Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 23

THĂM BỆNH NHAN HỒI

Cửa phòng tức thì mở ra, một bàn chân xỏ tất da trắng bước ra trước, ngay sau đó, Thập trông thấy một vạt áo xanh thêu hoa văn mây và sấm màu vàng thẫm.

Tuy vẫn biết sở thích ăn mặc kỳ quái của Đoan Mộc Tứ, nhưng tấm áo rực rỡ nọ xuất hiện giữa cảnh nhà đơn sơ vẫn khiến Thập ngẩn ra giây lát.

Khu dân cư và cung điện ở kinh đô Lâm Truy nước Tề tiếp giáp nhau, còn ở kinh đô Khúc Phụ nước Lỗ thì khu dân cư lại bọc quanh cung điện. Lỗ công và phu nhân, người hầu kẻ hạ sống ở cung điện nằm chính giữa khu dân cư.

Quyền lớn về chính trị và quân sự nước Lỗ vẫn luôn nằm trong tay Tam Hoàn mà đứng đầu là tộc Quý Tôn, bởi thế Lỗ công sống giữa cung điện nguy nga tuy thân phận cao quý, song cũng chỉ là một con rối trong tay ba gia tộc lớn mà thôi.

Năm xưa Thập từng nhác thấy Lỗ công ở hội thề Hoàng Trì, còn nhớ ông ta là một người thấp bé, mặt mày vàng vọt, nói năng cũng nhỏ nhẻ yếu ớt, thiếu tự tin.

So ra thì Lỗ Chiêu công bác ruột ông ta còn có khí phách hơn, tiếc rằng ba mươi sáu năm trước, Lỗ Chiêu công đích thân dẫn đại quân đánh dẹp tộc Quý Tôn, thua to chạy về, cuối cùng phải rời bỏ quốc gia, chết ở đất Tấn. Hai đời quân chủ nước Lỗ sau đó đều do một tay tộc Quý Tôn dựng nên.

Trong cuộc đấu tranh giữa công thất và khanh tộc, hai nước Tề Lỗ có những điểm giống nhau đáng kinh ngạc. Nhưng ngoài ra, hai nước lớn nằm kề nhau ở phương Đông này lại tạo cho Thập hai cảm giác khác hẳn nhau.

Nước Tề coi trọng thương nghiệp, dân chúng cởi mở, ngoài phố lái buôn các nước tấp nập như mây. Đi giữa đường phố Lâm Truy, bên tai thường nghe xì xồ năm sáu thứ tiếng khác nhau. Còn nước Lỗ lại chú trọng nông nghiệp, dân chúng phần nhiều bảo thủ, đất đai phì nhiêu khiến Lỗ dù có đóng cửa không giao thương với các nước khác cũng vẫn tự cung tự cấp được. Đồng thời, mối quan hệ khăng khít giữa Lỗ và vương thất nhà Chu khiến những người Lỗ sống dưới vầng hào quang của Chu công Đán thêm phần thận trọng và kiêu hãnh.

Thập và ả Ngư đi chừng hai khắc thì tới chợ. Đã thăm thú hai khu chợ lớn ở Tề là Khang Trang và Đường Viên nên chợ ở đây chẳng khiến Thập ngạc nhiên là mấy.

Dạo được nửa vòng, ả Ngư chợt trỏ một sạp hàng đằng xa, mừng rỡ reo lên, “Quý nữ nhìn kìa, chẳng phải Tư cô nương đó ư!”

Thập vội ngẩng lên, thấy một bóng áo lam nhạt đang ngồi trước sạp rau quả. Tư vẫn để hai búi tóc trái đào đáng yêu hệt như trước đây, mỗi tay xách một quả bầu nậm áng chừng.

Từ tám tuổi đến mười lăm tuổi, Tư hình như vẫn chọn bầu lựa dưa như vậy.

Thập thong thả đi đến ngồi xuống cạnh bạn, giơ tay cầm lấy quả bầu nậm trên tay trái Tư, thở dài, “Tối nay lại ăn bầu nậm à? Sao nhà bếp các vị toàn làm món này thế? Bảo bác Đại Đầu đổi món khác đi!”

Hồi nhỏ theo Tư đi chợ, Thập rất hay càu nhàu câu này.

Quả bầu nậm trên tay phải Tư rơi bộp xuống đất, vỡ làm đôi. Cô quay lại nhìn Thập, còn chưa kịp nói, đôi mắt hạnh đã ầng ậng nước.

“Ôi chao, mình ngộ ra rồi. Lần nào gặp lại mình cậu cũng khóc cả.” Thập một tay ôm choàng lấy bạn, tay kia móc trong thắt lưng ra một đồng tiền ném cho chủ sạp.

“Được rồi mà, đừng tưởng cậu khóc thì khỏi ăn mắng nhé. Mình đã dồn sẵn một bụng mắng mỏ chỉ đợi để gặp cậu thôi đấy.” Thập ôm vai Tư đứng dậy. Cô nàng này càng lớn càng yếu đuối, hai năm nay lại còn mau nước mắt nữa.

“Xin lỗi… là mình liên lụy cậu. Cậu mắng mình đi!” Tư gạt nước mắt ngẩng lên.

“Ranh con, đừng có nói tranh lời mình chứ! Đầu óc cậu úng nước rồi hả? Nhảy xuống sông à? Cậu lấy đâu ra suy nghĩ quái quỷ đấy thế? Nếu cậu đâm đầu xuống sông chết, tới khi mình sống sót quay về, mình biết đi đâu tìm cậu bây giờ? Đi chết theo cậu chắc?” Thập chẳng chút khách khí đập mạnh mấy cái vào người Tư.

Tư chỉ trân trân nhìn Thập, Thập càng mắng càng giận, còn Tư dang hai tay ra ôm bạn, thổn thức không nguôi.

“Được rồi, đừng khóc nữa. Chuyện lần này đến tối mình sẽ kể tỉ mỉ với cậu. Tới lúc đó đến lượt cậu tha hồ mắng mình.” Thập vỗ nhẹ lên vai Tư, rút khăn lụa trong ngực áo nhét vào tay bạn, “Lau nước mắt đi, bao nhiêu người đang nhìn bọn mình kìa!”

“Cô nương, các vị tới rồi đấy à!” Đầu kia con phố, kiếm sĩ Thủ xách một làn rau quỳ chạy lại.

