Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 20

ĐẠO NGƯỜI QUÂN TỬ

“Ồ!” Lý trưởng nghe vậy liền nhướng mày mừng rỡ hỏi, “Ý anh là anh muốn đưa hai em tới Khúc Phụ nghe Khổng đại phu giảng bài ư?”

“Đúng thế.”

“Hay, hay lắm! Quân tử ăn không cốt no đủ, ở không cốt dễ chịu, làm việc cần mẫn mà cẩn trọng lời nói, sửa mình theo người có đạo, có thể gọi là kẻ hiếu học vậy.”

Tuy lý trưởng chỉ là một chức quan nhỏ ở Tề, nhưng nơi bọn Thập qua ải phen này lại nằm trong địa hạt quản lý của ông ta, vì vậy đám lính biên phòng khá khách sáo với họ, chỉ hỏi qua loa mấy câu, kiểm tra một lượt rồi cho cả đoàn xe qua.

Ba nước Tề, Lỗ, Tống nằm liền nhau thành một dải từ Đông Bắc tới Tây Nam. Thập cùng Triệu Vô Tuất và Vô Tà muốn xuôi sông Nghi sang Đông; còn đoàn lý trưởng qua khỏi trường thành nước Tề lại đi sang phía Tây, tới đất Bác mới đáp thuyền xuôi sông Vấn qua đầm Đại Dã, rồi theo đường thủy đi qua Lỗ vào Tống. Cũng có nghĩa là bọn Thập phải mau tìm một cơ hội thích hợp để tách khỏi đoàn xe.

Đêm ấy, đoàn xe nghỉ lại một ngôi làng dưới chân Nghi sơn.

Trong làng khá vắng, mặt trời vừa xuống núi là đường sá vắng ngắt, không một bóng người.

Căn nhà họ nghỉ lại rộng hơn các nhà khác, nhưng chỉ có bốn bức vách, muốn ngủ thì nằm xuống đám lau sậy rải đầy dưới đất.

Đêm xuống, trong nhà cũng chẳng có dầu thắp, ông chủ phải đi vay mượn khắp làng mới được ít dầu thắp một ngọn đèn nhỏ trong phòng lý trưởng. Trời nóng, những người đi theo cũng chẳng muốn thắp đèn nữa, nên ăn tối xong, mọi người đều về phòng ngủ trên đệm cỏ lau.

Chẳng mấy chốc, xung quanh đã vang tiếng ngáy o o.

Thập và Triệu Vô Tuất, Vô Tà gói ghém tay nải, rón rén lẻn ra cửa. Đúng lúc ấy thì xảy ra chuyện xui xẻo. Trước cửa phòng chính nơi ông cháu lý trưởng đang ngủ, có sáu kẻ bịt kín mặt, lén la lén lút dòm vào. Bọn Thập phát hiện ra chúng, chúng cũng phát hiện ra họ. Tức thì chúng vác gậy gỗ, liềm đá lao tới đập họ túi bụi.

Muốn giết mấy tên này với Triệu Vô Tuất và Vô Tà thực dễ như trở bàn tay. Nhưng bọn chúng trông không giống giặc cướp mà giống nông dân bình thường hơn. Thế nên Triệu Vô Tuất và Vô Tà cũng không ra đòn nặng tay, chỉ đánh rơi vũ khí của chúng.

Làm ầm lên như vậy, tất nhiên đám thợ săn trong nhà đều bị đánh thức, hộc tốc xách cung tên, rìu búa ùa ra.

Thoắt cái cả sáu tên đã bị bắt vào nhà chính. Lý trưởng cầm đèn dầu soi, phát hiện cả ông chủ nhà trong số đó. Mọi người căn vặn một hồi mới biết, hóa ra sáu kẻ này đều là nông dân trong làng, nộp xong thuế ruộng công và ruộng tư hè này thì không còn gì để nộp thuế dùng ruộng cho tộc Quý Tôn nữa, nên mới nhắm vào mấy bao lương thực trên xe bọn họ.

