Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 03

HAI TƯỚNG ĐẤU ĐÁ

Vừa tới Lâm Truy chưa được mười ngày, cô đã dốc gan dốc ruột giúp cho đối thủ một việc lớn, cô chán nản khi nhận ra điều đó, nhưng nhiều hơn cả là sợ hãi. Kẻ giăng ra cái bẫy này hiểu rất rõ về cô, biết cô thông thạo y thuật, biết cô sẽ tới sông Truy chơi thuyền, thậm chí còn nắm chắc cô sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy người ta bệnh nặng. Vậy mà cô chẳng biết gì về đối phương cả.

Trước cửa phường Hồng Chức, Tư và Vô Tà vừa nhác thấy Thập đã nhào đến, người khăng khăng đòi tới Đường Viên xem tạp kỹ, kẻ nhất quyết muốn đến kiếm xá xem đấu kiếm, sẵn giận Trương Mạnh Đàm sau khi từ phường Thanh Nhạc trở ra, Thập bằng lòng ngay.

Đường Viên nằm ở đầu kia thành Tây, cách Khang Trang nơi họ đang đứng mấy con phố. Khang Trang lừng danh vì quy tụ đủ thứ hàng hóa trong thiên hạ, còn Đường Viên lại có tiếng về ca múa tạp kỹ.

Những kẻ diễn trò ở Đường Viên phần lớn là người Địch phương Bắc và người Lai Di đến từ phía Đông. Trong số đó người Địch nổi tiếng về sức khỏe, nào vác đá lớn, nào múa kiếm nặng, thế nào cũng thu hút được một đám đông người xem. Khác với người Địch cao to lực lưỡng, người Lai Di tướng mạo thanh tú, giỏi ca múa, phần lớn tập trung ở những quán rượu nhỏ ven chợ bán nghệ kiếm sống. Gọi một bình rượu, hai đĩa thức nhắm là được họ hát cho nghe một bài; kêu một con cá, một nồi canh thì sẽ được xem điệu múa uyển chuyển say lòng của người Lai Di vẫn bị dân nước Lỗ bỉ bôi là dung tục.

Vô Tà và Tư mỗi người một sở thích nên chia ra hai đằng: kẻ đi xem người Địch vác đá lớn; người vào quán rượu nghe hát. Còn Thập tạt vào quán ven đường mua một bát sữa đậu mát lạnh giải khát, nghe người xung quanh tán gẫu câu được câu chăng.

“Này, múc cho hai bát sữa đậu… mẹ nó chứ, chưa vào hè mà đã nóng hầm hập!” Một gã đàn ông vận áo ngắn vải thô màu trắng gỡ nón lá ra, vuốt mồ hôi đầm đìa rồi ngồi phịch xuống bóng cây cạnh quán.

“Ông anh à, ngồi đây nghỉ một lát được không? Thằng em không đi nổi nữa rồi.” Đi cùng gã là một tay gầy còm thấp bé, mặt vàng như sáp, y gỡ nón lá ra quạt lấy quạt để rồi vịn thân cây ngồi xuống.

“Ngữ mày trồng rau bán dưa còn được, chứ đi làm sai dịch nỗi gì?” Gã áo trắng vơ cục đất ném vào y. Cục đất bay được nửa chừng vỡ làm đôi, một nửa đập vào mặt tay còm, nửa kia rớt ngay vào bát sữa đậu của một lão nông dân đang ngồi dưới đất.

“Ôi xin lỗi lão trượng, để tôi mua đền ông một bát nhé.” Gã áo trắng ưỡn ngực đứng dậy, “Này chủ quán, cho thêm một bát!”

“Ồ không sao, không cần đâu, tôi đủ rồi.” Lão nông xua tay, hắt chỗ sữa đậu lẫn đất cát xuống nền, “Anh bạn là sai dịch trong thành à?”

Gã loắt choắt mặt vàng bệch phủi bụi đất trên mình, cười khì gật đầu, “Đúng thế đúng thế, hai chúng tôi đều là sai dịch dưới trướng Lâm Truy đại phu.”

Nghe vậy, lão nông dân liền nhích lại gần gã loắt choắt hỏi han, “Lão nghe nói tên Trần Nghịch hai tháng trước giết người ngoài phố sắp bị chém rồi hở?”

“Đúng thế, lão trượng cũng quen hắn à?” Gã áo trắng đón lấy bát sữa đậu chủ quán đưa, uống ực một hớp, còn bát khác đưa cho ông lão.

“Người nhà tả tướng, lão sao quen được.” ông già vội lắc đầu, mặt buồn xo.

“Hữu tướng có lệnh, ngày mười lăm tháng sau xử trảm. Nếu lão trượng xưa kia từng chịu ơn tên Trần Nghịch này, tới lúc đó có thể đến pháp trường tiễn hắn một đoạn đường.” Dứt câu, gã áo trắng ừng ực uống một hơi hết sạch bát sữa đậu, rồi quẹt miệng, đặt bát xuống chiếc bàn thấp trước mặt Thập, quát gã loắt choắt, “Đi thôi đi thôi, người ta còn đợi chúng ta về báo cáo đấy!”

“Vâng vâng! Lão trượng cứ thong thả uống nhé!” Gã loắt choắt cười với ông lão rồi ngửa cổ uống liền hai hớp, hối hả nhặt nón lá dưới đất lên bươn bả chạy ra ngoài.