“Vừa mới tới! Vô Tuất và Ngư đang ở nhà, anh trở về báo với họ một tiếng, cứ bảo tôi gặp Tư cô nương rồi, bọn tôi dạo phố một lát sẽ về.”

“Vâng!” Kiếm sĩ Thủ gật đầu, cúi xuống nhặt cái bu nhốt một con gà trống béo mập đuôi đỏ dưới chân Tư.

“Ả Ngư, chọn thêm hai quả bầu để Thủ đem về đi!”

“Vâng.” Ả Ngư vội ngồi xuống lựa lấy hai quả bầu nậm trên sạp đặt vào tay kiếm sĩ Thủ.

“Đừng mua bầu nữa, cậu chẳng bảo ăn chán rồi à?” Tư lấy khăn lau nước mắt, nói khẽ.

“Ăn bao nhiêu năm nay cũng quen rồi. Đến khi không ăn được lại thèm.” Thập cười khanh khách, véo gương mặt đỏ hồng của bạn một cái rồi kéo bạn đi về phía Nam chợ.

Chợ Khúc Phụ tuy nhỏ nhưng đầy đủ các loại hàng hóa. Thập mua cho mình và Triệu Vô Tuất mỗi người hai bộ đồ nho sĩ vừa vặn ở tiệm may, lúc ngang qua hiệu ngọc lại chọn cho ả Ngư một cây trâm và một đôi hoa tai đánh từ ngọc tú oánh.

“Quý nữ, nô tỳ là dân đen, đâu thể cài trâm ngọc được, xin quý nữ nhận lại đi!” Trên đường về, ả Ngư luôn miệng nài nỉ Thập nhận lại mấy món vừa tặng.

“Không được, đã bảo là thay Ngư tặng cô ít sính lễ, tôi sao có thể nuốt lời?”

“Nhưng đây là trâm ngọc! Nô tỳ không được vượt quá lễ pháp.” Ả Ngư dừng bước, nhét cả trâm ngọc lẫn bông tai trả lại Thập.

“Cô cứ giữ lấy đi! Giờ cô chưa đeo được, nhưng tôi thấy Vô Tuất mến Ngư lắm, chưa chừng hai ba năm nữa cô sẽ đeo được thôi. Huống hồ ngọc tú oánh này màu vàng ngả trắng, cũng không phải hàng thượng phẩm, cô còn từ chối nữa tức là chê quà tôi tặng đấy!” Thập nhìn ả Ngư, cố tình nghiêm mặt.

Thấy Thập đổi nét mặt, ả Ngư ngẩn ra nín lặng. Tư thừa cơ cầm lấy mấy thứ trong tay ả Ngư nhét vào ngực áo cho cô nàng, “Đây là tấm lòng của cô nương, cô đừng từ chối nữa. Chừng nào cô theo chúng tôi về Tấn lại còn vô khối đồ đẹp kia!”

Thập nhìn ả Ngư cười rồi đi tiếp, Tư đuổi theo ghé lại bên cạnh cô hỏi nhỏ, “Cậu làm lễ cài trâm bao giờ thế? Sao chỉ cài một cây trâm gỗ không sơn thế kia?”

“Một tháng trước, quân chủ nước Tề và quân phu nhân tổ chức lễ cài trâm cho mình. Chỉ tiếc nỗi vắng mặt cậu, người xem lễ trên dưới tổng cộng phải đến hai ba trăm người, nhộn nhịp lắm.” Thập sờ cây trâm gỗ chạm chim loan ngậm mây cài trên búi tóc, cười đáp, “Cây trâm gỗ này Vô Tuất tự tay làm đấy, chẳng hơn cả trâm vàng trâm ngọc ư?”

“Tề hầu tổ chức lễ cài trâm cho cậu ấy à? Rõ ràng Vu An kể rằng cậu bị người ta bắt vào cung kia mà! Cậu đừng có bịa chuyện gạt mình!” Tư nhíu mày nhìn cô chằm chằm.

“Chao ôi, giờ cậu có Vu An rồi, chỉ biết tin anh ta thôi, không chịu tin mình nữa. Đúng là con gái lớn không thể giữ ở nhà mà…” Thập bĩu môi ai oán lườm Tư rồi bảo ả Ngư, “Chừng nào chúng ta về Tấn cô nhớ nhắc tôi, nhất định phải tổ chức lễ cài trâm cho Tư cô nương trước mùa thu, lễ thành hôn cũng phải lo xong trước khi hết năm, đến bằng này sang năm còn phải làm lễ đầy tháng cho em bé. Ôi chao ôi, bận chết mất thôi.”

“Dạ, nô tỳ nhớ rồi!” Ả Ngư vội đáp, đoạn cười bảo Tư, “Hóa ra Tư cô nương đã đính hôn ư? Vậy phải chúc mừng cô nương rồi.”

“Ai bảo mình muốn lấy chồng hả? Ai đòi đẻ em bé hả? Cậu còn trêu mình nữa, mình không thèm nói chuyện với cậu nữa đâu.” Tư đỏ bừng mặt, đập Thập một cái rồi xách gấu váy chạy biến.

“Tư ơi là Tư, nếu cậu không đẻ em bé thì ai gọi mình là mẹ bây giờ?” Thập cười khanh khách đuổi theo.

“Cậu tự đi mà đẻ!” Tư ngoái đầu độp lại.

Đúng lúc Tư ngoảnh đi, chợt một bé gái bảy tám tuổi chạy xộc ra từ con ngõ bên đường. Con bé cắm đầu chạy không nhìn đường, còn chạy rất nhanh, xô ngay phải Tư.

Tư thì không sao, chỉ loạng choạng lùi mấy bước là đứng vững, nhưng cô bé con kia nhỏ người, ngã bệt xuống, một mớ tiền trên người lăn ra đầy đất.

“Em không sao chứ?” Thập chạy tới đỡ cô bé dậy, Tư và ả Ngư cũng tíu tít nhặt tiền dưới đất lên trả lại cho cô nhóc.

“Em cảm ơn.” Bé gái đón lấy nắm tiền đếm lại rồi thở phào nhẹ nhõm.

“Ôi, tay em chảy máu rồi kìa.” Tư nắm tay con bé kêu lên.