“Thuế dùng ruộng là sao?” Thập hạ giọng hỏi Triệu Vô Tuất bên cạnh. Theo cô biết, tuy các nước đều có chế độ thuế ruộng khác nhau, nhưng bất luận quy định chi tiết ra sao, hễ nông dân trồng cấy trên đất của công thất quý tộc thì phải nộp thuế ruộng công, về phần ruộng tư lại áp dụng chế độ “thuế trên mẫu” nước Lỗ ban bố từ hơn trăm năm trước, thừa nhận ruộng tư do các nông dân phát hoang, nhưng họ phải nộp cho nhà nước một phần thu hoạch theo tỷ lệ nhất định. Mấy người này hẳn là cày cấy trên cả ruộng công lẫn ruộng tư, nhưng số lương thực còn sót lại không đủ để đóng khoản “thuế dùng ruộng” ngoài hạn ngạch này.

Triệu Vô Tuất ghé tai cô nói khẽ, “Dân thành trấn phải tòng quân còn dân quê không đủ tư cách đi lính nên phải gánh phần lao dịch. Loại thuế dùng ruộng này do tộc Quý Tôn đứng đầu Tam Hoàn đề xướng từ hai năm trước, không cần dân quê đi lao dịch nữa mà đòi họ nộp bằng lương thực, hiện vật.”

“Sao lại còn thứ thuế như thế nữa?” Người nông dân thức khuya dậy sớm vất vả cày cấy cũng chỉ dành lại được ít lương thực đủ nuôi miệng, những sưu thuế ngoài hạn ngạch này, nếu gặp năm được mùa may ra còn gom góp được, chứ phải năm mất mùa thì lấy đâu ra?

Giữa lúc Thập và Triệu Vô Tuất trò chuyện, đám thợ săn đang làm ầm lên đòi tống sáu kẻ này lên quan nghiêm trị như giặc cướp, nhưng lý trưởng lại sai người hầu chia cho mỗi người một túi kê nhỏ rồi thả họ đi.

Hành động của lý trưởng khiến đám thợ săn hậm hực khôn nguôi, nhưng lại làm Thập sinh lòng kính trọng.

“Ba vị nửa đêm đeo tay nải định đi đâu vậy?” Sau khi cho tất cả lui xuống, lý trưởng chỉ giữ lại ba người bọn họ.

Triệu Vô Tuất đặt hai túi nhỏ xuống trước mặt lý trưởng, chắp tay hành lễ, “Đây là mười đồng tiền đao hôm trước kẻ hèn này và em trai nhận của lý trưởng, giờ xin trả lại y nguyên. Ba anh em tôi không thể theo lý trưởng sang Tống được, mong lý trưởng bỏ quá cho!”

“Các vị không sang Tống thì định đi đâu?” Dưới ánh đèn nhập nhoạng, ông cụ nheo mắt vuốt chòm râu dài nhìn bọn họ.

“Kẻ hèn định đem các em tới kinh đô nước Lỗ là Khúc Phụ bái kiến Khổng đại phu.” Triệu Vô Tuất nhìn Thập rồi cúi đầu cung kính đáp.

“Ồ!” Lý trưởng nghe vậy liền nhướng mày mừng rỡ hỏi, “Ý anh là anh muốn đưa hai em tới Khúc Phụ nghe Khổng đại phu giảng bài ư?”

“Đúng thế.”

“Hay, hay lắm! Quân tử ăn không cốt no đủ, ở không cốt dễ chịu, làm việc cần mẫn mà cẩn trọng lời nói, sửa mình theo người có đạo, có thể gọi là kẻ hiếu học vậy.”* Ông cụ gật gù nhìn Triệu Vô Tuất rồi cúi xuống nhặt hai túi tiền đặt cạnh hắn, “Năm xưa lão cũng may mắn được theo học thầy Khổng. Thầy nhận học trò không kể sang hèn, không hỏi xuất thân, anh săn thú trong núi, cuộc sống nghèo khổ mà có lòng cầu học như vậy, thực hiếm có lắm thay. Tiền này coi như lão tặng các vị làm lộ phí. Ngày sau nếu anh ngộ được đạo học của Nho gia, ắt sẽ có thành tựu lớn.”

“Tạ ơn lý trưởng.” Triệu Vô Tuất cũng chẳng từ chối, khom người vái tạ.

“Đi đi, dọc đường cẩn thận nhé.”

Ba người từ biệt lý trưởng rời khỏi khu nhà. Nhìn ô cửa nhỏ sáng đèn giữa đêm tối, Thập không khỏi nghĩ thầm, người có kiến thức, phong độ nhường này là học trò cửa Khổng ư? Vậy thầy Khổng “sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam” là một người thế nào đây?

