Trúc Thư Dao - Tập 2: Nước Tấn - Chương 31

NẮM TAY CÙNG VỀ
Hắn đã nói từ đầu rằng cô đừng mưu tính cho hắn, cô chẳng cần làm gì cả, chỉ cần ở bên hắn mà thôi, chính cô sáng nay cũng vừa than phiền rằng muốn buông tay mặc kệ, nghỉ ngơi mấy ngày. Hắn ở bên cô cả buổi chiều, chỉ kể nào là ở Tề có biển lớn, nào là mặt trời mọc trên biển, hoàn toàn không nhắc tới những việc như sắp xếp cho dân gặp nạn.

Trận động đất này đã làm quá nửa những ngôi nhà liêu xiêu đổ sập, may mà không ai bỏ mạng, chỉ có mấy thợ thuyền đang trèo lên mái sửa sang bị ngã gãy chân và rải rác vài người bị đập trúng đầu trúng lưng như Tiểu Cửu mà thôi. Địa long quẫy động như vậy khiến lễ tế buộc phải cử hành sớm hơn hai ngày.

Sáng sớm hôm sau, thành Tấn Dương đổ mưa phùn, bầu trời trên đầu phủ kín mây xám xịt, mặt đất dưới chân lầy lội, nhưng chẳng hề cản được lòng nhiệt thành hướng về buổi lễ của dân chúng. Những người sống trong thành và người ở mấy làng ngoại ô đã đợi sẵn trước đàn tế từ sớm, khi Thập ăn mặc chỉnh tề bước lên tế đàn, thấy cả đám người đông nghịt đã quỳ rạp bên dưới.

Phen này tới Tấn Dương, Triệu Ưởng giao cho cô nhiệm vụ làm lễ tế thần, tiêu trừ tai họa, nên đã sai người chuẩn bị gấp cho cô một bộ áo thiên vũ mặc trong lúc làm lễ. Áo thiên vũ, tên sao vật vậy, là một tấm áo dài được kết từ hơn nghìn sợi lông chim. Nó dài hơn áo khoác bình thường hai thước, không có thắt lưng; được kết từ lông tơ ở bụng sơn ca đến lông gấm ở đuôi chim trĩ, từ lông cánh cứng cáp của diều hâu tới lông đầu mềm mại của quạ đen, gom đủ lông chim trên trần thế. Cả tấm áo vu sĩ được may rất tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ, trông xa như mây ráng bảy màu đáp xuống nhân gian. Nhưng điều khiến Thập kinh ngạc nhất là ba cọng lông dài xanh biếc đính trên mũ, nghe nói đó là lông vũ của chim thần thanh loan, có thể giúp vu sĩ thông linh với thần.

Khoác áo lông hề liệng chân trời, rạch mây mờ mà cầu trời.

Triệu Ưởng tặng cô tấm áo này là muốn vị “con thần” như cô bay lên chín tầng mây, xin trời cao ban phúc cho ông ta. Thế nên lúc nhận áo, Thập sợ nhiều hơn mừng. Song giờ đây, nhìn đám người vừa gánh chịu đủ mọi tai ương bên dưới, Thập lại mong rằng tấm áo này thực sự có thể giúp cô thông linh với thần.

Thập đứng giữa đàn tế, đỉnh đồng phía sau đốt hương huỳnh đàn, khói xanh bảng lảng, mùi hương nồng nàn, cả nghìn người bên dưới im phăng phắc. Cô nhắm nghiền mắt, mấp máy môi, cất giọng ngâm lên một bài cúng ca ngợi trời đất non sông với những âm tiết thần bí.

Thần linh ơi, dù con không phải con cưng của người, cũng xin người lắng nghe lời cầu nguyện chân thành của con, xin người bớt giận, phù hộ cho con dân của người, nhận lấy lễ vật của chúng con…

Giữa cơn mưa phùn, mọi người cùng cô ngâm lên bài khấn truyền lại từ thời thượng cổ, tiếng ca thê lương mang theo tấm lòng sùng kính trước tự nhiên của người xưa vang vọng khắp khoảng trời trên tế đàn.

Các nghi thức vừa hoàn thành, mặt trời bất chợt ló ra xua tan mây mù, một chiếc cầu vồng bảy sắc bắc ngang không trung. Cầu vồng lơ lửng giữa bầu trời, bên trên là vòm không xanh như lọc, bên dưới là thành Tấn Dương tắm trong ánh nắng. Thập chợt thấy kích động không sao ngăn nổi, giữa vầng hào quang vàng nhạt ấy, dường như cô trông thấy một tòa thành mới đẹp mê người nhô lên từ đống đổ nát.

