Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 25

VÔ TUẤT HỎI ĐẠO

“Ý thầy có phải là kẻ làm vua muốn cai trị lâu dài thì phải lừa dối bưng bít dân chúng, để dân chúng không biết gì chăng? Không biết thì không xét kỹ, không xét kỹ thì khỏi loạn. Lúc chu du các nước, thầy thường nói phải giáo hóa muôn dân, lẽ nào chỉ là nói suông thôi sao?”

Triệu Vô Tuất vừa thốt ra câu này, Thập như trông thấy một thanh kiếm sắc lạnh lấp loáng từ tay hắn rời vỏ, chĩa thẳng vào Khổng Khâu.

Một ông lão tóc bạc vóc người cao lớn, lưng hơi gù đứng trên thềm trước cổng phủ Khổng, ông vận chiếc áo nhà nho trắng tay rộng bằng vải the, mái tóc bạc lơ thơ được cố định trên đỉnh đầu bằng một cây trâm gỗ đỏ tía. Có lẽ vì tuổi già tóc rụng nên vầng trán ông rộng hơn người thường nhiều, gương mặt đầy những nếp nhăn sâu có nông có, đôi môi hơi móm mém vì rụng mất răng. Nếu không nhìn thấy đôi mắt ông, có lẽ Thập cũng chỉ coi Khổng Khâu như một ông cụ bình thường. Song cô tin rằng, bất cứ ai gặp ông cũng không thể bỏ qua cặp mắt ông, cặp mắt lấp lánh trí tuệ, mẫn tiệp mà tinh tế. Ánh mắt ông không toát lên khí thế dồn ép mà hết sức bình thản, nhưng dường như có thể nhìn thấu hết thảy trên đời.

Thập chợt thấy chột dạ, không dám nhìn thẳng vào mắt ông, sợ ông chỉ thoáng trông đã thấu tỏ những ngờ vực và giấu giếm trong lòng mình. Cô sực nhớ tới lời Đoan Mộc Tứ: “Tường của thầy cao mấy nhận, nếu không qua cửa mà vào thì không thấy được những cái đẹp trong tôn miếu, sự kiến trúc các điện phong phú ra sao…” Hôm nay nếu cô bước qua được cánh cổng trước mặt, nếu cô có thể ngồi xuống đàm luận với Khổng Khâu, liệu cô có tìm thấy “cánh cửa” ấy chăng? Cánh cửa dẫn tới thế giới tinh thần vĩ đại của Khổng Khâu mà người đời không biết ấy.

Cửa Khổng tôn sư trọng đạo, lễ bái sư cũng rườm rà phức tạp vô cùng.

Đầu tiên, Đoan Mộc Tứ thay mặt Khổng Khâu hỏi mọi người tới đây làm gì, tất cả lần lượt tỏ rõ ý cầu học. Sau đó Khổng Khâu lại tự xưng thiếu đức kém tài khó mà làm thầy, thế là mọi người lại tỏ rõ quyết tâm lần nữa. Khổng Khâu nghe xong mới mời họ vào nhà. Tất cả vào trong, quỳ xuống bái lạy Khổng Khâu rồi dâng lễ vật xin học. Khổng Khâu vái trả, nhận lễ, bấy giờ lễ bái sư mới hoàn thành.

Cả quá trình mất chẵn nửa canh giờ, trong suốt quá trình đó, Triệu Vô Tuất vẫn luôn đứng bên cạnh cô, vẻ mặt vô cảm. Lễ tiết xong xuôi, hắn mới bước lên hành lễ bái kiến Khổng Khâu, đồng thời báo tên giả là Cao Tức.

Là con trai Triệu Ưởng, Triệu Vô Tuất dường như có một sự kháng cự bẩm sinh với Khổng Khâu, hoặc có thể nói rằng, vì lập trường bất đồng nên hắn luôn có ý đối địch với quan niệm của Khổng Khâu.

Thập chẳng rõ ông lão ánh mắt sáng suốt trước mặt có nhận ra ý đối địch của Triệu Vô Tuất không, sau khi đáp lễ hắn, ông chỉ cười bình thản rồi xoay người đi về phía nhà chính.

