Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 10
KỂ RA ĐỂ NHỚ
Thập rời chỗ Ngũ Âm thì trời đã ngả chiều, cô theo con đường mòn đi đến bên ngoài quẻ Tốn, thấy bên trong vẫn náo nhiệt tưng bừng. Kẻ gảy đàn, người múa kiếm, kẻ trêu đùa, người mắng mỏ, mọi người hỉ hả rộn ràng. Cô đứng ngoài cửa chốc lát rồi quay lưng lầm lũi về quẻ Càn.
Vù An cõng Thập thiếp ngủ trên lưng từ trên núi về, khúc Tử khâm của Thương khiến cô giật mình tỉnh khỏi giấc mộng tuyết bay lất phất.
Dưới bóng chiều tà, Vu An cõng cô đứng bên ngoài khu nhà quẻ Tốn, ráng chiều đỏ tía đổ rợp đất.
“Tôi ngủ thiếp đi mất, sao anh không gọi?” Thập tụt xuống khỏi lưng Vu An.
“Mắt em đỡ chưa? Còn đau không?” Hẳn cúi đầu xem kỹ mắt cô.
“Không sao, ở trong hang lâu quá bị quáng tuyết thôi.” Cô ló đầu vào trong, Thương đang gảy đàn ca hát trông thấy cô liền vẫy tay gọi lại.
Thập vẫy tay với Thương rồi bảo Vu An, “Tôi muốn đi thăm Ngũ Âm trước, anh bảo Dương chuẩn bị một hộp đồ ăn cho tôi được không? cả một bình rượu tùng hương nữa.”
“Đương lúc này em đi thăm bà ta làm gì?” Nghe tên Ngũ Âm, Vu An tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Tôi có mấy câu muốn hỏi bà ta, hỏi xong sẽ về ngay. Ở đây một chốc một lát đâu đã giải tán, chờ tôi từ chỗ Ngũ Âm về lại nhập bọn với mọi người.”
“Có cần ta đi cùng không?”
“Thôi khỏi, đằng đó vẫn có hộ vệ mà. Huống hồ tôi đánh không lại anh, chứ chẳng lẽ cũng đánh không lại Ngũ Âm hay sao?”
“Ta chẳng biết em muốn hỏi gì, có điều lời Ngũ Âm nói chưa chắc đã là thật, em phải cân nhắc hẵng nghe.”
“Tôi biết mà. Trước kia tôi đã bao giờ bảo anh lắm lời chưa?”
“Trước chưa, giờ thì rồi đấy.” Hắn tủm tỉm cười, cúi đầu sửa lại tấm áo xanh trên mình rồi xoay người bước vào quẻ Tốn.
Chẳng mấy chốc Dương đã đưa những thứ cô cần tới, Thiên Xu hiếm khi đông vui thế này, gương mặt Dương đỏ ửng lên vì rượu, xinh đẹp vô cùng.
Bên này cầm sắt hòa âm, ồn ào huyên náo, bên kia lại quạnh hiu tẻ ngắt, im lìm vắng vẻ.
Thập xách hộp đồ ăn tới trước cửa phòng Ngũ Âm, hai hộ vệ trước cửa thấy cô lập tức bước lên đón. Cô nói mình muốn gặp Ngũ Âm, hai người kia nhìn nhau rồi mở cửa cho cô.
Ngũ Âm vẫn ngồi ngay ngắn sau bức rèm xâu bằng đá mắt mèo, hệt như lúc cô gặp bà ta mấy tháng trước, chỉ khác là bàn ăn của bà ta giờ đây trống trơn, vỏn vẹn một bát cháo kê và một đĩa dưa muối.
“Càn chủ không cùng mọi người đón tết, tới chỗ vắng ngắt này của ta làm gì?” Ngũ Âm cúi đầu húp một hớp cháo, dường như bà ta không động tới đĩa dưa.
“Tôi đưa ít đồ ăn tới cho phu nhân.” Thập lấy từ hộp ra một bát cơm, một đĩa lợn rừng quay, một bát canh ngải cứu cùng một bát nhỏ tương mơ dầm muối.
Ngũ Âm nhìn qua rồi cười nói, “Không ngờ đôi tay chém giết của Tốn chủ cũng khéo quản việc nhà ra phết. Cô đến lầu Tỏa Tâm chưa?”