Họ rời làng, men theo con đường mòn đắp đất ruộng đi miết về phía Đông. Hai bên đường là đồng kê tràn ngập ánh trăng bạc. Dưới ruộng, đám ếch nhái không muốn ngủ vẫn đang đồng thanh hát lên bài ca dao đêm hè.

“Hồng Vân nhi, năm xưa chàng chu du khắp các nước, đã bao giờ gặp thầy Khổng chưa?”

Triệu Vô Tuất xách đỡ hành lý cho cô, cười đáp, “Năm xưa lúc Khổng Khâu ở Vệ, ta từng gặp một lần ở nhà Tử Lộ, học trò ông ấy.”

“Chàng quen Tử Lộ à? Vậy chàng có thể nhân lúc đó xin theo học hỏi thầy Khổng rồi?” Thập hào hứng.

“Dạo ấy ta còn vắt mũi chưa sạch, xin theo học hỏi nỗi gì? Huống hồ Khổng Khâu xưa nay vẫn úp mở phê bình khanh phụ ta. Trước kia khanh phụ đúc hình đỉnh, Khổng Khâu nói Tấn sắp mất nước; khanh phụ nhận Dương Hổ làm tôi, Khổng Khâu lại nói Triệu sắp diệt tộc; ngay về sau khanh phụ sai Đổng An Vu xây dựng thành Tấn Dương cũng bị ông ta phê phán. Hồi đó ta còn trẻ tuổi nóng máu, chẳng muốn chuyện trò gì với ông ta, so kiếm cùng Tử Lộ xong là đi ngay.”

“Hóa ra chàng cũng có lúc trẻ con thế à.” Thập phì cười nhìn Triệu Vô Tuất, “Năm xưa khanh tướng đúc hình đỉnh là muốn thường dân hiểu pháp luật, xây thành Tấn Dương là để tự phòng thủ, hai việc này ta thấy chẳng có gì không tốt. Có điều nhận hạng lang sói như Dương Hổ làm gia thần, còn ban tước vị cao, ta thực không hiểu được.”

Dương Hổ vốn là gia thần của tộc Quý Tôn nước Lỗ. Trước kia nhân lúc tông chủ mới còn nhỏ tuổi, hắn đã bày kế giành lấy quyền lớn về quân sự và chính trị của nước Lỗ từ tay tộc Quý Tôn. “Tam Hoàn” mà Lỗ công và thầy Khổng coi như hồng thủy mãnh thú, năm xưa đều bị hắn nắm trong lòng bàn tay.

Về sau hắn phát động chính biến ở Lỗ, đến khi thất bại bèn chạy sang Tề, nhờ năng lực xuất chúng mà chẳng mấy chốc đã được lòng Tề Cảnh công. Hắn lại thừa cơ lôi kéo các đại thần trong triều đình Tề, năm lần bảy lượt xúi giục Cảnh công đánh Lỗ, mới khiến Cảnh công nhận ra kẻ này là hạng vong ơn bội nghĩa, dã tâm bừng bừng, bèn ra lệnh bắt lại.

Nhưng Dương Hổ giảo hoạt vừa nghe được phong thanh đã bỏ trốn, chuyến này hắn chạy sang Tấn, nương nhờ tộc Triệu. Cuối cùng Triệu Ưởng còn để tên loạn thần tặc tử khét tiếng thiên hạ này làm gia thần tộc Triệu.

“Có gì lạ đâu? Dương Hổ tài năng hơn người, luận về mưu lược hay võ công đều trác tuyệt, tuy phẩm đức còn xa mới so được với bậc quân tử nhưng cũng không phải không thể dùng. Có lần Dương Hổ say rượu từng nói rằng, hắn thờ chủ, chủ hiền đức sáng suốt thì dốc lòng thờ phụng, còn như bất tài thì hắn đành làm kẻ ác mà giết đi vậy. Khanh phụ là người chủ mạnh mẽ, dĩ nhiên có thể hàng phục tên sài lang nọ. Mấy chục năm nay, nếu tộc Triệu được coi là có chút thành tựu thì trong đó không thể không kể tới công lao của Dương Hổ.”

