Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 02

NHẠC KỸ THANH CA

 

Một khoảng lặng đầy dư âm, mấy nốt rung trầm trầm, sau khúc cao trào chợt một tiếng đàn ai oán cất lên, chỉ một câu nhạc cũng đủ khiến Thập tự dưng đỏ hoe mắt. Nỗi thê lương vô tận trào dâng trong lồng ngực như thủy triều, trời quang biến mất, lầu trúc biến mất, cô bần thần đứng giữa vườn hoa cỏ xanh mướt, song chỉ thấy một vạt đất bị lửa đốt cháy đen.

Thành Lâm Truy có chừng sáu vạn hộ dân, cứ tính mỗi hộ năm người thì nơi này phải đến ba mươi vạn người cư trú. Trước khi dẫn bọn Thập vào thành, Trương Mạnh Đàm đã dặn đi dặn lại, lát nữa tới chỗ đông người phải nắm chặt tay nhau, bằng không rất dễ lạc.

Lạc ư? Lúc nghe Trương Mạnh Đàm nói, Thập và Tư còn nhìn nhau cười. Hôm nay không phải tế xuân cũng chẳng phải tết nhất, lấy đâu ra lắm người thế? Nhưng chẳng bao lâu sau, thành Lâm Truy trù phú đã cho các cô biết thế nào gọi là dòng người cuồn cuộn tràn lên như sóng.

Thập và Tư mỗi người nắm chặt một tay Vô Tà, bị dòng người bốn bề chen lấn xô đẩy đến loạng choạng. Đám hàng rong kẻ quẩy gánh, người đẩy xe qua lại như đưa thoi bên cạnh bọn Thập, lanh lẹn chẳng khác cá trắm, thỉnh thoảng chạm mắt nhau, họ đều như đang cười nói: “Xem mấy người khách phương xa kìa, chắc chắn là mới tới, đến đi đường cũng chẳng biết.” Trương Mạnh Đàm ở Lâm Truy đã lâu, có lẽ đã quen với cảnh này nên hết sức thông thạo, biết rõ khi nào dừng, khi nào đi, khi nào lách.

Đi mãi mới hết đoạn đường đông như nêm cối, một khu chợ rộng thênh thang ngút tầm mắt trải ra trước mặt họ. Trương Mạnh Đàm giới thiệu, đây là Khang Trang quy tụ đủ thứ hàng hóa khắp thiên hạ, một trong hai khu chợ nổi tiếng nhất thành Lâm Truy - Khang Trang và Đường Viên. Còn ba mươi sáu giáo phường của Lâm Truy nức tiếng về gái đẹp rượu ngon lại nằm ngay trên phố Ung Môn cách Khang Trang chưa đầy nửa dặm.

Giáo phường chỉ làm ăn về đêm nên ba mươi sáu giáo phường trên phố Ung Môn, bất luận lớn nhỏ, nhất loạt phải đợi sau giờ cơm mới mở cửa. Trương Mạnh Đàm bèn dẫn bọn Thập đi dạo chợ Khang Trang bạt ngàn hàng hóa trước.

Thiên hạ đều biết, người Tề có “ba điều trọng”. Lúc Tề Hoàn công xưng bá chư hầu, tể tướng Tề là Quản Trọng đã thực thi một chính sách cải cách hoàn thiện, chú trọng nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Trong đó việc chú trọng thương nghiệp vẫn tiếp tục đến nay, khiến nước Tề trở thành đất lành của lái buôn trong thiên hạ. Lúc đi qua Trịnh Vệ, bọn Thập dăm hôm ba bữa lại lạc đường, có lúc đi hơn năm mươi dặm chẳng tìm thấy trạm dịch nào để nghỉ lại. Nhưng từ lúc vào Tề, sau khi Vô Tà chôm được một mảnh “chứng nhận” thương nhân, ba người đi lại vô cùng thuận tiện. Đến trạm dịch được ăn uống no say đã đành, ngay cả ngựa kéo xe cũng có đứa hầu nhỏ cho ăn cỏ giúp.

Nhằm thu hút thương lái khắp nơi, nước Tề có tổng cộng mười sáu con đường cái quan để thông thương với bên ngoài, dọc đường cứ cách mấy dặm lại dựng bảng thông báo đường sá phía trước hiểm trở hay dễ đi, còn cách thành Lâm Truy bao xa. Cách ba mươi dặm đặt một trạm dịch, đầy đủ đồ ăn thức uống cũng như chỗ nghỉ ngơi. Trạm dịch gần các thành trì lớn còn chuẩn bị cả xe ngựa và phu xe, sẵn sàng chở hành lý cho các lái buôn nước ngoài và người đi cùng.

Sắp xếp chu đáo, tận tình như vậy, lại thêm bóng hồng tha thướt khắp phố Ung Môn, khiến thương lái các nước ùn ùn đổ về đây như ong.

“Lần trước từ biệt tiên sinh ở thành Ung tới nay đã hai năm, hai năm nay tiên sinh vẫn ở Lâm Truy ư?” Thập cùng Trương Mạnh Đàm đi giữa chợ đông, thỉnh thoảng lại có lái buôn chạy tới thi lễ chào hỏi họ Trương, còn gọi y là ông chủ Cao.