Tả tướng trong lời kể của đám sai dịch chính là Trần Hằng, tông chủ tộc Trần nước Tề, mà kẻ tử địch của ông ta lại là hữu tướng Hám Chỉ đang được Tề hầu hết sức trọng vọng.

Trần Hằng và Hám Chỉ là hai kẻ thế lực nhất trong triều đình nước Tề hiện giờ. Bốn năm trước, Tề hầu Lữ Nhâm từ Lỗ về Tề nối ngôi, hai người này chính là hai cánh tay đắc lực của ông ta. Nhưng dần dà, tay trái căm tay phải, tay phải cũng nhăm nhe chặt phăng tay trái nhiễu sự. Tên Trần Nghịch giết người này e rằng chỉ là đốm lửa nhỏ xui xẻo rơi trúng phải đống củi khô chực cháy vào đúng lúc mấu chốt mà thôi.

“Giết người phải đền mạng, sao lão trượng phải buồn cho tên Trần Nghịch kia?” Thập bưng bát sữa đậu dịch lại gần ông lão.

Ông lão nhìn cô từ đầu đến chân rồi thở dài, “Tiên sinh không phải người Tề đúng không?”

“Tôi là lái buôn từ Tấn sang, hôm qua vừa tới Lâm Truy.”

“Thảo nào tiên sinh không biết. Trần Nghịch là hào kiệt hạng nhất ở thành Lâm Truy chúng tôi, kẻ bị gã giết là tên gác cửa phủ hữu tướng, thường ngày hoành hành ngang ngược chẳng chừa việc thất đức nào không làm. Người tốt giết kẻ xấu, chủ của kẻ xấu lại muốn chém đầu người tốt. Thói đời nhiễu nhương, người tốt khó sống lâu mà!” Lão nông thở dài, vịn đầu gối đứng dậy, “Mới yên ổn được dăm năm lại sắp loạn rồi, oan nghiệt quá!” Ông lão ngẩng đầu nhìn mặt trời rồi khom lưng quẩy gánh dưa đầy ắp lên vai, liêu xiêu rời quán.

Trần Nghịch, một kẻ sát nhân được lòng dân. Hám Chỉ định vin vào người này kéo cả tộc Trần ngã ngựa, e rằng không dễ!

Thập trầm ngâm giây lát rồi đứng dậy toan đi, chợt nhác thấy ông cụ bán sữa đậu đang gục xuống góc tường lén lau nước mắt.

“Ông ơi, ông sao thế?” Cô bé con đang ngồi xổm dưới đất nghịch bùn giật áo ông cụ, giơ bàn tay lấm lem chùi mặt cho ông, chùi mãi chùi mãi rồi tự dưng cũng mếu máo khóc òa lên.

“Con cứ khóc đi! chú Nghịch con sắp chết, ông dẫn con tới cổng nhà lao dập đầu với chú ấy.” Ông lão lau nước mắt, dẫn đứa cháu gái vẫn đang nức nở không thôi đi ra, bỏ cả quán hàng.

“Này ông, chớ đi vội! Tôi trả tiền cho ai đây?” Thập giật giọng gọi với theo, tức thì mấy tên du hiệp ngồi nghỉ bên cạnh nhìn cô rồi đẩy một cái bát không tới, “Này khách phương xa, bỏ vào đây này!”

“Ừm.” Thập móc tiền trong ngực áo ra ngoan ngoãn bỏ vào bát, “Này các anh, sao ông cụ bán sữa đậu lại khóc? Người nhà tả tướng sao lại thành thân thích nhà họ vậy?”

“Chú em có thấy con bé cởi truồng kia không? Trần Nghịch dòng dây lộn ngược đầu xuống giếng vớt nó lên đấy. Ba năm trước, người Tề chúng ta đánh nhau với người Ngô ở Ngải Lăng, mười vạn người đi không về. Một mình Trần Nghịch mang đầu mười một anh em dưới trướng về, có ba kẻ là người nhà ông lão bán sữa đậu. Thân thích ấy à? Như thế còn không phải thân thích thì thế nào mới là thân thích?” Tay du hiệp mặt đầy sẹo càng nói càng nóng máu, cuối cùng đập bàn đứng phắt dậy, “Uống sữa đậu làm gì? Theo ông đi uống rượu thôi! Mẹ kiếp nhà nó chứ!”

“Này u, thu tiền!” Mấy gã du hiệp ném tiền vào bát rồi nghênh ngang vác kiếm bỏ đi.

Sau thùng gỗ đen sì đựng sữa đậu cao quá đầu người, một bà lão đầu chít khăn vải rách đứng dậy, phủi bụi đất trên mình rồi mò mẫm đi tới cạnh Thập.

Bà ta mù à? Thập đặt bát đựng tiền vào tay bà ta, huơ huơ tay trước cặp mắt xám nhờ đờ đẫn.

Bà lão cười cầm lấy bát, tay kia nắm lấy cổ tay cô, “Cảm ơn cô nương. Mắt già khóc nhiều quá đâm lòa, nhưng vẫn thấy loáng thoáng bóng mờ.”

“Xin lỗi, tôi tưởng u…” Thập ngại ngùng nhìn cặp mắt đục lờ của bà lão, lòng không khỏi áy náy.