“Ta từng gặp kẻ này ở phủ Triệu một lần, nhìn mặt đã thấy tối tăm, tàn ác. Làm sao khanh tướng biết được bao năm nay hắn có ngầm giở trò gì với tộc Triệu không?”

“Dương Hổ vào phủ Triệu không lâu đã âm thầm lôi kéo các gia thần, biển thủ tiền trong kho, toan lật đổ tộc Triệu để mình lên thay. Có điều khanh phụ chỉ sai người đưa cho hắn một vuông lụa có viết chữ, hắn liền cúi đầu phục tùng.” Triệu Vô Tuất nhìn cô đầy bí hiểm.

“Vuông lụa viết chữ? Trên đó viết gì vậy?”

“Nghe nói trên đó ghi rõ từng người Dương Hổ ngấm ngầm gặp, từng việc hắn âm thầm làm từ khi vào phủ, còn cả chi tiết số tiền hắn biển thủ.”

“Khanh tướng biết cả ư? Sao không giết hắn?”

“Khanh phụ còn chẳng hề hỏi tội, Dương Hổ vẫn là gia thần tộc Triệu. Thực ra Trần Hằng hiện giờ cũng giống Dương Hổ năm xưa, có tài trị nước, tiếc rằng Tề hầu không phải người chủ mạnh để chế ngự ông ta; không chế ngự được thì muốn diệt trừ, tiếc rằng đến diệt trừ cũng chẳng đủ sức. So với Tề hầu, Lỗ công bảo sao làm vậy còn thức thời hơn.”

“Chậc chậc, giỏi cho một Triệu Vô Tuất đại nghịch bất đạo, nghe chàng phân tích xong, sao ta cũng thấy chàng có vẻ loạn thần tặc tử thế nhỉ?”

“Nàng bảo ta là loạn thần tặc tử ấy à?” Triệu Vô Tuất xốc tay nải lên lưng, vươn tay về phía cô cười gian xảo, “Ta đã không thể làm tôi hiền thì gây họa một phen vậy!”

“Chàng định làm gì?” Thập hoảng quá kêu ré lên, trốn ra sau lưng Vô Tà, “Vô Tà, giúp tôi với!”

Cô tóm lấy áo Vô Tà kêu oai oái, tránh trái né phải, nếu là trước đây Vô Tà hẳn đã hùa theo nô đùa với họ rồi, song hôm nay cậu chỉ đứng đờ ra như khúc gỗ.

“Vô Tà, cậu sao thế? Khó chịu chỗ nào à?” Thấy Vô Tà có vẻ không bình thường, Thập vội dừng lại.

“Xem nàng còn chạy đi đâu!” Triệu Vô Tuất giơ cánh tay dài kẹp cô vào dưới nách bế bổng lên.

“Không đùa với chàng nữa, mau thả ta xuống đi!” Cô đập mạnh vào thắt lưng hắn.

Lúc này Triệu Vô Tuất cũng nhận ra Vô Tà có vẻ khang khác, bèn ngồi xổm, đặt cô xuống đất rồi hỏi Vô Tà, “Sao thế sói con?”

“Tại sao? Tại sao nghe hai người nói chuyện tôi chẳng hiểu gì cả? Thầy Khổng là ai? Tộc Quý Tôn là ai? Hình đỉnh là gì? Thuế dùng ruộng là gì?” Vô Tà nhíu mày, gương mặt đanh lại, như đang vắt óc tìm hiểu từng câu họ nói.

“Không sao, cậu không hiểu mới tốt. Nếu hiểu thì cậu đã chẳng phải ‘Vô Tà’ mà thành ‘người xấu’ rồi!” Vừa nói cô vừa liếc xéo Triệu Vô Tuất đầy vẻ gây hấn.

Triệu Vô Tuất chỉ cười, giơ tay chỉ cô, nói mà không phát ra tiếng, “Nàng cũng thế thôi.”

“Triệu Vô Tuất, anh đừng đắc ý quá!” Vô Tà quay sang nhìn chòng chọc Triệu Vô Tuất, “Anh hiểu biết nhiều, cũng có nhiều thủ đoạn, nhưng rồi sẽ có ngày tôi hiểu hết những điều anh nói, rồi sẽ có ngày tôi mạnh hơn anh!” Dứt lời cậu giằng tay cô ra, bỏ đi thẳng.