“Mạnh Đàm chỉ buôn bán lặt vặt ở Lâm Truy, gom ít bạc lẻ cho gia chủ thôi mà.” Trương Mạnh Đàm vẫn nụ cười tủm tỉm khiêm tốn quen thuộc, vừa giúp cô rẽ dòng người chen chúc trên đường, vừa làm bộ vô tình hỏi, “Hai năm nay cô nương mới thật là mở mày mở mặt. Mạnh Đàm vẫn luôn thắc mắc, sao Ngũ tướng quân nỡ để một nhân tài như cô rời Tần sang Tấn làm vu sĩ cơ chứ?”

Thì ra đêm qua y tỏ thái độ kỳ quặc như vậy là vì chuyện này.

Thập cười không đáp, cúi đầu đi tiếp.

Trương Mạnh Đàm sải bước đuổi theo gặng, “Cô nương cười gì vậy?”

Thập lắc đầu cười, không định tiếp lời.

Trương Mạnh Đàm nhếch môi, không hỏi thêm nữa, chỉ giơ tay trỏ căn tiệm ngói xanh cửa đỏ phía trước, “Kia là phường Hồng Chức, cô nương vào xem thử, thích gì thì cứ ghi sổ cho tôi.”

“Ghi sổ cho ông chủ Cao chứ?” Thập ngồi xuống, cầm một dải thắt lưng thêu hoa văn trên sạp hàng bên đường lên, cười hỏi.

“Cô nương biết tiếng Tề ư?” Ánh mắt Trương Mạnh Đàm càng thâm trầm.

“Thuở bé có học hai năm, không ngờ đến giờ vẫn chưa quên.”

“Xem ra Ngũ tướng quân đặt nhiều kỳ vọng vào cô ghê!” Trương Mạnh Đàm cười hờ hững, đón lấy chiếc thắt lưng trong tay cô nhét vào tay áo rồi lấy một đồng tiền đao ra đưa cho chủ sạp, “Đủ chưa?”

“Đủ rồi đủ rồi, cảm ơn ông chủ Cao!” Người bán rong khom lưng cung kính nhận tiền.

“Ông chủ Cao buôn bán lớn gom tiền cho Vô Tuất à?” Thập hỏi.

“Buôn bán lặt vặt thôi mà.” Trương Mạnh Đàm dẫn cô bước lên thềm phường dệt.

“Ông chủ tới đấy ư! Quà ông sai đưa đến phường Thanh Nhạc hôm qua bị trả về rồi!” Một thiếu niên trông dáng bộ như người hầu từ trong cổng lớn phường Hồng Chức lao ra, liến thoắng nói với Trương Mạnh Đàm.

Trương Mạnh Đàm là chủ phường Hồng Chức ư? Thập nhất thời ngẩn ra.

Ở Tần người được mặc lụa Tề đã hiếm, được mặc đồ phường Hồng Chức dệt ra càng hiếm hơn. Năm xưa ở thành Ung, Thập chỉ nghe nói chủ mẫu Nhiễm Doanh của phủ Bách Lý mỗi năm sẽ đặt hai bộ lễ phục từ phường Hồng Chức bên Tề, một bộ mặc khi tế thần mùa xuân, một bộ vận hôm giỗ tổ cuối năm. Chuyến này áo cưới của Bá Doanh cũng từ phường Hồng Chức mà ra, cả thảy tốn đến nghìn vàng, hơn nữa nghe giọng điệu Bá Doanh, dường như cũng không biết dây mơ rễ má giữa phường Hồng Chức với tộc Triệu. Nếu quy mô như phường Hồng Chức mà còn gọi là buôn bán lặt vặt thì Thập thực không đoán nổi phải đến thế nào Trương Mạnh Đàm mới coi là làm ăn lớn.

“Cô nương cứ ở đây xem hàng chọn lựa, lát nữa Cao Tu sẽ quay lại.” Trương Mạnh Đàm hành lễ với Thập rồi quay lưng dẫn theo người hầu đi thẳng vào trong.

Cao Tu ư? Chuyện này càng lúc càng thú vị.

“Thập à, đồ ở đây đắt quá!” Tư dạo quanh phường Hồng Chức một vòng, hỏi han khắp lượt rồi tiu nghỉu quay về bên bạn.

“Hôm nay bọn mình không cần chi tiền, cậu cứ chọn mấy vuông khăn lụa ưng ý rồi lựa cho Vô Tà hai bộ đồ mùa hè bằng tơ băng, bảo với chưởng quỹ là ghi sổ cho ông chủ Cao nhà họ.”

“Liệu có được không?”

“Không sao đâu, đi đi!”

Thập tha thẩn dạo quanh phường Hồng Chức, thấy người ta nườm nượp tới hỏi giá, đặt áo, cũng có cả người nuôi tằm tới chào bán tơ. Đứng trước cổng phường Hồng Chức, nhìn các đội buôn vào Nam ra Bắc, nhìn những người bán rong quệt mồ hôi, đếm tiền, cười hỉ hả, Thập chợt cảm thấy sở dĩ nước Tề lớn mạnh, ngoài lợi thế dựa núi kề biển, có mỏ muối mỏ sắt ra thì chính sách vỗ về để dân chúng an cư, khuyến khích họ làm ăn, làm lợi cho dân, để dân giàu có mới là nguyên nhân thực sự giúp họ đứng sừng sững ở miền Đông, ngạo nghễ trước quần hùng.

“Cô nương đang nghĩ gì thế?” Trương Mạnh Đàm chẳng biết đã đứng sau lưng cô tự bao giờ.