Đám đông thấy cầu vồng bảy sắc thì rộ lên hoan hô, họ ôm chầm lấy nhau, chạy như bay. Nhìn nụ cười tươi rói trên gương mặt họ, Thập cũng cảm động rơi lệ.

“Con thần của ta ơi, vừa rồi sao nàng lại khóc?” Cúng tế xong xuôi, Triệu Vô Tuất cùng cô ngồi trên tường thành Tấn Dương chuyện gẫu.

“Không biết nữa, có lẽ là cảm khái khi thấy họ gặp phải kiếp nạn lớn như vậy mà vẫn có thể cười vui vẻ.”

“Nàng không khinh họ đê tiện à?”

“Không, họ còn cao quý hơn ta. Hồng Vân nhi, vừa rồi ta nghĩ, nếu ta thực sự là con thần thì tốt quá, như vậy ta có thể cầu phúc cho chúng sinh thiên hạ.”

“Ta lại mong nàng không phải con thần.” Triệu Vô Tuất phóng mắt nhìn ra đồng hoang mênh mông ngoài ngoại ô, nói khẽ.

“Tại sao?”

“Nếu lòng nàng còn mải lo cho chúng sinh thiên hạ thì đời nào còn chỗ cho ta nữa?”

“Năm xưa ta quả không nhìn lầm, Hồng Vân nhi rõ là hẹp hòi.” Thập trêu.

“Tối qua nàng tới tìm ta à?” Triệu Vô Tuất quay sang hỏi.

“Ừm, thấy chàng đang bàn việc với Bưu đại phu nên ta không vào.” Cô lảng đi không nhìn vào mặt hắn nữa, vờ hỏi vu vơ, “Sao chàng biết ta tới? Lính canh cửa báo à?”

“Ừm, tìm ta có việc gì không?”

“Không có gì, định hỏi chàng khi nào chúng ta về Tân Giáng thôi.” Thập không dám nhìn vào mặt Triệu Vô Tuất vì sợ hắn phát hiện mình nói dối.

Tối qua cô đùng đùng chạy sang chất vấn hắn, nhưng tới cửa lại quay về.

Căn nguyên chuyện này phải kể từ Vô Tà, sau khi từ Hầu Đầu sơn về, con sói đầu đàn là cậu lại tái phát cơn nghiện săn mồi. Hằng ngày cậu xung phong lên núi săn thú cải thiện bữa ăn cho mọi người, dĩ nhiên không ai phản đối. Nhưng hôm qua, cậu từ ngoài thành quay về lại xách theo một con ó, làm bộ bí hiểm dúi cho Thập.

Đỉnh đầu con ó nọ có một nhúm lông trắng, đuôi cũng trắng một nửa, trước kia trông thấy nó trong phòng Triệu Vô Tuất, Thập còn cười rằng nó chưa già đã bạc đầu, nên thoáng nhìn là nhân ra ngay. Cô vốn định trách Vô Tà bắt gì không bắt lại bắt ó của Triệu Vô Tuất, nào ngờ Vô Tà tháo một ống trúc nhỏ buộc trên chân nó đưa cho cô. Trong ống trúc có một cuộn vải nhỏ, bên trên chỉ viết năm chữ: “Bỏ thuốc mà ngã, chết.”

Thuốc, bỏ thuốc ư? Chết, là ai chết? Sao Triệu Vô Tuất phải lén lút dùng ó truyền tin? Thập càng nghĩ càng bực bội, không phải vì hắn giết ai đó, mà bởi chiều nay hắn còn bám lấy cô, chỉ nói chuyện phiếm không bàn chính sự, vậy mà vẫn giấu giếm hành động sau lưng cô, còn giết cả người nữa chứ. Cảm giác bị giấu giếm này khiến cô hết sức khó chịu.

Thập trằn trọc trở mình mãi, không sao ngủ được, cuối cùng tức tối khoác áo chạy thẳng đến chỗ Triệu Vô Tuất. Nhưng khi đứng bên ngoài, nghe hắn bàn chuyện với Bưu đại phu, cơn giận của cô chợt tắt ngấm.