“Vô Tà, cậu đi đâu thế?” Thập vội xoay người đuổi theo, nhưng bị Triệu Vô Tuất níu lại, “Nàng nuôi cậu ta ba năm, cậu ta đã không còn là một đứa trẻ nữa rồi. Cậu ta đã đi theo chúng ta thì thể nào cũng phải hiểu được nhiều chuyện trên đời thôi.”

“Không, cậu ấy không cần, cậu ấy cứ thế này là tốt rồi!” Thập buông một câu rồi bỏ Triệu Vô Tuất lại, đuổi theo Vô Tà.

Việc trên đời càng biết nhiều càng nguy hiểm, càng hiểu nhiều càng khó hạnh phúc. Ngẫm nghĩ, tính kế, mưu toan, những thứ này Vô Tà đều không cần biết. Lúc này cô vờ như không hiểu lời Triệu Vô Tuất, vờ như không thấy những áp lực và đau khổ Vô Tà giấu kín trong lòng, chỉ khăng khăng cho rằng Vô Tà vẫn là một đứa trẻ, một đứa trẻ sẽ mãi mãi ở bên cạnh cô…

Mấy ngày sau đó, những khi có mặt Vô Tà, Thập không hề đàm luận bất cứ chuyện gì về chính sự với Triệu Vô Tuất nữa, nhưng Vô Tà vẫn luôn ủ dột không vui. Có lúc ba người cùng ăn cơm, cậu đang giơ đũa gắp thức ăn thì thần ra nhìn Thập và Triệu Vô Tuất, xem bộ như đang cố nghĩ ngợi gì đó, nhưng khi cô hỏi, cậu lại ngoảnh đi chẳng nói chẳng rằng. Cậu bé trước kia chỉ cần một bát canh thịt là tươi hơn hớn, giờ dỗ thế nào cũng không chịu cười. Thập buồn bã vô cùng, cảm thấy mới mười hôm trước mình vừa cập kê mà mười hôm sau đã rầu rĩ thành bà già tóc bạc mất rồi.

Ngày thứ ba sau khi tách khỏi đoàn xe, họ tới thành Nghi Nguyên. Đây cũng là đầu nguồn sông Nghi. Triệu Vô Tuất cầm tiền ra bến mướn thuyền, Thập và Vô Tà ngồi trên đê nhìn đám phu khuân vác chuyển từng bao hàng lên thuyền buôn.

“Vô Tà, lần trước ở trên núi cậu bảo có chuyện muốn nói với tôi à? Có phải cậu nhân lúc tôi vắng mặt bắt nạt Tư không?” Thấy Vô Tà cứ ngồi ngẩn ra không nói, Thập đành kiếm chuyện hỏi cậu.

Vô Tà nhìn cô rồi ủ dột đáp, “Ừm, tôi bắt nạt Tư. Vu An bênh cô ta, tôi còn đánh nhau với anh ta một trận, về sau Tư giận quá nhảy xuống sông tự tử.”

“Gì cơ? Tư nhảy xuống sông tự tử ấy à?” Vô Tà nói hết sức bình thản, song Thập nghe lại cả kinh.

“Rõ ràng cô ta biết bơi, nhưng cứ chìm nghỉm dưới nước không chịu ngoi lên. Về sau vẫn là gã Vu An cô ta thích nhảy xuống sông vớt lên.” Vô Tà bĩu môi nhìn cô, không xin lỗi, cũng chẳng phân bua, cặp mắt cậu rõ ràng đang nói: “Tôi không giải thích đâu, cô muốn mắng thế nào thì mắng! Đằng nào tôi cũng không hiểu chuyện, không tháo vát được như Triệu Vô Tuất!”

Thấy vậy Thập bất lực thở dài, “Vậy về sau cậu có xin lỗi Tư không?”

Vô Tà cúi đầu bĩu môi, khẽ gật đầu.

“Cậu phải xin lỗi cô ấy đàng hoàng, chuyện lần này tôi bị người ta bắt cóc không liên quan gì tới cô ấy cả. Cô ấy vốn đã hoảng sợ, cậu làm vậy cô ấy còn đau khổ đến đâu? Chừng nào chúng ta tới Lỗ, cậu hãy chân thành tạ lỗi với cô ấy lần nữa. Về sau trước khi nói gì làm gì cậu nhớ nghĩ tới cảm nhận của người khác, đừng nói cho sướng miệng.”

