Trúc Thư Dao - Tập 3: Tề - Lỗ - Chương 28
BẺ BÚT BỎ VIẾT
Khổng Khâu ngôi thẳng dậy, cúi đầu nhìn cuốn thẻ tre trên bàn, trong đôi mắt ảm đạm rưng rưng lệ, “Không viết nữa, đáng lẽ ta phải ngừng viết từ lâu rồi, nếu ta không soạn Xuân thu, nếu ta không bảo Nhan Hồi chỉnh lý thư tịch cổ, có lẽ nó đã không chết. Chính ta đã khiến nó lao lực mà chết, nó còn trẻ thế kia mà…”
Đêm ấy, Thập ở lại phủ Khổng.
Khổng Khâu uống thuốc rồi thiếp đi, còn Bốc Thương cứ cách một canh giờ lại thay một thùng nước mới, lau mình cho ông. Qua nửa đêm, mặt Khổng Khâu đã bớt đỏ, thân thể cũng không còn run rẩy nữa. Bấy giờ Bốc Thương mệt lử mới ngồi dựa tường gà gật. Thập chẳng còn bụng dạ nào mà ngủ, bèn soi đèn dầu ra giá sách của Khổng Khâu tìm mấy cuốn sách thẻ tre.
Các nước trong thiên hạ đều có sách sử của riêng mình, sách sử của Tấn gọi là Thặng, của Sở là Đào ngột, của Lỗ là Lỗ xuân thu. Cuốn Xuân thu mà Khổng Khâu viết được soạn từ Lỗ xuân thu. Soạn sử là chức trách của thái sử. Khổng Khâu không phải quan viết sử mà lại dốc hết tâm sức hiệu đính Xuân thu, khiến Thập khâm phục vô cùng.
Soạn sử xưa nay vốn là công việc không có kết cục tốt, giữa thời loạn lạc này, viết thẳng viết thật thường phải rơi đầu.
Lối đi ngầm bên dưới cung điện nước Tề là năm xưa Tề Trang công bí mật cho đào để tư thông với nàng Đường Khương, vợ của Thôi Trữ, thừa tướng nước Tề, cuối cùng ông cũng vì vậy mà chết trong tay Thôi Trữ. Người khác nghe chỉ cho là một câu chuyện diễm tình bí mật chốn cung đình, nhưng lúc Thập ở phủ thái sử giúp hiệu đính sách sử của Tấn, Sử Mặc lại kể cho cô nghe một câu chuyện liên quan tới khí tiết của quan chép sử bắt nguồn từ chính vụ việc này.
Sau khi giết vua, Thôi Trữ đã yêu cầu thái sử nước Tề viết rằng Trang công chết vì bệnh, thái sử Bá không chịu, Thôi Trữ nổi giận giết luôn Bá. Sau khi thái sử Bá qua đời, em thứ hai là Trọng kế nhiệm chức thái sử. Thôi Trữ uy hiếp thái sử Trọng, song thái sử Trọng chẳng hề nao núng, vẫn viết đúng sự thực rằng “Thôi Trữ giết vua”, sau đó cũng bỏ mạng. Em thứ ba là Thúc kế nhiệm, không sợ cường quyền, nối tiếp di chí của hai người anh, chẳng bao lâu cũng bị Thôi Trữ giết.
Thôi Trữ giết liền ba thái sử, tới vị thái sử thứ tư là Quý kế nhiệm, Thôi Trữ cho rằng ông sẽ sợ, nào ngờ thái sử Quý đã mất cả ba người anh mà vẫn không chịu khuất phục. Cuối cùng Thôi Trữ cũng chùn tay, đành để thái sử Quý viết vào sử Tề tội giết vua của mình.
Thôi Trữ giết sử quan là bởi sợ để lại tội danh trong sách sử, ông ta quả thực đã giết vua nhưng lại sợ người đời sau chỉ trích thóa mạ mình. Thế nên khi cả thiên hạ đều không hiểu vì sao Khổng Khâu muốn biên soạn Xuân thu, Sử Mặc đã hiểu rõ, Trọng Ni viết Xuân thu là nhằm khiến loạn thần tặc tử trong thiên hạ sợ hãi.