Hắn đã nói từ đầu rằng cô đừng mưu tính cho hắn, cô chẳng cần làm gì cả, chỉ cần ở bên hắn mà thôi, chính cô sáng nay cũng vừa than phiền rằng muốn buông tay mặc kệ, nghỉ ngơi mấy ngày. Hắn ở bên cô cả buổi chiều, chỉ kể nào là ở Tề có biển lớn, nào là mặt trời mọc trên biển, hoàn toàn không nhắc tới những việc như sắp xếp cho dân gặp nạn. Giờ đến nửa đêm, hắn vẫn thức khuya bàn với Bưu Lương xem làm sao để miễn cho dân thành Tấn Dương một năm lao dịch. Còn cô lại xông tới trách móc hắn vì hắn đã chu đáo chăm sóc mình, nghĩ tới đó, Thập ngại ngùng trở gót quay về.

“Này Thập? Nàng có nghe ta nói không đấy?” Triệu Vô Tuất nắm lấy cằm xoay mặt cô lại, “Cô bé này nghĩ gì thế? Đang nói lại thần người ra.”

“Vừa rồi chàng bảo năm ngày nữa sẽ về Tân Giáng à?” Cô cười hỏi.

“Ừm, có Doãn Đạc và Bưu đại phu ở đây, chắc không có chuyện gì đâu. Nàng dặn Tư hai hôm tới tranh thủ sắp xếp hành lý đi, có thảo dược gì thì giao cả cho vu y trong phủ Doãn Đạc.”

“Ừm, ta biết rồi. Nhưng sao ta cứ cảm thấy Doãn Đạc và lão Bưu có thù với nhau thế nhỉ? Hai người họ hễ gặp là cãi cọ, chúng ta đi rồi liệu có loạn lên không?”

“Hai người đó kết thù nhiều năm rồi, nhưng là thù riêng, về việc công, Bưu Lương vẫn rất tán thưởng Doãn Đạc. Năm xưa vì chuyện dỡ thành lũy, khanh phụ đã định giết Doãn Đạc, chính Bưu Lương đứng ra khuyên ngăn đấy.”

“Đúng là công tư phân minh, nói vậy thì lão Bưu cũng là người thấu đáo. Đã vậy ta khỏi phải lo ông ta lấy việc công trả thù riêng về chuyện Tiểu Bạch nữa.”

“Đặt cho thiên lý mã cái tên trớt quớt như thế, thảo nào Bưu Lương thù nàng. Lần này về Tân Giáng, chúng ta sẽ ngồi thuyền, Tiểu Bạch của nàng để lại cho Bưu Lương chăm sóc thôi.”

“Ừm, đành vậy. Ra ngoài gần ba tháng, đến cỏ ở Tấn Dương cũng xanh mướt rồi, Tân Giáng bây giờ chắc đang đẹp lắm nhỉ. Chẳng biết thế tử và mọi người ra sao rồi.”

“Ta nghe nói ngoài tứ ca và lục đệ, mấy người anh em dòng thứ của ta cũng về Tân Giáng cả rồi. E rằng họ sẽ tranh giành ngôi thế tử này đến chết mới thôi. Trái lại huynh trưởng trút được gánh nặng, có khi đã ăn uống đến béo hú ra rồi ấy chứ.”

“Béo hú ấy à?”

“Ta chưa kể với nàng hả, hồi chưa làm thế tử, huynh trưởng mập mạp trắng trẻo lắm.”

“….”

Ban đầu Thập và Triệu Vô Tuất vốn định ở lại Tấn Dương nửa năm hoặc một năm, đợi thợ thuyền xây lại những nhà cửa bị sập, đợi ruộng nương ngoài thành thu hoạch xong sẽ dẫn đám thợ thuyền và đem thuế ruộng thu được về Tân Giáng một thể. Nhưng bức thư của Triệu Ưởng đã hoàn toàn đảo lộn kế hoạch của họ. Bên phía Triệu Vô Tuất, những kênh mương bị đá vụn, bùn đất vùi lấp vẫn chưa kịp khơi thông, gỗ chặt trên núi xuống còn chất đống ngoài thành, về phía Thập vẫn chưa cung ứng đủ thảo dược, những người bị thương gần đây nhất cũng chưa kịp chạy chữa. Bởi thế trong năm ngày cuối cùng ở Tấn Dương, cả hai bận đến tối tăm mặt mũi, chẳng có thời gian gặp nhau, tất bật từ lúc trời chưa sáng đến khuya muộn mới được chợp mắt một chốc.

Giữa lúc Thập đang bận túi bụi, lại còn vướng phải một Tiểu Cửu đuổi thế nào cũng không đi, nhằng nhẵng bám theo cô, xin cô dẫn về Tân Giáng.