“Ừm.” Vô Tà cúi gằm mặt đáp.

“Ngoài chuyện đó ra, cậu còn gì muốn kể với tôi không?”

“Gì là gì cơ?”

“Tôi nghe nói cậu đánh cược với Vô Tuất hả?”

“Ừm, chúng tôi cược xem ai tìm được cô trước.” Vô Tà nhặt mấy hòn sỏi dưới đất đặt vào lòng bàn tay mân mê mãi.

“Cược cái gì?”

“Nếu Triệu Vô Tuất thắng, tôi sẽ để anh ta sai khiến một tháng.”

“Nếu cậu thắng thì sao?”

“Anh ta cút xéo!” Vô Tà liếc bóng áo đen trên đê, vung tay ném mạnh một hòn sỏi ra.

Thập bật cười khúc khích, “Không ngờ cậu còn ác hơn cả Triệu Vô Tuất cơ đấy! Rồi sao? Cậu thua thì Vô Tuất bắt cậu làm gì?”

“Anh ta bắt tôi xin lỗi Tư, xin lỗi Vu An, không được vào cung Tề tìm cô. Nếu tôi muốn tới bến Liễu Châu tiếp ứng cho cô thì trước hết phải đến lầu Lộc Minh tìm cho ra ít nhất ba tên mật thám tộc Trần, bằng không anh ta sẽ đưa cả tôi và Tư sang Lỗ.”

“Vô Tuất bảo cậu đi tìm mật thám ư? Sao vậy?”

“Anh ta bảo tôi lúc nào cũng theo bên cạnh cô mà không hiểu lòng người, không hiểu thế sự, ắt có ngày bị người ta lợi dụng, còn nguy hiểm hơn cả Tư nữa.”

Lời Triệu Vô Tuất như một mũi kim đâm vào lòng Thập. Vô Tà và Tư là điểm yếu của cô. Nếu có ngày kẻ nào đó lợi dụng sự đơn thuần và lương thiện của họ để đối phó cô, đối phó Triệu Vô Tuất thì hậu quả thực không thể tưởng tượng nổi. Rõ ràng Triệu Vô Tuất đã nhận ra điều này nên mới bảo Vô Tà tới lầu Lộc Minh tìm mật thám tộc Trần. Nhưng nếu từ giờ trở đi cứ để mặc cho hắn xóa bỏ sự hồn nhiên của Tư và Vô Tà thì cô không làm được.

“Cậu chớ nghe Vô Tuất nói bậy bạ! Cậu đi theo tôi, tôi hiểu lòng người, cậu giỏi kiếm thuật, chúng ta ở cạnh nhau có gì mà nguy hiểm? Triệu Vô Tuất cố tình nói thế để cậu không vui đấy!”

“Anh ta muốn làm tôi không vui ư?” Vô Tà nhíu mày nhìn Thập.

Cô thừa cơ bóp chặt tay cậu, “Tìm ra mật thám ở lầu Lộc Minh cậu có vui không? Hay tin Trần Hằng mưu phản làm loạn cậu có vui không? Biết được thuế trên mẫu, thuế dùng ruộng là gì cậu sẽ thấy vui à?”

“Không vui.”

“Thế thì đúng rồi! Những chuyện tôi nói với Vô Tuất mấy hôm trước, cậu vốn không cần biết. Biết rồi cậu sẽ thấy mệt mỏi, sẽ không vui nữa, nếu cậu không vui tôi cũng không thể vui được. Cậu xem, mấy hôm nay cậu cứ mặt ủ mày chau, tôi cũng buồn đến bạc cả tóc đây này.”

“Bạc tóc ở đâu?” Vô Tà giật mình, giơ tay vạch tóc cô.

Cô vội giữ tay cậu, “Giờ chưa bạc nhưng nếu cậu cứ ủ dột cả ngày thế này, chỉ dăm bữa nửa là tóc bạc đâm ra thôi. Có tóc bạc là tôi sẽ già đi. Già rồi mặt tôi sẽ nhăn nheo, răng cũng rụng hết…”

“Không được già!” Vô Tà rút phắt tay ra, che mặt cô lại.