Mượn ánh đèn dầu leo lét, Thập ngồi đọc một cuốn Xuân thu. Bút lực Khổng Khâu tinh tế khiến cô cảm thán muôn vàn. Chỉ riêng viết về việc chết đi, trong sách đã dùng rất nhiều từ khác nhau như “giết”, “hoăng”, “mất” v.v… Lúc mới đọc còn không để ý, song càng đọc càng phát hiện câu nào trong sách cũng có hàm ý, chữ nào cũng để khen chê. Một cuốn sách sử mà viết hay tới mức này, thảo nào Nhan Hồi giúp Khổng Khâu biên soạn phải mệt đến chết.
Sau Xuân thu, cô lại đọc sang mấy cuốn sách thẻ tre khác. Bốc Thương tỉnh giấc, thấy cô chong đèn đọc sách thì cũng lại gần xem.
Hai người lặng lẽ đọc sách, khe khẽ thảo luận, thời gian bất giác trôi qua.
Sau mấy tiếng gà gáy, đằng Đông bắt đầu sáng lên như bụng cá.
Trên giường, Khổng Khâu vẫn ngủ say. Thập sắc thuốc xong bèn ra đứng tựa cổng phủ, bần thần nhìn con đường đất vàng hai bên mọc đầy cỏ dại phía trước, vầng dương của một ngày mới dần nhô lên cuối con đường, những nho sinh đeo túi sách, vác chiếu cỏ lục tục xuất hiện trước mắt cô.
Người Lỗ, người Tề, người Tống, người Vệ, người Sở, người Tần… Họ tới từ những đất nước khác nhau, trong số họ có kẻ chẳng nề lặn lội muôn sông ngàn núi chỉ để bước lên con đường trước mặt cô, đi vào cánh cổng cạnh cô đây.
Thập ở lại phủ Khổng suốt ba ngày, sáng nào cô cũng tựa cửa lặng lẽ nhìn những học trò từ bốn phương tám hướng kéo đến. Có một khoảnh khắc, dường như cô bỗng hiểu được sự cố chấp chẳng tiếc mạng sống của Nhan Hồi, cũng lĩnh ngộ được ý nghĩa đằng sau việc biên soạn lục kinh của Khổng Khâu.
Nhan Hồi đã qua đời, ngay đêm hôm Nhan Hâm tìm tới phủ Khổng, y chẳng kịp đợi gặp người thầy tuổi cao sức yếu của mình đã vội vã lìa trần. Mấy ngày nay, đám Nhiễm Ung, Nhiễm Cầu đều ở nhà họ Nhan giúp lo hậu sự cho Nhan Hồi. Còn đằng Khổng Khâu, Đoan Mộc Tứ vẫn cố giấu chuyện Nhan Hồi đã mất. Nhưng Thập có cảm giác ông lão trên giường bệnh ấy đã nhận ra được gì đó. Hôm nay, trong khi uống thuốc, ông lại nhắc tới Nhan Hồi với cô. Ông kể rằng đêm qua mình mơ thấy Nhan Hồi, Nhan Hồi đang đứng trước ngõ nhà họ Nhan đợi mình. Nên ông muốn đi gặp Nhan Hồi.
Một khi Khổng Khâu đã quyết thì chẳng ai ngăn nổi, Đoan Mộc Tứ khuyên hết nước hết cái cũng vô ích, đành tự mình đánh xe đưa ông tới nhà họ Nhan.
Nhan Hồi chưa đầy hai mươi đã đi theo Khổng Khâu, từ ấy bất luận Khổng Khâu bị bao nhiêu người ngờ vực, trải qua bao nhiêu thất vọng suy sụp, Nhan Hồi vẫn vững tin vào tư tưởng và lý tưởng của ông. Lần này cái chết của Nhan Hồi sẽ khiến Khổng Khâu tuổi cao bệnh nặng chấn động tới mức nào, trong lòng mọi người đều hiểu rõ.
Múc nước, đốt lửa, sắc thuốc, để đối phó với hết thảy sự cố có thể xảy ra sau khi Khổng Khâu trở về, Thập ngồi ở phủ Khổng chờ sẵn, như một người lính sẵn sàng lao ra chiến trường.
Đợi từ giữa trưa đến tận hoàng hôn, khi vầng dương tà tà ngả về Tây, lò lửa từ từ lụi tắt. Không ngủ không nghỉ suốt ba ngày, sau mấy phen tranh đấu với cơn mỏi mệt, cuối cùng Thập cũng gục xuống chiếc bàn trong phòng Khổng Khâu thiếp đi.
Giữa lúc ngủ say, cô loáng thoáng nghe thấy tiếng xôn xao từ ngoài cửa vọng vào.