Song bé gái chỉ cúi đầu rụt tay lại giấu ra sau lưng, “Em không sao đâu.” Dứt lời vái vội một vái rồi xoay người chạy thẳng.

“Em chờ đã!” Thập lật tay tóm lấy cánh tay cô bé, kéo lại gần mình rồi nâng cằm nó lên, “Em tên gì?”

“Ngũ Nguyệt Dương.” Bé gái nhìn cô, run rẩy đáp.

“Sao vậy Thập?” Tư nghi hoặc hỏi.

“Ngũ Nguyệt Dương, em đến từ vực Cam đúng không? Bà em là người tộc Hi Hòa à?” Thập lật tay bé gái lại, thấy trên mu bàn tay có rất nhiều đường vân đỏ sẫm uốn lượn như gợn sóng. Bà cụ làng chài từng kể với cô, ấy là bớt mặt trời, cứ cách mấy năm trong tộc Hi Hòa sẽ lại có một bé gái sinh ra với vết bớt như vậy trên mu bàn tay.

“Sao quý nữ biết?” Bé gái gật đầu, nhưng rồi lại lập tức lắc đầu, “Nô tỳ đâu có quen quý nữ. Quý nữ buông nô tỳ ra đi, chủ nhân nhà nô tỳ đang đợi nô tỳ đi mời thầy thuốc cứu người kìa!”

Thập nắm tay Ngũ Nguyệt Dương, ngồi xuống trước mặt nó, “Ngũ Nguyệt Dương, tôi tên Thập, bà em nhờ tôi tới tìm em. Em dẫn tôi đi gặp chủ em đi, tôi sẽ chuộc thân cho em, đưa em về nhà, được không?”

“Bà nhờ quý nữ tới ư?” Ngũ Nguyệt Dương nhìn cô, thân hình gầy gò nhỏ bé chợt run bắn lên, nó lùi dần ra sau, ánh mắt kinh hoàng như thể cô là một kẻ giết người không chớp mắt.

“Em sao thế?” Phản ứng của bé gái thực sự nằm ngoài dự liệu của Thập, sao một cô bé bị mẹ bán đi làm nô tỳ, hay tin về người nhà lại sự hãi đến vậy? Thập sinh nghi, bàn tay đang nắm tay nó bất giác siết chặt hơn.

Ngũ Nguyệt Dương không trả lời mà cúi xuống cắn một cái vào cổ tay cô. Thập đau quá rụt tay lại, nó thừa cơ co cẳng chạy.

“Con rồ này ở đâu ra thế? Đứng lại cho tao!” Tư quát lên rồi xách gấu váy đuổi theo.

Tư mặc váy chẽn, xỏ giày thêu nên chạy không được mau, Ngũ Nguyệt Dương lại nhanh thoăn thoắt, lách mình mấy cái đã biến mất giữa dòng người.

“Quý nữ không sao chứ?” Ả Ngư chạy lại bên Thập, lo lắng hỏi.

“Tôi không sao. Cô chạy theo gọi Tư trở lại đi!” Thập cúi đầu nhìn vết răng rớm máu trên cổ tay, nghĩ bụng con bé này cắn đau thật, xem ra nó thực sự không muốn về vực Cam.

Tư hầm hầm tức tối bị ả Ngư kéo về, vừa mắng Ngũ Nguyệt Dương sa sả vừa rút trong ngực áo ra một vuông khăn lụa thận trọng buộc vết thương cho Thập, “Con bé kia có thâm thù gì với cậu à, mà sao cắn đau thế?”

“Mình cũng không biết, mình chỉ được bà ngoại nó nhờ đưa nó về thôi.”

“Lại ôm rơm rặm bụng rồi.” Tư nhìn cô đầy trách móc rồi giơ cổ tay cô lên, “Gần đây có một tiệm bán thảo dược, bọn mình phải mau mau đi mua ít thuốc cầm máu. Cắn ở chỗ lộ liễu thế này, lỡ để lại sẹo thì phiền to. Còn nữa, mình thấy tay con nhỏ kia lạ lắm, có cần mua cả thuốc giải độc không?”

“Không nghiêm trọng thế đâu, cậu khỏi cần lo hão.” Thập cười cười rụt tay lại.

“Quý nữ cẩn thận một chút vẫn hơn, trước kia tôi nghe người già trong làng kể, tộc Hi Hòa ở vực Cam biết khá nhiều vu thuật quái dị, bình thường tế thần còn dùng người sống*.”

“Lấy người sống tế thần ư?” Tư biến sắc mặt.

Thập vội ngắt lời ả Ngư, “Lúc trước tôi từng qua vực Cam, dân ở đó hiền hòa lắm, chẳng thấy gì quái dị cả. Hiệu thuốc cậu bảo ở đâu thế Tư? Bọn mình đi mua ít thuốc rồi về thôi.”

“Đằng kia kìa, đi khoảng nửa khắc là tới.” Tư vốn định hỏi thêm ả Ngư, nhưng thấy Thập nói muốn mua thuốc, bèn xoay người trỏ về phía góc Đông Nam khu chợ.

Mắc bệnh trước tìm thầy mo, sau mới tìm thầy thuốc, đây là quy tắc mấy trăm năm nay mọi người vẫn tuân theo, nhưng từ khi thần y Biển Thước nức tiếng thiên hạ, thầy thuốc các nước cũng đông hẳn lên. Hiệu thuốc Tư nói nằm trong một con ngõ ở góc Đông Nam khu chợ, tường bao đất nện thấp tè, đứng bên ngoài kiễng chân lên là thấy rõ từng đụn thảo dược phơi trong khoảnh sân trống.

Tư bước tới đập khoen đồng trên cánh cửa gỗ, trong nhà có tiếng thưa nhưng mãi chưa ai ra mở. Thập thử đưa tay đẩy, nào ngờ hai cánh cửa gỗ thông mọt ruỗng kẽo kẹt mở ra ngay.

“Ông chủ, ông chủ có đấy không?” Ả Ngư gọi với vào trong.

Chẳng bao lâu sau, cửa phòng bật mở rồi một người đàn bà luống tuổi bước ra. Chị ta quan sát họ thật nhanh rồi nhún gối hành lễ với Thập, “Các vị khách quý đến thật không đúng lúc, chồng tôi ra ngoài thăm bệnh cho người ta rồi.”