“Đến rồi.” Thập lấy ra hai chiếc chén đỏ có quai vẽ hoa văn đôi cá, đặt xuống trước mặt Ngũ Âm, rót đầy một chén rượu tùng hương cay nồng.
Ngũ Âm bưng chén rượu đưa lên mũi ngửi rồi ngửa cổ uống cạn, “Vậy cô đã thấy gì trong đó?”
“Hơn hai mươi năm trước, phủ Phạm từng có một bé gái tên Thuấn, đó là ai? Có quan hệ gì với tôi?”
“Cô đã hỏi vậy, hẳn phải biết đó là ai rồi.” Ngũ Âm vén tay áo rót thêm cho mình chén nữa, cũng uống cạn sạch.
“Là mẹ tôi ư?”
“Cô nói xem?” Được hai chén rượu tùng hương vào bụng, mặt Ngũ Âm cũng hồng lên, bà ta gắp một miếng thịt quay chấm vào bát tương mơ, nhưng mãi vẫn chưa đưa lên miệng. Thập rót cho bà ta một chén, bà ta đặt đũa xuống uống ngay.
“Ta phải đến năm tháng không uống rượu rồi, ấm ran cả bụng!” Ngũ Âm cầm chén không, ghé mũi lại hít một hơi dài rồi cười cười chìa ra trước mặt cô.
Cô rót rượu cho Ngũ Âm, bà ta nhìn cô chăm chú nhưng ánh mắt dần dần lại xuyên qua cô, hướng tới một nơi xa xăm, “Lần đầu tiên ta gặp, Thuấn mới mười hai mười ba, mái tóc dài vừa mềm vừa óng như gấm đen đất Tề. Rõ ràng vẫn là một cô bé mà đã thích cài hoa bên tóc mai. Hôm ấy Thuấn mặc một tấm áo đơn trắng tinh, cưỡi trên vai Phạm Cát Xạ, vít đầu ông ta xuống để hái dâm bụt trên cành. Hái một bông, lại vứt một bông, vứt đầy dưới đất mới chọn được một bông hồng phớt tím cài lên tóc. Phạm Cát Xạ là ai cơ chứ? Con trai chính khanh Phạm Ưởng của Tấn, thế tử tộc Phạm, giết người như ngóe. Vậy mà mẹ cô cưỡi trên vai ông ta, nhõng nhẽo ra lệnh, sang trái một chút, sang phải thêm tí, với cao lên chút, thấp xuống một tí. Bấy giờ ta đã nghĩ, đúng là mỗi người một phận, dạo ta bằng Thuấn, trời còn chưa sáng đã phải theo cha dong thuyền đi đánh cá, bắt được cá về còn phải mang bán, rồi rửa thuyền, vá lưới suốt đêm. Còn Thuấn chẳng cần làm gì cả, chỉ việc ngước gương mặt xinh đẹp hơn hoa đứng dưới gốc cây nói sang trái một chút, sang phải thêm tí, với cao lên chút, thấp xuống một tí…”
“Mẹ tôi là con gái tộc Phạm ư?” Mẹ qua lời kể của Ngũ Âm là một người cô chưa từng gặp, cô nhìn dán vào miệng Ngũ Âm, nhưng trong đầu lại hiện lên gương mặt vàng vọt như sáp và bàn tay gầy trơ xương sứt sẹo của mẹ lúc mất.
Ngũ Âm nhìn cô, nhưng mắt cô đã ầng ậng nước.
“Bà ngoại cô là em gái ruột Phạm Ưởng, được ông ta yêu thương rất mực, mẹ cô là em họ Phạm Cát Xạ, trước kia vẫn được nuôi ở Tiên Ngu, từ năm mười tuổi trở đi thì ở phủ Phạm. Chủ mẫu tộc Phạm không có con gái nên coi Thuấn còn hơn con đẻ. Phạm Cát Xạ phải lòng Thuấn, chỉ muốn đem tất cả những thứ tốt đẹp nhất dâng cho cô ta. Có điều với dung mạo của cô ta, quả thực cũng xứng đáng có được thứ tốt đẹp nhất trên đời.”
“Vậy Phạm Cát Xạ là cha tôi ư?”
“Ha ha ha, ông ta cũng muốn thế lắm. Tiếc rằng mẹ cô đã đem lòng yêu người khác.”
“Làm sao bà biết?”