“Thế thì cậu đừng mắc lừa Vô Tuất. Cậu xem, Vô Tuất biết nhiều hiểu rộng, biết dùng nhiều thủ đoạn như vậy tôi mới thích chàng; còn cậu chẳng cần biết gì, chẳng cần làm gì, tôi cũng đã thích cậu rồi. Cậu hơn chàng nhiều, sau này đừng nghĩ tới chuyện so đo với chàng nữa, thực ra cậu đã hơn xa chàng từ lâu rồi mà.”

“Thật không?”

“Dĩ nhiên là thật rồi.” Cô nhoẻn cười, gật đầu thật mạnh.

“Thật cái gì thế?” Bộp một tiếng, có người vỗ đầu cô một cái.

“Triệu Vô Tuất!” Cái vỗ này rất mạnh, dường như Triệu Vô Tuất đã dùng hết sức, đầu cô như đập phải đá, đau đến tê rần cả người.

“Đi thôi, mướn được thuyền rồi. Nhân lúc đang thuận gió, mau lên thuyền đi!” Mặc Thập kêu đau, Triệu Vô Tuất vẫn xách cổ áo kéo cô lên thuyền.

Ba người lục tục lên thuyền, Vô Tà vốn cau có không vui cứ toe toét cười với Triệu Vô Tuất ngồi đối diện.

Ban đầu Triệu Vô Tuất còn giả đò thưởng thức phong cảnh đẹp đẽ đôi bờ sông Nghi, nhưng nửa canh giờ sau, không chịu nổi bộ dạng dương dương đắc ý của Vô Tà, hắn bực dọc nói, “Nàng bảo cậu ta đừng có cười nữa!”

“Hừm! Triệu Vô Tuất, quả nhiên thấy tôi vui vẻ anh không chịu được chứ gì!” Vô Tà ghé sát lại trước mặt Triệu Vô Tuất, cố tình nheo mắt toét miệng ra cười tươi hết cỡ, “Anh muốn tôi rầu rĩ thì tôi cứ tươi cười cho anh xem đấy.”

“Nàng nói gì với cậu ta thế? Ta muốn cậu ta rầu rĩ lúc nào?” Triệu Vô Tuất quay sang bực bội nhìn cô.

“Ta đau đầu quá, quên mất rồi.” Thập xoa đầu, không chịu trả lời.

“Hai người…” Triệu vô Tuất nhìn cô rồi lại nhìn Vô Tà đằng trước, cười chế nhạo, “Tuy Khổng Khâu hay mắng người, nhưng hôm nay ta phát hiện ông ta nói một câu rất đúng.”

“Câu gì?”

“Chỉ có trẻ con với đàn bà là khó nuôi!”

“Hai chúng tôi không cần anh bận tâm! Tôi không phải trẻ con, Thập nhà tôi cũng chẳng cần anh nuôi.” Vô Tà cười khanh khách ngả người dựa mạn thuyền, nửa nằm nửa ngồi trong khoang thuyền khe khẽ hát.

Dưới ánh nắng, sông Nghi gợn sóng lấp lánh, Vô Tà đã xua tan hết những u ám mấy hôm nay, nụ cười trên môi còn rạng rỡ hơn cả ánh dương. Song khi Thập quay sang nhìn Triệu Vô Tuất, lại bắt gặp một gương mặt sầm sì mây đen.

“Nhà thuyền, anh tôi đang phiền muộn, phiền ông hát cho nghe bài dân ca Lỗ nào hay hay đi!” Thập nắm lấy tay Triệu Vô Tuất, gọi ông lão lái thuyền đang chống sào phía đầu thuyền.

“Lão hát không hay!” ông lão cười ha hả rồi gọi với sang con thuyền nhỏ chở rau quả bên cạnh, “Này, anh bán hoa quả, khách muốn mua củ ấu, anh hát cho người ta nghe một bài đi!”

“Có ngay!” Anh bán rau quả nghe vậy lập tức chèo con thuyền độc mộc lại gần.

“Nhà thuyền khéo chào hàng hộ người ta quá!” Thập cười với ông lái thuyền rồi quay lại siết chặt tay Triệu Vô Tuất, “Đừng so đo với cậu ta nữa, cho ta một nắm kê đi, ta đem đổi lấy củ ấu cho chàng.”

“Nàng bóc cho ta ăn nhé.” Triệu Vô Tuất nhìn sang đống củ ấu trên con thuyền độc mộc.

“Nô tỳ xin vâng.”