Thập còn lơ mơ chưa tỉnh hẳn đã đứng bật dậy, “Thuốc ở đây! Thuốc ở…” Cô quay đầu tìm ấm thuốc trên lò lửa thì thấy Khổng Khâu đang chống gậy đứng ngay trước mặt mình. Vành mắt ông đỏ hồng, vẻ mặt tiều tụy song dáng vẻ khá hơn cô tưởng tượng cả trăm ngàn lần.
“Thầy về rồi ạ.” Thập thầm thở phào, rời khỏi bàn.
“Thập, mấy ngày nay vất vả cho con quá.” Khổng Khâu rê gậy khó nhọc bước lên một bước, Thập vội đón lấy cây gậy rồi cẩn thận dìu ông ngồi xuống sau bàn. “Tối nay con về đi, về nghỉ ngơi mấy hôm. Các sư huynh của con đang thắng ngựa vào xe trước cổng kìa, để chúng đưa con về.” Khổng Khâu ngồi vững rồi run rẩy lấy trong ngực áo ra một cuốn sách thẻ tre.
“Thầy thấy sao rồi ạ? Có chỗ nào khó chịu không?”
“Ta vẫn khỏe, con đừng lo. Về nhà đi, con đã mấy ngày không về rồi mà.” Khổng Khâu vừa nói vừa cầm que cời lên khêu ngọn đèn dầu trên bàn rồi chậm rãi mở cuộn thẻ tre mới lấy trong ngực áo ra.
Thập nhìn ông lão mặt mày bình thản nọ, nhất thời không hiểu đầu cua tai nheo thế nào. Mấy hôm nay mọi người đều lo sợ sau khi ông tới nhà họ Nhan sẽ đau buồn quá độ mà đổ bệnh nặng thêm, vậy mà giờ đây ông chẳng hề kêu trời khóc đất, cũng không đấm ngực giậm chân, nếu không phải vầng trán thấp thoáng vẻ đau buồn thì cô cơ hồ tưởng rằng ông chẳng mảy may động lòng trước cái chết của Nhan Hồi.
“Thầy vừa đỡ sốt, tối nay cứ nghỉ đi đã ạ!” Thập quỳ thẳng người, liếc nhanh qua cuốn thẻ tre trong tay Khổng Khâu. Nét chữ trên thẻ tre ngay ngắn, mảnh nhỏ, giống hệt nét chữ hôm trước cô thấy trong phòng Nhan Hồi. Nghe Nhan Hâm kể, Nhan Hồi viết xong cuốn thẻ tre cuối cùng thì ngất lịm. Lẽ nào là cuốn thẻ tre trên tay Khổng Khâu đây?
Khổng Khâu tập trung đọc, Thập ngồi bên cạnh một lát rồi đứng dậy bưng ấm thuốc trên lò lại, “Thưa thầy, hôm nay con vừa sắc một thang an thần, hay thầy uống thuốc đã nhé?”
Khổng Khâu nhìn ấm thuốc, thở dài đáp, “Đặt xuống đi, lát nữa ta uống. Giờ không còn sớm nữa, trời tối đi lại không tiện, con mau về đi!”
“Dạ, học trò xin lui!” Thập ngập ngừng giây lát, cuối cùng cũng đặt ấm thuốc xuống cạnh tay ông. Có lẽ cô đã quá cả nghĩ, có lẽ con người ta đến tuổi của Khổng Khâu sẽ coi nhẹ rất nhiều chuyện.
Sau khi bái biệt Khổng Khâu, cô cứ đi một bước lại ngoái đầu một lần, chầm chậm ra khỏi cổng. Trước cổng, xe ngựa của đám Đoan Mộc Tứ và Nhiễm Ung đã mất dạng từ lâu, trên con đường đất vàng chỉ còn mấy dấu bánh xe nông choèn. Lúc này trời vẫn chưa tối hẳn, trên bầu trời lam thẫm, vầng trăng tròn trắng bạc vừa nhô lên, Thập cúi đầu giẫm lên cỏ dại ven đường, thong thả đi về phía Tây.
Lỗ công sẽ không xuất quân đánh Tề, Quý Tôn Phì dường như đã đạt được giao kèo gì đó với Trần Hằng. Trong ba ngày ở phủ Khổng, Ngư tới tìm cô một lần, báo rằng Tố và một người đàn ông tay có sẹo bỏng đã tới Khúc Phụ, ở trong phủ Quý Tôn Phì.
