Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 14
TỘC TRẦN LÀM LOẠN
Cờ đâu rồi? Lá cờ nền đen chữ đỏ vừa nãy cắm trên nóc lầu cổng thành đâu rồi?
Thập phát hoảng, vội kiễng chân ngó ra ngoài lan can. Đúng lúc đó, trên đài quan sát mặt Đông lầu cổng thành chợt vang lên tiếng trống rền như sấm. Ngoài thành, mấy đốm lửa xé toang bầu không bay tới.
Thập ngồi trong phòng không bao lâu thì có hai người trông như kiếm sĩ tới dẫn cô đến đài Điểm Tướng. Hai người họ một cao một thấp, đầu đội mũ đen, mình khoác giáp da, trông hơi quen quen nhưng cô không nhớ ra từng thấy ở đâu.
Từ điện Hưu Minh tới đài Điểm Tướng phải đi qua đài Triêu Lộ, Thập tiện đường tạt vào phòng mình một chuyến. Bình phong đổ chỏng chơ, quần áo vương vãi, vò nước vỡ tan tành rải đầy mặt chiếu cỏ bồ loang lổ vết bùn. Đêm qua tối mịt nên cô chỉ biết đám thị vệ đã đập phá khá nhiều thứ trong lúc tìm người, hôm nay sáng sủa mới trông rõ cả gian phòng tan hoang.
Chẳng biết Bì đi đâu mất, trong phòng không còn áo mũ giày tất gì của y nữa, chỉ có những son phấn thường ngày y coi như của báu đổ đầy bàn trang điểm, chỗ đỏ chỗ trắng.
Bì trốn rồi sao? Giờ Trần Nghịch đang ở đâu?
“Cô nương tìm thấy thứ mình cần chưa?” Kiếm sĩ cao lại gần, dè dặt hỏi cô.
Thập gắng trấn tĩnh lại, cúi xuống tìm, quả nhiên thấy thứ mình cần dưới gầm giường, “Thấy rồi, chúng ta đi thôi!” Đoạn cô lấy khăn lụa bọc mấy nhánh bách linh đằng nhét vào ngực áo, sải bước rời phòng.
Cung Tề lặng phắc dưới nắng mai, lúc này đài Điểm Tướng cũng như bầy chim say ngủ trên cành, chẳng hề bị đánh thức bởi những xáo động bất an trong lòng người. Hơn hai trăm năm qua, nó đã sừng sững đứng đó, lặng lẽ chứng kiến bao vinh nhục và thắng bại của mấy đời quân chủ nước Tề. So với đám bồn chồn nhao nhác là họ, có lẽ từ lâu nó đã xem nhẹ những đấu tranh quyền lực cũng như chém giết tàn khốc chốn cung đình rồi.
Hai tốp lính canh giữ đài Điểm Tướng tối qua đã bị Tề hầu hạ lệnh điều đi, ba người bọn họ đi thẳng tới góc Đông Nam đài Điểm Tướng mà không gặp trở ngại gì.
Tại đây có một miệng cống thấp hơn xung quanh, thông với các lối thoát nước lộ thiên khác. Mép ngoài cống đắp hơn trăm mảnh gốm hình bán nguyệt chạm nổi sen ba cánh, ở giữa là nắp đậy bằng đồng điếu chạm mặt thú. Con thú nọ trợn trừng hai mắt, há miệng nhe răng, trên mắt, trên răng và xung quanh gương mặt thú là những hoa văn sấm mây dày đặc được khoét rỗng để thoát nước.
Đây hẳn là lối xuống cống ngầm bên dưới cung Tề!
“Chúng ta đợi ở đây đi!” Thập vén vạt áo ngồi quỳ xuống trước lối vào.
“Vâng!” Hai kiếm sĩ cúi đầu, đặt tay lên kiếm, chia ra đứng hai bên cô.
Không khí sớm mai còn thoang thoảng hơi sương, màn sương mỏng như lụa vờn quanh cành cây. Sáng nay có phần yên ắng hơn hẳn trước kia, nhưng sự yên tĩnh này không sao xoa dịu nổi tâm trạng căng thẳng của cô hiện giờ.
“Đinh… đoong… đinh…” Không lâu sau, tiếng chuông báo hiệu trăm quan vào chầu từ xa vẳng lại.
Bắt đầu rồi sao? Cuộc quyết chiến giữa quyền lực của quân chủ và khanh tướng ở Tề mở màn rồi à?
Thập cố bình ổn hơi thở, dốc lòng thầm cầu khấn, mong sao trên điện Thính Hiền Tề hầu có thể bắt gọn Trần Hằng, mong cho Triệu Vô Tuất bình yên vô sự.
Chẳng biết bao lâu sau, kiếm sĩ bên cạnh chợt kêu khẽ, rút kiếm đeo bên hông ra, “Cô nương, đằng kia có người tới!”
Thập mở bừng mắt, chỉ thấy trên con đường lớn bên trái đài Điểm Tướng có hai bóng người song song chạy tới. Kẻ chạy núng nính là thái giám béo, theo sau là một người đàn bà xinh đẹp vận lễ phục nặng nề đỏ rực, giắt châu ngọc đầy đầu.
“Thu kiếm lại đi, là người mình.” Thập đứng dậy bước tới đón thái giám béo.
“Cô… cô nương…” Thái giám béo thở hồng hộc chạy tới trước mặt cô, mặt mày đỏ bừng, hớt hải thông báo, “Hôm nay tả tướng không lên chầu, tả tư mã Trần Quán cũng vắng mặt, Triệu tiên sinh bảo nô tài báo với cô nương, xin cô nương mau cùng quân phu nhân xuống cống ngầm đi trước!”
“Trần Hằng không lên chầu ư?” Đầu Thập ong lên, phen này gay rồi, “Vô Tuất bảo bọn tôi đi trước, còn chàng đâu?”
“Triệu tiên sinh…”
“Điêu, cống ngầm ở đâu? Còn không mau dẫn đường, nhiều lời làm gì?” Người đàn bà xinh đẹp phía sau thái giám béo ôm ngực thở dốc, bà ta dường như không thấy Thập, chỉ luôn tay đẩy lưng Điêu.
Đây là chính thất của Tề hầu, Tề phu nhân Lỗ Cơ ư?
“Không còn thời gian đâu cô nương, lát nữa nô tài sẽ nói kỹ với cô sau.” Bị Tề phu nhân cắt ngang, Điêu chẳng kịp trả lời Thập nữa, hộc tốc chạy đến lối xuống cống ngầm, ông ta quỳ xuống đất, đếm từ mảnh gốm nằm ngang mắt trái con thú sang phải tám mảnh rồi vận sức moi mảnh thứ chín lên. Mảnh gốm vừa rời ra, những mảnh khác tức thì đổ rạp cả về bên phải, chỗ lối vào hé ra một khe hở. Hai quai nhỏ của nắp đồng chạm mặt thú cũng lộ ra.
“Hai ngươi mau nhấc nắp cống lên!” Điêu lùi lại ra lệnh. Hai kiếm sĩ nọ nhìn nhau rồi nhanh nhẹn cúi xuống kéo hai khoen đồng.
“Vô Tuất đâu? Buổi chầu đã tan chưa? Hữu tướng Hám Chỉ dẫn quân rời cung rồi à?” Thập cuống lên, thấy Điêu vừa rảnh ra liền tóm ngay lấy ông ta căn vặn.