“Cậu nài nỉ tôi thì ích gì? Chỉ cần Tư đồng ý, tôi để cô ấy ở lại đây hoặc đưa cậu đến Tân Giáng đều được cả. Bằng không dù cậu nói gãy lưỡi, tôi cũng không dẫn theo đâu.” Thập múc một thùng nước dưới giếng lên, mải miết rửa sạch bùn đất bám trên rễ thảo dược.

Tiểu Cửu vội vàng giành lấy mớ thảo dược trong tay cô, vừa rửa vừa nịnh nọt, “Giờ chị Tư chưa thấy được ưu điểm của tôi, đợi hai năm nữa tôi cao hơn, khỏe mạnh hơn, chị ấy sẽ xiêu lòng thôi. Vu sĩ cho tôi theo đi mà, việc gì tôi cũng làm hết, vu sĩ cho tôi bát cơm ăn là được.”

“Tôi không tiếc cơm nuôi cậu, chỉ sợ dẫn cậu theo Tư sẽ giận tôi lắm chuyện, mà sau này cậu gặp người Tư thích lại thẹn không bằng.”

“Người chị Tư thích trông thế nào?” Tiểu Cửu ngập ngừng hỏi.

“Anh ta ấy à, lúc thiếu niên thì tuấn tú nhã nhặn, về sau lớn lên thì lạnh lùng trầm tĩnh, giỏi kiếm thuật, tâm tính cũng tốt. Cậu nhìn bộ dạng tay ngắn chân ngắn của mình mà xem, tôi bảo thật, câu bỏ ý định đó đi.”

“Không được!” Tiểu Cửu ngẩng cao đầu, giận dỗi nói, “Nếu vu sĩ không dẫn tôi theo, giờ tôi sẽ đi nói với người trong thành rằng ngày mai vu sĩ đi khỏi đây.”

“Đến mai họ sẽ tự biết thôi, giờ cậu nói có khác gì đâu? Tôi không nói với cậu nữa, bất luận cậu nói gì làm gì, tôi cũng không dẫn cậu theo đâu.” Thập cầm nắm thảo dược vừa rửa sạch vẩy cho ráo nước rồi bỏ lại Tiểu Cửu đi vào phòng.

“Vu sĩ đừng có hối hận đấy!” Tiểu Cửu lầu bầu rồi chạy thẳng.

Tiểu Cửu đi khỏi không lâu, Doãn Đạc lại xách một bầu rượu tới từ biệt Thập.

Thực lòng Thập sợ nhất là từ giã người khác, một là đau lòng không nỡ chia ly, hai là cô chẳng biết nói gì mới phải. Hai người đang lúng túng thì chợt nghe tiếng nhốn nháo bên ngoài.

“Để ta đi xem thử.” Doãn Đạc đứng dậy bước ra cửa. Thập chống cửa sổ lên, thấy ngay gương mặt bầu bĩnh của Tiểu Cửu, làm cô giật nẩy mình.

“Cậu ở đây làm gì?” Thập hỏi.

“Vu sĩ không dẫn tôi theo thì cũng không đi được đâu!” Tiểu Cửu lắp bắp ném lại một câu rồi tránh ra.

Sau lưng Tiểu Cửu, Thập trông thấy một cảnh tượng cực kỳ đáng sợ. Khoảnh sân chừng chục bộ vuông bên ngoài đông nghẹt người là người: đàn ông vác que cời lò, đàn bà chân đất, người già chống gậy, cả những đứa bé đang khóc toáng lên. Người ta vẫn từ bốn phương tám hướng ùn ùn kéo đến bên ngoài cổng, mấy người bị thương ở tay chân hôm trước còn chống gậy trèo lên tường. Mọi người đều kích động ra mặt, khiến Thập phát hoảng. Xảy ra chuyện gì thế này?

“Mọi người làm gì vậy?” Doãn Đạc đứng trên thềm đá cao giọng hỏi.

“Xin vu sĩ ở lại!!! Xin vu sĩ ở lại Tấn Dương!!” Như đã hẹn trước, mọi người đồng thanh hô lớn.

Một đám các cụ già ở chính giữa sân hô một tiếng lại dập đầu một cái, khiến Thập luống cuống, đờ ra hồi lâu mới bừng tỉnh, vội chạy ra lớn tiếng nói, “Mau đứng dậy đi, mọi người làm gì thế này? Có gì chúng ta từ từ nói, đừng như thế nữa, tôi không nhận nổi đâu!” Cô đứng giữa đám đông, đỡ được người này thì người kia quỳ xuống, đỡ người kia thì người nọ lại quỳ.