Nhắc tới người đàn ông tay có sẹo bỏng, Thập nhớ ngay tới người trung niên từng gặp bên ngoài lầu trúc ở phường Thanh Nhạc hôm ấy. Hương giang ly tao nhã, viền tay áo thêu hoa dâm bụt, lẽ nào kẻ đi lướt qua cô hôm ấy chính là mưu sĩ người Tấn đứng sau sắp đặt hết thảy âm mưu mà Tố nói? Nhưng ông ta rốt cuộc là ai, lần này ông ta sang Lỗ nói gì với Quý Tôn Phì? Sao chỉ dựa vào ba tấc lưỡi mà có thể thuyết phục Quý Tôn Phì bỏ qua cái chết của con gái, bắt tay làm hòa với tộc Trần? cả Tố nữa, chị ta là người yêu của Trương Mạnh Đàm, lại là thân tín của Trần Hằng, sau khi Tề hầu chết, Tố có biết tung tích Trương Mạnh Đàm và Vu An không? Mấy ngày này Triệu Vô Tuất có phái người đi gặp chị ta không?
Trong lòng chất chứa vô số câu hỏi, cô bất giác rảo bước thật nhanh.
Mặt trời đã lặn, sương đêm nổi lên, đầu kia con đường chợt vang tiếng vó ngựa dồn dập. Thập dừng bước ngẩng nhìn, chỉ thấy một thớt ngựa từ trong bóng tối phi như bay tới.
Con đường này thông thẳng đến phủ Khổng, muộn thế này rồi, kẻ nào gấp gáp tới tìm Khổng Khâu như vậy? Lẽ nào Lỗ công đổi ý rồi sao?
Thập nương ánh trăng mờ, nhìn về phía người trên lưng ngựa. Tóc búi cao, áo chẽn đeo kiếm, cô còn chưa kịp nhìn rõ mặt, kẻ nọ đã ghìm cương dừng lại ngay trước mặt cô.
“Thập.” Người trên lưng ngựa khẽ gọi. Bóng đêm che khuất gương mặt hắn, nhưng vừa nghe giọng, cô đã kinh ngạc giơ tay bụm miệng. Tốt quá, hắn vẫn còn sống, vẫn còn sống…
“Ta về rồi đây, để em lo lắng rồi…” Vu An lỏng cương, nhảy từ trên lưng ngựa xuống.
Thập chẳng nghe được hắn nói gì nữa, cô mừng rỡ ôm chầm lấy hắn, vui sướng reo lên, “Anh vẫn còn sống, tốt quá rồi, anh vẫn còn sống!”
“Ừm, ta vẫn còn sống, ta về rồi đây.” Vu An thở hắt ra, ôm cô.
“Sao anh lại ở đây? Anh về từ bao giờ? Anh gặp Vô Tuất với Tư chưa? Anh muốn dọa tôi chết khiếp đấy à?” Thập buông tay, kéo Vu An tới chỗ sáng, “Để tôi nhìn anh nào, anh có sao không? Có bị thương ở đâu không?”
“Em hỏi nhiều thế, bảo ta trả lời câu nào trước bây giờ?” Vu An nhìn cô cười.
“Trả lời lần lượt đi, tôi còn nhiều câu phải hỏi anh lắm!” Mới một khắc trước thôi, cô còn vắt óc nghĩ cách àm sao để gặp Tố, làm sao hỏi được chị ta tung tích Trương Mạnh Đàm và Vu An, vậy mà một khắc sau hắn đã xuất hiện ngay trước mặt cô như từ trên trời rơi xuống.
“Ta vẫn ổn, cũng không bị thương gì cả. Vừa rồi ta đã gặp Vô Tuất và Tư, Vô Tuất nói em lo cho ta lắm, nên bảo ta tới đón em về nhà.”
“Vô Tuất bảo anh tới đón tôi ư?” Thập nắm tay áo Vu An, trong nỗi vui mừng lại thêm mấy phần mật ngọt.
“Ừm, Vô Tuất nói nếu ta tới đón, em sẽ vui lắm.” Vu An cúi đầu nhìn cô, khẽ đáp.
“Đúng vậy, đúng vậy, ha ha… Anh tới đón thế này tôi vui lắm.” Nhìn Vu An bình yên vô sự đứng trước mặt mình, lại nghĩ tới Vô Tuất và Tư đang đợi ở nhà, Thập vui tới mức muốn nhảy cẫng lên.