“Tôi đang nghĩ nước Tề giàu mạnh trăm năm, có lẽ công lao của Quản tể tướng còn cao hơn Hoàn công.”

“Đàn bà con gái đứng giữa gấm vóc lụa là của phường Hồng Chức mà còn nghĩ tới việc lớn trong thiên hạ, e chỉ có mình cô nương thôi.”

Thập khẽ nghiêng đầu, thấy Trương Mạnh Đàm cầm một chiếc hộp gỗ sơn đỏ bằng bàn tay, chắc hẳn bên trong là quà bị Thanh Ca trả lại.

“Phường Hồng Chức lừng danh thiên hạ, chẳng hay tiên sinh làm ông chủ thế nào?”

“Tôi đâu phải chủ nhân ở đây. Phường Hồng Chức là do gia chủ lập ra trong lúc học kiếm ở Tề năm xưa, tôi chỉ là quản lý, mót chút lợi nhỏ, kiếm bát cơm ăn thôi.”

“Chủ nhân phường Hồng Chức này là Vô Tuất ư? Chuyện này người tộc Triệu có biết không?” Triệu Ưởng phái Vô Tuất sang Tề học kiếm là để hắn trở về làm thị vệ cho Triệu Bá Lỗ, không ngờ hắn mới mười mấy tuổi đã gây dựng được cả cơ nghiệp nhường này ở Tề.

“Gia chủ lấy tên Cao Tức, lập nghiệp ở năm nơi trên đất Tề, người tộc Triệu không ai hay biết.”

Ra vậy.

Triệu Vô Tuất làm thị vệ cho Triệu Bá Lỗ, một năm cũng chỉ được tám thạch ngũ cốc, song thường ngày hắn giao du với hào kiệt hiệp sĩ ở Tân Giáng, phóng tay cực kỳ rộng rãi. Thập sợ hắn lõm túi, mấy lần định đưa tặng ít đồ ngọc ngà kim thạch dễ bán, nhưng đều bị cự tuyệt. Bấy giờ cô cứ nghĩ hắn từ chối là vì tự ái đàn ông, không ngờ hắn quả thực “tiền muôn bạc vạn”.

“Ông chủ Cao nhớ đem theo quà tặng, chúng ta tới phường Thanh Nhạc chơi một chuyến đi!”

“Cô không hỏi bốn cơ nghiệp còn lại ở đâu à?” Trương Mạnh Đàm nhướng mày phải, lấy làm ngạc nhiên vì Thập không gặng hỏi.

“Sao tôi phải hỏi?” Thập nhìn thẳng vào mắt Trương Mạnh Đàm, cười khẽ, “Tôi không phải gián điệp nước Tần đâu, nếu tiên sinh muốn hỏi.”

Nghe cô nói vậy, Trương Mạnh Đàm sững ra, rồi vỗ tay cười lớn, “Cô nương thực không hổ là bậc thông thần, kẻ hèn này nghĩ gì cũng không qua nổi mắt cô.”

Trong phường Hồng Chức, Tư đang chọn đồ cho Vô Tà, thoáng nghe thấy Trương Mạnh Đàm cười lớn, bèn đưa mắt nhìn Thập dò hỏi. Thập mỉm cười xua tay với bạn rồi quay sang Trương Mạnh Đàm, “Tiên sinh quá khen, chẳng qua đàn bà con gái hay để ý mà thôi.”

Trương Mạnh Đàm nhếch môi cúi đầu đằng hắng mấy tiếng, tới khi ngẩng lên, y đã thu lại nụ cười, cũng thu lại cả vẻ khúm núm vờ vịt, “Cô nương đã nói thẳng thì Mạnh Đàm cũng chẳng giấu giếm nữa. Cô nương là trẻ mồ côi được Ngũ tướng quân dốc lòng nuôi dạy, dung mạo vô song, tâm tư mẫn tiệp. Hai năm trước, lần đầu tiên Mạnh Đàm gặp cô nương, cô còn là ca kỹ ở phủ Tần thái tử; hai năm sau, thái tử nước Tần đã đổi, cô nương lại lắc mình biến thành trò cưng của thái sử, khách quý của tứ khanh nước Tấn. Cảnh ngộ của cô nương, đối với một người con gái, thực khá ly kỳ, khiến Mạnh Đàm khó tránh khỏi nghi ngờ.”

“Gián điệp nước Tần ấy à? Tôi là người Triệu thế tử đích thân dẫn về nên ở Tấn chẳng ai nghi ngờ tôi như tiên sinh cả. Tiên sinh lo gì chứ? Sợ tôi phụng lệnh Tần bá làm mưa làm gió ở Tấn ư?”

“Tần Tấn kề nhau, một cô gái Tần thân thế bí ẩn lại trở thành con thần của người Tấn. Nếu sau này Tấn động binh với Tần, còn phải hỏi một cô gái Tần xem nên đánh hay hòa, là lành hay dữ, há chẳng khiến người ta lo lắng ư?”

Thập sững ra, đáp khẽ, “Hiện giờ Tần Tấn đang hòa bình, không giao chiến.”

“Cô nương, đứng đây cô thấy những gì?” Trương Mạnh Đàm cười nhìn ra khu chợ ngựa xe tấp nập bên ngoài cổng phường Hồng Chức.

“Thương lái các nước cùng sự giàu mạnh của Tề.”