“Thành doãn, mau giúp tôi đỡ mọi người dậy đi!” Cuống quá, cô quay sang cầu cứu Doãn Đạc song y dường như không nghe thấy, chỉ khoanh tay đứng đó ngơ ngẩn nhìn cô.

Thập cuống lên, quỳ sụp xuống, lần này đến lượt mọi người phát hoảng.

“Không được, dân đen chúng tôi không nhận nổi đâu!”

“Vu sĩ không được quỳ, thế này là làm chúng tôi tổn thọ đấy!” Mọi người rối rít nói.

“Các vị không đứng dậy thì tôi cứ quỳ ở đây.”

Cuối cùng cũng có người nghe lời cô, mấy cụ già đỡ cô dậy, những người khác cũng lục tục đứng lên.

“Lão trượng, các vị làm gì vậy?” Thập kéo một ông cụ tóc bạc phơ lại hỏi.

“Lão nghe nói vu sĩ sắp đi, chẳng biết làm sao, đành phải tới xin vu sĩ, thành Tấn Dương chúng tôi không thể không có vu sĩ được!” Ông cụ nắm lấy tay Thập, lại toan quỳ xuống.

“Lão trượng cứ yên tâm.” Thập đỡ thân hình gầy gò của ông cụ, chân thành nói, “Các thợ thuyền, binh lính từ kinh đô tới đều sẽ ở lại Tấn Dương. Kênh mương sẽ được khơi thông, nhà cửa sẽ được dựng lại, chưa đầy nửa năm nữa, thành Tấn Dương sẽ còn đẹp hơn trước kia.”

“Nhưng vu sĩ đi rồi, lỡ địa long lại tới thì biết làm sao? Kênh mương khơi thông sẽ lại tắc, nhà cửa cất lên sẽ lại sập, mấy bộ xương già như chúng tôi chết cũng chẳng quan trọng, nhưng cháu chắt tôi còn nhỏ…” Ông cụ vừa nói vậy, mấy người đàn bà bên cạnh đã khóc nức lên.

Thấy ánh mắt mong mỏi của họ, lại nhìn những người già trẻ con lố nhố đứng đầy sân, Thập chợt nghẹn lời. Cô biết phải nói gì đây? Nói rằng mình chỉ là một vu sĩ lừa gạt, nói rằng bất luận có cô hay không, nếu địa long tới thì vẫn sẽ tới ư?

“Chỗ này đông thật đấy, ai bảo cho ta biết, rốt cuộc xảy ra chuyện gì được không?” Thập đang bối rối thì Triệu Vô Tuất dẫn theo hai tên lính từ bên ngoài tiến vào.

Mọi người với hành lễ với Triệu Vô Tuất. Doãn Đạc đi tới kể lại một lượt chuyện mọi người ngăn không cho Thập đi, nghe xong Triệu Vô Tuất cười nói, “Ra là vậy. Tử Ảm, mau lấy mũ thanh loan và áo thiên vũ ra đây.”

Thập nghi hoặc nhìn Triệu Vô Tuất, hắn khẽ gật đầu với cô, vẻ bình tĩnh thản nhiên.

“Vâng!” Thập cung kính đáp rồi bước vào trong bưng áo mũ ra.

“Tấm áo thiên vũ này được tạo thành từ linh khí muôn chim, được cả trăm vu sĩ cầu phúc chín chín tám mươi mốt ngày, là vật mang phước lành. Còn lông chim trên mũ này là của chim thần thanh loan, thanh loan sống ở Côn Luân, ăn não tủy của rồng dữ, là thiên địch của địa long. Chỉ cần hai vật này ở đây, thành Tấn Dương ắt sẽ bình yên vô sự.”

Triệu Vô Tuất vừa nói vậy, mọi người đều ngưỡng mô ra mặt. Thập thừa cơ giơ cao áo mũ, nói lớn, “Các vị chớ lo, tôi sẽ để lại hai vật này trong miếu đường ở Tấn Dương để trấn áp tà khí của địa long, bảo vệ Tấn Dương trăm năm yên ổn!”

“Thành doãn, nhận lấy đi!” Triệu Vô Tuất ra hiệu để Thập giao áo mũ cho Doãn Đạc.

“Tạ ơn vu sĩ!” Doãn Đạc quỳ xuống nhận lấy áo mũ.