“Chị à, chúng tôi không tới khám bệnh, chỉ muốn mua mấy vị thuốc thôi.” Thập còn chưa nói dứt câu đã nghe trong căn phòng đằng sau người đàn bà nọ có tiếng vật nặng rơi xuống đất loảng xoảng.

“Trong nhà có người trốn à?” Ả Ngư cười, ló đầu nhìn ra sau lưng chị ta.

Chị ta tái mặt, xua tay lia lịa, “Quý khách chớ nói bậy, chỉ là một đứa bé đến tìm thầy thuốc, ngồi bên trong đợi chồng tôi về thôi.”

“Đứa bé đến tìm thầy thuốc à? Ồ, khéo quá đi mất.” Tư nhìn Thập rồi bước sấn lên thềm, mở toang cửa. Một bóng người loắt choắt từ sau cửa tức thì vọt ra.

“Hừ, xem lần này mày chạy đi đâu!” Tư xoay người tóm lấy cổ áo Ngũ Nguyệt Dương.

“Đừng bắt nô tỳ về, xin các vị thả nô tỳ ra đi!” Bị Tư thộp cổ áo, Ngũ Nguyệt Dương òa lên khóc, ngồi phệt xuống đất.

“Quý khách làm gì vậy?” Bà chủ hiệu thuốc cũng phát hoảng, níu lấy tay áo Thập phân trần, “Con nhỏ này là nô tỳ nhà Đoan Mộc tiên sinh, thường ngày ngoan ngoãn lễ phép lắm, chẳng hay sao lại mạo phạm các vị?”

“Vừa rồi nó cắn tôi một cái ngoài chợ, nhưng tôi nghĩ chắc bên trong có hiểu lầm chi đây.” Thập cúi đầu hành lễ với chị ta rồi xách gấu váy bước lên thềm đi tới trước mặt Ngũ Nguyệt Dương, “Em nói thực cho tôi biết, sao em không chịu về vực Cam? Nói đi, tôi sẽ không đưa em về nữa.”

Ngũ Nguyệt Dương ngước nhìn Thập, rồi lại nhìn sang bà chủ hiệu thuốc, khịt mũi thật mạnh, hít hết nước mũi vào trong, “Tay nô tỳ có vết bớt của thần Mặt Trời, mẹ nói bà ngoại đã hứa với tộc trưởng, đến ngày Hạ chí năm nô tỳ mười hai tuổi sẽ đem nô tỳ đi tế thần.”

“Đem em đi tế thần ư? Tế thế nào?” Nghe con bé nói, Thập ngạc nhiên hỏi lại.

“Trói trên bãi biển, không cho ăn uống, phơi nắng đến chết, ấy là được thần Mặt Trời đón đi.” Nói rồi Ngũ Nguyệt Dương kéo tay Thập nài nỉ, “Quý nữ, bà nô tỳ cho quý nữ bao nhiêu tiền, chủ nhân nô tỳ sẽ gửi quý nữ gấp đôi, quý nữ tha cho nô tỳ đi!”

Một người bà tận tâm săn sóc cả người lạ mà lại nỡ đem cháu gái đi tế thần, chẳng trách mẹ Ngũ Nguyệt Dương phải bán con tới tận Khúc Phụ… Thập giơ tay xoa đầu Ngũ Nguyệt Dương, “Em đừng sợ, tôi không nhận tiền của bà em, cũng bảo đảm không đưa em về vực Cam đâu. Có điều giờ em phải đưa tôi đi gặp chủ em.”

“Quý nữ muốn gặp chủ nô tỳ làm gì?” Ngũ Nguyệt Dương cảnh giác ra mặt.

“Mấy năm trước tôi từng gặp chủ em ở Tần một lần, cũng coi như chỗ quen biết cũ. Hôm nay em vội đi tìm thầy chạy thuốc như vậy, có phải chủ nhân em bị ốm không?”

Ngũ Nguyệt Dương nhìn cô rồi lắc đâu, “Là thầy Nhan ốm, chủ nhân sai nô tỳ đi mời thầy thuốc.”

“Thầy Nhan ư?” Nghe thấy hai chữ này, trong đầu Thập lập tức hiện ra cái tên Nhan Hồi, học trò cưng nhất của Khổng Khâu, nghe nói phẩm hạnh, tài năng đều hơn hẳn Đoan Mộc Tứ.

“Chị à, chồng chị hôm nay đi thăm bệnh tờ đâu vậy? Bao giờ mới về?” Thập ngoảnh lại hỏi bà chủ.

“Chồng tôi tới làng Áo ở ngoại ô cách đây chừng ba mươi dặm, trước lúc hoàng hôn chắc sẽ về.”

“Thế thì còn phải mấy canh giờ nữa! Ngũ Nguyệt Dương, tôi cũng là thầy thuốc, chi bằng em dẫn tôi đi gặp thầy Nhan trước đi?” Thập kéo Ngũ Nguyệt Dương đang ngồi dưới đất dậy.

“Quý nữ định lừa nô tỳ ra ngoài rồi bắt à?” Ngũ Nguyệt Dương vẫn chưa hết sợ.

“Em đa nghi thế. Yên tâm đi, em là người hầu nhà Đoan Mộc tiên sinh, tôi sao dám bắt em để đắc tội với chủ nhân em cơ chứ!” Thập cười, lấy tay áo lau nước mắt cho Ngũ Nguyệt Dương, “Tôi vốn định mai sẽ tới bái kiến chủ nhân em, nhưng giờ lại hay tin thầy Nhan đổ bệnh, chúng ta đi thăm bệnh cho thầy Nhan luôn vậy!”

“Quý nữ là phận gái mà cũng biết xem bệnh ư?” Ngũ Nguyệt Dương quan sát Thập, đôi mày nâu nhạt nhướng lên.

“Con gái thì không xem bệnh được à?” Thập cười vỗ đầu Ngũ Nguyệt Dương, rồi quay sang hỏi bà chủ, “Chị cho tôi vào phòng thay nhờ bộ đồ được không?”

“Dĩ nhiên là được, mời quý khách.”

“Cảm ơn chị nhiều!” Thập thay sang bộ đồ nho sĩ, lại dùng khăn tay làm khăn vuông đội đầu, búi tóc theo kiểu đàn ông.