“Thái Thập, trò không phải người Tần hả?” Khổng Khâu chống gậy bước lên thềm nhà chính, thấy chân trái ông hơi cứng, Thập vội bước lên đỡ, “Bẩm thầy, trò là người Tấn, ở Tân Giáng.”

“Ồ, cả đời ta chưa từng sang Tấn, trò thử nói xem Tấn và Lỗ khác gì nhau?” Khổng Khâu vừa hỏi vậy, bốn người Vệ chia ra đứng ở hai bên thềm nhất loạt đổ dồn mắt vào cô.

Trên đường đi, Đoan Mộc Tứ đã nhắc nhở cô, sau khi vào học, Khổng Khâu sẽ khảo sát học vấn của từng trò một lượt, để biết được năng lực và phẩm hạnh từng người. Những ai năng lực phẩm hạnh cao thầy mới dạy những học vấn cao thâm, còn những người chỉ tầm tầm thì thầy sẽ chọn những môn phù hợp với trình độ.

Ai nấy đến xin học dĩ nhiên đều muốn được học những điều cao xa, cả Thập cũng không ngoại lệ. Khổng Khâu hỏi cô về khác biệt giữa hai nước Tấn và Lỗ, hẳn là bắt đầu khảo sát cô đây?

Thập ngẫm nghĩ thật kỹ mới cúi đầu cung kính đáp, “Thưa thầy, người Tấn biết hình pháp, người Lỗ hiểu lễ giáo, nên Tấn nhiều kẻ phạm pháp, Lỗ lắm người vượt lễ. Hai nước đều loạn, chẳng khác gì nhau.”

Khổng Khâu vuốt bộ râu dài trước ngực, nhìn cô hỏi tiếp, “Vậy hình pháp và lễ giáo, thứ gì quan trọng hơn?”

“Đều quan trọng cả.” Vấn đề này cô đã suy ngẫm vô số lần nên trả lời rất nhanh. Thấy Khổng Khâu chỉ cười không nói, cô lại tiếp lời, “Hiểu lễ giáo giúp người ta biết liêm sỉ, rõ hình pháp khiến người ta biết sợ, trong việc trị nước trị dân cả hai đều quan trọng cả.”

“Sai rồi. Dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính*. Ta cho rằng, lễ giáo quan trọng hơn hình pháp.” Dứt lời Khổng Khâu sải bước đi vào nhà chính, ngồi xuống tấm chiếu cỏ quay ra cửa.

Lấy hình pháp trị dân, người người chỉ mong vô tội mà dễ đánh mất lòng liêm sỉ. Lấy đạo đức giáo hóa dân thì có thể khiến họ biết liêm sỉ mà không phạm pháp. Những lời này của Khổng Khâu nghe khá có lý, có lẽ năm xưa ông phản đối Triệu Ưởng đúc hình đỉnh cũng là vì thế chăng?

Thập ngẫm lại những lời Khổng Khâu nói, trong khi ông đã quay sang hỏi một người ngồi phía dưới bên phải mình, “Di Chỉ, con nói xem, quân tử dựa vào đâu để sửa mình?”

Người Vệ tên Di Chỉ nọ mở to mắt, nuốt nước bọt đánh ực, “Người quân tử, phải… phải chăm chỉ học, bớt ham muốn… quân tử…” Giọng y run run, ba người còn lại cũng thấp thỏm.

Luận nhân, luận đức, luận thơ ca, trong căn phòng bảng lảng khói hương, Khổng Khâu lần lượt hỏi đáp với từng người.

Trong suốt thời gian đó, tuy Khổng Khâu luôn mỉm cười hiền hòa, nhưng sau mấy phen đối đáp, cả năm học trò mới, bao gồm Thập đều mướt mồ hôi trán. Không giận mà uy hẳn là để tả những người như Khổng Khâu.

“Tứ, hôm nay ai giảng bài ở học đường vậy?” Ánh mắt Khổng Khâu bình thản lướt qua gương mặt mọi người.

“Ban sáng là Tử Hạ giảng thơ ca, còn buổi chiều Trọng Cung cùng học trò sẽ luận về chính sự.” Đoan Mộc Tứ quỳ bên góc tường chắp tay cung kính đáp.