“Phạm Ưởng, tông chủ tộc Phạm bấy giờ vẫn là chính khanh nước Tấn, Triệu Ưởng cứ cách ba ngày lại cử ta tới phủ Phạm dâng canh cá lên chủ mẫu tộc Phạm. Hôm ấy lúc rời phủ Phạm, ta đi ngang qua vườn hoa, thấy mẹ cô mặt đỏ bừng nấp trong góc tường, bên ngoài có người gọi, ‘Thuấn à, nàng còn đó không? Ta muốn gặp nàng.’”
“Ai gọi mẹ tôi thế? Sau đó thì sao?”
“Sau đó ta đã giúp cô ta. Ta giúp cô ta trèo tường trốn ra khỏi phủ Phạm, giúp cô ta gặp gã trai bên ngoài kia. Ngươi bảo, nếu hôm ấy ta không giúp cô ta, có phải cũng không có ngươi trên đời không? Có phải cô ta cũng khỏi phải chết không? Nhưng ta muốn nhìn cô ta trèo ra khỏi bức tường cao ấy, ta muốn để cô ta nếm mùi đau khổ trên đời. Dựa vào cái gì mà cô ta không phải chịu khổ, không phải lênh đênh trôi dạt kia chứ? Lúc chết, mặt cô ta có còn trắng trẻo nõn nà không? Cô ta có còn cưỡi cổ người ta hái hoa, hái một bông, vứt một bông không? Ha ha ha ha… Cô ta chết yểu là đáng kiếp, ai bảo cô ả yêu một kẻ không nên yêu, đẻ ra một đứa con không nên đẻ chứ.” Hơi rượu bốc lên, Ngũ Âm thẳng người dậy, vươn tay qua mặt bàn bóp chặt cằm Thập, “Ngươi là đứa bé lớn lên từ bùn đất, nhưng lần đầu tiên gặp ngươi, ta đã thấy khó ưa rồi. Giờ ta càng ghét ngươi hơn nữa.”
“Tốt lắm, bởi tôi cũng không ưa bà!” Thập tóm cổ tay Ngũ Âm giật ra, “Hôm nay tại sao bà cố ý nói với tôi những lời này? Bà có mục đích gì đây?”
“Ta chẳng có mục đích gì cả, chỉ muốn bảo cho ngươi biết, người thân nhất trên đời của ngươi không phải ở Tân Giáng, mà ở Lâm Truy. Người ngươi nên giúp cũng không phải ở Tấn, mà là ở Tề.”
“Tề ư? Quả nhiên bà đã ngả theo tộc Trần! Tại sao vậy?”
“Tại sao à? Năm xưa nếu không phải Triệu Ưởng ra tay giết Hàm Đan đại phu Triệu Ngọ vì ham muốn cá nhân thì con trai Triệu Ngọ đã chẳng làm phản, tộc Phạm cũng không làm phản, Tấn đã không loạn lạc. Ngươi có biết trong loạn lục khanh năm ấy đã có bao nhiêu người chết, bao người xa vợ lìa con, tan nhà nát cửa, chỉ vì tên Triệu Ưởng kia muốn đoạt lấy năm trăm hộ người Vệ trong thành Hàm Đan không? Những vinh hoa bấy nhiêu năm nay của tộc Triệu đều được đổi bằng mạng kẻ khác cả đấy.”
“Bà hận khanh tướng ư?” Thập ngỡ ngàng.
“Ta đã nói rồi, ta không yêu ông ta.”
“Người bà yêu… đã chết trong loạn lục khanh à?”
Ngũ Âm lặng thinh, gương mặt hồng lên vì rượu nhưng ánh mắt lại u ám. Bầu không khí im lặng nặng nề lan ra khắp phòng, bà ta nâng chén, uống thêm hai hớp rượu cay nữa.
“Cha tôi là ai?”
“Ta không biết.”
“Dược nhân nuôi trong phủ Trí để Trí Dao cắt máu là ai?”
“Ta không biết.” Ngũ Âm dằn mạnh chén xuống, đứng dậy cầm bình rượu trên bàn lên, cao giọng, “Ngươi về đi, ta muốn uống rượu một mình.”
“Trong mấy chiếc rương thời kỳ đầu của lầu Tỏa Tâm, có khá nhiều cuốn lụa bị hỏng, những cuốn lụa hỏng ấy ghi chép gì vậy?”
“Ta không biết.” Ngũ Âm quay lưng về phía cô, vén rèm buồng trong lên, “Hai mươi năm trước, lúc Triệu Ưởng mới lập ra Thiên Xu, tổng quản Thiên Xu không phải ta, mấy cái rương để ở chỗ cao nhất trong lầu Tỏa Tâm cũng không phải do ta niêm phong.”