Để chứng minh với Ngũ Nguyệt Dương rằng mình thực sự thông hiểu y thuật, Thập gần như đã kể tên tất cả các loại thảo dược phơi ngoài sân, cuối cùng bà cụ non Ngũ Nguyệt Dương mới bằng lòng dẫn cô đi gặp Nhan Hồi. Để Triệu Vô Tuất khỏi lo lắng, Thập sai ả Ngư về thông báo trước còn mình dẫn Tư theo Ngũ Nguyệt Dương đi về phía Tây Bắc thành lớn.

Nhan Hồi và cha mình Nhan Lộ đều là học trò Khổng Khâu. Lúc thầy Thái còn tại thế từng vừa cười vừa kể với cô, năm xưa thầy ở Lỗ nghe thầy Khổng giảng bài, hiền nhân Nhan Lộ ngồi ngay bên cạnh thầy, vì chuyện này mà thầy vui đến hơn nửa tháng, về sau thầy rời Lỗ, thời gian thấm thoắt thoi đưa, đứa trẻ hôi sữa năm xưa ngồi trong góc mài mực cho các học trò giờ đã thành đệ tử nổi tiếng hiền đức của thầy Khổng. Kể tới đó, thầy còn lắc đầu thở dài, dường như rất tiếc nuối vì năm xưa không chuyện trò nhiều với cậu bé Nhan Hồi nọ.

“Quý nữ, thầy Nhan ở bên trong đấy ạ.” Ngũ Nguyệt Dương dẫn Thập và Tư vào một con ngõ tối tăm nhỏ hẹp. Con ngõ này rộng chưa đầy hai thước, đừng nói xe ngựa, ngay hai người đi ngược chiều còn phải lách mình mới qua được.

“Thầy Nhan ở đây à?” Thập nhìn cánh cổng tróc sơn phủ đầy rêu trước mặt, nửa tin nửa ngờ hỏi Ngũ Nguyệt Dương. Tuy tộc Nhan nước Lỗ không phải danh gia vọng tộc, hiền nhân Nhan Hồi cũng chỉ một lòng hầu hạ Khổng Khâu, không có chức tước gì, nhưng Nhan Lộ cha y nghe nói là đại phu, sao một người xuất thân quan lại lại ở một nơi xập xệ hoang tàn thế này?

“Đúng là ở đây đấy ạ.” Ngũ Nguyệt Dương nói rồi chọt tay vào người Tư, “Này chị ơi, chủ nhân tôi và thầy Nhan đều trọng lễ, chị mau sửa lại váy áo đi! Xộc xệch hết cả rồi kìa.” Đoạn con bé cũng cúi đầu sửa lại quần áo trên mình. Như lây thái độ nghiêm túc của Ngũ Nguyệt Dương, Tư vội vàng cúi đầu sửa sang áo xống.

“Lát nữa vào mọi người nói khẽ thôi, thầy Nhan nghe tiếng động to lại đau đầu.” Ngũ Nguyệt Dương nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, vuốt lại mớ tóc mái rối tung trước trán.

“Giờ đã được chưa?” Tư thắt lại dải váy, nhìn Ngũ Nguyệt Dương hỏi.

“Được rồi, đi thôi!” Con nhỏ còn chưa cao đến ngực Tư trịnh trọng gật đầu rồi đẩy cổng bước vào.

Bên trong đơn sơ mà sạch sẽ hơn Thập tưởng tượng, chỉ có một cái giếng và một nếp nhà gỗ.

Ngũ Nguyệt Dương cởi giày bước lên thềm, xoay người cầm đôi giày cỏ xếp thật ngay ngắn rồi gõ cửa, “Chủ nhân, nô tỳ mời được thầy lang rồi.”

Cửa nhà tức thì mở ra, một bàn chân xỏ tất da trắng bước ra trước, ngay sau đó, Thập trông thấy một vạt áo xanh thêu hoa văn mây và sấm màu vàng thẫm.

Tuy vốn biết sở thích ăn mặc kỳ quái của Đoan Mộc Tứ, nhưng tấm áo rực rỡ nọ xuất hiện giữa cảnh nhà đơn sơ vẫn khiến Thập ngẩn ra giây lát.

“Thái Thập nước Tấn tham kiến Đoan Mộc tiên sinh.” Thập hắng giọng, bước đến dưới thềm cúi người hành lễ.

Đoan Mộc Tứ thoáng ngập ngừng, bấy giờ Ngũ Nguyệt Dương quỳ bên cạnh y vội cung kính thưa, “Chủ nhân, đây là thầy lang nô tỳ mới tìm được. Lang Lâm hôm nay ra ngoài thành thăm bệnh rồi, đến chiều muộn mới về.”

“Ồ ra vậy. Tiên sinh không cần đa lễ, bệnh nhân ở trong này, mời mau mau theo tôi vào trong chẩn bệnh!” Đoan Mộc Tứ sải bước xuống thềm đỡ Thập dậy.

Thập khẽ vâng dạ ngẩng lên, bắt gặp ngay một đôi mắt săm soi quan sát.

“Ồ chú em, sao lại là cậu?” Đoan Mộc Tứ nhìn cô, trong mắt ánh lên vẻ ngạc nhiên xen lẫn mừng rỡ.

“Đoan Mộc tiên sinh còn nhớ tôi ư?” Phản ứng của Đoan Mộc Tứ khiến Thập hơi kinh ngạc. Cùng tránh gió tuyết trong cánh rừng ở Tần từ hơn một năm trước, không ngờ giờ y lại nhận ra cô nhanh như vậy.

“Dĩ nhiên là nhớ rồi.” Đoan Mộc Tứ vỗ vai Thập, tươi cười quan sát cô một lượt, “Xuân năm nay ta còn nhờ người ở Tần nghe ngóng tin tức về cậu, tiếc rằng vẫn bóng chim tăm cá, không ngờ hôm nay lại gặp tại đây.”

Đoan Mộc Tứ tìm cô ư? Thập được yêu đâm sợ, vội cúi đầu hành lễ, “Tôi có tài đức gì đáng được tiên sinh nhớ đến đây?”

“Cậu còn nhớ năm xưa từng đàm luận với ta về chuyện mua nô lệ mà không nhận vàng chăng?” Đoan Mộc Tứ cười, dắt tay Thập bước lên thềm.

Thập vội giẫm tụt giày, theo y bước lên thềm căn nhà gỗ, “Dĩ nhiên tôi vẫn nhớ.”