“Cô nương muốn nghe dân ca vùng nào?” Anh bán hoa quả cầm túi vải trên sàn thuyền lên, cười hì hì tháo dây buộc, mở miệng túi chìa ra trước mặt cô, “Cảm ơn cô, một nắm kê đổi hai xâu củ ấu nhé.”

“Cho bốn xâu.” Thập nhìn những xâu củ ấu vỏ đỏ lấm tấm xanh trên ván thuyền mà thèm, cô mở túi kê Triệu Vô Tuất đưa, thò tay vào bốc một nắm, song tay bán hoa quả kia lại chìa miệng túi về phía Triệu Vô Tuất lấy lòng, “Tay cô ấy nhỏ, để ông anh này bốc đi!”

“Ha ha, tôi thấy người Lỗ các anh còn giỏi buôn bán hơn người Tề ấy chứ? Được được được, để anh ấy bốc vậy.” Thập cười trả lại túi kê cho Triệu Vô Tuất rồi bảo người bán rau quả, “Anh cũng chọn cho tôi mấy xâu củ ấu to to vào nhé. Tôi thích ăn củ già với bở ấy.”

“Có ngay!” Anh bán rau quả nhận hai nắm kê của Triệu Vô Tuất, cười hì hì đưa cho Thập bốn xâu củ ấu vỏ đỏ, vừa tươi vừa to, “Cô nương muốn nghe dân ca vùng nào? Dân ca nước Lỗ không hay đâu, có muốn nghe khúc ‘Hái ấu’ của đất Việt không?”

“Anh là người Việt à? Thế thì hay quá, hát một bài đi!” Thập đón lấy mấy xâu ấu đặt lên đầu gối cười nói.

“Cô nương lắng tai nghe nhé!” Anh bán rau quả chống mái chèo gỗ vào mạn thuyền họ, đẩy con thuyền độc mộc tách ra chừng nửa trượng rồi ngồi trong khoang thuyền đầy rau quả, vừa chèo vừa hát một bài hát uyển chuyển du dương.

Tuy cô không hiểu anh ta hát gì, nhưng tiếng ca trong trẻo vang xa hòa cùng những âm điệu dìu dặt như nước chảy không khỏi khiến cô nhớ tới người con gái nước Việt đẹp như mơ nọ. Chẳng biết cảnh núi sông ở quê nhà của Thi Di Quang nơi phương Nam xa xôi tú lệ nhường nào nhỉ.

Họ ngồi ăn củ ấu, hóng gió mát, nghe tiếng sông trôi, tiếng chèo khua, tiếng hát ca, xuôi dòng mà đi, tới gần hoàng hôn thì thuận lợi đến thành Nghi Nam.

Từ thành Nghi Nam đi về phía Tây là Khúc Phụ, kinh đô nước Lỗ, song cô lại chỉ nôn nóng muốn đi về phía Đông, lên Tiêu Nguyên sơn.

Bên kia Tiêu Nguyên sơn là biển lớn mà cô tâm tâm niệm niệm đã lâu.

Có Triệu Vô Tuất đi cùng nên cô hết sức mong chờ chuyến đi này, cũng chính vì có hắn nên suốt quãng đường họ đều được ăn ngon, trên thuyền thì cá rán vạc sành, ở Tiêu Nguyên sơn thì chim trĩ bọc đất nướng, ở làng chài còn có cháo kê nấu ốc… Tuy họ không có tiền nhưng bữa nào Thập và Vô Tà cũng ăn đến no căng bụng.

Trên đường đi, mấy lần Thập không kìm nổi định bảo Triệu Vô Tuất, chúng ta đừng về Tân Giáng nữa! Chúng ta rời xa những đấu đá mưu mô, chu du các nước đi! Chúng ta có thể sang Trịnh mở quán rượu, ta ủ rượu, chàng nấu nướng; hoặc tới đầm Vân Mộng ẩn cư, ta hái thuốc, chàng săn bắn; chúng ta cũng có thể sang Yên, ta làm phương sĩ luyện thuốc gạt tiền, chàng chăn thả phóng ngựa trên thảo nguyên…

Nhưng rốt cuộc Thập chẳng nói gì cả, thầy từng dạy cô rằng, làm người phải biết đủ.

@vctvegroup@

Báo cáo nội dung xấu