“Vậy thì là ai?”
“Một người ngươi quen đấy.”
“Ai cơ?”
“Thái sử Mặc.”
Thập rời chỗ Ngũ Âm thì trời đã sẩm tối, cô theo con đường mòn đi đến bên ngoài quẻ Tốn, thấy bên trong vẫn náo nhiệt tưng bừng. Kẻ gảy đàn, người múa kiếm, kẻ trêu đùa, người mắng mỏ, mọi người hỉ hả rộn ràng. Cô đứng ngoài cửa chốc lát rồi quay lưng lầm lũi về quẻ Càn.
Cây đàn Nhiễu Lương của Sở vương vẫn nằm ngay ngắn trên bàn cạnh sập, cô lấy ngón tay móc vào dây đàn, “tinh” một tiếng, tiếng đàn êm ái văng vẳng loang ra trong bóng tối.
Thập chợt nhớ đến Tố, nhớ lại ánh mắt Tố nhìn cô lúc ở cung Tề, nhớ lại những lời Tố nói với cô khi gảy đàn dưới trăng.
Ngọc vấn thần, kiếm Hạ Vũ, gương Tuyền Châu, cuối cùng cô cũng biết tại sao trong hầm ngầm phủ Trí, mẹ mình dễ dàng đưa ba báu vật tộc Phạm ra hứa hẹn với Đạo Chích rồi.
Gương Tuyền Châu của U vương có lẽ là tấm gương trang điểm ngày ngày bà vẫn bày trên bàn soi để vẽ mày. Bà không phải hầu thiếp thân phận thấp hèn, bà vốn sinh ra trên mây cao, vậy mà chỉ vì đẻ ra cô, bà đã bị người ta phỉ nhổ, bị người ta giẫm đạp ném đá, cuối cùng cô độc chết ở đất Tần xa xôi, đến đôi tay cũng chẳng được rửa sạch. Lẽ ra cô phải rửa mặt cho bà, phải khêu hết những cáu bẩn trong kẽ tay bà, ít nhất cũng nên tìm cho bà một bông dâm bụt, hát cho bà nghe một khúc ca nước Tấn… Nhưng cô chẳng làm gì cả đã châm lửa hỏa thiêu bà. Thập ngồi bệt dưới đất, ngực đau như muốn vỡ, kìm nén, thổn thức, cuối cùng tiếng khóc không thể kìm nổi vẫn bật ra.
Mùa xuân năm thứ bốn mươi mốt đời Chu Kính vương, Vu An phái một toán dũng sĩ hộ tống Thập và Ngũ Âm về Tân Giáng, Hắc Tử và lang Trần cũng đi cùng.
Tới Tân Giáng thì vừa qua tháng Ba, bên bờ sông Quái xanh mướt một màu, ong bay bướm lượn, xuân sắc thắm tươi như vuông gấm lục, quấn quanh làm người ta ngộp thở. Lầu cổng thành xám xịt của Tân Giáng đã ở ngay trước mắt, bỗng dưng Ngũ Âm lại đòi xuống xe đi bộ, Thập nghĩ bà ta gần quê đâm sợ, nên cũng xuống ngựa đi cùng.
Ven bờ sông Quái ngày xuân đâu đâu cũng thấy những nàng con gái khoác làn trúc, đeo sọt tre. Quan quan kìa tiếng thư cưu, bên cồn hót họa cùng nhau vang dày. U nhàn thục nữ thế này, xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên*. Cô gái lội xuống sông hái rau hạnh, chàng trai quanh quẩn cạnh đó ngắm cô nàng đang mải miết hái rau. Ngũ Âm đứng trên đê, lặng lẽ nhìn một đôi trai gái ướm hỏi, nô đùa, đuổi giỡn nhau bên kia bờ, nhìn đến thẫn thờ, hồi ức như nước chảy qua trước mắt.
“Phu nhân bao nhiêu năm không về Tân Giáng rồi?” Thập bước đến cạnh bà ta.
“Ngươi bao nhiêu tuổi thì ta bấy nhiêu năm không về.”