“Đó là bề nổi thôi.” Trương Mạnh Đàm nhìn cô, sâu trong con ngươi nâu sẫm cuồn cuộn sóng ngầm, “Hàng hóa trong chợ này từ mọi miền Nam Bắc đổ về, cũng có nghĩa là tin tức từ mọi miền Nam Bắc đổ về. Ở đây có mật thám của người Yên phương Bắc, mật vụ của người Sở miền Nam, gian tế các nước Tấn, Trịnh, Vệ, Tống đều không thiếu, nhưng gián điệp Tần là bí hiểm đáng sợ nhất. Tôi thay gia chủ làm quan ở Tần mấy năm, hiếu rõ lòng dạ hổ lang của người Tần. Tuy Mục công đã chết, nhưng Tần bá vẫn ôm dã tâm đánh Tấn để tiến về phía Đông vào Trung Nguyên. Cô nương có nhận lệnh của người Tần hay không, Mạnh Đàm không rõ, có điều hiện giờ mọi vui buồn mừng giận của gia chủ đều nằm trong tay cô, điều này đối với kẻ làm mưu sĩ mà nói, thực không phải việc đáng mừng.”

Lời Trương Mạnh Đàm khiến Thập bỗng chốc nhớ tới những bức quân báo, những chồng mật hàm từng xem hồi nhỏ ở phủ tướng quân. Đây là lần đầu cô đến Tề nhưng từ năm mười hai tuổi, cô đã có thể dựa theo trí nhớ vẽ lại bản đồ thành Lâm Truy lên mảnh da dê. Những đền đài lầu gác, cách sắp xếp chỗ ăn nghỉ trong cung nước Tề, mật hàm của người Tần cũng ghi chép tỉ mỉ. Người Tần vẽ bản đồ làm gì? Công thành hay hành thích? Trong vòng năm chục năm có lẽ là chưa, nhưng một trăm, hai trăm năm sau, biết đâu sẽ dùng tới.

Thập không cách nào phản bác được Trương Mạnh Đàm, bởi cô biết người Tần đã bố trí mật thám ở các nước từ mấy đời quân chủ trước. Giờ tuy công tử Lợi liên minh với Tấn nhưng nếu trời cao ban cho một cơ hội giục ngựa vào Trung Nguyên, hắn chắc chắn không bỏ qua. Tần tiềm phục ở biên thùy phía Tây bao năm nay, ngoài mặt tỏ vẻ không tranh giành với các nước Trung Nguyên, nhưng cặp mắt chằm chằm nhìn về phương Đông của họ chưa bao giờ nhắm lại.

Thập không muốn bàn luận về Tần với Triệu Vô Tuất, cũng không bàn luận về Tấn với công tử Lợi và Ngũ Phong. Cô đứng giữa hai nước Tấn Tần, chỉ muốn chôn vùi những bí mật mình biết trong lòng cho mục nát. Trương Mạnh Đàm cảnh giác cô cũng là một cách để bảo vệ Triệu Vô Tuất. Với y đó là tận trung, không có gì sai cả.

Tự biết mình thân phận nhạy cảm, có nói nữa cũng vô ích, Thập cười cười lảng tránh ánh mắt dồn ép của y: “Thập cứ ngỡ tiên sinh say mê con gái ở giáo phường, hẳn là người trọng tình cảm; không ngờ tiên sinh chỉ khoan dung với bản thân, còn với Vô Tuất lại cực kỳ nghiêm khắc.”

Trương Mạnh Đàm cười nhạt, xem bộ đã đoán trước cô sẽ không nói tiếp chủ đề về mật thám nước Tần: “Gia chủ gánh vác trọng trách, đắm đuối vào tư tình nhi nữ sẽ hủy hoại tâm huyết nhiều năm; còn Mạnh Đàm chỉ là một thường dân, huống hồ tôi và Thanh Ca cũng không như cô nghĩ đâu.”

“Có như tôi nghĩ hay không không quan trọng, tôi chỉ biết hôm nay bất luận thế nào tiên sinh cũng phải tới phường Thanh Nhạc một chuyến.” Thập liếc chiếc hộp sơn son Trương Mạnh Đàm cầm trong tay nãy giờ rồi tủm tỉm bước xuống thềm. Trương Mạnh Đàm khẽ thở dài rồi theo sau.

“Hôm qua tiên sinh nói nếu Trung Hàng Lâm bịa đặt thì sẽ giết hết già trẻ trong nhà, là cố tình gạt tôi phải không?” Thập đi trên đường, cố tránh đám đông chen chúc.

“Cô nương thông tuệ. Gia chủ nói, cô vừa đển Lâm Truy, chưa quen thủy thổ, phải năng tích phúc đức. Nên khi nào từ Quảng Nhiêu về, bất luận tin tức là thật hay giả đều sẽ thả người.” Trương Mạnh Đàm nói rồi giật giật tay áo Thập kéo cô ngoặt vào một con ngõ nhỏ bên đường, “Đi bên này vắng hơn.”

Hai mặt tường bao bằng đá xanh ngăn ra một lối mòn yên ả ngay cạnh phố thị phồn hoa, Thập khom lưng né đống cá khô phơi thành từng dãy trên đầu, ngờ vực hỏi, “Tiên sinh không muốn Vô Tuất thả người ư?”