“Buổi chầu vẫn chưa tan, Triệu tiên sinh vẫn ở trên triều bảo vệ bệ hạ. Hữu tướng đã nhận lệnh dẫn quân đến phủ tả tướng rồi, nhưng lúc này có lẽ vẫn chưa ra khỏi cổng cung.”
“Ngoài Trần Hằng và Trần Quán ra, mấy đại phu khác trong tộc Trần thì sao? Họ cũng không lên chầu à?”
Điêu lắc đầu, “Chẳng ai lên cả. Hơn nữa ở trên triều nô tài nghe nói, ngay Tử Nhã đại phu, Tào đại phu vốn thân thiết với tả tướng cũng không biết chuyện người tộc Trần không lên chầu hôm nay.”
Trần Hằng tổng cộng có ba anh em, ông ta giữ chức tả tướng, anh cả Trần Quán làm tả tư mã, còn hai người nữa cũng đều giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình nước Tề. Hôm nay tất cả bọn họ đều không lên chầu, ẳt hẳn sẽ có hành động lớn!
“Cô nương, mở được rồi!” Hai kiếm sĩ kéo hai quai nắp đồng, lối vào tức thì mở ra một nửa.
“Quân phu nhân, chúng ta xuống trước đi!” Điêu dìu quân phu nhân bên cạnh.
Tề phu nhân nhìn xuống miệng cống tối om, rụt người lại, trỏ ngón tay sơn đỏ chót vào Thập, “Để cô ta xuống trước!”
“Tôi không đi, tôi phải ở lại đây đợi Vô Tuất. Các vị đi trước đi! Điêu, ông có biết lát nữa sẽ phải tới đâu để tụ họp với Tề hầu không?”
“Bọn thuộc hạ biết.” Hai kiếm sĩ đồng thanh.
“Tốt lắm, một trong hai anh ở lại đây với tôi, người kia hộ tống quân phu nhân tới chỗ tụ họp đợi sẵn.”
“Cô nương đi với chúng tôi đi! Triệu tiên sinh nói tả tướng có thể đang ngấm ngầm tập hợp binh lính làm phản, nếu lát nữa người của họ chém giết xông vào cung, chúng ta không đi được nữa đâu!” Điêu vừa dìu Tề phu nhân mặt mày tái nhợt, vừa sốt ruột nhìn Thập.
“Tôi biết tình hình khẩn cấp, nhưng càng nguy hiểm tôi càng không thể để chàng lại một mình được.”
“Cô nương có ở lại cũng đâu giúp được gì.”
“Tôi biết chứ.” Trước kia lúc ở thành Tấn Dương, Triệu Vô Tuất đã dặn cô, nếu sang Tề gặp chuyện nguy hiểm thì phải một mình chạy trước. Lúc ấy cô nói không được; giờ nếu hắn hỏi lại, cô vẫn sẽ nói không được!
“Cô ta không đi thì mặc, chúng ta mau đi thôi!” Tề phu nhân buông Điêu ra, vén vạt áo lên. Bà ta đang nóng lòng muốn chạy, song thấy cống ngầm tối hun hút lại không dám chui xuống, tần ngần hồi lâu bèn trỏ vào kiếm sĩ cao ra lệnh, “Ngươi cõng ta xuống!”
“Cô nương, bảo trọng!” Điêu quỳ xuống dập đầu thật mạnh rồi chạy tới trước mặt Tề phu nhân, cõng người đàn bà yểu điệu nọ lên.
Thập gật đầu với kiếm sĩ cao, y nhìn sang kiếm sĩ kia rồi trượt thẳng xuống lòng cống. Đợi ba người đi cả, kiếm sĩ lùn đậy nắp cống lại.
Thập nhìn y cười tạ lỗi, “Xin lỗi nhé, bắt anh phải mạo hiểm ở lại đây đợi cùng tôi.”
“Gia chủ có lệnh phải liều chết hộ tống cô nương tới nơi an toàn, nhưng mọi chuyện đều phải nghe cô nương sắp xếp.” Y ưỡn ngực, đặt tay lên kiếm đáp.
“Anh tên gì?”
“Kẻ hèn tên Di.”
“Vậy người đi cùng anh…”
“Là anh trai của kẻ hèn này, tên Đốn.”
“Anh yên tâm, tôi nhất định sẽ để anh gặp lại anh trai mình!” Thập trịnh trọng hứa với Di.
Nghe vậy y nhíu mày rồi gật đầu thật mạnh.
Thời gian trôi đi từng chút một, đám chim chóc trong cung Tề thức giấc, đập cánh lượn trên đài Điểm Tướng bắt những con côn trùng chưa kịp trốn tránh, vầng dương của một ngày mới đem theo hào quang vạn trượng vượt qua tường thành trăm thước, trong nháy mắt con đường lát đá xanh rộng hơn ba trượng trước mắt cô đã phủ một lớp ráng đỏ ối. Sương đêm đọng trong kẽ đá, ráng đỏ ngập trời rọi lên, nhìn xa như muôn vàn tia máu lấp loáng đỏ thẫm uốn lượn chảy dọc theo kẽ đá.
Thập men theo bậc thềm leo lên đài cao, phóng mắt nhìn ra cung điện san sát bị ráng sớm nhuộm đỏ màu máu, lòng thấp thỏm không yên.
Di an ủi cô rằng hôm nay tộc Trần không lên chầu có lẽ vì đêm qua Trần Nghịch hành thích thất bại, Trần Hằng sợ sự tình bại lộ nên đã trốn biệt.
Trước lời an ủi đầy thiện ý ấy, Thập chỉ biết gượng cười gật đầu. Thực ra cô rất mong những gì y nói là sự thực, nhưng trong lòng cô hiểu rõ, kẻ tàn độc như Trần Hằng sẽ không lùi bước, không trốn chạy, chỉ dùng thủ đoạn cứng rắn hơn để diệt trừ những kẻ chắn đường ông ta mà thôi. Con đường nhuốm đầy ráng đỏ phía trước có lẽ chỉ lát nữa thôi sẽ vấy máu tươi thực sự.
Thập nắm chặt tay áo đứng trên đài Điểm Tướng dựa lan can nhìn ra xa, đầu kia con đường lát đá xanh là lầu thành nguy nga cao nhất cung Tề. Hơn trăm năm trước, quân các nước chư hầu đã đứng ở đó hô vang khẩu hiệu “tôn vương nhương di” rồi tiến vào cung Tề, còn bá chủ Tề Hoàn công đứng ngay trên đài cao dưới chân cô, lập lời thề trước quần hùng, cuối cùng cũng đánh đuổi được đám rợ Địch xâm phạm Trung Nguyên.
Nước Tề ngày nay đâu còn vẻ vang như năm ấy, Tề hầu hiện giờ cũng chỉ mong giữ được tính mạng trong tay bề tôi của chính mình. Hồn Hoàn công dưới đất nếu biết được, chẳng rõ sẽ thấy sao?
“Cô nương, hay là chúng ta xuống cống ngầm đợi vậy? Xuống đó an toàn hơn.” Di lại gần cô hỏi.
“Anh có nghe thấy tiếng động gì lạ không?” Cô nhìn lá cờ phấp phới trước gió trên lầu cổng thành, khẽ hỏi.