“Ồ, Bốc Thương cũng là người Vệ, trò ấy với các trò trạc tuổi nhau, lại am hiểu khá nhiều về thơ ca. Đi thôi, chúng ta tới học đường xem thử nào!” Khổng Khâu nhặt cây gậy sơn đen dưới đất, run run đứng lên.

Thập đứng dậy định bước tới đỡ, nào ngờ Triệu Vô Tuất đã bước vượt lên tới trước mặt Khổng Khâu, chắp tay vái, “Thầy Khổng, kẻ hèn này có điều không hiểu, mong được thầy giải đáp.”

Mọi người trong phòng đều kinh ngạc.

Song Khổng Khâu vẫn thản nhiên như không, đặt gậy xuống, ngồi ngay ngắn trở lại, vái trả Triệu Vô Tuất một vái.

Triệu Vô Tuất sao vậy? Tối qua hắn còn quả quyết rằng không có hứng học hỏi gì Khổng Khâu cả, sao giờ lại nghiêm túc thế này?

Triệu Vô Tuất thẳng lưng ngồi ngay ngắn trước mặt Khổng Khâu, nhìn thẳng vào ông, “Thầy từng nói ‘Dân chúng, có thể khiến họ theo, chứ không thể giảng cho họ hiểu được*’?”

“Đúng vậy.” Thầy Khổng gật đầu.

“Người Tấn đúc hình đỉnh, khiến dân chúng biết hình pháp. Thầy từng nói rằng Tấn sắp mất nước?”

“Đúng.”

“Ý thầy có phải là kẻ làm vua muốn cai trị lâu dài thì phải lừa dối bưng bít dân chúng, để dân chúng không biết gì chăng? Không biết thì không xét kỹ, không xét kỹ thì khỏi loạn. Lúc chu du các nước, thầy thường nói phải giáo hóa muôn dân, lẽ nào chỉ là nói suông thôi sao?”

Triệu Vô Tuất vừa thốt ra câu này, Thập như trông thấy một thanh kiếm sắc lạnh lấp loáng từ tay hắn rời vỏ, chĩa thẳng vào Khổng Khâu.

“Ngươi là ai mà dám bất kính với thầy làm vậy?” Một người Vệ ngồi phía dưới bên trái Triệu Vô Tuất trợn trừng mắt, chống hai tay xuống chiếu bật dậy.

Thập chẳng rõ Triệu Vô Tuất nghe được lời bàn của Khổng Khâu ở đâu, nhưng câu “Dân chúng, có thể khiến họ theo, chứ không thể giảng cho họ hiểu được” vừa rồi ý nói quân chủ cai trị dân chúng, dẫn dắt họ vâng theo là được, chứ khỏi cần giảng giải cho họ hiểu vì sao lại làm vậy. Câu này bỗng dưng khiến cô nhớ tới lời Khổng Khâu nói khi Tấn đúc hình đỉnh năm xưa: “Tấn mất pháp độ! Mất nước tới nơi!”

Khổng Khâu nói, dân chúng hiểu được luật lệ hình pháp thì sẽ không còn kính sợ quý tộc như khi “không biết hình phạt, khó dò uy phong” nữa. Ghép hai chuyện này lại với nhau mà nhìn nhận quả thực sẽ khiến người ta ngờ rằng Khổng Khâu thường ngày rao giảng phải yêu dân, dạy dân song thực ra lại chủ trương ngu dân, muốn bưng bít để dân chúng không biết gì thì khỏi xét kỹ, khỏi làm loạn.

Chẳng trách người Vệ kia mắng Triệu Vô Tuất bất kính. Ngay lần đầu bái phỏng Khổng Khâu, hắn đã vòng vo mắng xéo Khổng Khâu giả tạo.