Trương Mạnh Đàm khinh khỉnh đáp, “Trung Hàng Lâm là hạng tiểu tốt vô tích sự, giết hay thả người nhà hắn cũng chẳng hề gì. Mạnh Đàm chỉ không muốn gia chủ bị cô nương ảnh hưởng nhiều trong khi hành sự thôi.”

Chuyến này Thập sang Tề, vốn chỉ muốn ở bên Vô Tuất đỡ đần hắn chút đỉnh, để hắn chóng bình yên về Tấn, không ngờ lại khiến Trương Mạnh Đàm sinh lòng ngờ vực. Cô lẳng lặng dừng bước, ngẫm nghĩ giây lát rồi nghiêm mặt nói: “Để tiên sinh phải nhọc lòng rồi. Thực ra chỉ cần Vô Tuất bình yên vô sự, tôi sẽ không hỏi tới việc ở Tề. Về lời đồn gián điệp, quả là nhảm nhí, tôi không muốn biện giải gì cả, sau này tiên sinh giao thiệp với tôi lâu ngày, ắt sẽ hiểu thôi.”

“Cảm ơn cô nương!” Trương Mạnh Đàm cười thản nhiên, giơ tay hành lễ.

“Đi thôi!” Thập ngoái lại nhìn con ngõ vắng vẻ, sải bước đi tiếp.

Từ Khang Trang đến phố Ung Môn chỉ đi chưa đầy nửa khắc. Nơi đây không có đám đông huyên náo, sạp hàng khắp nơi, đứng đầu phố Ung Môn hít sâu một hơi, chỉ thấy ngào ngạt những mùi son phấn, mùi rượu ngon, mùi con gái.

Khoảnh đất dưới chân không nhuốm mảy may bụi trần, trên mặt đá xanh phẳng lì bóng loáng còn loang ánh nước sau khi gột rửa, ánh nắng chói chang vừa rọi xuống, những đốm vàng lấp lánh đã trải dài đến tận cuối đường.

Ba mươi sáu giáo phường nức tiếng dựng sát bên đường, hoặc đậm phấn hoặc nhạt son, mỗi nhà một vẻ. Biết bao du hiệp giục ngựa vác kiếm đến Tề, chỉ để thăm lớp lớp bóng hồng ấy một lần.

Lúc này vừa qua giờ cơm trưa. Trước cửa các giáo phường, nữ tỳ, nô bộc đang lúi húi xách thùng nước, cầm giẻ lau quét tước cửa rả sân vườn.

Hơn trăm năm trước, tướng quốc nước Tề là Quản Trọng cho đặt bảy trăm nữ lư trong cung Tề, từ ấy lập ra phép thuế, thu phí qua đêm của kỹ nữ, sung vào công quỹ. Năm xưa Tề Hoàn công xưng bá thiên hạ, những cô gái nới áo lỏng đai này cũng đã lập công lớn.

Giờ giáo phường nở rộ khắp các nước, nhưng nổi tiếng nhất vẫn phải kể tới phố Ung Môn ở thành Lâm Truy này. Nơi đây không phân sang hèn, không luận xuất thân, chỉ cần có tiền là có thể một đêm hưởng hết mỹ nhân thiên hạ.

Thập ngẩng đầu quan sát từng ô cửa sổ hé mở, thầm hình dung bóng giai nhân đang tựa bên song, biếng chải đầu.

“Đến nơi rồi.” Trương Mạnh Đàm giơ tay ngăn luồng suy tưởng lan man của cô lại.

“Đây là phường Thanh Nhạc ư?” So với mấy giáo phường khác trên phố Ung Môn kết hoa giăng lụa xanh đỏ, phường Thanh Nhạc chỉ có ngói xanh tường trắng, trông lại giống một mái nhà đơn sơ của văn nhân.

“Hai vị, mời vào trong này…” Rèm châu sa mỏng vén lên, một cậu trai mặt mày thanh tú từ trong đi ra.

“Thanh Ca cô nương có nhà không?” Trương Mạnh Đàm phủi tay áo, vờ hỏi vu vơ. Thập liếc Trương Mạnh Đàm, nhủ bụng, dù y ra sức phủ nhận quan hệ với Thanh Ca, nhưng chỉ cần trông giọng điệu và ánh mắt y lúc này đủ thấy hết cả ruột gan.

“Cô nương có nhà, mời ông chủ Cao vào trước!” Cậu trai nọ nhoẻn cười, cung kính dẫn họ vào.

Trong phường Thanh Nhạc quả là một vùng trời khác.

Qua khỏi bức rèm châu nọ, tức thì có bốn ả hầu áo trắng váy hồng bước lên nghênh tiếp, hai ả đỡ Thập và Trương Mạnh Đàm, hai ả cung kính quỳ xuống lấy khăn ướt, khăn khô lần lượt lau sạch giày cho họ. Bên trái Thập có một hàng giá gỗ sơn màu kê sát tường, từ trên xuống dưới tổng cộng bảy tầng, đặt hàng loạt thẻ gỗ vẽ hoa cỏ đủ màu, riêng tầng trên cùng có một tấm thẻ khác hẳn, chỉ vẽ một cây ngũ huyền cầm.

“Ông chủ Cao hôm nay vẫn chọn chỗ cũ chứ?” Cậu trai dẫn đường hỏi.

“Vãn chỗ cũ, hôm nay không uống Lê Hoa Xuân, uống Túy Hi, lấy chén xương trắng lên đây.”

“Được thôi, sẽ đưa lên cho ông ngay!” Cậu ta hơi cúi người hành lễ rồi chạy vào cửa ngách bên phải.