Trận Ngải Lăng, Ngô vương giết mười vạn quân địch. Bấy giờ Thập ngồi trong thư phòng của Ngũ Phong, chỉ biết tấm tắc khen Ngô vương Phù Sai dũng mãnh, nào nghe được tiếng than khóc thâu đêm của những người mẹ già phía sau mười vạn lính Tề kia; giờ thấm thoắt đã ba năm, khi đứng giữa đất Tề, nghe thấy hai chữ “Ngải Lăng”, lòng cô lại muôn vàn cảm khái.

“U nhìn lầm rồi, tôi không phải con gái.” Thập móc túi tiền trong ngực áo ra, đổ hết mười mấy đồng tiền đao còn lại vào bát bà cụ, “Tìm thầy thuốc khám mắt đi, biết đâu còn chữa được.”

“Già không thế lấy tiền của quý khách được, lát nữa ông ấy về lại mắng cho.” Bà cụ cuống lên, vội đẩy bát vào lòng cô.

“Ông cụ hỏi thì u cứ bảo có người mua một thùng sữa đậu, quên không gánh đi.” Thập đặt bát tiền lên bàn, sải bước vội vàng ra khỏi quán.

Đi giữa chợ Đường Viên náo nhiệt nhưng cô chẳng còn lòng dạ nào xem xét chọn lựa nữa, cứ tha thẩn theo dòng người đi loanh quanh một vòng rồi quay lại chỗ lúc trước chia đường với hai bạn. Tư vẫn chưa về đến còn Vô Tà đã đứng đó đợi từ lâu.

“Thập, Thập, bên này!!” Trông thấy Thập, cậu hào hứng vẫy tay lia lịa.

“Chơi gì mà mồ hôi đầy đầu thế này?” Chẳng biết vừa rồi Vô Tà làm những gì mà đầu bê bết mồ hôi, mặt cũng đỏ gay.

Thấy cô rút khăn lụa trong tay áo ra, cậu cũng ghé đầu lại hết sức tự nhiên, “Tôi đọ sức với người ta, thắng được một túi gạo, một con dao găm, cả một người đàn bà nữa.”

Đàn bà ư? Thập nghiêng đầu, thấy trong tay Vô Tà cầm một sợi dây thừng, đầu kia buộc một người đàn bà tóc xõa ngực trần. “Cậu bắt trói chị ta ở đâu đấy? Mau thả người ta ra!” Thập giật lấy sợi thừng trong tay Vô Tà, giục giã.

“Kẻ kia thi ném đá thua tôi, bèn giao đàn bà của mình cho tôi.” Vô Tà giơ tay chỉ một người đàn ông cao to đang cúi gằm mặt theo sau bọn họ từ đằng xa.

“Còn không mau trả về? Cậu cần chị ta làm gì? Chị ta bằng ấy tuổi, làm mẹ cậu được rồi đấy.”

“Bán đi chứ sao! Chẳng phải cô nói ở Lâm Truy cái gì cũng bán được ư?” Vô Tà đẩy người đàn bà kia tới trước mặt Thập.

“Tầm bậy!” Cô cởi dây thừng trói cổ tay người nọ rồi bảo chị ta bằng tiếng Tề, “Mau về với người đàn ông của chị đi, chị tự do rồi!”

Chị ta nhìn cô rồi lại nhìn Vô Tà, vẻ ngơ ngác.

Vô Tà bước đến, liến thoắng nói một tràng với chị ta. Cuối cùng người đàn bà quỳ xuống dập đầu một cái rồi chạy về bên cạnh người đàn ông nọ.

“Mới rồi cậu nói tiếng gì đấy?” Thập ngạc nhiên nhìn Vô Tà.

“Chẳng biết nữa, tiếng họ nói, tôi nghe hiểu được, cũng nói được một ít.” Vô Tà ném sợi thừng xuống đất rồi kéo tay cô, “Nào, bọn mình tới kiếm xá đi! Ồ khoan đã, phải ăn cơm trước!”

Thập ngẩng lên nhìn mái tóc loăn xoăn và sống mũi cao thẳng của Vô Tà, chợt nhận ra có lẽ mình đã đoán lầm. Năm xưa Vô Tà bị người ta bắt được ở Hằng sơn nước Tấn, nên cô nghiễm nhiên cho rằng cha mẹ cậu là người Tấn. Nhưng cô quên bẵng phía Bắc và phía Đông Hằng sơn là lãnh địa của người Tiên Ngu và người Địch. Giờ xem ra, cậu cũng có khả năng là hậu duệ của người ngoại tộc phương Bắc.

“Cô làm sao thế?” Vô Tà huơ tay trước mặt cô.

“Không sao, ta đi thôi! Tôi tiêu hết tiền rồi, chúng mình đi gọi Tư, đem đổi bao gạo này của cậu ra tiền, trưa nay ăn một bữa no nê đi!”

Ấy là một gian nhà lao thối hoăng ẩm thấp, gián bò lúc nhúc khắp trên mái, chuột kéo bầy ngang nhiên đào hang trong góc tường. Thập vô ý làm kinh động đến chúng, tức thì có hai con chuột già đen sì to tướng nhe răng nhảy tót lên vai cô.

Nhà lao tử tù trong thành Lâm Truy giam những kẻ tội ác tày trời ở Tề. Nơi này quanh năm tối tăm, có vào không có ra, hết thảy ở đây đều như một cơn ác mộng.