“Chú em nói ta mua nô lệ nước Lỗ, nếu không tới quan phủ nhận tiền chuộc là đánh mất đạo nghĩa của người Lỗ, bấy giờ ta không hiểu hàm ý bên trong; sau này về Lỗ, thầy ta cũng trách mắng y như cậu vậy, ta mới biết mình lầm lỗi lớn. Xuân năm nay ta nhờ người ở Tần tìm cậu là muốn mời cậu sang Lỗ gặp thầy ta.”

“Đoan Mộc tiên sinh, phen này tôi tới Lỗ chính là muốn bái phỏng thầy Khổng đó!”

“Vậy thì tốt quá rồi!” Đoan Mộc Tứ cười đáp, “Chú em thông minh đĩnh ngộ, phen này nếu có thể bái làm học trò thầy, biết đâu sau này chẳng là một Tử Uyên thứ hai?”

Tử Uyên là tên chữ của Nhan Hồi. Thập và Đoan Mộc Tứ mải hàn huyên ngoài cửa, suýt quên bẵng cả việc chính.

“Tiên sinh quá khen, tôi sao dám so với thầy Nhan cơ chứ? Chẳng hay thầy Nhan mắc bệnh gì? Trước kia đã mời thầy thuốc nào chưa?”

Nhắc tới Nhan Hồi, nét mặt Đoan Mộc Tứ thoắt chốc đổi vui thành buồn, “Mấy tháng nay Tử Uyên vẫn thay thầy biên soạn Kinh Dịch, anh ấy vốn đã yếu, sáng nay vừa ra cửa thì ngất lịm, giờ vẫn chưa tỉnh.” Đoạn Đoan Mộc Tứ chìa tay phải ra ý mời cô vào phòng.

Thập khom người chui qua khung cửa thấp, đập vào mắt là một gian phòng chừng năm bộ vuông.

Trong phòng chỉ có một sập thấp, một bàn dài, còn lại là vô số cuộn thẻ tre.

Một người tóc bạc phơ nằm trên sập, còn một người đàn bà và một đứa trẻ quỳ trên tấm chiếu cỏ trải cạnh đó.

Người đàn bà và đứa bé hành lễ với Thập, trong khi cô ngơ ngác quay sang nhìn Đoan Mộc Tứ. Chẳng phải bảo Nhan Hồi bị bệnh ư? Sao trên sập lại là Nhan Lộ, cha Nhan Hồi?

“Tử Uyên năm xưa trong lúc theo thầy chu du khắp các nước từng đổ bệnh nặng, hai mươi chín tuổi đã bạc trắng cả râu tóc. Mấy năm nay anh ấy vẫn luôn giúp thầy thu thập, biên soạn kinh sách, lao tâm lao lực nên mới thành ra như vậy.” Đoan Mộc Tứ nhìn Nhan Hồi yếu đuối già nua trên giường bệnh, xót xa giải thích.

Người này là Nhan Hồi ư? Chính là “đứa trẻ hôi sữa” thông minh dĩnh ngộ không ai bì kịp mà thầy cô vẫn kể đấy ư?

Thập từng nghe nói Nhan Hồi chỉ lớn hơn Đoan Mộc Tứ một tuổi, Đoan Mộc Tứ trước mặt mũ ngọc áo hoa, vẫn phong độ ngời ngời mà Nhan Hồi đã tóc bạc da mồi, già yếu như một ông lão bảy mươi.

Cô đặt hờ hai ngón tay lên cổ tay Nhan Hồi, đôi mày không khỏi chau tít lại. Đây là mạch tượng của một người già, yếu đến mức cô gần như không nhận ra được.

“Cha tôi thế nào rồi?” Cậu nhỏ quỳ bên sập nhích tới hỏi khẽ.

“Thầy Nhan thường ngày hay làm gì? Ăn những gì?”

“Cha tôi thường ngày hiệu đính thư tịch cổ các nước, đói thì ăn một miếng cơm, khát thì uống hai ngụm nước, mệt thì dựa vào tường chợp mắt chừng một canh giờ.”

Nghe Sử Mặc kể, trong lúc chu du các nước, Khổng Khâu từng thu thập rất nhiều thư tịch cổ tản mát ở các nước Tề, Lỗ, Tống, Vệ, Trần, Sái, Sở v.v… trong đó bao gồm cả thơ ca, nhạc khúc các nước, các cuốn trục về Dịch học và điển tịch lễ pháp nhà Chu. ông ta và các học trò bao năm nay vẫn hiệu đính, chỉnh lý những sách vở thiếu hụt nọ, biên soạn thành sáu bộ kinh thư: Thi, Thư, Lễ, Dịch, Nhạc và Xuân thu để người đời xem đọc nghiên cứu.

“Ngày nào cũng thế à? Bao lâu rồi?”

“Thưa, hơn ba năm rồi.”

Ba năm… Một người ăn uống đạm bạc, sống cảnh nghèo túng, dốc hết tâm sức làm việc miệt mài suốt ba năm, sao có thể không già?

Thu thập, biên soạn kinh sách đâu phải dễ dàng? Trước lúc sang Tề, Thập từng ở phủ thái sử giúp sử Mặc hiệu đính, chỉnh sửa một phần điển tịch Dịch học mà các thái sử nước Tấn đời đời truyền lại. Từ sáng sớm đến tối khuya ngồi bên bàn, mới được ba ngày cô đã thấy váng đầu hoa mắt, lưng đau như dần. Vậy mà Nhan Hồi kiên trì suốt ba năm.

Những thẻ trúc cũ nát ấy đã đục ruỗng thân thể y, rút cạn khí huyết y. Giờ y đã là đèn cạn dầu, chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn, bất cứ lúc nào cũng có thể tắt thở.

Nhan Hồi chắc không còn được bao lâu nữa… Nhưng nhìn hai mẹ con đang cố nén đau buồn trước mặt, Thập không sao thốt ra được sự thật tàn nhẫn này.