“Không, cô nương chớ quá lo, gia chủ sẽ tới nhanh thôi.”
“Vậy à? Chắc tôi nghe lầm rồi.” Cô quá căng thẳng rồi chăng? Vừa rồi dường như cô nghe thấy tiếng xe ngựa chạy qua ngoài tường thành.
“Cô nương không sao chứ?”
“Tôi không sao.” Thập day ấn đường rồi mở mắt ra.
Cờ đâu rồi? Lá cờ nền đen chữ đỏ vừa nãy cắm trên nóc lầu cổng thành đâu rồi?
Thập phát hoảng, vội kiễng chân ngó ra ngoài lan can. Đúng lúc đó, trên đài quan sát mặt Đông lầu cổng hành chợt vang lên tiếng trống rền như sấm. Ngoài thành, mấy đốm lửa xé toang bầu không bay tới.
Thập và Di bốn mắt nhìn nhau, tái mặt vì sợ.
“Cô nương, mau lên! Mau xuống cống ngầm đi!” Di kéo tay Thập hối hả chạy xuống khỏi đài Điểm Tướng.
Họ mới đặt chân xuống bậc thềm thứ hai thì tiếng trống bên tai chợt ngưng bặt. Ngẩng lên nhìn, đài quan sát bằng gỗ ở mé trái lầu cổng thành đã găm mấy mũi tên lửa, một người toàn thân cháy bùng bùng từ trên đài vọt ra, rơi xuống tường thành cao trăm thước.
“Di, mau tới điện Thính Hiền báo với Vô Tuất, người ngựa tộc Trần đánh vào cổng Đông rồi!”
“Lính canh cổng chắc chắn đã đi báo rồi, nhiệm vụ của tôi là bảo vệ an toàn cho cô nương.” Đoạn Di bất chấp lễ nghi vác cô lên, “Chỗ này gần cổng Đông, người ngựa tộc Trần sẽ chạy qua đây trước, cô nương phải xuống cống ngầm trốn thôi!”
Mưa tên rào rào bay tới, tiếng trống báo động trên đài quan sát bỗng lại cất lên, lát sau lại ngừng, lại cất lên, rồi lại ngừng.
Thập nhỏm người dậy trên vai Di, chỉ thấy trong thành có một toán quân từ mé bên tức tốc lao lên lầu cổng thành.
Ngay sau đó, trên lầu cổng thành vang lên tiếng thét thê thảm.
“Di, mau mở nắp cống ra đi! Trần Hằng có nội ứng ở cổng Đông!”
Di đặt Thập xuống, nhún người mấy cái đã nhảy thẳng từ trên thềm xuống. Thập nắm gấu váy, sải ba bước thành hai, cố bám theo.
Cổng Đông, sao cứ phải là cổng Đông nhỉ…
Đúng thế, tại sao không phải cổng Đông? Những ngày vào cung, Trần Nghịch thường viện cớ canh đêm để ở lại cổng Đông, tiếng là canh đêm, thực ra là trải đường cho tộc Trần đánh vào cổng Đông hôm nay! Trước khi đưa hai mươi nữ nhạc vào cung, có lẽ Trần Hằng đã chuẩn bị sẵn phương án dự phòng dấy binh đánh vào rồi. Chỉ đồ ngốc nhà cô mới cho rằng Trần Hằng phái Trần Nghịch tới giết mình diệt khẩu thôi. Mở cổng thành, giết Tề hầu, những việc gã cần làm còn quan trọng hơn giết cô nhiều!
Thập cứu thoát Trần Nghịch, đổ cho Trần thế tử Trần Bàn làm phản. Ngờ đâu tộc Trần định làm phản thật, chẳng qua tình cờ bị cô vạch trần trước mà thôi.
Ở lối xuống cống ngầm, Di dùng hai mũi chân đẩy vào một cái mấu trên nền đường, dồn hết sức ngửa cả người ra sau. Một bên nắp cống từ từ hé ra một khoảng chừng ba thước. Di mồ hôi đầm đìa, gân xanh nổi lên, mặt đỏ gay gào gọi Thập, “Cô nương… mau lên!!!”
Thập nắm gấu váy, khom lưng chui tọt vào qua khe hở.
“Chân cô chạm đất chưa?” Di hỏi vọng xuống từ trên đầu Thập.
“Chạm đất rồi, anh mau xuống đi!” Thập đứng dưới lòng cống bùn lầy gọi với lên.
“Cô nương, bảo trọng!” Giọng Di vang lên trên đầu cô, kèm một tiếng đóng sầm.
Nắp cống bằng đồng một lần nữa bị đậy lại.
“Di! Anh xuống đây đi!” Thập giắt gấu váy vào thắt lưng, bíu lấy những gờ đá gồ lên trên vách, thoăn thoắt trèo lên, “Này! Anh nghe tôi nói không? Anh ở lại ngoài đó làm gì? Tôi đẩy nắp cống lên cho, anh mau xuống đi!” Thập đấm thùm thụp vào nắp cống hoen gỉ.
“Không kịp đâu! Cô nương, gia chủ hẹn gặp cô ở bến Liễu Châu trên sông Hệ, cô tự đi trước đi! Tôi ở lại giúp cô giấu lối vào!” Di ghé lại nói qua những hoa văn được khoét rỗng trên nắp cống.
“Vậy còn anh thì sao? Anh định đi đâu?”
“Cô nương chớ lo, tôi tới cổng Đông thay gia chủ cầm cự!” Di ngập ngừng giây lát rồi cao giọng đáp.
“Đừng tới cổng Đông! Anh trai anh đang đợi anh ở bến Liễu Châu mà!”
Thập chưa nói hết câu đã nghe “cạch” một tiếng, mảnh gốm bị moi ra đã được nhét trở lại.
“Di, đừng tới cổng Đông, đừng đâm đầu vào chỗ chết! Anh mau trốn đi!” Thập áp sát vào một hoa văn mây cuốn khoét rỗng gọi với ra nhưng phía trên chẳng ai đáp lời. Năm người ắt phải có một người ở lại che giấu cửa cống từ bên ngoài. Vừa rồi anh em họ đưa mắt nhìn nhau, hẳn là ánh mắt từ biệt, ánh mắt tử biệt sinh ly.
Ôm trong lòng bao lời chưa kịp nói, Thập bíu chặt vào mấu đá ngấm đầy nước gỉ, họng nghẹn lại.
Tiếng trống ở cổng Đông đã ngừng, những kẻ liều chết gióng trống cảnh báo Tề hầu đều đã bị người của Trần Hằng giết sạch.
Nước gỉ sắt trên đầu cô càng lúc càng nhỏ mau hơn, tiếng xe ngựa rầm rập từ trên mặt đất truyền tới.
“Mau lên! Mau nữa lên! Ai bắt được loạn thần Hám Chỉ, tướng gia thưởng trăm nén vàng!” Kẻ nào đó hò hét đánh xe ngựa chạy qua trên đầu cô, theo sau là một tràng tiếng chân nặng nề hỗn loạn.