“Mười bảy năm… Phu nhân và khanh tướng đã mười bảy năm không gặp, có muốn chải đầu trước không?” Thập rút trong ngực áo cây lược chìa ra trước mặt Ngũ Âm. Ngũ Âm nhận lấy rồi ngẩng lên, nhìn cô như muốn cười, “Con bé này thú vị ra phết. Ta ra đi vào lúc xinh đẹp nhất, giờ già nua thế này, chẳng lẽ còn định dựa vào nhan sắc để khiến ông ta rủ lòng thương ư?” Hôm nay Ngũ Âm không thoa son phấn, đôi mày nhạt cùng gương mặt xanh xao khiến bà ta trông có vẻ nhợt nhạt mà hiền dịu.
“Khanh tướng đang ốm, phu nhân lại là người xưa, chắc hẳn ông ấy sẽ không tin những ‘tội danh vô căn cứ’ tôi đưa ra đâu. Phu nhân cứ yên lòng ở lại phủ Triệu, có điều nếu bà vẫn muốn góp sức cho tộc Trần thì sẽ còn phải gặp tôi nhiều nữa.”
“Yên tâm đi, sau này chúng ta sẽ không gặp nhau nữa đâu.” Ngũ Âm nhìn cô đầy ẩn ý rồi quay sang dòng sông róc rách chảy dài, thở hắt ra, “Ôi, ta thực hy vọng năm xưa lúc qua sông ông ta đừng ngồi thuyền của ta, ta cũng đừng nói với ông ta những lời chết tiệt ấy. Đưa một người từ bên này sang bên kia sông, ta cũng đưa theo cả cuộc đời mình.” Ngũ Âm trầm ngâm nhìn dòng sông chảy xiết dưới chân. Một lúc lâu sau, bà ta quay gót bỏ đi, như đã vùi hết thảy ký ức xuống dòng chảy sau lưng.
Trên con đường cái quan cách đó không xa, một thớt ngựa từ phía Tân Giáng phi nước đại tới, người trên ngựa nhảy xuống cao giọng hỏi họ, “Xin hỏi có phải đoàn xe tới phủ Triệu không?”
“Chính xác.” Thập bước lên đáp.
“Xin các vị theo tại hạ vào thành! Thế tử nhà chúng tôi cung kính đợi trong phủ đã lâu!”
Cung kính đợi đã lâu!
Lời kẻ hầu như sấm nổ bên tai Thập, Hắc Tử léo nhéo nói gì đó, Thập cũng chẳng nghe được. Từ Sở đến Thiên Xu, từ Thiên Xu đến Tân Giáng, cô bôn ba lặn lội chỉ muốn gặp lại Triệu Vô Tuất, nhưng vừa nghĩ tới hắn đang đứng trước cổng phủ Triệu đợi mình, cô lại đâm chột dạ, tim đập như trống giục, càng đập càng thót lên gần cổ họng.
Chẳng để bản thân kịp định thần, cô đã tung mình nhảy lên ngựa, kéo cương giục ngựa quay đầu.
Ngũ Âm cúi đầu cười, sự hèn nhát đầy ấu trĩ của cô quả thực nực cười nếu so với thái độ thản nhiên của bà ta.
Hắc Tử chạy tới ghì cương ngựa cô lại, ngạc nhiên hỏi, “Cô làm gì thế? Cổng thành bên này cơ mà?”
“Anh dẫn người vào thành trước đi!” Thập giật lấy dây cương, hoảng loạn bỏ chạy.
Hắc Tử cuống lên đuổi theo sau gọi ơi ới, “Này ranh con, cô bỏ đi như thế, lát nữa gặp khanh tướng anh biết phải nói gì đây, gặp Triệu Vô Tuất anh biết phải nói gì đây hả! Này!”
Gió ù ù bên tai, tiếng tim đập thình thịch cùng tiếng vó ngựa dồn dập át đi tiếng hò hét của Hắc Tử. Lúc này cô chẳng nghĩ được gì nữa, chỉ biết chạy một mạch năm sáu dặm, mãi tới khi bỏ đoàn xe cùng tòa thành khiến người ta ngộp thở ấy lại xa tít đằng sau.
Cô không dám gặp hắn, thậm chí không dám nghĩ tới gương mặt hắn nữa.
Sắp tới lúc gặp lại, cô bỗng dưng đâm sợ, sợ đến run lẩy bẩy cả người. Từ khi quyết định trở về gặp hắn, cô chưa bao giờ sợ hãi như lúc này, chỉ biết thúc ngựa chạy như bay giữa gió lộng mà chẳng biết mình đang trốn chạy cái gì.