Có điều nghe Triệu Vô Tuất hỏi, Khổng Khâu chẳng hề giận dữ mà chỉ mỉm cười ngăn người Vệ đang nổi trận lôi đình lại rồi khoan thai trả lời Triệu Vô Tuất, “Trí tuệ người đời cũng phân ra cao thấp trên dưới, nếu người trên mỗi lần thi hành chính sách lại phải giảng giải cho nhà nhà thông hiểu, bắt những người dân không biết chữ cũng phải am hiểu nguyên nhân và ý nghĩa đằng sau từng chính lệnh ban ra thì chẳng những không thu được hiệu quả tốt mà còn làm rối loạn tai mắt dân chúng, khiến họ loạn cả tâm trí. Khâu cho rằng nếu muốn dân thông hiểu ắt phải dùng lễ nhạc giáo hóa họ, để họ biết phải học hành. Dần dà, nếu nông dân cày cấy, tiều phu đốn củi cũng có thể lo nghĩ tìm cách để đất nước thịnh trị lâu dài như các hạ thì Khâu tin rằng, dù chẳng có ai giảng giải cho họ những ý tứ sâu xa đằng sau chính lệnh, tự họ cũng thông hiểu được tất cả, ra làm quan luận bàn chính sự.”

“Ý thầy là thường dân chỉ cần học lễ giáo thì cũng có thể ra làm quan, cùng ngồi luận bàn chính sự với bề trên ư?” Người Vệ vừa rồi kích động không kìm được dấn lên mấy bước.

“Chính phải.” Khổng Khâu vuốt râu gật đầu.

“Vậy sao thầy lại nói Tấn mất nước tới nơi?” Triệu Vô Tuất ngẫm nghĩ giây lát rồi hỏi tiếp.

“Dạy dân hiểu hình pháp dĩ nhiên không dẫn tới mất nước, khanh tộc đấu đá không thi hành ân đức tới muôn dân mới là nguyên nhân làm Tấn diệt vong. Năm xưa khi Khâu nói lời này, lục khanh nước Tấn đang tranh đấu kịch liệt, dân chúng không được yên ổn. Đỉnh là vật quan trọng của quốc gia, Triệu Ưởng khắc Hình thư của Phạm Tuyên Tử lên đỉnh đồng, có nghĩa là Tấn đặt hình pháp lên trên đạo đức lễ nghĩa. Người chấp chính không thực hiện nền chính trị nhân đức mà lại lấy hình phạt ra uy hiếp dân chúng, ấy là con đường dẫn tới mất nước.”

“Con đường dẫn tới mất nước ư?” vẻ thờ ơ trong mắt Triệu Vô Tuất cuối cùng cũng gợn sóng trước câu này của Khổng Khâu.

“Ý thầy muốn nói trị nước bằng đức độ thì hơn là bằng hình phạt ạ?” Thập hành lễ hỏi.

“Đúng vậy.”

“Nhưng trò nghe nói trị nước cũng phân khoan dung và khắc nghiệt. Trị nước bằng lễ nghĩa đạo đức ắt là chính trị khoan dung, còn dùng hình phạt thì là chính trị khắc nghiệt. Xưa kia Tử Sản chính khanh nước Trịnh khởi xướng đúc Hình thư, khiến dân hiểu được hình pháp, nhờ thế mà người Trịnh an cư lạc nghiệp, còn làm thơ ca tụng ông ta. Sau khi ông ta qua đời, Du Cát chính khanh thi hành chính trị khoan dung, lấy nhân đức trị nước, lại khiến giặc cướp hoành hành ở Trịnh, lê dân oán thán vang trời. Như vậy chẳng phải chính trị khắc nghiệt tốt hơn chính trị khoan dung, mà trị nước bằng hình phạt thì hơn là bằng lễ giáo ư?”

“Sai rồi.” Khổng Khâu lắc đầu cười đáp, “Nền chính trị mà Tử Sản thi hành khác với nền chính trị của lục khanh. Tử Sản tuy cũng đúc Hình thư nhưng ông ta lại lấy hình phạt để bổ sung cho đức độ trong việc trị nước. Tử Sản nhân hậu yêu dân nên mới giúp nước Trịnh hưng thịnh. Nếu kẻ trị nước không dùng đức độ mà lạm dụng hình phạt thì chỉ làm dao động gốc rễ quốc gia mà thôi.”

“Ví dụ như nước Tề ạ? Vua Tề bất nhân lại lạm dụng hình phạt nặng nề nên tộc Trần mới làm loạn nước?”

Gốc rễ quốc gia là dân chúng. Nước Tề nhiều hình phạt khắc nghiệt, khi Tề cảnh công tại vị, kẻ bán chân giả ngoài chợ còn đông hơn người bán giày. Ai không nộp thuế sẽ bị chặt chân. Tộc Trần chính từ lúc đó đã bắt đầu thi ân rộng khắp cho dân chúng, dẫn tới ngày sau công thất đánh mất lòng dân.