“Còn một việc Vô Tuất muốn ta nhắn với em: khanh tướng truyền tin tới, bảo chúng ta muộn nhất là trưa ngày kia phải lên đường rời Lỗ. Đây là cuốn sách thẻ tre Vô Tuất cầm từ phủ Khổng về trong lúc náo loạn hôm trước, hắn đọc xong rồi, muốn nhờ em trả lại thầy Khổng giúp.” Vu An lấy trong tay nải trên lưng ngựa ra một cuộn thẻ tre.
“Ngày kia đã phải đi rồi ư? Nhanh vậy, Tấn xảy ra chuyện gì à?” Thập đón lấy cuộn thẻ tre từ tay Vu An.
“Yên tâm đi, là việc mừng mà. Thái sử Mặc bói được một ngày lành, tháng sau khanh tướng muốn lập Vô Tuất làm thế tử tộc Triệu.”
“Ra là thế, tôi cứ tưởng Tấn xảy ra họa loạn gì chứ.” Thập ôm ngực thở phào rồi cúi đâu cười tự giễu, “Anh không biết chứ, sang Tề một chuyến, giờ gan tôi còn nhỏ hơn cả chuột rồi.”
“Vô Tuất sắp thành thế tử tộc Triệu, em không ngạc nhiên sao?” Vu An lấy làm lạ nhìn cô.
“Trăng đến rằm thì trăng tròn thôi mà, nếu Triệu thế tử không phải chàng tôi mới kinh ngạc ấy!” Thập cười khì, cầm lấy dây cương từ tay Vu An, “Phủ Khổng ở ngay trước mặt thôi, anh đi với tôi nhé! Trước lúc về Tấn, tôi cũng phải chào từ biệt thầy Khổng mới được.”
“Được.”
Vu An đỡ cô lên ngựa, cô cúi xuống hỏi tiếp, “À phải, Trương tiên sinh cũng vẫn ổn chứ? Giờ y đang ở cùng Vô Tuất à?”
Vu An biến sắc mặt, tung mình lên ngựa ngồi sau lưng cô, hạ giọng đáp, “Đi chào thầy Khổng đã, chuyện Trương tiên sinh, chúng ta về nhà hẵng nói.”
“Sao phải về nhà hẵng nói? Có phải y xảy ra chuyện gì rồi không?” Thập thót tim, ngoái lại căn vặn.
“Trở về rồi nói! Hây!” Vu An kéo dây cương, hai chân kẹp bụng ngựa, thúc ngựa chạy thẳng về phía phủ Khổng.
Vừa rồi lúc gặp Vu An cô mới đi chưa được bao xa, nên chẳng mấy chốc đã quay lại trước cổng phủ Khổng.
“Anh đợi bên ngoài chút nhé, tôi ra ngay thôi.” Thập nhảy từ trên lưng ngựa xuống, chạy lên thềm gõ cửa.
“Đến đây!!” Ra mở cổng là quản gia Bình trong phủ, trong tay còn đương bế đứa cháu chưa đầy ba tuổi của Khổng Khâu là Khổng Cấp.
“Ông quản gia, thầy đã nghỉ chưa?” Thập bước vào cổng, vái ông ta một vái.
“Chưa đâu, đèn trong phòng vẫn sáng mà. Sao tiên sinh quay lại nhanh thế? Quên thứ gì à?” Quản gia bế Khổng Cấp khẽ gật đầu đáp lễ rồi dẫn cô vào trong.
“Có quên gì đâu, nhưng vừa rồi trên đường về tôi được tin báo rằng, nhà tôi ở Tân Giáng có chút việc, bảo tôi hai ngày nữa phải về Tấn. Trước lúc lên đường, tôi muốn đến chào từ biệt thầy thôi.” Thập sải bước đi tới bên cạnh ông quản gia, “Thuốc Đoan Mộc sư huynh mua hồi sáng còn một ít, lát nữa tôi sẽ chia thành từng thang, hằng ngày ông chỉ cần bỏ một thang tôi đã chia sẵn vào sắc với hai bát nước là được. Còn nữa, vết thương ở chân thầy phải thường xuyên thay thuốc, trước khi thay nhớ rửa sạch bã thuốc cũ rồi hẵng đắp thuốc mới nhé.”
“Cảm ơn tiên sinh dặn dò, kẻ hèn này nhớ cả rồi.” Ông quản gia gật đầu, “Tiếc quá, tiên sinh mới tới chưa được mấy hôm đã phải về rồi. Chủ nhân biết được hẳn sẽ buồn lắm đấy.”