“Đọc lâu hại huyết khí, ngồi lâu hại cơ thịt. Thầy Nhan lao tâm lao lực nhiều năm, khí huyết hao tổn, thân thể yếu mệt, nên mới hôn mê bất tỉnh.” Thập đặt lại tay Nhan Hồi vào chăn, đứng dậy đi tới trước bàn, nhặt một thanh tre lên viết tên mấy vị thuốc rồi đưa cho cậu nhỏ, “Tôi kê mấy vị bổ khí huyết, các vị tới hiệu thuốc mà mua, sau này mỗi ngày sắc lên uống ba lần, đồng thời kết hợp ăn thêm cháo thảo dược ấm để điều dưỡng là được. Có điều thầy Nhan không được hiệu đính sách vở nữa, hao tâm tổn sức lắm, bằng không e sẽ nguy đến tính mạng đấy.”

Cậu nhỏ siết chặt thanh tre tần ngần trước bàn hồi lâu mới đỏ bừng mặt hỏi khẽ, “Thuốc này bao nhiêu tiền ạ?”

Dược liệu bổ khí huyết vừa hiếm có lại khó hái, nên giá cả cao hơn các vị thuốc bình thường nhiều. Thấy cậu ta khó xử ra mặt, Thập hiểu ngay, “Đưa thanh tre cho tôi.” Cô lấy lại thanh tre rồi quay ra đưa cho Tư đang đợi ngoài cửa, “Cậu đi mua hộ mình mấy thứ này. Mấy vị kê ở cuối, nếu một hiệu không có thì chịu khó đi mấy hiệu vậy”

“Mình nhớ rồi.” Tư gật đầu rồi xoay người đi ra ngoài.

“Thưa, không thể làm thế được.” Cậu nhỏ chẳng kịp xỏ giày, hớt hải sải mấy bước xuống thềm níu Tư lại, “Vô cớ nhận ơn huệ của người khác không phải hành vi của bậc quân tử, nếu cha biết được sẽ trách tội tôi mất.”

“Nếu cậu không muốn nhận ơn huệ của người ngoài thì kêu Ngũ Nguyệt Dương đi mua theo đơn tôi kê là được.” Thập vẫy tay với Tư rồi quay sang nhìn Đoan Mộc Tứ đang đứng bên cạnh.

Đoan Mộc Tứ là lái buôn giàu có ở Lỗ, Nhan Hồi lại là bạn đồng môn với y, y đâu thể không ra tay giúp đỡ?

Đoan Mộc Tứ nhanh nhạy, tức thì hiểu ngay ý cô. Y thở dài nói, “Ôi, thường ngày Tử Uyên rất không thích ta vung tiền ra giúp đỡ anh ấy, nhưng hôm nay gặp việc khẩn cấp, đành trái ý anh ấy một lần vậy.” Đoạn y lấy trong tay áo ra một túi gấm đưa cho Ngũ Nguyệt Dương, “Ngươi đi với Tư cô nương, đi mau về mau nhé!”

“Dạ!” Ngũ Nguyệt Dương nhận lấy bằng cả hai tay, khom lưng hành lễ rồi chạy tới cạnh Tư, “Chị Tư, chúng mình đi thôi!”

“Ừm.” Tư nhìn cậu nhỏ kia rồi kéo Ngũ Nguyệt Dương rảo bước ra ngoài.

Thấy mình không sao ngăn nổi hai người, cậu chàng nọ luống cuống đi quanh sân mấy vòng, “Chú Đoan Mộc, tháng trước cha con vừa cự cãi với chú về chuyện này, sao giờ chú lại thế rồi? Lát nữa cha tỉnh lại, chắc sẽ không tha cho con đâu.”

“Chú em đừng sợ, thầy Nhan giờ chưa tỉnh, lát nữa thầy ấy tỉnh dậy, cậu cứ nói những thảo dược ấy là hai ta lên núi hái chẳng phải xong rồi sao?” Thập miệng thì an ủi nhưng lòng lại nghĩ thâym, cậu nhỏ này xem bộ mới mười một mười hai tuổi mà đã chấp nê vào đạo quân tử như vậy, hẳn thường ngày Nhan Hồi phải dạy dỗ nghiêm khắc lắm.

“Không được, tôi sao có thể nói dối cha?” Nghe cô đề nghị, cậu chàng vội lắc đầu quầy quậy.

Thập mỉm cười vẫy cậu ta lại trước mặt, “Tại hạ nghe nói có học trò hỏi thầy Khổng về đạo quân tử, thầy đáp rằng: quân tử có thể bị gạt một cách hợp lý, chứ không thể bị gạt một cách vô lý*. Quân tử có thể chấp nhận lời nói dối thiện ý. Nếu cậu không muốn nói là tự hái, lừa dối cha mình thì chúng ta vào nhà tìm xem có cách nói nào khác không nhé?”

“Hâm, con vào trong săn sóc cha đi! Chuyện này ta sẽ giải thích với cha con!” Đoan Mộc Tứ đặt tay lên vai đẩy cậu nhỏ vào trong. Sau khi cậu ta vào rồi, y mới nhẹ nhàng khép cửa phòng lại, kéo Thập ra một góc sân, “Vừa nãy ta thấy trong lúc xem bệnh cậu cau tít mày, có phải bệnh của Tử Uyên…”

Thấy Đoan Mộc Tứ ngập ngừng, Thập hiểu ý y, cũng không muốn giấu giếm, đành gật nhẹ đầu, “Mạch tượng thầy Nhan cực yếu, lúc có lúc không. Bệnh của thầy ấy là do lao lực nhiều năm, nếu kịp thời điều dưỡng tử tế từ lúc râu tóc bạc trắng năm hai mươi chín tuổi thì có lẽ còn sống qua được sáu mươi; nhưng hiện giờ tạng phủ đều đã tổn hại nặng nề, phương thuốc tôi kê hôm nay cũng chỉ giúp giữ được hơi tàn mà thôi. Nếu muốn sống lâu hơn, e rằng phải tìm cách khác.”

“Có cách gì cứu được Tử Uyên, xin cậu cứ nói.”

“Tôi mới hành y chưa lâu, y thuật còn non kém, nhưng năm xưa từng đọc được chứng bệnh tương tự của thầy Nhan trong sách y. Cuốn sách đó do thần y Biển Thước để lại nên tôi nghĩ nếu mời được Biển Thước chẩn trị cho thầy Nhan, có lẽ vẫn còn cứu được.”

“Tứ cũng từng nghe tiếng Biển Thước, song thần y hành tung bất định, muốn tìm cũng đâu phải dễ?”