Thập bó gối ngồi trong phòng giam đầy cứt chuột, nhìn chằm chằm Trần Nghịch trước mặt.

Cùng Tư tới kiếm xá xem Vô Tà đấu kiếm đã là chuyện từ mười hôm trước. Lúc vỗ tay hò reo tán thưởng kiếm thuật tinh diệu của Vô Tà, Thập không thể ngờ mười ngày sau mình lại ngồi chung lao với tên sát nhân Trần Nghịch, nghe chuột nghiến răng, nhìn gián bay vo ve.

Mà tất cả đều bắt đầu từ hôm thả thuyền chơi sông Truy…

Hôm ấy trời xanh ngắt, Trương Mạnh Đàm đã chuẩn bị sẵn cho họ một chiếc thuyền con trên sông Truy ở ngoại ô. Trên thuyền đủ cả cần câu, mồi câu, lưới cá. Thậm chí y còn chu đáo sắp sẵn cả củi và gia vị để nướng cá. Tư và Vô Tà cảm động lắm, luôn miệng gọi “Trương tiên sinh”, thân thiết vô cùng. Chỉ có Thập hiểu rõ, sự chu đáo của Trương Mạnh Đàm còn một mục đích khác, y vừa muốn gạt bỏ “gian tế nước Tần” là cô, lại vừa phải vâng mệnh Vô Tuất chăm sóc cô, nên đành cố hết sức tạo điều kiện cho cô chơi bời du ngoạn, tránh xa việc ở Tề.

Hôm ấy cô nằm trên thuyền ngắm trời xanh gió lộng, cao hứng thì trở dậy quăng mấy mẻ lưới, mệt thì gối đầu ngủ thiếp đi giữa sóng nước, kể ra cũng thi thú lắm. Tiếc rằng quãng thời gian thong dong vui vẻ cuối cùng lại kết thúc trong tiếng khóc lóc của một cô gái.

Lúc họ gặp Tố, chị ta đang trốn trong bãi lau ven sông khóc nỉ non. Vô Tà thính tai nghe được, bèn quăng lưỡi câu móc lấy Tố lôi ra khỏi bụi lau.

Tố là con gái nhà nghèo, dung mạo bình thường, dáng dấp cao gầy, hơn hai mươi tuổi nhưng vẫn ở trong căn nhà dột nát ven sông Truy cùng người cha già bệnh tật. Tố kể rằng mình khóc vì cha già lâm bệnh nặng, đêm nào cũng gào thét kêu đau, e rằng chẳng sống được bao lâu nữa. Tố kể rất xúc động, làm Tư cũng sụt sùi theo.

Lý ra chuyến này Vô Tuất bí mật hành động, Thập cũng không nên qua lại quá nhiều với người Tề, nhưng kẻ học y không thể thấy chết mà không cứu. Cuối cùng, thấy Tư nằn nì quá, Thập cũng bằng lòng theo Tố về nhà.

Đó là một gian nhà tranh đổ nát, mái tranh đã bị gió tốc mất một nửa. Cánh cửa gỗ mốc xanh loang lổ vì khí hậu ẩm thấp ở Tề. Tố dẫn Thập tới bên giường bệnh, một người đàn ông chừng bốn năm chục tuổi đang nằm trên chiếc giường gỗ ọp ẹp hễ chạm vào là kêu cót két. Mặt ông ta sưng húp, không nhìn ra đường nét, khớp ngón tay ngón chân đỏ tấy, Thập vừa chạm vào ông ta đã kêu rú lên.

Đây là lần đầu tiên cô gặp người nghèo rớt mồng tơi bị thống phong.

Thống phong được lang Trần gọi đùa là “bệnh nhà giàu”. Người bệnh thường béo tốt, mê rượu thịt, lười vận động. Một khi mắc bệnh, thoạt tiên khớp ngón chân sưng đỏ, sau đó cả người đau đớn, không thể đi đứng, cơm nuốt chẳng trôi, đêm không ngủ nổi, cho tới khi chết.

Người đàn ông trước mặt cô đã không thế đi đứng được nữa, ông ta khóc lóc van xin Tố cho một bình rượu để giảm đau.

Thập hỏi dò Tố, thường ngày cha chị thích ăn gì uống gì. Tố đáp, cha già từng là đầu bếp trong phủ hữu tướng Hám Chỉ, nấu món gì thì ăn món đó.

Có lẽ cô đã quá đa nghi, ông ta chỉ là một tay đầu bếp tham ăn mà thôi.

Sau khi gạt bỏ nghi ngờ, Thập viết một đơn thuốc, còn đinh ninh dặn Tố rằng từ nay về sau không được để cha uống một giọt rượu nào, bằng không chưa đầy nửa tháng nữa thì thần tiên giáng trần cũng không cứu nổi. Tố vâng dạ rối rít, cuối cùng quỳ sụp xuống dập đầu không chịu đứng lên.

Cô gái gầy gò, mặt mày tái nhợt ấy nói muốn theo Thập học y, dù chỉ học cách chữa bệnh thống phong thôi cũng được.

Thập không nỡ nào từ chối chị ta, A Thập trước kia từng quỳ bên mẹ gào khóc thảm thiết không cho phép cô từ chối.