Đây là hiện thực tàn khốc, tường thành dày tới đâu, lầu cổng thành cao tới đâu cũng không ngăn nổi một đao từ trong thành đâm ra. Trần Hằng đã trù tính rất lâu cho ngày hôm nay, ông ta không thể để Hám Chỉ có cơ hội điều động ba nghìn quân Hổ Bôn trong thành Lâm Truy. Nếu quân thủ vệ Lâm Truy mà Tề hầu gửi gắm hy vọng đã bị Trần Hằng khống chế từ lâu thì trận này Tề hầu và Hám Chỉ sẽ thành thỏ non dưới vuốt cọp dữ, không có nửa phần thắng.
Triệu Vô Tuất đã biết Trần Hằng âm thầm tập hợp binh mã từ trước, cũng đoán được ông ta định đánh vào cung, tại sao không khuyên Tề hầu tăng cường binh lính trên lầu cổng thành? Sao không nhắc nhở Hám Chỉ điều ba nghìn quân Hổ Bôn vào cung trước?
Nghe tiếng ngựa xe binh lính nhốn nháo trên đầu, Thập chợt nhớ tới những lời Tề hầu nói lúc căn vặn cô về “cánh Khởi Khương” đêm qua. Ông ta nói chỉ cần mình hạ lệnh, ba nghìn quân Hổ Bôn sẽ đánh vào phủ Trần, giết chết Trần Hằng, người tộc Triệu có giúp đỡ hay không cũng chẳng có gì khác biệt.
Đúng vậy, Triệu Vô Tuất muốn Tề hầu phải chịu ơn tộc Triệu chứ không phải khom lưng xin xỏ Tề hầu hạ cố kết liên minh.
Cuộc tấn công vào cung hôm nay có thể chứng thực tội mưu phản của Trần Hằng, Hám Chỉ phò vua bất lực hẳn cũng phải từ chức hữu tướng. Tề hầu cùng đường mạt lộ, giữa lúc tuyệt vọng lại được ba tộc Triệu, Cao, Quốc chìa tay giúp đỡ, ngày sau nếu ông ta có thể lấy tiếng diệt giặc mà phản công tộc Trần, ngồi vững giữa triều đường thì ba tộc Triệu, Cao, Quốc mới là công thần dẹp phản tặc thực sự. Tới lúc đó hai nước Tề Tấn có thể tiếp tục đặt ra cam kết không giao chiến. Không có Hám Chỉ trung thành, hai tộc Cao, Quốc sẽ trở thành hai “Trần Hằng” bừng bừng dã tâm khác bên cạnh Tề hầu.
Ngay từ đầu Triệu Vô Tuất đã không định để Tề hầu thuận lợi bắt gọn Trần Hằng, cũng không định để Hám Chỉ tiêu diệt tộc Trần, lập nên công lớn. Cái hắn muốn không phải là hai vua tôi này đồng lòng hợp sức, chấn chỉnh triều cương. Một nước Tề lớn mạnh chỉ có hại chứ chẳng lợi lộc gì cho Tấn cả.
Thế nên cuộc cung biến động trời này mới thực sự là thứ hắn muốn!
“Bốn người các ngươi lên trên đài! Răng To, Hai Gỗ theo ta!” Đúng lúc ấy, giọng nói cô không muốn nghe thấy nhất thình lình vang lên trên đầu.
“Trần gia, sao chúng ta không tới điện Thính Hiền? Nơi này chẳng thấy ma nào, sao tướng gia lại bắt chúng ta canh ở đây chứ?”
“Đúng vậy, bắt được Hám Chỉ sẽ được thưởng trăm nén vàng đấy Trần gia!”
“Quanh đài Điểm Tướng vốn có bốn mươi lính canh, nhưng đêm qua chẳng rõ tại sao đều bị rút đi cả. Tướng gia sợ có biến nên mới sai chúng ta canh giữ ở đây. Đằng điện Thính Hiền đủ người rồi, các người tới đó cũng chẳng vớt vát được gì hay, cứ yên tâm ở lại đây canh giữ với ta đi!”
Lúc này Thập đang nín thở, nghiêng đầu, ghé mắt nhòm ra ngoài qua con ngươi khoét rỗng trên mặt thú, đột nhiên Trần Nghịch tháo kiếm ném xuống, thanh kiếm đập trúng ngay phía trên mắt cô keng một tiếng, làm cô giật thót mình suýt buột miệng kêu lên.
“Trần gia bảo tướng gia nhà chúng ta giỏi giang làm vậy, mọi việc lớn nhỏ trong cung ngoài cung đều một tay ngài lo liệu cả; bệ hạ hằng ngày chỉ việc uống rượu ôm gái, còn bất mãn nỗi gì? Sao cứ phải ra tay với tướng gia? cả hữu tướng kia nữa, bản thân ông ta nói hay làm giỏi đấy, nhưng người dưới mẹ kiếp chứ rặt một lũ mất nết, chuyện thất đức gì cũng dám làm. Theo tôi thấy tướng gia việc quái gì phải đón công tử Ngao về, cứ giết quách hữu tướng, một mình nắm triều chính có phải tốt không!”
“Răng To, sau này không được nói xằng bậy thế nữa! Trước mặt tướng gia cũng không được nói!” Trần Nghịch hạ giọng mắng.
Gã tên Răng To hình như vỗ đùi đánh đét, nói oang oang, “Mấy anh em tôi đều nói thế cả, tướng gia làm quân chủ thì Trần gia phải làm tới tư mã! Hai Gỗ, mày bảo có phải không?”
“Đúng thế, Trần gia nên làm tư mã nước Tề ta mới phải! Tới lúc đó Trần gia dẫn mười vạn tinh binh sang Ngô, đốt trụi kinh đô của Phù Sai đi!” Tên Hai Gỗ tiếp lời hùa theo.
“Ấy, sao tao nghe bảo kinh đô nước Ngô đã bị Việt vương đốt rồi mà?” Răng To hỏi nhỏ.
“Vậy… vậy thì đốt thêm lần nữa, cho thành tro bụi luôn đi!”
“Phải, sau đó bắt luôn cô ả Tây Thi gì đó về sinh con cho Trần gia nhà ta!”
“Hay, nói hay lắm!” Hai tên tiểu tốt thấy Trần Nghịch lặng thinh lại càng chẳng kiêng dè gì, huyên thuyên đủ thứ.
Nghe chúng nói dông dài lan man, Thập càng thêm sốt ruột. Trần Nghịch cứ ở đó không đi, lát nữa Triệu Vô Tuất và Tề hầu tới thì làm sao đây? Đêm qua tình hình ở điện Hưu Minh không có lợi cho Trần Nghịch, nhưng hiện giờ cục diện đã đảo ngược, nếu Triệu Vô Tuất giao đấu với Trần Nghịch ở đây thì hậu quả thực khó mà tưởng tượng.
Không, cô nhất định phải nghĩ cách dụ Trần Nghịch đi!
Trong lúc Thập vắt óc nghĩ kế, hai tên tiểu tốt trên đầu đã tán từ chuyện đốt kinh đô Ngô sang gươm báu nước Ngô, thợ đúc kiếm nước Việt. Nói hăng quá, chúng còn gõ chuôi kiếm vào nắp cống trên đầu cô. Thùng thùng thùng, nắp cống bằng đồng chạm mặt thú nháy mắt đã thành một chiếc trống đồng to tướng, tiếng trống ong cả tai.
Thập nín thở thận trọng nhấc chân phải lên dịch xuống dưới hai bước. Đột nhiên, trên đầu cô có kẻ kêu lên, “Trần gia nhìn kìa! Trên đài có một cô gái!”