Trương Mạnh Đàm cho bốn ả hầu lui ra, quen đường thuộc lối dắt Thập băng qua hành lang, đình viện, tới một sảnh đường sáng choang.

Trong sảnh đốt hương phương chỉ, trải chiếu cỏ bồ xanh nhạt. Bốn góc đặt bốn cây đèn đồng hình người quỳ cao hơn trượng. Trương Mạnh Đàm dẫn cô tới một chiếc bàn thấp kề bên song ngồi xuống, chẳng mấy chốc đã có sáu cô gái trẻ trung tươi tắn đẩy cánh cửa gỗ bọc sa ra, ôm dao cầm bước vào.

“Thích ai thì cứ chọn!” Trương Mạnh Đàm đón lấy hồ rượu ả hầu dâng lên, cúi đầu nhìn chén xương trắng trên bàn, chẳng buồn để mắt tới sáu mỹ nhân trước mặt.

“Cô mặc váy thêu trạch lan kia!” Thập giơ tay trỏ một người, năm cô gái không được chọn lập tức hành lễ, tao nhã khép cửa lui xuống.

Quả là những cô gái chừng mực lễ độ, xinh đẹp như hoa! Đám lái buôn xuất thân thấp kém chỉ cần vung một nén vàng ở phường Thanh Nhạc là đã được đãi ngộ như sĩ tộc công khanh, thảo nào giáo phường nước Tề nổi danh thiên hạ.

“Ở đây sung sướng như vậy, chẳng trách đàn ông các nước sang Tề là chẳng muốn về.” Thập nhìn mỹ nhân ôm đàn trước mặt, cười nói.

“Giờ hẵng còn sớm, tới tối phố Ung Môn mới thật mê hồn.” Trương Mạnh Đàm cười nhạt, cúi đầu uống rượu.

“Tiên sinh muốn nghe bài nào?” Mỹ nhân ôm dao cầm bước tới quỳ xuống trước mặt họ thỏ thẻ hỏi, giọng vừa thanh vừa ngọt, nghe như tiếng hoàng oanh đầu cành ban sớm.

“Miễn không phải bài Thanh Ca thường hay gảy là được.” Trương Mạnh Đàm giơ tay giật một tua vàng rủ xuống từ xà nhà, tức thì một tấm màn the mỏng như mây khói buông xuống, ngăn cô gái ôm đàn lại bên ngoài.

“Chao, lẽ nào cả phường Thanh Nhạc này chỉ mình Thanh Ca cô nương mới đáng được tiên sinh để mắt thôi sao?” Thập nhìn người đẹp tủi hờn ra mặt ngoài màn, cười giễu, “Vậy lát nữa tôi đây phải nhìn cho kỹ xem nhạc kỹ Thanh Ca lừng lẫy Lâm Truy đẹp đến chừng nào.”

“Tôi chưa từng thấy mặt Thanh Ca.” Trương Mạnh Đàm đẩy mấy đĩa quả khô sang phía Thập.

“Gì cơ?” Cô kinh ngạc.

“Trần thế tử đã mua đứt dung mạo Thanh Ca, đàn ông trong thành Lâm Truy này, ngoài Trần Bàn ra, không ai được thấy mặt nàng.” Trương Mạnh Đàm vén màn the nhìn ra cửa, song giai nhân vẫn chẳng thấy đâu.

“Thế lại càng kỳ lạ, sao tiên sinh lại động lòng với một người con gái mà mình còn chưa biết mặt cơ chứ?” Thập nảy dạ tò mò.

“Tôi và Thanh Ca không như cô nghĩ đâu.”

“Thế thì là thế nào?” Thập ghé lại gần, toan hỏi cho rõ ràng.

Trương Mạnh Đàm đặt chén rượu xuống, tay phải bất giác mân mê chiếc hộp sơn son bị Thanh Ca trả lại: “Tôi thích viết nhạc, mà trên đời cũng chỉ mình nàng gảy lên được tiếng lòng tôi. Có trông thấy mặt hay hợp chuyện không đều không quan trọng.”

Giữa chốn gió trăng, không hỏi dung nhan, nghe tiếng thấu tình. Nghe Trương Mạnh Đàm nói, Thập tự thấy hôm qua mình đã đùa quá trớn.

“Đêm qua là tôi không phải, lát nữa Thanh Ca cô nương tới, tôi nhất định sẽ giải thích giúp tiên sinh.”

“Nàng uống say mới nói muốn cùng tôi về nhà, tỉnh rượu rồi e rằng lại quay ra oán giận tôi. Bỏ đi có khi lại hay.” Trương Mạnh Đàm cầm bình rượu lên rót đầy một chén cho Thập, “Chỗ khác không có rượu này đâu, cô giỏi ủ rượu lại hiểu y thuật, nhất định phải nếm thử.”

Rượu xanh biếc sóng sánh trong chén xương trắng. Sắc xanh ấy như lá trúc nõn nà tháng Ba, còn ngậm sương, thơm thoang thoảng. Thập cúi đầu nhấp một ngụm, thấy vị rượu nồng đậm lan ra trong miệng.

“Tôi nghe nói chỉ nữ thần Nghi Địch ủ rượu cho Đại Vũ mới ủ ra được rượu thần xanh biếc, không ngờ hôm nay nhờ phúc tiên sinh lại được nếm thử!” Thập đặt chén xuống, cảm thán.