“Đúng thế.” Khổng Khâu gật đầu cười đáp, “Chính trị khoan dung thì dân ngạo mạn, ngạo mạn thì lại phải nghiêm khắc uốn nắn. Chính trị khắc nghiệt thì dân hung dữ, hung dữ thì phải khoan dung để xoa dịu. Phải vừa khoan dung vừa nghiêm khắc mới hài hòa được.”

Thì ra quân chủ trị nước cũng có đạo lý phức tạp và khéo léo như vậy…

Lời Khổng Khâu như mở ra một cánh cửa sổ mà Thập chưa biết trong lòng cô, cô hỏi tiếp luôn, không chút nghĩ ngợi, “Thưa thầy, hôm trước trò cùng anh kết nghĩa ngang qua ấp Phí, thấy cũng có giặc cướp hoành hành, trong một tháng có đến hai mươi mốt người bỏ mạng trên đường. Trong tình cảnh đó còn có thể thực hiện nền chính trị khoan dung, lấy lễ giáo cai trị ấp ấy không?”

“Cái họa của ấp Phí đều bắt đầu từ chính trị khắc nghiệt mà ra, nếu muốn trừ họa, phải phế bỏ nền chính trị khắc nghiệt đã.”

“Ý thầy nói tới ‘thuế dùng ruộng’ mà tộc Quý Tôn áp dụng trong ấp ư?”

Khổng Khâu tủm tỉm cười. Lúc này, bốn người Vệ đang ngồi bèn hỏi Khổng Khâu về thuế dùng ruộng mà tộc Quý Tôn ban bố. Khổng Khâu kiên nhẫn giải thích, mọi người thảo luận hăng say, chỉ mình Triệu Vô Tuất từ đầu tới cuối vẫn cau mày. Hắn ngồi trước mặt Khổng Khâu, giữa đám người song dường như hoàn toàn không nghe thấy họ nói gì.

Dĩ nhiên Khổng Khâu đã để ý thấy thái độ của Triệu Vô Tuất, giữa lúc mọi người tạm dừng thảo luận, ông ta đột nhiên giơ tay bảo Đoan Mộc Tứ, “Tứ, tới giá lấy cuốn Nhạc ký tập ba xuống đây.”

“Dạ!” Đoan Mộc Tứ vội đứng dậy, lấy cuốn sách Khổng Khâu bảo xuống.

Khổng Khâu mở cuốn sách thẻ tre ra nhìn qua rồi cuộn lại đặt vào tay Triệu Vô Tuất, “Dùng lễ để quản lòng dân, dùng nhạc để hòa tiếng dân, dùng chính trị để thực hiện, dùng hình phạt để phòng ngừa, cả bốn thứ lễ, nhạc, chính trị và hình phạt bổ trợ cho nhau mà không mâu thuẫn, có thế vương đạo mới hoàn chỉnh.* Nếu các hạ chưa vội về Tấn, chi bằng ở lại đọc cuốn sách này, có lẽ sẽ gợi mở được phần nào.”

Khổng Khâu mời Triệu Vô Tuất ở lại ư? Thập quay sang nhìn Triệu Vô Tuất, thấy hắn lẳng lặng nhận lấy cuốn thẻ tre, hồi lâu không nói nên lời.

“Anh em hai vị đều là người Tấn, mà Khâu cả đời này chưa từng đặt chân đến Tấn. Năm xưa Tấn khanh Triệu Ưởng từng phái người mời Khâu sang Tấn, Khâu cũng vui vẻ lên đường. Xe đi đến Hoàng Hà, chợt nghe nói Triệu Ưởng giết hai vị đại phu đức độ trong nước, nên Khâu đã cho xe quay sang Đông, không đến Tấn nữa. Các hạ tuy chỉ là thường dân áo vải nhưng vẫn bận lòng về chính sự nước nhà, lòng ôm chí lớn, nếu bằng lòng thì ngày ngày có thể tới chỗ Khâu, chúng ta tiếp tục bàn về nền chính trị nước Tấn.”