Thập nghiêng đầu nhìn những thẻ tre trắng Nhan Hồi phơi dưới mái hiên, ngẫm nghĩ giây lát rồi bảo Đoan Mộc Tứ, “Thầy Nhan cứ tạm thời uống thuốc tôi kê để điều dưỡng đã. Trước kia tôi nghe nói Biển Thước ở Tấn, hôm nay trở về tôi sẽ phái người sang Tấn dò hỏi, nếu tìm được thần y sẽ lập tức nhờ người hộ tống ông ấy đến Khúc Phụ. Thầy Nhan nức tiếng về đức độ, chắc thần y cũng không nề đi một chuyến đâu.”

“Nếu thực sự mời được Biển Thước xem bệnh cho Tử Uyên thì tốt quá rồi. Ta xin thay Tử Uyên tạ ơn cậu trước!” Nói rồi Đoan Mộc Tứ giơ hai tay khom người vái cô một vái dài.

“Tiên sinh làm vậy là tôi tổn thọ đấy.” Thập vội cúi xuống đỡ Đoan Mộc Tứ dậy, “Chuyến này tôi lặn lội nghìn dặm tới kinh đô nước Lỗ là mong có dịp học hỏi các bậc hiền tài cửa Khổng. Hôm nay có thể góp chút sức mọn giúp thầy Nhan là vinh hạnh của tôi, tiên sinh chớ tạ ơn làm gì. Tôi cũng có một việc chưa rõ, muốn thỉnh giáo tiên sinh trước.”

“Mời cậu cứ nói.” Đôi mày Đoan Mộc Tứ giãn ra, y cười đáp.

Thập chắp tay vái rồi nghiêm trang hỏi, “Xin hỏi giữa tiên sinh và thầy Khổng, ai mới là người hiền?”

Đoan Mộc Tứ cười đáp, “Thầy là bậc thánh nhân, không thể đàm luận về chuyện hiền hay không hiền được. Tứ theo hầu thầy cũng như kẻ khát uống nước sông, no bụng là đi, sao biết được sông nông sâu thế nào?”

Câu trả lời của Đoan Mộc Tứ khiến Thập không khỏi kinh ngạc, cô cứ ngỡ kẻ đầy bụng học vấn như y thể nào cũng có vài phần tự kiêu, nào ngờ y lại đặt mình thấp như vậy.

“Tiên sinh sao phải khiêm tốn thế? Bốn năm trước tiên sinh du thuyết năm nước, giữ Lỗ, loạn Tề, phá Ngô, sau trận Ngải Lăng, cục diện thiên hạ thảy đều thay đổi vì lời tiên sinh. Hai năm trước, tiên sinh lo việc ở Vệ, người Ngô giam giữ Vệ hầu hòng gây rối loạn nước Vệ, cũng chính tiên sinh thuyết phục Ngô thái tể, giúp Vệ hầu về nước an toàn. Tôi còn nghe nói, tiên sinh giờ đương định sang Tề thuyết phục Tề hầu trả lại thành trì vốn thuộc về Lỗ. Tài của tiên sinh, người đời đều biết. Vậy mà tiên sinh lại ví mình như người uống nước, còn thầy Khổng là dòng sông sâu không thấy đáy, tôi thực không rõ thầy Khổng hơn tiên sinh ở đâu nữa.”

Nghe cô nói một hồi, Đoan Mộc Tứ chỉ cười không đáp, quay vào nhà ôm ra một tấm chiếu cỏ, trải giữa sân, “Mời cậu ngồi.” Dứt lời y cởi ủng ngồi quỳ xuống chiếu. Thập cúi đầu hành lễ rồi cũng ngồi xuống đối diện.

“So tài năng giữa Tứ và thầy, ta cứ lấy bức tường cung thất làm ví dụ, thì tường của Tứ cao tới vai, nên người ở ngoài thấy được những cái đẹp trong nhà. Còn tường của thầy cao mấy nhận, nếu không qua cửa mà vào thì không thấy được những cái đẹp trong tôn miếu, sự kiến trúc các điện phong phú ra sao. Hoặc giả ít người qua được cửa*.”

Nếu không qua cửa mà vào thì không thấy được những cái đẹp trong tôn miếu ư? Thập ngẫm lại lời Đoan Mộc Tứ, nghi hoặc hỏi, “Ý tiên sinh là tôi không hiểu được cái tài của thầy Khổng bởi còn chưa đạt tới cảnh giới cao minh, chưa vào được cửa ư?”

“Ta theo hầu thầy đã hơn hai mươi năm mà cũng chưa dám nói mình đã vào được cửa. Khắp thiên hạ này cũng chỉ có mình Tử Uyên là hiểu rõ nhất cảnh giới của thầy mà thôi.”

Sự khiêm nhường của Đoan Mộc Tứ lại một lần nữa khiến Thập kinh ngạc.

“Thầy Nhan cũng là bậc hiền tài hơn tiên sinh ư?” Thập hỏi.

“Hẳn rồi, Tứ nghe một biết hai, Tử Uyên nghe một biết mười, Tứ sao bằng Tử Uyên.” Đoan Mộc Tứ quay đầu nhìn về phía gian nhà gỗ.

Nếu người thầy Thái ngưỡng mộ là Khổng Khâu thì người Thập ngưỡng mộ chính là Đoan Mộc Tứ. Tuy dáng vẻ áo đẹp mũ vàng của y khác hẳn hình tượng nho sinh phong độ ngời ngời trong tưởng tượng của cô hồi nhỏ, nhưng tài năng của y cùng những việc y làm trong mấy năm gần đây đều khiến cô khâm phục tận đáy lòng. Vậy mà trước Khổng Khâu, y lại đặt mình ở vị trí thấp như vậy, cô ngưỡng vọng y còn y lại ngưỡng vọng Khổng Khâu. Thế giới bên trong bức tường cung thất cao mấy nhận mà cô không có cửa vào kia, rốt cuộc vĩ đại tới chừng nào?

Lời của Đoan Mộc Tứ bất giác nhen lên trong lòng cô một đốm lửa: cô muốn gặp Khổng Khâu, muốn nhìn thấy thế giới bên trong bức tường cung thất mà người đời không biết nọ.

“Tôi muốn xin theo học thầy, mong tiên sinh giới thiệu giúp cho.” Thập cúi người dập đầu vái Đoan Mộc Tứ một vái dài.

Báo cáo nội dung xấu