Cuối cùng, được Doãn Đạc dẫn đầu, mọi người cũng lũ lượt rời khỏi chỗ Thập.

“Ôi, làm ta khó xử chết mất!” Cô thở hắt ra ngồi bệt xuống đất.

“Đứng dậy đi, theo ta vào nhà, vừa rồi khanh phụ lại phái người đưa tới một phong thư khẩn kìa.” Triệu Vô Tuất cười, chìa tay ra trước mặt cô,

“Lại có thư khẩn à? Giục chàng về ư?” Thập nắm lấy tay hắn đứng dậy.

“Không, khanh phụ lệnh cho ta giúp quản lý thành Thái Cốc.”

“Khanh tướng giao Thái Cốc cho chàng à?” Cô ngạc nhiên hỏi.

“Ừm.” Triệu Vô Tuất gật đầu cười đáp.

Thành Thái Cốc phía Đông giáp sông Đồ, phía Tây giáp sông Phần, ngoài thành là đồng bằng màu mỡ ngàn dặm, ruộng tốt vạn khoảnh, trồng cả ba loại kê, kê vàng và cao lương, là vựa lúa của thành Tấn Dương. Ngoài ra, ngọn núi duy nhất của Thái Cốc còn có đặc sản là một loại quả quý vỏ đỏ hạt nhọn, ăn ngọt lịm, đưa đến Tân Giáng có thể bán được mười thù một đấu. Thế nên ai cũng coi Thái Cốc là một miếng thịt béo lấp lánh ánh vàng, vậy mà lúc này Triệu Ưởng lại giao nó cho Triệu Vô Tuất “giúp quản lý”, e rằng đám con trai tộc Triệu không chỉ ghen tị đỏ mắt.

“Khanh tướng có ý gì vậy?” Thập hỏi Triệu Vô Tuất.

“Ý khanh phụ là, nếu ta xử lý được ổn thỏa việc ở Tề thì thành Tấn Dương này sẽ là của ta.”

“Thái Cốc là sân sau của Tấn Dương, không lý nào chỉ cho sân sau không cho nhà trước. Ha, phen này tộc Triệu sôi lên sùng sục rồi. Tứ ca chàng đưa bao nhiêu lễ vật, lôi kéo bao nhiêu người cũng không thắng được một chiêu xin đi cứu trợ của chàng. Không tranh mới là tranh. Sư phụ nói quả không sai!”

“Người ở cạnh nàng thì nàng không khen, sao lại đi khen thái sử?” Triệu Vô Tuất nhướng mày cười hỏi.

“Khụ khụ, Hồng Vân nhi tính xa nghìn dặm, mưu trí trùm đời, thiếp đây phục sát đất, chỉ mong ngày sau có thể giữ một chân mưu sĩ trong phủ là cảm kích lắm rồi.” Thập vờ vịt vái hắn một vái.

'Triệu Vô Tuất' ta có tài đức gì mà dám nhận thái sử nước Tấn làm mưu sĩ trong phủ chứ?” Triệu Vô Tuất nhìn vào mắt cô, nói rành rọt từng chữ.

“Lại trêu ta đấy à?” Thập tắt hẳn nụ cười.

“Trong thư khẩn có nói thái sử Mặc xin thôi chức thái sử, muốn tĩnh tâm viết sách chép sử, khanh phụ có ý để nàng kế nhiệm, làm thái sử nước Tấn.”

“Bậy bạ! Ta là phận gái mà!”

Kẻ chép sử, cha nhường chỗ cho con, thầy truyền ngôi cho trò, là một quy định bất thành văn. Sư phụ của Sử Mặc là thái sử đời trước của Tấn, truy ngược lên hơn một trăm năm, người phò tá Tấn Huệ Công chính là Sử Tô, sư tổ của Sử Mặc, chủ nhân đầu tiên của mũ ly long đính bạch ngọc. Bởi quy định bất thành văn này nên Thập luôn cho rằng thái sử đời kế tiếp của Tấn sẽ là Doãn Cao hoặc Minh Di. Về phần cô, dù được nhận báu vật của sư môn, cũng không thể trở thành kẻ kế nhiệm Sử Mặc được. Nữ nhi là nữ nhi, trong thiên hạ chưa bao giờ có tiền lệ nữ nhi chép sử, huống hồ là làm thái sử nước Tấn.