Từ ấy, sáng nào Thập cũng chèo thuyền tới căn nhà tồi tàn bên bờ sông Truy thăm bệnh cho cha Tố rồi dẫn Tố ra đồng hoang, vào rừng sâu tìm bán biên liên, mạt thảo, giang ly, xa tiền thảo. Cô truyền thụ hết mọi điều mình biết về chứng thống phong cho Tố.

Mấy ngày bầu bạn khiến cô dần mến cô gái thật thà, kiên trì, chăm chỉ ham học này. Thập dạy Tố về đặc tính và cách dùng của rất nhiều thảo dược thường gặp, những mong sau khi mình rời Tề, Tố có thể trở thành một thầy thuốc, chữa bệnh cho những người dân nghèo như chị ta, kiếm ít lương thực nuôi cha.

Nhưng cha Tố vừa xuống đất đi lại được một ngày thì Thập bặt tin chị ta. Tố tan biến đi như một làn khói mỏng bên bờ sông Truy. Căn nhà dột nát trống huơ trống hoác, nếu không có đống bã thuốc đổ ngoài cửa, có lẽ Thập còn ngờ rằng mấy ngày vừa rồi chỉ là một giấc mơ.

“Này cô nương, ta có biết cô không?” Trần Nghịch ngồi trước mặt cất giọng trầm khàn cắt ngang dòng hồi ức của cô. Gã là trang hào kiệt người người trong thành Lâm Truy đều nghe tiếng, cũng là kẻ sát nhân trưa ngày mai sẽ phải rơi đầu. Hám Chỉ muốn lợi dụng gã kéo Trần Hằng rớt đài, Trần Hằng vì bảo vệ tộc Trần nên đã quả quyết vứt bỏ gã.

Thập nhìn gã trai mặt đầy vết máu, râu tóc cáu bẩn, khẽ lắc đầu, “Tôi không biết tráng sĩ, nhưng anh trai tôi biết.”

“Anh trai cô ư?”

“Ba năm trước, tráng sĩ đã mang đầu lâu của anh ấy từ Ngải Lăng về.” Đoạn cô đứng dậy xách thùng sơn đựng nước vo gạo tới trước mặt Trần Nghịch, “Tráng sĩ sắp tới gặp anh tôi rồi, mau gội đầu đi thôi! Mai tôi sẽ ôm đầu tráng sĩ ra ngoại thành gặp họ.”

Ông lão bán sữa đậu kể với cô rằng, mười một cái đầu năm xưa Trần Nghịch mang từ Ngải Lăng về đều chôn bên sông Thời ở mé Tây Nam thành Lâm Truy. Chủ nhân những cái đầu đó đều là anh em vào sinh ra tử với Trần Nghịch trên chiến trường, Thập nghĩ, có lẽ gã cũng muốn chôn chung với họ.

Trần Nghịch chẳng nói gì, chỉ lẳng lặng nhúng tóc vào nước vo gạo.

Thấy vậy, Thập biết việc hôm nay mình đã hoàn thành được bước đầu tiên.

“Để tôi!” Thập vén cao tay áo, tỉ mỉ gội sạch những cáu bẩn trên đầu cho Trần Nghịch, “Tôi đã xua ngục tốt đi rồi, trong tráp còn ít rượu và thức nhắm, lát nữa tráng sĩ ăn một chút nhé.”

“Ta không cân rượu thịt!” Trần Nghịch đang lặng thinh bỗng ngẩng phắt lên tóm lấy cổ tay cô, mạnh đến mức tưởng như muốn bóp vỡ xương tay.

“Cô là em gái ai hả?” Gã cật vấn.

“Ái!” Thập kêu lên, vội đáp, “Anh trai tôi là Thôi Liêu, năm lên chín tôi bị bán vào giáo phường làm vũ cơ.”

“Cô là em út của Thôi Liêu bị bán vào giáo phường đấy ư?” Trần Nghịch ngẩn người, vội buông tay ra, “Xin lỗi nhé, rượu thịt này ta không ăn được.”

Cô gượng cười, thu tay lại, nghiêng người khép vội vạt áo mỏng khoác ngoài đang hở ra, “Tráng sĩ chê tôi hèn mọn, chê đồ tôi đem đến cũng bẩn thỉu như tôi phải không?”

“Không, không phải!” Trần Nghịch siết chặt nắm tay, ánh mắt sáng rực, bờ môi tróc da nứt nẻ mấp máy mấy lần rồi lại mím chặt, cuối cùng chỉ lẳng lặng vục đầu vào thùng nước, “Kẻ sắp chết này tạ ơn cô nương đã có lòng.”

Trần Nghịch trước mắt giống hệt như tưởng tượng của cô. Gã kiệm lời, không giỏi ăn nói, thân thủ nhanh nhẹn nhưng mồm miệng vụng về, dưới gương mặt đường nét như tạc là một trái tim ấm áp, trọng tình trọng nghĩa.

Cô nhẹ nhàng đặt tay lên đầu gã, “Sao tráng sĩ không bỏ trốn? Đầu tráng sĩ không nên rơi xuống bùn nhơ ngoài cổng Tây, mà nên rơi trên chiến trường giống như anh tôi.” Đoạn cô vốc từng vốc nước vo gạo đã đổi màu giội lên tóc gã. Mấy ngày nay, càng hiểu nhiều về gã, cô càng tin chắc người như vậy không nên chết trên pháp trường bẩn thỉu.