“Rượu này Thanh Ca ủ, tên là Túy Hi.”

“Tên hay lắm.” Thập thích thú, lại uống thêm mấy hớp.

Ngoài màn the, khúc đàn đã dứt. Cửa gỗ bọc sa hé mở, một đứa hầu búi tóc trái đào bước vào.

“Này Táo, cô nương nhà cô có chịu gặp ta không?” Trương Mạnh Đàm đặt chén rượu trong tay xuống, vén bức màn lên.

Đứa hầu bé đứng bên ngoài chính là kẻ đánh xe cho Thanh Ca tối qua, nó tươi cười hành lễ với Trương Mạnh Đàm, dịu dàng thưa, “Cô nương nói tối qua đi đến nơi không nên đến, bị nhiễm lạnh nên hôm nay không tiếp khách, mời ông chủ Cao về đi thôi!”

“Này cô em, hôm qua là tôi…” Thập đứng dậy định giải thích nhưng Trương Mạnh Đàm đã giơ tay ngăn cô lại: “Cô nương không muốn gặp ta thật sao? Vậy bản nhạc trong hộp này, cô ấy đã xem chưa?”

“Cô nương xem rồi, nhưng có bảo kẻ phổ nhạc không thật lòng thì tiếng đàn hay tới đâu chăng nữa cũng chẳng lay động được lòng người.” Táo dẩu môi đáp.

“Thế ư… Nàng thấy khúc nhạc này không thật lòng à?” Trương Mạnh Đàm cười mỉa, đặt hộp sơn son trong tay lên bàn, “Bản nhạc này là tại hạ viết cho Thanh Ca cô nương, nếu cô nương không thích cứ việc đốt phứt đi, khỏi cần mất công sai người đưa trả. Hôm nay quấy rầy rồi, xin cáo từ trước!” Dứt lời, Trương Mạnh Đàm quày quả đi ra, không hề ngoái lại.

“Ôi… này cô em, Cao tiên sinh thật lòng với cô nương nhà các cô đấy. Đêm qua là tôi nhận lầm người, mới khiến cô nương nhà các cô hiểu lầm Cao tiên sinh. Người thật lòng khó gặp, phiền em nói đỡ với cô nương mấy lời!” Thập tóm lấy vai Táo nói liền một mạch, rồi chẳng đợi nó trả lời đã quay người đuổi theo Trương Mạnh Đàm.

Ban nãy cô theo Trương Mạnh Đàm vào, vừa đi vừa thưởng hoa ngắm cảnh, còn lúc này đang sốt ruột, cũng chẳng biết mình rẽ nhầm vào đâu, chẳng những không bắt kịp y mà còn lạc luôn. Cả khu nhà rộng mênh mông, cô đi lòng vòng mãi vẫn không quay lại được chỗ ban đầu. Hành lang quanh co, bóng cây rợp rợp, chẳng hiểu sao giáo phường mua vui mua cười lại xây dựng như mê cung thế này nữa.

Đúng lúc cô mất hết kiên nhẫn, đang định trèo tường ra thì chợt nghe thấy tiếng đàn thánh thót.

Ai gảy đàn thế nhỉ? Cô tập trung tinh thần lắng tai nghe.

Dao cầm cũng như người, khúc dạo đầu khó tránh hơi gượng gạo. Nhưng tiếng đàn vừa rồi rõ ràng là âm đầu mà lại như tràn ra từ sương mai trong kẽ lá, vừa nhuần nhị vừa thấu triệt, lọt vào tai là thấm thía tận tâm can. Thấm vào lại càng thấy tâm can khao khát, cả người như cây mạ gặp hạn lâu ngày, được một hạt mưa xuân thì muốn thêm thêm nữa.

Thập lần theo tiếng đàn, bất giác đã tới trước một ngôi lầu trúc.

Lúc này, tiếng đàn dồn dập như mưa rào chợt “tang” một tiếng, lên cao chót vót rồi ngừng bặt.

Một khoảng lặng đầy dư âm, mấy nốt rung trầm trầm, sau khúc cao trào chợt một tiếng đàn ai oán cất lên, chỉ một câu nhạc cũng đủ khiến Thập tự dưng đỏ hoe mắt. Nỗi thê lương vô tận trào dâng trong lồng ngực như thủy triều, trời quang biến mất, lầu trúc biến mất, cô bần thần đứng giữa vườn hoa cỏ xanh mướt, song chỉ thấy một vạt đất bị lửa đốt cháy đen. Giữa ngọn lửa phừng phừng, một người con gái áo lụa phấp phới, khóc nức nở trong gió, tiếng khóc thảm thiết xông thẳng lên trời.

“Ngừng lại đi… E rằng ta chẳng bao giờ nghe hết nổi khúc này đâu.” Một giọng khàn khàn trong lầu cất lên, tiếng đàn bi thiết nháy mắt đã ngưng. Mảnh vườn vẫn chan hòa nắng gắt, trời quang như cũ. Nào thấy người con gái? Nào thấy hủy diệt đất trời?

Thập lau nước mắt, cúi đầu cười rồi xoay người toan bỏ đi.

Đúng lúc ấy, cánh cổng trúc sau lưng cô kẽo kẹt mở ra.