“Tấn và Lỗ cũng chẳng xa nhau lắm, sau này có dịp tôi nhất định sẽ sang Lỗ thăm thầy. Khổng Cấp ngoan, chừng nào lớn con cũng sang Tấn thăm chú được không?” Thập cười xoa đầu Khổng Cấp. Khổng Cấp là con trai duy nhất của Khổng Lý, thông minh nhanh nhẹn. Sau khi Khổng Lý cha nó qua đời không lâu, mẹ nó cũng tái giá sang Vệ. Giờ ở đây chỉ có nó và ông nội Khổng Khâu tuổi già sức yếu nương tựa vào nhau.
“Vâng.” Khổng Cấp nhìn cô, gật gật đầu, bập bẹ nói rồi há miệng ngáp một cái thật dài.
Thập cười, vuốt ve đôi má phúng phính của nó, dặn quản gia, “Hình như nó buồn ngủ rồi đấy, ông cho nó vào phòng ngủ đi, tôi tự tới chỗ thầy được mà.”
Ông quản gia cúi đầu âu yếm nhìn đứa bé đã díp cả mắt lại trong lòng mình rồi mỉm cười, khom người hành lễ với cô, lui xuống.
“Thầy ơi, con Thập xin cầu kiến.” Thập đi tới trước phòng ngủ của Khổng Khâu, sửa lại quần áo rồi gõ cửa.
Bên trong im lìm, chẳng nghe động tĩnh gì, nhìn cánh cửa đóng im ỉm, lòng Thập chợt dấy lên một dự cảm bất thường.
“Thầy ơi, thầy ngủ rồi ạ? Con vào được không?” Đợi thêm một lát, thấy người bên trong vẫn không đáp lời, cô đành giơ tay đẩy cửa.
Cánh cửa kẽo kẹt mở ra. Thập cởi giày vải, ló đầu vào trong, bàng hoàng nhận ra Khống Khâu ngã nhoài sau bàn.
“Thầy ơi!!” Thập khom người xông vào phòng, đỡ Khổng Khâu dậy, “Thầy sao rồi? Thầy có nghe thấy con nói không?”
“Ừm…” Khổng Khâu rên rỉ rồi dần dần tỉnh lại, hé mắt ra nhìn cô, gương mặt nhăn nheo vẫn còn ngấn lệ, “Thập à, sao con còn quay lại…”
“Thầy ơi, thầy sao thế ạ? Vừa rồi rõ ràng thầy vẫn khỏe mà.” Nhìn ngấn lệ trên mặt, nghe giọng nói khàn đặc của ông, mũi Thập bỗng cay sè, “Thầy buồn thì cứ nói ra đi, đừng nén nhịn trong lòng.”
“Ôi, ta không sao đâu.” Khổng Khâu lắc đầu, gắng gượng muốn ngồi dậy. Ông chống tay lên tấm chiếu cỏ bồ, in xuống một dấu máu.
“Tay thầy chảy máu ạ?” Thập tóm lấy tay Khổng Khâu, song lại thấy nửa cây bút tre bị bẻ gãy cạnh tay ông. Cô nhặt nửa cây bút gãy dưới đất lên, ngay sau đó lại tìm thấy nửa cây còn lại trên bàn, “Thầy làm gì thế này?” Cô nắm chặt hai đoạn bút gãy trong tay, ngỡ ngàng nhìn Khổng Khâu.
Khổng Khâu ngồi thẳng dậy, cúi đầu nhìn cuốn thẻ tre trên bàn, trong đôi mắt ảm đạm rưng rưng lệ, “Không viết nữa, đáng lẽ ta phải ngừng viết từ lâu rồi, nếu ta không soạn Xuân thu, nếu ta không bảo Nhan Hồi chỉnh lý thư tịch cổ, có lẽ nó đã không chết. Chính ta đã khiến nó lao lực mà chết, nó còn trẻ thế kia mà…” Khổng Khâu vuốt ve những con chữ trên thẻ tre bằng bàn tay gầy khô nứt nẻ. Dưới ánh đèn nhập nhoạng, mấy giọt máu đỏ thẫm ở góc dưới bên phải cuốn sách thẻ tre như xoáy sâu vào mắt cô.
“Thưa thầy, thu thập, chỉnh lý những thư tịch cổ tản mát là ý nguyện của thầy, cũng là lý tưởng của Nhan sư huynh! Nếu đời người ta có thể chuyên tâm phấn đấu vì lý tưởng của bản thân thì đáng mừng biết mấy! Lúc viết xong cuốn sách này, chắc hẳn Nhan sư huynh vui lắm. Giả như giờ anh ấy còn sống, nhất định cũng không muốn thấy thầy đau lòng bẻ bút vì mình đâu!”