Thanh trường kiếm trên nắp cống đồng nháy mắt đã bị cầm lấy, bóng đen nhoáng lên, có vẻ Trần Nghịch đã phi thân chạy đi.
“Trần gia!! Đợi chúng tôi với!” Hai tên tiếu tốt gọi ơi ới chạy theo.
Họ đi cả rồi ư?
Thập mừng rỡ vội trèo về chỗ cũ, ghé mắt nhìn qua khe hở ngó ra ngoài. Cạch một tiếng, nắp cống trên đỉnh đầu chợt rung lên.
Thôi xong! Bị phát hiện rồi!
Cô bám vào vách tường, giẫm lên gờ đá hốt hoảng tụt xuống. Nhưng còn chưa tụt xuống đáy cống thì nắp đậy trên đtâu đã bị mở ra, ánh sáng chói chang rọi vào làm cô nhắm nghiền mắt lại.
“Thập à?”
Thập nheo mắt ngẩng lên, thấy ngay gương mặt tươi cười của Triệu Vô Tuất.
“Hồng Vân nhi!”
Người bên trên tung mình nhảy xuống, cười xòa dang hai tay ra với cô, “Biết ngay nàng không chịu nghe lời mà!”
Mũi Thập cay sè, cô buông bàn tay đang bám vào vách, nhào vào lòng hắn.
Triệu Vô Tuất siết chặt vòng tay, xoay cô nửa vòng rồi mới nhẹ nhàng đặt xuống đất, “Dọc đường ta gặp chút rắc rối nên đến muộn.”
“Ngươi ở đây còn Lỗ Cơ đâu?” Tề hầu vận y phục thái giám, lúc này cũng đang tụt xuống theo bậc đá.
Triệu Vô Tuất ngẩng lên huýt sáo làm hiệu, lối vào lập tức được đậy lại.
“Quân phu nhân đi trước rồi.” Thập quay lại nói với Tề hầu.
“Chẳng phải ta đã dặn nàng đi cùng họ sao? Sao nàng không đi?” Triệu Vô Tuất hỏi.
“Ta lo cho chàng! Hơn nữa lúc ở Tấn Dương ta chẳng đã nói đấy ư, ta sẽ không bỏ lại chàng mà chạy trước đâu.”
Tề hầu bên cạnh nghe cô nói vậy mặt bỗng đờ ra. Nhớ lại vừa rồi Tề phu nhân cuống quýt chạy trốn, Thập vội nín lặng.
“Binh mã của Trần Hằng đã kéo vào cung, trước khi chúng bắt đầu lục soát, chúng ta phải mau mau chạy thôi!” Triệu Vô Tuất tìm thấy ngọn đuốc giấu sẵn dưới lòng cống, thắp lên rồi chìa tay cho cô, “Đi thôi!”
“ừm.” Thập gật đầu, đặt tay vào lòng bàn tay ấm áp của hắn.
Cống ngầm trong cung Tề là một đường hầm mái vòm xây nên từ những viên đá vuông mỗi bề một thước, trên trần thấp thoáng thấy vết vữa trộn từ cuống rạ và đất trát vào kẽ đá năm xưa. Nhưng ở cách mặt đất hơn một thước, vì quanh năm bị nước mưa xối nên đất vàng trong kẽ đá đã trôi đi hết, thay vào đó là những mảng rêu xanh biếc loang rộng. Hai trăm năm nay, biết bao quân chủ chễm chệ ngôi cao, lo âu nơm nớp đã thành cát bụi, còn đám rêu xanh bị họ giẫm dưới chân, không thấy ánh mặt trời này lại xanh um tươi tốt, thả sức lan xa.
Tề hầu chẳng nói chẳng rằng đi sau hai người. Triệu Vô Tuất dẫn cô giẫm lên mặt đá khô ráo, nhích từng bước một. Đi chừng nửa khắc trước mắt chợt xuất hiện cả đống đá tảng lô nhô. Những tảng đá này như những cây đại thụ sinh trưởng dưới lòng đất, chân giẫm lên đất mẹ, đầu đội mái vòm cống ngầm, dùng chính thân hình to lớn của mình ngăn bước họ. Giữa những tảng đá nọ có vô số khe hở rộng chừng bàn tay, nhưng thò tay qua thì được, chứ không sao lách người qua nổi.
“Hai người đợi ở đây, tôi đi mở đường.” Triệu Vô Tuất siết nhẹ tay cô rồi cầm đuốc đi về mé phải rừng đá. Ở đó có một lối đi ngầm được Tề Trang công đào để lẻn ra ngoài tư thông với vợ của bề tôi. Trang công năm xưa đi trên con đường này đã thành vong hồn dưới kiếm chồng tình nhân từ lâu. Hơn sáu chục năm sau, lối ngầm chết chóc từng hại chết một vị quân chủ lại trở thành đường thoát cho một vị quân chủ khác. Việc đời biến ảo thực khó lường.
Thập và Tề hầu đứng trong bóng tối, thỉnh thoảng ánh mắt có giao nhau nhưng chẳng ai nói gì, không khí có phần gượng gạo.
“Lỗ Cơ đi được bao lâu rồi?” ông ta chợt hỏi.
“Thưa… hơn nửa canh giờ rồi. Đường ngầm này dài chưa tới một dặm, có lẽ giờ họ đã bình yên rời thành.”
“Nơi này là nhà của quả nhân, vậy mà các ngươi còn rành rẽ hơn cả quả nhân nữa! Hèn chi tên nghịch tặc Trần Hằng kia sau lưng toàn gọi quả nhân là ‘ngáo’, thực không sai chút nào.” Tề hầu cười gượng, tự trào.
Người Tề gọi kẻ ngốc là “ngáo”, một vị quân chủ bị bề tôi gọi là đồ ngốc, lần này lại phải theo hai người Tấn chui lủi trong một đường ngầm mà chính mình còn không biết rõ hòng trốn thoát, khỏi nghĩ cũng biết tâm trạng ông ta ra sao.
Nghe Tề hầu buông một câu vừa cay đắng vừa chua chát, Thập chẳng biết tiếp lời thế nào, đành đổi chủ đề hỏi, “Ngoại thần nghe nói hữu tướng rời cung điều binh rồi, có lẽ chẳng mấy chốc sẽ dẫn quần thủ vệ Lâm Truy về cứu viện thôi.”
“Thập à…” Đằng kia, Triệu Vô Tuất đã dời được mấy tảng đá bít lối ra, liền huơ đuốc làm hiệu cho họ.
“Đi thôi!” Tề hầu nhìn cô rồi xoay người đi về bên phải, vừa đi vừa nói, “Cổng Bắc nối liền với thành lớn đã bị người của Trần Hằng vây chặt bên ngoài, hữu tướng còn chưa kịp rời cung thì người tộc Trần đã đánh vào.”
“Vậy giờ hữu tướng đâu rồi? Sao ông ấy không đi cùng chúng ta?” Thập rảo bước bắt kịp Tề hầu, ngạc nhiên hỏi.
“Ông ấy tự lấy mình làm mồi, lại tìm người đóng giả làm quả nhân, giờ đã dẫn người tới cổng Bắc phá vây để đánh lạc hướng binh mã của Trần Hằng.”
“Ông ấy đem bao nhiêu người ngựa?”
