà bĩu môi lầu bầu, “Hóa ra tôi còn không bằng con chim xấu hoắc này.”
Tư lườm Vô Tà rồi cười bảo Thập, “Thằng bé này hung hăng thật đấy, cậu phải dạy dỗ nó đi chứ!” Dứt lời lại rụt đầu vào trong lều.
“Vô Tà, cậu có muốn biết cha mẹ đẻ mình là ai không? Muốn biết vì sao trước kia họ lại vứt bỏ cậu không?”
“Không muốn!” Vô Tà lạnh lùng đáp.
“Nhưng tôi muốn… Tôi muốn biết cha mình là ai, mẹ mình rốt cuộc có phải người Tấn hay không, tôi muốn biết tôi còn anh chị em gì không, vì sao mắt tôi không giống những người khác?”
“Chẳng lẽ con chim xấu xí này có thể cho cô biết ư?” Vô Tà liếc nhìn con chim gốm trong tay Thập.
Thập vuốt nhẹ hai chiếc đầu chim, cười đáp, “Dĩ nhiên là không, nhưng nếu tôi trao nó cho một người, có lẽ ông ta sẽ cho tôi biết những điều tôi muốn biết.”
“Ai cơ?”
“Thái sử Mặc nước Tấn, cũng là sư phụ tôi bây giờ.” Thập quay sang nhìn Vô Tà, “Cậu bị đám buôn người bắt được ở Hằng sơn, Hằng sơn một nửa thuộc địa phận nước Tiên Ngu, một nửa thuộc về tộc Triệu nước Tấn, có lẽ lần này theo tôi sang Tấn, cậu cũng sẽ tìm được cha mẹ mình đấy.”
“Tôi không muốn tìm họ, tôi là tôi, cha mẹ tôi là ai cũng không thay đổi được gì cả.” Vô Tà ngước lên, nhìn chằm chằm cánh rừng tối tăm phía xa. Bất luận sống tại đâu, ở bên ai, cậu cũng mãi là một con sói kiêu ngạo mà cô độc.
“Được thôi, tùy cậu vậy.” Thập xoay người chui vào lều.
Tối hôm ấy Thập ngủ rất say, không mơ thấy chiến trường ngổn ngang xác người, cũng không mơ thấy chia lìa đau đớn thấu tâm can, trong căn lều mỏng manh, gần như không che nổi gió tuyết, cô lại có giấc ngủ bình yên nhất trong mấy tháng qua.
“Thập ơi, cậu dậy chưa? Cậu còn không dậy, mọi người sẽ đi hết đấy!”
Giọng Tư từ trên không vẳng lại, làm Thập rùng mình, vội vã bật dậy, “Giờ là giờ nào rồi? Sao cậu không gọi mình sơm sớm?”
“Hiếm khi thấy cậu ngủ say như thế, mình sao nỡ gọi.” Tư vén tấm da gấu đang đắp trên mình Thập lên, chui vào xoa nhẹ má bạn, “Mau mau lên, giữa trưa rồi. Thuyền hôm nay vẫn chưa đi được, các thị vệ từ sáng sớm đã tới thị trấn phía trước mua mấy cỗ xe bò và mấy thớt ngựa. Cậu mặc quần áo vào là chúng ta xuất phát được rồi.”
“Giữa trưa rồi cơ à?” Thập vội vàng mặc quần áo, gom hết đồ trong lều lại rồi chui ra. Ngũ Phong và Bách Lý đại phu đã đi rồi, chỉ còn Triệu Vô Tuất và mấy gã du hiệp đang thu dọn đồ đạc ở chỗ đóng trại.
“Chịu dậy rồi hả?” Triệu Vô Tuất chất đồ lên xe bò, ngước nhìn Thập cười.
“Họ đi cả rồi ư?” Thập đưa mắt nhìn quanh, không thấy Lan Cơ, cũng chẳng thấy đám người Đoan Mộc Tứ.
“Giờ chắc đồ đạc trên thuyền cũng chuyển ra được hòm hòm rồi, họ đợi chúng ta ở bên bờ sông rồi cùng lên đường” Triệu Vô Tuất giao xe bò cho bốn thị vệ, còn mình cưỡi ngựa, “Lên đi!” Hắn chìa tay ra bảo Thập.
“Anh đi trước đi, chúng tôi sẽ theo sau.” Thập cười, từ chối ý tốt của hắn.
Triệu Vô Tuất nhìn Tư, như hiểu ra ý Thập nên chỉ tủm tỉm cười rồi thúc ngựa đi thẳng.
Tuyết đêm qua đã tan, xe bò chở hành lý lặc lè lăn bánh trên con đường lầy lội, trục xe cũ kỹ không chịu nổi sức nặng, cứ kêu kẽo kẹt suốt dọc đường. Thập đi sau xe bò, một tay xách vạt áo, một tay dắt Tư, cố gắng giẫm lên cỏ khô bên đường để khỏi bẩn giày.
“Sao cậu không cưỡi chung ngựa với Vô Tuất? Vì mình à? Thực ra mình có thể trèo lên nóc xe bò ngồi mà.” Tư hỏi Thập.
“Đã bao lâu hai đứa mình không đi bộ với nhau thế này rồi?” Thập nắm tay Tư nhẹ nhàng nhảy qua vũng bùn, “Hồi bé cứ ngỡ rằng người bên cạnh sẽ mãi mãi không bao giờ rời bỏ ta. Giờ lớn lên mới biết, hóa ra chia lìa dễ dàng hơn ở bên rất nhiều, chỉ vô tình quay lưng là có thể đánh mất người mình quan tâm nhất. Thế nên nhân lúc cậu chưa lấy chồng, mình muốn ở bên cậu nhiều hơn.”
“Thập à…” Tư siết chặt tay bạn, xúc động nói, “Hôm qua mình nghe hết chuyện cậu nói với cu sói rồi, bất luận cậu có tìm được cha không, bất kể cậu có còn anh chị em nào không, chúng ta cũng vẫn là chị em, suốt cả đời này.”
“Ừm, cả đời nhé.” Thập nắm chặt tay bạn, chợt thấy sống mũi cay cay.
Chờ Ngũ Phong lấy Bá Doanh, chờ Tư gả cho Vu An, có lẽ Thập cũng sẽ ra đi. Một mình một ngựa, phiêu bạt chân trời, không làm bé Thập của y, cũng không làm Tử Ảm của Tấn nữa, cô chỉ là cô, một người con gái không tổ quốc không gia đình mà thôi.