“Ta biết Hồi không trách ta, nhưng ta sẽ không viết Xuân thu nữa.” Khổng Khâu cúi đầu, lẳng lặng cuộn cuốn sách lại, “Năm xưa ta soạn Xuân thu là muốn đám loạn thần tặc tử trong thiên hạ sợ người đời sau rủa sả phê bình mà bớt phần càn rỡ. Nhưng đến nay chúng đã chẳng còn chút liêm sỉ nào nữa, sau này có viết thêm cũng chẳng ý nghĩa gì. Cả đời ta… suy cho cùng cũng chẳng làm nên trò trống gì hết!” Tới cuối cùng, giọng Khổng Khâu nghẹn lại, chẳng nói nổi trọn câu.
“Nếu thầy lấy việc phò tá quân vương, giúp dân giàu nước mạnh làm lý tưởng thì dĩ nhiên không bì được với Quản Tử, Án Tử. Nhưng Thập thấy cả đời thầy đã đạt được thành tựu mà Quản Tử, Án Tử cũng chẳng sánh nổi. Thầy có chúng con, thầy có ba nghìn học trò khắp thiên hạ, thầy có đầy nhà sách vở để truyền thụ đời đời, giáo hóa đời sau.”
“Này Thập, thầy có một câu muốn hỏi con.” Nghe cô nói, Khổng Khâu chợt ngẩng lên.
“Xin thầy cứ nói.” Thập chắp tay hành lễ.
“Đạo của ta có ngăn được loạn ly chăng?”
Thập không ngờ Khổng Khâu lại hỏi câu ấy giữa lúc này, nhất thời sững ra. Cô phải trả lời ông thế nào đây? Nói ra suy nghĩ của mình hay tìm vài câu dễ nghe để an ủi ông?
Thập ngẫm nghĩ giây lát, cuối cùng vẫn lắc đầu, “Thưa, không được. Trò cho rằng, đạo của thầy không thể ngăn nổi loạn ly.”
“Vì sao?”
“Dám hỏi thầy, thiên hạ vì đâu mà loạn lạc?”
“Vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con, lễ nhạc băng hoại, đạo đức suy đồi.”
“Ý thầy nói chỉ cần mỗi chúng ta làm tốt việc mình nên làm, tuân thủ những quy chuẩn đạo đức định sẵn thì có thể tạo ra một thiên hạ có nề nếp, không còn chiến tranh ư?”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Thưa thầy, làm tốt việc mình nên làm nghe thì dễ nhưng giữa thời loạn lạc này, muốn thực hiện được lại chẳng phải đơn giản. Người ta no cơm ấm áo mà bàn tới đạo đức, trò thấy đã quý hóa lắm rồi. Vậy mà thầy còn mong con người ta giữa lúc nguy nan trùng trùng, sống nay chết mai vẫn giữ vững lễ nghĩa đạo đức thì thực khó khăn lắm, đó là yêu cầu đối với bậc quân tử, hiền nhân mà thôi. Lỗ công không thể giữ lễ nghĩa vì sợ tộc Quý Tôn; Trần Hằng giết vua là bởi nếu không giết Tề hầu thì cả tộc Trần của ông ta sẽ phải chết. Giữa thời loạn ly này, ai ai cũng có điều phải sợ. Chư hầu, khanh tộc, sĩ đại phu, dân thường đều vậy cả. Vào lúc này mà thầy lại muốn họ làm quân tử, dĩ nhiên họ không thể làm được.” Nói tới đây, Thập không khỏi ngừng lại, e những lời mình nói làm tổn thương ông lão vốn đã chìm sâu trong đau khổ này.
“Con nói tiếp đi.” Khổng Khâu nhìn cô, không ngờ lại mỉm cười. Dù nụ cười của ông tắt lịm rất nhanh, nhưng cô vẫn thấy được một thoáng vui mừng trong nụ cười ấy.