“Trong cung quả nhân rặt hạng thị vệ toa rập với Trần Hằng, lấy đâu ra người ngựa? Chẳng qua chỉ có bốn mươi kiếm sĩ còn chịu rơi đầu vì quả nhân mà thôi.” Nói đến cuối, giọng Tề hầu buồn bã hẳn, không nói gì thêm nữa.
“Bệ hạ, hai người vào trước đi, tôi đi cuối còn chặn cửa.” Triệu Vô Tuất đưa đuốc cho Tề hầu, Tề hầu khom lưng chui vào đường hầm.
Lấy thân làm mồi, dẫn quân phá vây, không ngờ Hám Chỉ lại có một bầu máu nóng như vậy. Tuy Thập không ưa con người Hám Chỉ, ông ta chết đi cũng có lợi cho Tấn, nhưng ông ta dám dẫn bốn chục người tới cổng Bắc phá vây để dụ Trần Hằng đi thực khiến cô bội phục, hành vi ấy thật xứng với hai chữ “quân tử”.
“Nàng thần ra nỗi gì? Mau đi thôi!” Triệu Vô Tuất vỗ nhẹ vào cô, cô vội cúi xuống bám theo.
Đường hầm này vừa chật chội vừa thấp tè, hai đầu đều bịt đá, không khí bên trong suốt sáu mươi mấy năm không được lưu thông nên rất ngột ngạt ô nhiễm. Thứ mùi đó rất lạ, không thối hoắc như mùi cây cỏ hay xác chết phân hủy mà là mùi ẩm mốc đầy chết chóc do già cỗi mục rữa đem lại. Nó khiến Thập nhớ tới tòa cung điện trên đỉnh đầu, nhớ tới nước Tề nằm trên dải đất phía Đông đã bị xâm thực từ bên trong tới mức không thể chống lại số mệnh mục nát rồi suy bại.
Trước khi ngọn đuốc trong tay Triệu Vô Tuất tắt ngấm, ba người rốt cuộc cũng tới được lối ra nối liền với sông Hệ ngoài thành.
Vạch đám dây leo xanh rờn che trước lối ra, dòng sông Hệ cuồn cuộn chảy dài đang reo ca tuôn tràn ngay dưới chân họ. Nhìn dòng sông bên dưới, Thập chợt có cảm giác nhẹ nhõm như được giải tỏa sau một thời gian dài kìm nén, cảm giác ấy cuộn trào trong ngực, khiến cô chỉ muốn bất chấp tất cả hét mấy tiếng thật to.
Thấy Thập tỏ vẻ vui mừng, Triệu Vô Tuất sầm mặt, “Chớ vội mừng, chạy tới đây mới chỉ coi là thoát được nanh vuốt Trần Hằng thôi, muốn thực sự thoát khỏi tầm mắt lão ta, phải tới được bến Liễu Châu tụ họp với người của chúng ta mới xong.”
“Ừm, ta biết mà.”
“Quả nhân… không biết bơi.” Tề hầu vạch đám dây leo nhìn xuống mặt sông rộng hơn mười trượng, cuồn cuộn sóng bên dưới, tóm chặt lấy dây leo phủ trước lối ra.
“Bệ hạ chớ lo.” Triệu Vô Tuất đi tới bên cạnh Tề hầu, cúi đầu lấy trong ngực áo ra một tấm gương đồng nhỏ hơn lòng bàn tay. Hắn vạch đám dây leo ra, lắc nhẹ tấm gương phản chiếu ánh mặt trời lấp lóe.
Đúng lúc ấy, một người lái đò đầu đội nón tre, mình vận áo vải xiêm ngắn từ trên cây đại thụ bờ bên kia nhảy xuống. Y nhanh nhẹn kéo một con thuyền nhỏ từ sau thân cây ra, rồi đẩy thuyền trượt trên thảm cỏ xanh giữa triền đê xuống sông.
“Người chàng bố trí sẵn đấy à?” Thập vừa mừng vừa kinh ngạc nhìn Triệu Vô Tuất.
“Ừm, thái ấp của tộc Quốc và tộc Cao đa phần nằm ở Tây Bắc. Hiện giờ chúng ta phải ngược dòng đi lên, tới bến Liễu Châu trước, sau đó lại phái người hộ tống bệ hạ tới thành Cao Uyển mạn Bắc.” Triệu Vô Tuất cất gương đồng vào ngực áo, cúi đầu kéo vạt váy cô giắt vào thắt lưng xuống, phủi nhẹ mấy cái, “Nàng chịu khó chút nữa nhé, rồi sẽ ổn cả thôi.”
“Gia chủ!!” Phía ngoài đám dây leo có người gọi to.
“Thuyền đến rồi, chúng ta đi thôi!” Triệu Vô Tuất vạch dây leo, nắm tay Thập thả cô xuống.
Chân cô vừa chạm ván thuyền thì Tề hầu và Triệu Vô Tuất cũng nhảy xuống theo.
Thấy họ đã lên thuyền đủ cả, người lái thuyền liền chống sào đẩy con thuyền đi về phía Tây, ngược hướng dòng chảy.
“Bệ hạ, mau cởi y phục trong cung, thay quần áo thường dân, kẻo bị người ta phát hiện.” Triệu Vô Tuất xách một gói đồ từ đuôi thuyền ra, bên trong có mấy bộ áo vải thô màu trắng, màu chàm.
Tề hầu xưa nay quen ăn ngon mặc đẹp, đã bao giờ phải mặc thứ áo quần sơ sài thô ráp thế này? ông ta giơ tay sờ lên tấm áo dài màu chàm, tức thì rụt ngay lại, vô thức xòe bàn tay ra nhìn, như thể vừa bị lớp vải thô ráp kia cứa vào tay.
“Bộ đồ này hơi ráp nhưng bệ hạ không thể mặc quần áo thái giám nữa. Nhân lúc này không có ai, để ngoại thần hầu bệ hạ thay đồ nhé.” Thập đặt quần áo của mình xuống, nhỏm dậy giũ chiếc áo vải thô màu chàm kia ra.
Tề hầu lúng búng ậm ừ rồi gỡ mũ sa đen trên đầu, cởi áo ngoài thái giám bỏ xuống bên cạnh, nhăn nhó cười, “Đây là lần thứ ba quả nhân thay áo trong hôm nay đấy, từ lúc thay miện phục lên triều đến khi đổi sang áo vải thứ dân, còn chưa đầy hai canh giờ…”
“Chỉ cần bệ hạ bình an đến được thành Cao Uyển thì sẽ thay lại miện phục nhanh thôi. Giờ xin bệ hạ chịu khó một chút.” Thập đành coi tấm áo vải thô trong tay là áo gấm thêu, cung kính khoác lên mình Tề hầu.
Thay quần áo thường dân xong, Tề hầu ngồi xuống mạn thuyền, hơi ngửa đầu ra, thẫn thờ thật lâu, trân trân nhìn về phía bức tường thành sừng sững nguy nga và lầu cổng thành ngói xanh mái đỏ của Lâm Truy đang dần xa khuất.
Ba ngày trước, trong gác Tiểu Nhã, ông ta áo tía miện vàng nâng chén uống tràn, dù phải ngậm bồ hòn làm ngọt cũng vẫn giữ được chút phong thái quân vương; song lúc này đây, ông ta như đã bị hút cạn cả máu huyết lẫn tinh khí, chỉ còn một trái tim hoang mang rầu rĩ lủng lẳng giữa cái xác rỗng không.