“Ta không thể bỏ trốn được, ta không thể để cơ nghiệp trăm năm của cả tộc Trần hủy hoại trong tay mình.”

“Những chuyện của quý nhân, tôi không hiểu được… Tôi chỉ cảm thấy, tráng sĩ nên chết cho đàng hoàng hiên ngang như tráng sĩ vốn là.” Cô khẽ thở dài, lẩm bẩm.

Trần Nghịch ngẩng lên khỏi thùng nước, những giọt nước nâu sẫm theo tóc gã chảy dài, qua vầng trán loang lổ vết máu, qua những vết roi trên mặt, chảy vào miệng gã.

Thập rút khăn tay ra lau nước bẩn trên khóe miệng cho gã.

“Cô tên gì?” Trần Nghịch nhìn cô, bờ mi đẫm nước khẽ chớp.

“Đỗ Nhược. Vũ cơ trên phố Ung Môn đều lấy hoa cỏ làm tên.” Cô vắt khăn đặt xuống cạnh tay gã, “Lau khô đi, nước bẩn cả rồi, để tôi đi xin họ đổi thùng khác xem có được không.”

“Cô hối lộ ngục tốt bao nhiêu tiền?”

“Tôi hầu hạ họ ba ngày.” Cô cúi đầu tránh ánh mắt Trần Nghịch, đứng dậy.

“Đừng đi!” Trần Nghịch đứng phắt dậy, “Xin lỗi Đỗ Nhược. Nếu ta gặp cô sớm hơn, nhất định sẽ chuộc cô ra khỏi giáo phường. Tiếc rằng giờ đây mạng này không thuộc về ta nữa. Ngày mai cô xách đầu ta tới phủ tả tướng tìm thế tử Trần Bàn, thế tử sẽ chuộc thân cho cô.”

“Chuộc thân ư? Chuộc thân rồi thì đi đâu?” Thập lấy trong tay nải ra một bình Cửu Uẩn đưa cho Trần Nghịch, “Uống một hớp đi, ngày mai trên pháp trường đông người, e rằng chẳng còn cơ hội uống chén rượu tiễn biệt với tráng sĩ nữa.”

“Ừm.” Trần Nghịch đón lấy bình rượu, ngẩn người rồi ngửa cổ uống ừng ực.

Nhìn dòng rượu chảy dài qua khóe miệng gã, Thập thầm thở dài, xin lỗi nhé, Trần Nghịch.

Uống hết bình Cửu Uẩn nọ, Trần Nghịch chẳng mấy chốc đã thiếp đi.

Nhân lúc đêm tối, Thập âm thầm rời nhà lao. Việc Trương Mạnh Đàm giao phó đã hoàn thành, còn lại phải trông vào y thôi.

Đến đêm, Trần Nghịch sẽ được bí mật đưa ra khỏi phòng giam, rồi có người đưa tin cho hữu tướng Hám Chỉ rằng Trần thế tử Trần Bàn mưu phản làm loạn, mạo hiểm cứu anh kết nghĩa là Trần Nghịch ra ngoài.

Nếu không ngoài dự liệu của bọn Trương Mạnh Đàm thì tranh đấu giữa tả tướng và hữu tướng nước Tề sẽ không kết thúc vào ngày mai, mà trái lại càng lúc càng ác liệt. Chỉ có vậy họ mới có thể kéo dài thời gian giúp Triệu Vô Tuất tranh thủ tìm cho được Phạm Cát Xạ, tông chủ họ Phạm mà Thập đã vô tình cứu sống và thả đi.

Ngày thứ ba sau khi Trần Nghịch được cứu, Thập ngồi trong căn nhà bên bờ sông Truy, ôm vò rượu, uống tì tì hết chén này đến chén khác.

“Tố, Tố Kỳ tộc Phạm, Tố Kỳ tộc Phạm…”

Cô gái gầy gò vàng vọt, yếu ớt khiêm nhường bên bờ sông Truy đã nài nỉ Thập cứu chữa cho kẻ thù không đội trời chung với tộc Triệu là Phạm Cát Xạ. Chị ta chỉ mất bốn ngày đã lừa được lòng tin và tình thương của cô, cuối cùng còn mang theo thiện cảm của cô dành cho mình biến mất tăm.

Sau khi chị ta biến mất, Thập mới đem chuyện kể cho Trương Mạnh Đàm. Y hỏi cặn kẽ từng việc từ khi đôi bên gặp gỡ. Nghe cô tả tay trái cha Tố có sáu ngón, con ngươi nâu sẫm của y như tóe lửa, tay phải siết lại thành nắm đấm, tựa hồ tiếp theo đây sẽ đập thẳng vào mặt cô. Dù y chưa thốt ra tên Phạm Cát Xạ, Thập cũng đoán được mình đã gây ra rắc rối to.

Vừa tới Lâm Truy chưa được mười ngày, cô đã dốc gan dốc ruột giúp cho đối thủ một việc lớn, cô chán nản khi nhận ra điều đó, nhưng nhiều hơn cả là sự hãi. Kẻ giăng ra cái bẫy này hiểu rất rõ về cô, biết cô thông thạo y thuật, biết cô sẽ tới sông Truy chơi thuyền, thậm chí còn nắm chắc cô sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy người ta bệnh nặng. Vậy mà cô chẳng biết gì về chị ta cả.