Dòng sông khuất bóng, cánh rừng lùi xa, núi xa là một vệt xám nhạt nhòa, trước mắt cô trải ra một vạt cỏ úa cao quá đầu ngựa. Thập ghìm ngựa đứng lại giữa đồng cỏ ngày xuân, trâm gỗ cài tóc chẳng biết rơi mất tự lúc nào, mái tóc dài xõa tung chỉ chực bay theo gió, lệ nóng cuối cùng cũng tràn ra khóe mắt, lăn xuống má.
Hồng Vân nhi, chàng có còn trách ta, giận ta, hận ta, nhớ ta, yêu ta, cần ta không…
Cô đau đớn nhắm mắt lại.
Bên tai là tiếng thở vạn năm không đổi của đồng hoang vắng lặng, lúc lên lúc xuống, đều đặn mà êm ả.
Khi Thập thúc ngựa về thành, vầng dương đã ngả về Tây. Cổng phủ Triệu khóa chặt, cô ra sức đập cửa, mãi mới thấy quản gia trong phủ hối hả chạy ra.
“Sao giờ vu sĩ mới tới?” Quản gia ngạc nhiên.
“Thế tử nhà các người đâu?” Cô hỏi.
“Thế tử đưa vị khách nữ mới tới đi gặp gia chủ rồi. Vu sĩ mau vào trong đi, giờ chắc thái sử vẫn chưa về đâu…” Đoạn quản gia ra hiệu cho đứa hầu nhỏ đằng sau chạy tới dắt thớt ngựa đang thở hồng hộc từ tay cô, lúc này trong đầu cô chỉ có Triệu Vô Tuất, loáng thoáng nghe ông ta nói được mấy câu đã vội vã bảo, “Khỏi cần chuẩn bị bữa tối, chỉ phiền quản gia nhắn với thế tử nhà các vị rằng tôi đợi ở vườn hoa.”
“Vườn hoa ư?”
“Đúng thế, cảm ơn ông!” Dứt lời cô xách gấu váy đi thẳng.
Lúc trước thì sợ đến không dám gặp mặt, giờ lại nôn nóng chỉ muốn gặp ngay lập tức. Tính thất thường của nữ nhi, đừng nói nam nhi không hiểu mà có lúc ngay chính nữ nhi cũng chưa chắc đã hiểu nổi.
Chiều xuân se lạnh, Thập xăm xăm ngược gió chạy vào vườn hoa. Trên bãi cỏ, cây hòe già quen thuộc chẳng đợi đến cuối xuân ấm áp đã nở từng vạt từng vạt hoa trắng muốt. Hoa hòe như mây tựa tuyết, chi chít trên cành, rụng xuống gốc cây, đẹp đến mức khiến người ta phải trầm trồ cảm thán.
Thập đứng dưới gốc cây, hương hoa như mật làm những kỷ niệm xưa kia không ngừng sống lại trong tâm trí.
Hồng Vân nhi, ta về rồi đây, ta về thật rồi.
Cô ngồi dựa vào gốc hoa hòe lặng lẽ đợi người thương, nỗi mệt mỏi sau khi thả lỏng như một bức màn đen quấn lấy cô. Hơn một tháng đi đường nhọc nhằn, cuối cùng cô cũng thiếp đi giữa tiếng hoa rơi xào xạc.
Trong mơ chẳng biết thời gian thấm thoắt, tới khi cô mở mắt ra, ông quản gia đang đứng ngay trước mặt, vẻ khó xử, “Sao vu sĩ còn ở đây? Thế tử nhà tôi ra ngoài thành cưỡi ngựa rồi.”
“Cưỡi ngựa ư?” Cô ngạc nhiên.
“Thế tử phụ thích nhất là ruổi ngựa uống rượu dưới trăng, thế nên…”
Thế nên hắn không gặp cô, hắn phải đưa vợ ra ngoài thành cưỡi ngựa.
“Vu sĩ về trước đi thì hơn!”
“Ừm được.” Thập đờ đẫn đứng dậy, ánh trăng như nước thấu qua tàn cây đổ xuống, hoa hòe đầy đất trắng đến thê lương.
Chu Nhan Đà, Mỹ Nhân Tiếu, có phải đêm nay trên đầu ngựa họ vẫn treo vò rượu cô ủ không? Phi ngựa dưới trăng, say khướt bên sông, cảnh tượng đẹp biết nhường nào! Xuân chưa tàn, hoa đã rụng, cuối cùng cô đã thành người cũ.