Triệu Ưởng xưa nay hành xử táo bạo, ba mươi năm trước đã cho đúc đỉnh phạt, chiếu cáo cho cả nước Tấn biết luật lệ Phạm Tuyên tử* viết ra, vì vậy mà phải gánh vô số lời chửi rủa.

“Hình phạt không thể biết, oai nghiêm không thể đo”, nếu dân chúng đều biết mình phạm tội này sẽ bị trừng phạt thế nào, thì họ sẽ không còn kính sợ quý tộc nữa. Bởi vậy kẻ tôn sùng việc trị nước bằng lễ giáo cực kỳ phẫn nộ trước hành động của Triệu Ưởng. Khổng Khâu nước Lỗ phê phán ông đúc đỉnh phạt là phá hoại chế độ phân biệt sang hèn, thậm chí còn tuyên bố “Tấn mất pháp độ! Mất nước tới nơi!” Từ ấy Khổng Khâu dẫn học trò chu du khắp các nước, nhưng luôn cố ý tránh nước Tấn. Nếu phen này Triệu Ưởng lại để nữ nhi làm thái sử nước Tấn, e rằng Khổng đại phu sẽ hô lên Tấn sắp mất nước.

Triệu Ưởng làm vậy rốt cuộc có ý gì, Thập và Triệu Vô Tuất đều không sao đoán nổi, đành đợi về Tân Giáng hỏi Sử Mặc.

Bình minh hôm sau, sông Phần được nắng mai nhuộm vàng rực, lẳng lặng chảy qua ruộng đồng xanh mướt mạ non. Trên bầu trời, bầy chim đã lao xao từ phương Bắc quay về, đập cánh vui vẻ chao lướt qua mặt nước. Mấy con vịt trời nấp bên bờ sông gà gật ngủ cũng giật mình, kêu quang quác rồi bay vụt lên.

Thập và Triệu Vô Tuất uống rượu tiễn biệt của Doãn Đạc xong bèn lên thuyền trở về. Vô Tà bị mười mấy đứa trẻ con tóc còn để chỏm xúm quanh, bầu bạn mấy tháng, tới lúc chia tay bất luận con trai hay con gái đều đỏ hoe mắt, ngay cả Vô Tà cũng xụ mặt, như sắp khóc tới nơi.

Tư chần chừ mãi không chịu lên thuyền, cứ kiễng chân ngóng về phía thành Tấn Dương, muốn từ biệt một người, song người đó mãi không xuất hiện.

“Tư à, chắc cậu ta không tới đâu! Mau lên thuyền đi, sắp khởi hành rồi!” Thập thầm thở dài trong lòng, lớn tiếng gọi bạn.

“Mình lên đây!” Tư đáp rồi đi về phía bờ sông mấy bước, lại ngoảnh đầu, vẫn chẳng thấy bóng dáng Tiểu Cửu đâu cả.

Nghe Thập gọi, Vô Tà đặt bé gái đang bế trên tay xuống, chen ra khỏi đám trẻ con lau nhau, nhảy lên thuyền như bay rồi chui vào khoang thuyền, không ló đầu ra nữa.

Trong tiếng khóc lóc từ biệt của mọi người, họ rời thành Tấn Dương, thuyền đi trên mặt sông phẳng lặng, nhưng lòng mỗi người đều không sao bình lặng nổi.

“Chị Tư… Tư ơi…” Bên bờ sông, Tiểu Cửu đứng dưới gốc đào gọi lớn.

“Tiểu Cửu?” Tư từ trong khoang đi ra, trông thấy Tiểu Cửu thì sững sờ.

“Chị đợi tôi, đợi tôi làm tướng quân sẽ đến cưới chị…” Tiểu Cửu chạy theo thuyền, vừa chạy vừa gọi, cuối cùng ném một vòng hoa bện bằng cành đào sang.

Thuyền cách bờ mấy trượng, vòng hoa lại nhẹ không ném được xa, rơi xuống mặt sông.

Cành đào nâu đen điểm xuyết những đóa hoa hồng nhạt, vòng hoa dập dềnh trên sóng nước. Tiểu Cửu đứng bên bờ thất thần nhìn nó, Tư đứng cạnh Thập cũng tiếc nuối nhìn nó, làm Thập chạnh lòng, bèn lấy mái chèo của nhà thuyền định vớt lên.

“Để ta!” Triệu Vô Tuất cầm mái chèo chọc xuống đáy nước, hơi kiễng chân, nương theo mái chèo nghiêng nghiêng mà phóng xuống vớt lấy vòng hoa rồi xoay mình nhảy lên đáp xuống sàn thuyền.