Ấy chính là nỗi bi ai của ông ta, nỗi bi ai có lòng giết địch mà không cách nào xoay chuyển được cục diện…
Đằng xa, thành Lâm Truy phồn hoa náo nhiệt, tấp nập đông đúc vẫn dang rộng vòng tay nghênh đón những đội buôn đến từ khắp nơi trong thiên hạ, mà chủ nhân trước kia của nó, cũng là Tề hầu sa cơ lúc này đang theo con thuyền đi càng lúc càng xa.
Triệu Vô Tuất đổi sang bộ đồ mùa hè màu trắng, xé hàm râu giả trên mặt đi. Thập cũng thay chiếc áo ngắn vải thô màu chàm giống Tề hầu, choàng chiếc váy đỏ thẫm bên ngoài váy lụa, cuối cùng lấy một tấm vải gai quấn mái tóc dài lại. Triệu Vô Tuất sợ dung mạo cô quá thu hút, còn bôi thêm ít bùn lên mặt.
Thỉnh thoảng lại có lái buôn hay tiểu thương đánh xe ngựa hoặc gánh hàng hóa đi qua hai bên bờ đê sông Hệ. Họ chỉ thấy một người cha già thẫn thờ ngồi trên thuyền, bên cạnh hai đứa con một trai một gái đang nhìn quanh ngó quất.
Thuyền đi chừng ba khắc trên sông Hệ, vầng mặt trời giữa trưa đã lên đến đỉnh đầu, lớp bùn trét trên mặt Thập bị nắng hong khô, hễ cử động là bong ra lả tả.
“Còn bao lâu nữa vậy?” Thập hỏi Triệu Vô Tuất.
“Lát nữa là tới thôi.”
Cô hơi khát, thấy trong khoang có một túi nước, bèn cầm lên. Nhưng lúc này Tề hầu đang ngồi ngay bên cạnh, cô không tiện uống trước, bèn hỏi ông ta, “Nắng nóng quá, bệ hạ uống chút nước nhé!”
Tề hầu lắc đầu, từ khi thành Lâm Truy khuất bóng, ánh mắt ông ta càng lúc càng thêm đờ đẫn. Thấy vậy, Thập bèn mở nút túi nước, dốc mấy ngụm vào miệng.
Lúc này, từ thượng du sông Hệ, một chậu gỗ lớn quét sơn bóng loáng dập dềnh trôi tới, bên trong có hai đứa bé một lớn một nhỏ, đứa ngồi trước đứa ngồi sau. Đứa lớn thò hai tay xuống sông làm mái chèo, khom người gạt nước ra sau; đứa nhỏ trần trùng trục, để độc một chỏm tóc buộc dây đỏ ngỏng lên trời, cúi đầu mân mê nghịch một ống trúc.
Thuở nhỏ cô và Tư cũng chơi trên sông Vị thế này nên vừa thoáng trông hai đứa bé đã thấy thân thiết lạ thường, không khỏi nhìn kỹ.
Đứa nhỏ để chỏm tóc thấy cô nhìn mình thì toét miệng cười. Khi chậu gỗ sắp cập vào mạn thuyền, nó chợt cúi xuống vốc một vốc nước té sang thuyền họ.
Vốn dĩ Thập chơi té nước với nó cũng chẳng hề gì,nhưng khéo sao vốc nước của nó lại té hết vào Tề hầu đang cúi mặt bần thần.
Tề hầu một sớm rơi từ trên mây cao xuống, trước mắt lại sắp phải bôn ba lang bạt, lòng đã vô cùng uất ức, giờ ngẩng lên lại thấy một đứa bé trần trùng trục dám té nước vào mình, tức thì vừa thẹn vừa giận, vịn vào mạn thuyền quát lớn, “Ranh con hỗn xược! Đến các ngươi cũng dám làm nhục quả nhân!”
Đứa bé để chỏm dẩu môi, liếc nhìn đứa lớn phía sau rồi cầm ống trúc trong tay đưa lên miệng.
Thập đang định dỗ dành nó thì Triệu Vô Tuất bỗng hét lên, ấn đầu cô lẫn Tề hầu xuống.
“Vù!” Tiếng mũi tên xé gió bay ra lướt qua đỉnh đầu họ.
“Ngư!” Triệu Vô Tuất bảo vệ Thập và Tề hầu, ngoái lại gọi to. Tay lái thuyền đang chống sào lập tức rút cây sào trúc dài hơn trượng lên, quét về phía hai đứa bé. Hai đứa cùng hít một hơi dài, ngửa người ra sau, tránh đòn của Ngư rồi nhào xuống nước.
Triệu Vô Tuất buông cô và Tề hầu ra, lật chiếc chậu gỗ vừa bị ụp lên, nhưng bên dưới đã chẳng thấy bóng người, chỉ còn một ống trúc mảnh bập bềnh trên mặt sông.
“Triệu Vô Tuất!” Tề hầu ôm đầu quát lớn.
“Vừa rồi tình huống nguy cấp, ngoại thần thất lễ, xin bệ hạ thứ tội.” Triệu Vô Tuất vẫn ngồi, khom người hành lễ.
Tề hầu nhìn chậu gỗ, rồi như vừa ngộ ra gì đó, ngập ngừng giơ tay ra dấu miễn.
Triệu Vô Tuất gật đầu, giơ ống trúc vừa vớt dưới sông lên trước mắt săm soi.
“Đây là gì vậy? Sao vừa rồi hình như ta nghe có tiếng tên bắn?” Thập xích lại bên cạnh Triệu Vô Tuất khẽ hỏi.
Triệu Vô Tuất cầm một cọng cỏ tranh vương trên sàn thuyền chọc vào ống trúc, nhíu mày, “Ta đoán đây là ống thổi tên người Man phương Nam hay dùng, đầu tên tẩm độc, dùng để đi săn.”
“Ống thổi tên ư? Ý chàng nói hai đứa bé vừa rồi là thích khách à?” Thập kinh ngạc.
Tề hầu lúc này còn kinh sợ hơn cô nhiều, ông ta nhìn ống trúc trong tay Triệu Vô Tuất, hoảng hốt thốt lên, “Sao người Man phương Nam lại tới Tề? Trẻ con người Man sao lại muốn giết quả nhân? Không được, chúng ta không thể đi tiếp được. Nhà thuyền, cập bờ đi! Quả nhân muốn lên bờ!”
“Không được! Đi thêm một dặm nữa là tới bến Liễu Châu rồi, lên bờ lúc này nguy hiểm lắm.” Triệu Vô Tuất nhìn rừng cây rậm rạp đôi bờ sông Hệ, nghiêm mặt phản bác.
“Ở trên thuyền thì không nguy hiểm chắc? Nhất định là tên nghịch tặc Trần Hằng kia đã phát hiện ra chúng ta rồi! Hai đứa bé vừa nãy chắc hẳn là do hắn phái tới. Trần Hằng thường ngày hành xử quyết tuyệt, không thể chỉ phái hai đứa nhỏ đó tới hành thích quả nhân mà thôi, đằng trước ắt có thuyền hắn phục sẵn! Chắc chắn còn có mai phục! Nhà thuyền, nhà thuyền đâu! Quả nhân lệnh cho ngươi cập bờ ngay bây giờ!” Tề hầu cuống cà kê, bám chặt hai tay vào mạn thuyền, nhổm người lên, trông như chỉ chực lao tới giật lấy cây sào trúc trong tay Ngư.