Khổng Khâu mời Triệu Vô Tuất luận bàn chính trị khiến tất cả mọi người đều hâm mộ ra mặt.

Triệu Vô Tuất cầm cuốn sách, chăm chú nhìn ông lão đang tủm tỉm cười trước mặt.

Ngay sau đó, hắn chợt đặt cuốn sách thẻ tre xuống đứng dậy, rồi quỳ xuống đất vái một vái thật sâu, vẻ mặt hết sức nghiêm trang, “Tạ ơn thầy!”

Khổng Khâu mừng rỡ, hơi rướn người về phía trước tươi cười đỡ Triệu Vô Tuất dậy, “Hôm nay ta vui lắm. Đi nào đi nào, các trò theo ta tới học đường đằng sau xem thử đi!”

“Thưa thầy, để con dẫn họ đi nhé? Thầy đau đầu mấy hôm nay vừa đỡ, nên ở lại đây nghỉ ngơi thì hơn!” Đoan Mộc Tứ vội bước tới dìu Khổng Khâu đứng dậy.

“Không phải dìu ta, sáng nay ta uống thuốc rồi, không sao đâu.” Khổng Khâu xua tay rồi chống gậy đi ra cửa. Đi chừng hai bước, ông ta chợt dừng lại, hỏi Đoan Mộc Tứ, “Này Tứ, hôm nay Bốc Thương sắc thuốc cho ta, thế còn Hồi đâu? Hai hôm nay ta chẳng thấy trò ấy đâu cả.”

“Đêm trước Tử Uyên bị cảm lạnh trong lúc đang hiệu đính Kinh Dịch, anh ấy sợ lây cho thầy nên ở nhà đọc sách tĩnh dưỡng rồi ạ.”

“Ôi chao, đêm khuya gió lạnh, trò ấy lại yếu. Lát nữa con về nhớ cầm theo cái áo kép màu đen vạt trắng của ta cho Hồi, dặn trò ấy hằng ngày phải đi nghỉ sớm, chớ đọc sách thâu đêm nữa.”

“Dạ, đệ tử nhớ rồi.” Đoan Mộc Tứ rảo bước để bắt kịp Khổng Khâu.

Chân trái Khổng Khâu hình như bị tật, bước đi không được vững vàng như chân phải, đầu gối cũng hơi cứng. Dẫu vậy, ông vẫn năm lần bảy lượt cố né tránh không cho Đoan Mộc Tứ dìu. Thầy Khổng chống gậy run run bước xuống thềm, trong khi tay phải Đoan Mộc Tứ luôn đỡ hờ sau lưng ông, sẵn sàng dìu đỡ ông lão quật cường này bất cứ lúc nào.

“Mai chàng cũng muốn tới nghe giảng bài à?” Thập ghé lại gần Triệu Vô Tuất hỏi nhỏ.

“Ừm, ta còn vài vấn đề muốn nghe ý kiến thầy Khổng.” Triệu Vô Tuất nhìn cuốn sách thẻ tre trong tay, khẽ gật đầu.

Thập nhìn quanh thấy không ai để ý tới hai người mới kiễng chân ghé tai Triệu Vô Tuất cười nói, “Hồng Vân nhi à, sao ta nhớ hồi sáng có kẻ bảo rằng chẳng buồn tới nghe Khổng Khâu ăn nói nhảm nhí mắng mỏ người khác kia mà?”

Triệu Vô Tuất véo lưng cô cười khẽ, “Hồi sáng là hồi sáng, bây giờ là bây giờ. Có ta đi học cùng, nàng không vui à?”

“Đâu dám đâu dám, mai chàng mau đem thêm mười xâu thịt khô dâng thầy rồi gọi ta một tiếng sư huynh là được.” Sợ bị véo lần nữa, chưa nói dứt câu Thập đã co cẳng chạy.

“Nàng được lắm…” Triệu Vô Tuất chỉ sải hai bước đã bắt kịp cô.

“Suỵt!!” Thập vội quay sang ra hiệu cho hắn, “Sư đệ, nói năng cẩn thận chứ.”

Triệu Vô Tuất tự vê môi mình rồi nhướng mày với cô. Thập cúi đầu cười, kéo tay áo hắn đuổi theo thầy trò Khổng Khâu.

Báo cáo nội dung xấu