Một người đàn ông trung niên đứng ngay giữa cửa, tóc búi trong mũ ngọc, thắt lưng đeo trường kiếm, mình vận tấm áo dài xám xanh thùng thình. Ánh nắng rọi xuống khe nước lấp lóa làm Thập không nhìn rõ mặt mày người nọ, chỉ đứng trên cầu đá hành lễ vái chào từ xa. Người nọ không đáp lễ, chỉ sững sờ đứng giữa nắng chói chang nhìn cô trân trân, bàn tay nắm lấy cánh cửa trúc cứng đờ bất động.

Người này sao thế nhỉ? Thập bị nhìn đến phát ngượng, chẳng biết nên bước tới hành lễ hay quay lưng bỏ đi. Vừa lúc ấy, sau lưng cô chợt vang lên tiếng Táo, “Ây dà, sao ngươi trơ trẽn thế nhỉ? Đã bảo cô nương nhà ta không gặp các ngươi, mà ngươi còn lần đến tận đây? Xéo đi, còn không mau xéo đi à?” Nói đoạn nó tóm lấy tay cô kéo xuống bên kia cầu, cô không muốn giằng co với một đứa hầu bé, đành mặc cho nó lôi đi một mạch, không quên phân trần, “Tôi lạc đường nên mới đến đây, nếu cô nương nhà em ở bên trong thì cho tôi vào thay Cao tiên sinh nói vài lời đi! Có vậy đôi bên cũng khỏi phải buồn rầu, đúng không nào?”

“Ai buồn rầu hả? Cô nương nhà ta vẫn vui vẻ như thường nhé!” Con nhóc mới bảy tám tuổi, mà cái miệng nhỏ xinh hồng hồng đã sắc như dao cau.

“Em nghe tôi nói này, cô nương nhà các em chắc đang buồn lắm đấy, em không nghe thấy khúc nhạc cô ấy vừa gảy đấy thôi…” Thập đang khom lưng giảng giải cho Táo, bỗng ngửi thấy hương giang ly thoang thoảng theo gió đưa tới, cô ngẩng đầu lên thì thấy người đàn ông vốn đứng cạnh cửa trúc nháy mắt đã đi lướt qua mình, chỉ kịp nhác thấy đóa dâm bụt tím sẫm thêu ở viền tay áo cùng mảng sẹo bỏng to tướng trên mu bàn tay.

“Xem kìa, khách của cô nương nhà em cũng đi rồi. Để tôi bỏ tiền mua thời gian bằng một khúc đàn của cô ấy nhé, bao nhiêu tiền nào? Tùy em ra giá đấy!” Thập kéo Táo dừng lại.

Song con bé ghê gớm ấy chẳng thèm đếm xỉa, hừ mũi một cái rồi gắt lên, “Ngươi tưởng cô nương nhà ta là ai hả? Dù tay Cao Tu kia dâng cho chúng ta cả phường Hồng Chức, chúng ta không muốn gặp là không gặp. Thanh đâu, tiễn khách!”

Táo vừa gọi, lập tức một thằng nhóc gầy nhom chẳng biết từ đâu chạy đến. Thấy nó khom lưng hành lễ, Thập hiểu hôm nay mình thực sự không gặp được Thanh Ca rồi.

Trương Mạnh Đàm đứng chắp tay sau lưng ngoài phường Thanh Nhạc, thấy Thập trở ra cũng chẳng hỏi han gì, quay người đi thẳng về phía lối ra khỏi phố Ung Môn.

Thập sấp ngửa đuổi theo, “Trương tiên sinh cứ thế mà đi ư?” Nghe khúc đàn dang dở khiến người ta ứa lệ của Thanh Ca, Thập đã thầm thề rằng bất luận thế nào cũng phải giúp họ giải hòa. Cô khuyên nhủ một thôi một hồi nhưng Trương Mạnh Đàm vẫn mắt lấp tai ngơ, như không nghe lọt nửa chữ.

“Trương tiên sinh có nghe thấy tôi không đấy?”

Cuối cùng Trương Mạnh Đàm cũng chịu dừng bước, quay lại hành lễ với cô rồi nói, “Chuyện này không cần cô nương bận tâm. Mạnh Đàm dốc sức cho gia chủ, những chuyện riêng tư này nên chấm dứt từ lâu mới phải. Đêm qua thực phải tạ ơn cô nương!”

“Kìa tiên sinh? Công ra công tư ra tư, tiên sinh giúp sức cho Hồng Vân nhi, nhưng không thể để lỡ việc chung thân của mình chứ? Chuyện đêm qua tôi đã giải thích với Táo rồi. Hai ba hôm nữa tiên sinh năng lui tới thêm mấy lần, Thanh Ca cô nương nhất định sẽ bỏ qua thôi.”

“Chuyện ở phường Thanh Nhạc đến đây là kết thúc, mong cô nương đừng nhúng tay vào nữa! Ngày mai tôi sẽ sai người sắp sẵn thuyền ở sông Truy, cô nương dẫn Tư với Vô Tà đi chơi đi.”

“Nhưng tiên sinh và…”

Trương Mạnh Đàm cau mày, lạnh lùng cắt ngang, “Cô nương quên lời mình mới nói trong ngõ rồi sao? Phường Thanh Nhạc nằm trên đất Tề, việc ở Tề, mong cô nương giữ lời, chớ xen vào nữa!”

“Khá khen cho lòng trung của tiên sinh. Được rồi, tôi không nói nữa là xong!” Thập mím môi, không nói gì thêm nữa.

Báo cáo nội dung xấu