Ngư là thuộc hạ của Triệu Vô Tuất, mặc cho Tề hầu hò hét thế nào y cũng lặng thinh, chỉ đưa mắt hỏi ý Triệu Vô Tuất.
Thấy vậy Tề hầu càng sôi máu, “Quả nhân lệnh cho ngươi cập bờ, ngươi không nghe thấy à?”
Khúc sông này vừa hay lại chảy qua một vạt rừng long não cao vút, ngồi trên thuyền ít ra mặt sông mênh mông, nếu có thuyền từ trước hay sau tiếp cận, họ cũng dễ phòng bị; so ra thì lặn lội trong rừng rậm khó nhọc hơn nhiều, bởi họ khó mà liệu được kẻ địch sẽ đột ngột xông ra từ hướng nào, gặp chuyện sẽ luống cuống không kịp phản ứng.
Nhưng Tề hầu hôm nay đã liên tục gặp biến cố, trở nên nhạy cảm quá mức. Tuy ông ta là một quân chủ đang mắc nạn, không có quyền ra lệnh cho họ, nhưng để tránh hiềm khích ngày sau, giờ ông ta càng sa sút, họ càng không thể coi thường uy quyền của ông ta. Đạo lý này có lẽ Triệu Vô Tuất còn hiểu rõ hơn Thập. Hắn khẽ gật đầu với Ngư rồi quở, “Ngư, ngươi không nghe thấy bệ hạ nói à? Cập bờ đi!”
Ngư lập tức xoay người đổi hướng chống sào, đẩy thuyền vào bờ.
“Nơi này còn cách bến Liễu Châu chừng một dặm, mọi người phải hết sức cảnh giác, đi giữa rừng không được tách rời nhau.” Lên bờ, giấu thuyền xong xuôi, Triệu Vô Tuất lấy trường kiếm đeo trên lưng ra, rồi rút trong tay áo một con dao găm đưa cho Thập, “Nàng giữ con dao này, lát nữa lỡ gặp nguy hiểm gì thì còn phòng thân.”
“Ừm.” Thập gật đầu nhét dao găm vào tay áo rồi quay lại nói với Tề hầu, “Bệ hạ xin theo sát sau tôi, giẫm lên dấu chân tôi đi trước để đề phòng trên đường có bẫy.”
“Quả nhân biết rồi.” Tề hầu ngẩng lên nhìn rừng cây cao vút san sát bốn bề, nghe tiếng quạ và chim ngói kêu ra rả, nuốt nước bọt ậm ừ đáp.
“Ngư, ta đi đầu, ngươi chặn hậu, cẩn thận để ý các lùm bụi hai bên đấy.” Triệu Vô Tuất rút kiếm cầm sẵn trong tay, nhìn con đường mòn giữa rừng rợp bóng cây, ánh mắt sắc lạnh như dao.
Ngư gật đầu vâng dạ, rút trong tay nải ra một cặp đao cong đen nhánh bóng loáng, bước đến sau lưng Thập và Tề hầu.
“Đi thôi!” Dưới sự cầm đầu của Triệu Vô Tuất, cả bốn xốc lại tinh thần, thận trọng men theo con đường mòn đi về phía Tây.
Đi chưa được nửa dặm, Tề hầu chợt dừng bước, giật tay áo Thập, “Đằng kia có người kìa! Trong bụi cây đằng kia có người đang nhìn chúng ta!”
Thập kinh hãi, vội dừng bước nhìn theo tay ông ta chỉ, nhưng chẳng thấy người, chỉ thấy ba khóm cây lè tè trổ đầy quả vàng nhạt. “Bệ hạ chớ căng thẳng, ấy là lê chua, món khoái khẩu của hồ ly, chắc có con hồ ly nấp bên trong đấy thôi! Chúng ta sắp đến nơi rồi, mau lên!”
“Không, ta nghe thấy mà! Ta nghe thấy chúng đang đến!” Tề hầu rút phắt thanh kiếm báu lấp loáng sắc lạnh từ thắt lưng, quay về phía cánh rừng gầm lên, “Ranh con! Hôm nay kẻ nào dám hành thích quả nhân, quả nhân sẽ một kiếm đâm chết!”
“Bệ hạ, không được kêu…” Thập vội bịt miệng ông ta.
Triệu Vô Tuất nhíu mày, nhặt hòn đá nhỏ dưới đất lên ném vào bụi cây. “Vụt” một tiếng, một con hồ ly xám mõm nhọn tai nhọn, kéo cái đuôi bông xù vọt ra.
Tề hầu siết kiếm, sượng sùng ra mặt.
“Đi thôi, đừng chần chờ nữa.” Triệu Vô Tuất nén giận, cầm kiếm đi tiếp.
Thập hai tay dìu Tề hầu, đi chưa được mấy bước, chợt thấy Triệu Vô Tuất dừng lại.
“Sao vậy?”
“Đằng trước có người.”
“Ở đâu?”
“Đến rồi! Mau lùi lại…”
Hắn chưa nói dứt câu đã nghe tiếng bật dây cung tanh tách trong rừng, mấy chuỗi tên xé gió bay vút tới.
Vù vù vù, ánh sắc lạnh nhắm thẳng vào Tề hầu bên cạnh Thập. Ngư thấy vậy liền sấn tới, Triệu Vô Tuất dang hai tay biến thành một cái bóng trắng nhảy vọt lên. Mấy luồng sáng trắng lóe lên, dăm mũi tên gãy rơi rào rào xuống đất.
“Trên cây kìa!” Triệu Vô Tuất hét lớn, vừa đáp đất đã lùi liền ba bước, đẩy Thập và Tề hầu còn đương ngớ người ra sau một gốc cây lớn.
Trên không, tiếng kéo cung lại rào rạt vang lên!
Triệu Vô Tuất nghiêng mình, tóm lấy một mũi tên gãy dưới đất ném ra. Cách đó hơn hai trượng, một tay xạ thủ vận bộ đồ chẽn màu lục sẫm rơi bịch xuống từ tàn cây cổ thụ. Triệu Vô Tuất không dừng nửa bước, vung kiếm chặn liền hai mũi tên rồi nhảy lên, lôi tiếp một tên xạ thủ từ trên một tàn cây khác xuống, đâm chết dưới gốc cây.
Bên kia, Ngư cũng đã trèo lên một cây đại thụ. Y vốn gầy đen nhanh nhẹn, trèo lên cây lại càng thoăn thoắt như khỉ, tung mình mấy cái đã chuyền sang tàn cây có xạ thủ mai phục. Tên xạ thủ nọ vừa xoay người kéo cung toan bắn thì đầu đã bị cặp loan đao của Ngư móc lấy. Giữa tán cây, ánh đao lóe lên thành hình chữ thập rồi một chiếc đầu người rơi xuống đất.
Lúc này, bốn phía xung quanh chợt vang lên tiếng chân rầm rập.
Những bước chân giẫm lên lá rụng cành khô ấy dồn dập mà mạnh mẽ, từ xa đến gần, như thủy triều cuồn cuộn từ bốn phương tám hướng tràn tới.