“Đây cũng là tâm ý của cậu ta, nếu cô có tình cảm với người đó thì đội lên đi!” Triệu Vô Tuất đưa vòng hoa cho Tư.

Tư đón lấy vòng hoa cầm trong tay, đôi mày thanh tú nhíu chặt lại.

“Nếu cậu bằng lòng thì giờ mình sẽ bảo nhà thuyền cập vào bờ, chúng ta đưa cả Tiểu Cửu theo về Tân Giáng” Thập đi đến bên bạn.

Tư cắn chặt môi lắc đầu, mãi tới khi bóng Tiểu Cửu biến mất khỏi tầm mắt, vẫn không đội vòng hoa.

Từ đó, cả Tư và Vô Tà đều nhốt mình trong khoang, Thập tựa vào Triệu Vô Tuất ngồi bên mạn thuyền, tâm trạng cũng dập dềnh như dòng nước dưới chân.

“Nàng vẫn đang nghĩ tới chuyện Tiểu Cửu à?” Triệu Vô Tuất hỏi.

“Tiểu Cửu chất phác chân thành, nếu không phải trong lòng Tư đã có Vu An, có lẽ ta sẽ dẫn cậu ta về Tân Giáng, tác thành cho tấm chân tình của cậu ta.”

“Vu An hả? Đấy là người trong lòng Tư à?”

“Ừm, chàng còn nhớ trước kia ta đã kể về Thiên Xu không?”

“Nhớ chứ, tổ chức thần bí ở Hoa sơn ấy hả? Làm sao? Lẽ nào người trong lòng Tư cũng ở Thiên Xu?” Triệu Vô Tuất nhíu mày hỏi.

“Ừ, giờ Vu An là chủ nhân quẻ Tốn ở Thiên Xu. Chẳng phải chàng nói thế tử có cách liên lạc với Minh Di ư? Ta muốn nhờ Minh Di truyền tin cho Vu An, nhắn anh ta có rảnh thì tới Tân Giáng một chuyến. Năm nay Tư mười lăm rồi, ta không muốn làm lỡ duyên cô ấy.”

“Vậy còn nàng? Nàng có bằng lòng vấn tóc cài trâm không?”

“Chàng sốt ruột à?”

“Ta sốt ruột cả năm nay rồi.” Triệu Vô Tuất cầm tay cô, ra bộ tội nghiệp.

Thập phì cười rút tay lại, “Ta chẳng có gì mà vội, còn chưa có hôn ước, nói gì tới lễ cài trâm!”

“Cũng phải, tuy nàng không còn cha mẹ, nhưng sáu lễ không thể thiếu được. Đợi chúng ta từ Tề về, ta sẽ đem nhạn tới gặp thái sử xin cưới!”

“Càn rỡ, ai bảo muốn gả cho chàng?” Thập tựa đầu vào vai hắn, miệng mắng nhưng lòng lại thấy ngọt ngào.

Triệu Vô Tuất vỗ nhẹ lên đầu cô cười khanh khách rồi hát khe khẽ hòa theo tiếng mái chèo khua:

Đào tơ mơn mởn đẹp tươi,

Hoa hồng rực rỡ ngập trời xuân trong.

Bây giờ nàng ấy lấy chồng,

Cửa nhà êm ấm trong lòng an vui.

Đào tơ mơn mởn đẹp tươi,

Quả đơm lúc lỉu giữa trời xuân trong.

Bây giờ nàng ấy lấy chồng,

Cửa nhà êm ấm trong lòng an vui.

Đào tơ mơn mởn đẹp tươi,

Lá xanh rợp mát giữa trời xuân trong.

Bây giờ nàng ấy lấy chồng,

Cửa nhà êm ấm vui cùng người thân.

“Năm xưa khi ta tặng chàng bình rượu hoa đào, hình như chàng cũng hát bài này thì phải?”

“Ừm, đây là bài hát tiễn con gái đi lấy chồng. Đợi nàng và Tư làm lễ cài trâm thì lấy chồng đi!” Giọng Triệu Vô Tuất tràn đầy vui vẻ.

“Khanh phụ chàng muốn để ta làm thái sử nước Tấn kia kìa, chàng dám lấy thái sử làm vợ à?”

“Ta không lấy thái sử, ta chỉ lấy nàng Thập thôi.” Hắn cúi xuống, giấu hết những lời còn lại bên môi.

Báo cáo nội dung xấu