Thập hít sâu một hơi, tiếp tục, “Giờ bất luận ở nước nào, từ chư hầu đến thường dân, điều họ mong muốn nhất không phải đạo đức mà là sinh tồn. Nếu người trong thiên hạ ai ai cũng là quân tử thì tư tưởng trị nước bằng lễ giáo của thầy dĩ nhiên có thể thực hiện, thời loạn lạc cũng sẽ khép lại từ đây. Có điều thiên hạ này được mấy kẻ là quân tử chân chính? Đạo của thầy, theo trò thấy là đạo của con người, đạo ở giữa con người, do con người kế thừa, lợi ích không ở ngay trước mắt mà ở muôn vàn đời sau. Một trăm năm, một nghìn năm, khi thời loạn kết thúc, khi tất cả chúng ta đều thành cát bụi, khi từ nông dân cày ruộng, tiều phu đốn củi cho tới bất cứ ai trên đời đều học hiểu được lễ nghĩa đạo đức, có lẽ lý tưởng tối cao trong lòng thầy ‘người già được hưởng hết tuổi trời, người trẻ được phát huy tài năng, trẻ thơ được trưởng thành lành mạnh, những người góa bụa cô độc bệnh tật đều được nuôi dưỡng’ mới có thể thực hiện được.”
Nghe cô nói xong, Khổng Khâu làm thinh hồi lâu, Thập cũng ngồi quỳ trước mặt ông, lặng lẽ đợi ông trả lời.
Cuối cùng ông nói rằng, những lời cô vừa nói chính là ý nguyện ban đầu của ông khi thu thập thư tịch cổ, biên soạn nên Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch. Ông muốn học trò cửa Khổng mở thật nhiều trường dạy học giáo hóa lê dân khắp các nước trong thiên hạ, qua đó giao phó lý tưởng mình chưa thể thực hiện được cho người đời sau. Ông nói mình không có sức cứu vớt thời loạn lạc này, nhưng ông có thể thông qua việc giáo dục mà gợi mở cho nhiều người đi tìm cách cứu vớt thế gian. Một ngày nào đó, có lẽ sẽ có người tìm ra một phương cách thực sự cứu được loạn thế này.
Thời gian vùn vụt trôi qua trong khi họ chuyện trò, mãi tới khi Vu An gõ cửa phòng, Thập mới nhận ra mình đã nán lại hơn một canh giờ.
Triệu Vô Tuất và Tư còn đang đợi cô ở nhà, cô cũng chưa kịp hỏi tin tức về Trương Mạnh Đàm, đến lúc phải từ biệt Khổng Khâu rồi. Cô đứng dậy chào từ biệt ông, nhưng lần này cô đã thú thật thân phận mình và Triệu Vô Tuất.
Khổng Khâu không hề trách mắng họ vì trước đó đã giấu giếm, trái lại còn cực kỳ vui mừng vì có duyên đàm luận một phen với con trai Triệu Ưởng, đệ tử Sử Mặc. Thấy Khổng Khâu khá tán thưởng trình độ Dịch học của Sử Mặc, Thập hào hứng khoe rằng Sử Mặc cũng đang noi gương ông, bắt tay vào thu thập biên soạn lại các thư tịch cổ nước Tấn ở thành Tân Giáng. Nghe vậy, Khổng Khâu bỗng rơi lệ. Có điều lần này, khóe môi ông cứ tủm tỉm mãi.
Khổng Khâu chống gậy tiễn Thập và Vu An ra tới cổng, Thập quỳ xuống dập đầu vái lạy ông như hôm bái sư.
“Thưa thầy, con phải đi rồi.”
“Đi đi, có dịp lại tới Khúc Phụ thăm chúng ta nhé.” Khổng Khâu cúi xuống đỡ cô dậy.
“Vâng.” Cô khom người vái ông lần nữa rồi tung mình lên ngựa ngồi sau lưng Vu An, “Thầy vào nhà đi, chân thầy đang bị đau, không đứng lâu được đâu.”
“Ta biết rồi, con đi đi.” Khổng Khâu cười gật đầu.
Vu An thúc ngựa chở Thập chạy đi, song Khổng Khâu vẫn đứng bất động trước cổng dõi theo bóng họ.
Nhìn dáng ông mỗi lúc một nhỏ dần, cuối cùng hoàn toàn bị bóng đêm nuốt chửng, lòng Thập chợt đau thắt.
“Em sao thế?” Nhận ra cô khang khác, Vu An ngoái lại hỏi.
“Không sao, chỉ hơi buồn thôi.” Cô ôm thắt lưng Vu An, quay đầu ngẩn ngơ nhìn vầng trăng bạc giữa trời. Thiên hạ này sẽ chỉ ngày càng loạn lạc, tất cả bọn họ đều đang khổ sở vẫy vùng trong bóng tối, mà chẳng một ai biết đốm lửa thắp sáng lên đang ở đâu*.