Để lập công chuộc tội, cô đề nghị Trương Mạnh Đàm phái người giả làm người tộc Trần đi cứu Trần Nghịch bị giam trong lao ra. Trần Nghịch là tội nhân bị Tề hầu xử trảm, nếu có kẻ cố cứu gã ra thì cũng ngang bằng tội mưu phản. Trần Hằng không có thù oán gì với cô, nhưng lúc này, cô cần phải khơi lên một cuộc nội loạn dữ dội hơn ở Tề mới được.

Bấy giờ nghe cô trình bày xong, Trương Mạnh Đàm vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, cuối cùng chỉ cười buông một câu “Kế này độc thật”, rồi trong năm ngày đã sắp xếp xong tất cả các khâu theo lời cô.

Trên triều đình rối ren hỗn loạn, thành Lâm Truy giương cung bạt kiếm.

Hám Chỉ dâng tấu lên Tề hầu, xin trị cả tộc Trần tội phản nghịch.

Trần Hằng liên kết với đám tộc Tử Vĩ tố cáo Hám Chỉ ăn không nói có, vu oan tộc Trần, tâm địa thâm độc.

Hám Chỉ dẫn quân bao vây phủ Trần, anh em tộc Trần thức thâu đêm bàn cách ứng phó.

Tất cả đều là kết quả Thập mong muốn.

“Trung Hàng Dần đã đền tội, ngày kia chắc gia chủ sẽ về.” Trương Mạnh Đàm cầm cái chén sơn son hai quai ngồi xuống cạnh cô.

“Tiên sinh bảo phen này Hám Chỉ có lật đổ được Trần Hằng không?” Thập bưng vò rót cho Trương Mạnh Đàm một chén, rượu tràn ra vấy cả vào vạt áo y, song y cũng chẳng lấy thế làm điều, cười nói, “Trần Nghịch chỉ là họ hàng xa của Trần Hằng, gã giết người ngoài phố cũng chẳng ảnh hưởng gì tới căn cơ tộc Trần. Nhưng phen này nếu hữu tướng Hám Chỉ nhất quyết quy cho Trần thế tử cướp ngục mưu phản, chưa chừng có thể làm tộc Trần tiêu hao quá nửa nguyên khí.”

“Giờ Trần Nghịch ở đâu?”

“Chẳng biết nữa, có lẽ đã lưu lạc đất khách rồi.” Trương Mạnh Đàm nhấp một ngụm rượu rồi quay sang nhìn cô đầy ẩn ý, “Cô nương làm sao lừa được Trần Nghịch uống bình rượu ấy thế? Tôi từng qua lại với gã mấy lần, gã đâu phải kẻ ham mê nữ sắc.”

“Sao lúc trước tiên sinh chẳng bảo luôn là gã không mê nữ sắc, còn mất công chuẩn bị cho tôi bộ áo lụa mỏng quyến rũ kia?” Thập vục luôn chén vào vò múc đầy một chén Lê Hoa Xuân, cười cười đưa lên miệng nhấp một ngụm.

Hám Chỉ những mong Trần Nghịch vượt ngục hay tộc Trần cướp ngục nên chỉ có hai cai ngục lụ khụ đã ngoài sáu mươi canh giữ gã. Với tài trí và kiếm thuật của Trần Nghịch, muốn trốn khỏi nhà lao, trốn khỏi nước Tề dễ như trở bàn tay. Nhưng gã không trốn, bởi biết mình chẳng thể trốn. Vì vậy đối với bọn Thập, giải quyết cai ngục chẳng có gì khó, cái khó là làm sao đưa Trần Nghịch kiếm thuật siêu quần ra khỏi nhà lao. Thế là Trương Mạnh Đàm bảo cô dùng tình nghĩa lay động Trần Nghịch, rồi thừa cơ đánh thuốc mê gã.

Trương Mạnh Đàm uống thêm hớp nữa, cười nói, “Tôi nghĩ, đến gia chủ tôi cô nương còn mê hoặc được, đối phó hạng đàn ông tâm tư đơn giản như Trần Nghịch có đáng gì. Sự thực cũng chứng minh, cô nương quả là hạng đàn bà cao tay. Ôi, chỉ tiếc bộ váy bằng tơ băng tằm của tôi thôi! Riêng tiền tơ đã tốn cả trăm nén vàng của phường Hồng Chức, vậy mà chỉ mặc đúng một lần đã bị móc xước chỉ, còn dính cả đống cứt chuột.” Trương Mạnh Đàm nhìn cô đầy tiếc rẻ, tuy giờ đây y nói năng với cô vẫn không được hòa nhã lắm, nhưng đã không còn thái độ hùng hổ như ban đầu nữa.

“Người cai quản phường Hồng Chức mà còn tiếc một bộ váy à? Huống hồ nếu tiên sinh có thể chế ngự Trần Nghịch bằng kiếm thuật thì cần gì con gái chân yếu tay mềm như tôi giở mấy trò gạt gẫm nữa?” Mê hoặc đàn ông là một trong những môn đám nữ nhạc quẻ Đoài của Thiên Xu bắt buộc phải học. Bấy giờ u già huấn luyện chỉ nói rằng một người con gái thông minh phải hiểu được tâm tư đàn ông, biết được họ muốn gì. Thập đã dò la khá nhiều về quá khứ của Trần Nghịch, thử tìm hiểu và suy đoán về gã thông qua những kẻ đã lìa đời, thế là trong nhà lao thành Lâm Truy mới có một nàng Đỗ Nhược. Nàng xinh đẹp, bi thương, kiên cường, là em gái út của kẻ từng vào sinh ra tử với gã, tuy lưu lạc phong trần vẫn không quên tình nghĩa. Đêm trước khi xử trảm lại được một người con gái như thế mời chén rượu tiễn biệt, thử hỏi trên đời có bao nhiêu đàn ông đành lòng từ chối?

Bị cô lôi kiếm thuật ra nhạo báng, Trương Mạnh Đàm cũng không tức giận, thản nhiên đáp, “Đánh ngang tay được với Trần Nghịch, đất Tề này chỉ có tầm năm người, dù cả trăm Trương Mạnh Đàm cũng không phải đối thủ của gã. Cô nương, ngày kia gia chủ về, mong cô nương giữ lời, chớ kể với gia chủ chuyện dùng nữ sắc dẫn dụ Trần Nghịch; đổi lại tôi cũng sẽ giấu chuyện cô thả Phạm Cát Xạ đi.”

Thập khẽ cười, hắt hết chỗ rượu còn lại trong chén xuống đất, “Tiên sinh tin tôi sẽ giữ lời thật à? Tôi đã là gian tế nước Tần, đời nào chịu bỏ qua cơ hội tuyệt vời này để ly gián tiên sinh và Vô Tuất chứ?”

“Cô nương…” Trương Mạnh Đàm tái mặt.

“Tiên sinh yên tâm, chuyện dùng nữ sắc dẫn dụ Trần Nghịch, tôi sẽ không kể với Hồng Vân nhi; nhưng tôi không thể giấu chàng chuyện mình bị Tố lừa gạt mà thả Phạm Cát Xạ đi được. Kẻ bày kế này hiểu rõ tính tình tôi, cũng nắm được cả thời điểm tiên sinh sắp xếp thuyền cho tôi chơi sông Truy, nếu hai ta đều không phải người của Phạm Cát Xạ thì có nghĩa là chuyến này Vô Tuất sang Tề đã bị chú ý từ lâu. Nay tả tướng Trần Hằng lo thân chưa xong, không rảnh quản việc khác, nhưng một thời gian nữa, lỡ như Hám Chỉ thất bại, Trần Hằng ổn định được cục diện mà Vô Tuất vẫn còn ở Tề thì nguy hiểm quá.”

“Người tộc Trần giờ vẫn chưa dám đối đầu trực diện với tộc Triệu nước Tấn đâu.”

“Sai rồi! Mùa đông năm ngoái, tộc Trí lập thế tử mới, tộc Trần chẳng những dâng tặng ngọc trai nước mặn giá trị liên thành, còn âm thầm cử Trần thế tử tới phủ Trí. Nếu hai tộc bọn chúng câu kết với nhau hòng mưu đồ riêng thì tộc Triệu nguy to.”

“Trần Bàn gặp Trí Dao à…” Trương Mạnh Đàm nhíu mày trầm ngâm.

“Trương tiên sinh, giờ Trần Hằng và Hám Chỉ chưa phân thắng bại, hai ta cũng không cần quá lo. Nếu ngày sau Hám Chỉ chiếm thế thượng phong, chúng ta có thể thừa cơ kết đồng minh với ông ta, giúp rập Tề hầu, trừ khử Trần Hằng. Nếu nước Tề mất Trần Hằng thì trong vòng hai mươi năm, chúng ta không có gì phải sợ. Ôi chao, rượu vào lời ra, nói nhiều quá, tiên sinh chớ trách tôi nhé. Mấy việc quân chính ở Tề đợi Hồng Vân nhi về rồi các vị bàn bạc với nhau đi!” Dứt lời Thập xách vò rượu dưới đất lên, loạng choạng đi vào phòng.

“Thập cô nương!” Trương Mạnh Đàm sải bước tới trước mặt cô, vái một vái dài, “Đợi gia chủ về, xin mời cô nương cùng chúng tôi bàn bạc việc ở Tề.”

“Tiên sinh nói đùa gì vậy? Lẽ nào tiên sinh không nghi ngờ tôi nữa ư?”

Trương Mạnh Đàm cứng họng, cúi đầu không nói.

Thập cười khẽ, hỏi sang chuyện khác, “Tiên sinh, người hôm trước tôi nhờ tiên sinh nghe ngóng đã có tin gì chưa?”

“Tạm thời thì chưa, nhưng tôi đã bao một chỗ cạnh cửa sổ ở lầu Lộc Minh cho Tư cô nương rồi. Kiếm khách và du hiệp các nước tụ tập gần đó nhiều lắm. Nếu người cô nói cũng ở Lâm Truy thì chắc chắn sẽ xuất hiện tại đó.”

“Cảm ơn tiên sinh giúp cho, nếu phen này Tư tìm được người thương, tới ngày thành hôn nhất định sẽ mời tiên sinh chén rượu nhạt.”

“Tạ ơn cô nương có lòng.”

Thập vẫy tay chào Trương Mạnh Đàm rồi vịn tường chếnh choáng bước vào phòng.

Báo cáo nội dung xấu