Cô chập chờn nằm mơ suốt đêm. Trong mơ đều là chuyện cũ, vui vẻ có, đau khổ có, sợ hãi có, cảm động có, vừa thấy mình được hắn giơ lên quá đỉnh đầu trên vách núi sau cơn mưa to gió lớn, đã lại thấy hắn nằm trong căn nhà tranh, nhắc đi nhắc lại với cô: “Nếu không chịu nổi, nàng có thể tới tìm ta. Nhưng nếu nàng dám trốn chạy, ta sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng đâu! Nàng nhớ lấy, không bao giờ!”
Sự quyết tuyệt của Triệu Vô Tuất, cuối cùng cô cũng được nếm rồi.
Tới khi tỉnh lại lần nữa, trên đầu cô là xà nhà vẽ đầy mây lành, trong mũi là hương huỳnh đàn quen thuộc. Chú hầu nhỏ quỳ trước giường cô, tươi cười nhào tới gọi, “Vu sĩ tỉnh rồi!”
“Sư phụ đâu?”
“Vu sĩ không nghe thấy lời tôi nói đêm qua ư? Từ mùa thu năm ngoái thái sử đã dọn tới rừng trúc bên bờ sông Quái, hôm qua mới về một chuyến, sửa sang râu tóc, mặc áo mới sang phủ Triệu gặp vu sĩ, tiếc rằng không gặp được, người lại về rừng trúc rồi.”
“Giờ tôi đi gặp sư phụ.” Cô tốc chăn ra, trở xuống giường.
“Không được! Vu sĩ nói sáng sớm nay phải sang phủ Triệu mà.”
“Tôi có nói à?”
“Đúng thế, tôi đã sai người đi báo với khanh tướng rồi.” Đoạn chú hầu nhỏ xoay người lấy trong hòm quần áo ra một bộ áo mũ mới tinh, đặt vào tay cô, vẻ nịnh nọt, “Đây là áo mới năm kia thái sử làm cho vu sĩ, mũ ngọc đen gắn châu tím này cũng là bệ hạ ban thưởng sau lễ tế trời không lâu. Lát nữa vu sĩ đi bái kiến khanh tướng, ắt sẽ gặp Triệu thế tử, lâu rồi vu sĩ không gặp Triệu thế tử, phải ăn mặc cho đẹp mới được.”
Nói rồi chú hầu nhỏ thoăn thoắt chải tóc, thay áo cho Thập, chẳng để cô từ chối. Nhìn gương mặt quen thuộc trong gương, lòng cô đắng ngắt.
Hôm nay liệu hắn có gặp cô không? Nếu gặp cô phải nói gì đây? Nếu không gặp thì cô phải làm sao?
Đến phủ Triệu, quản gia dẫn Thập tới chỗ Triệu Ưởng. Triệu Ưởng vẫn đang bệnh, tuy không có triệu chứng gì quá nặng, nhưng đã già sọm, gầy gò hẳn đi. Lang Trần đi qua đi lại trong phòng, chuẩn bị nước thuốc để ngâm mình, trong khi Triệu Ưởng ngồi dựa trên sập trò chuyện cùng cô. Ông chẳng hề hỏi hai năm nay cô đã làm những gì, cũng chẳng đả động nửa câu tới chuyện Ngũ Âm phản Triệu theo Trần, chỉ khen cô xử lý việc ở Vệ rất tốt, bảo cô tới chỗ quản gia lĩnh thưởng.
Cô đứng dậy từ biệt Triệu Ưởng, vừa ra khỏi cửa, ông quản gia đợi bên ngoài đã đưa cho cô một danh sách quà cáp, nói là những thứ Triệu Ưởng ban thưởng, vì rương hòm quá nhiều quá nặng nên đã phái người đánh xe đưa thẳng tới phủ thái sử rồi.
Thập hành lễ cảm tạ, còn đang mím môi chưa kịp lên tiếng đã nghe quản gia thở dài, “Vu sĩ muốn gặp thế tử nhà chúng tôi đúng không? Tiếc quá, sáng ra thế tử đã được Ngụy khanh tướng mời sang phủ bàn việc rồi.”
“Thế tử lại đi vắng rồi à?”
“Vu sĩ có muốn đợi thêm không?”
“Không sao, tôi qua phủ Ngụy đợi.” Còn nhớ trước kia bất luận cô ở đâu, hắn cũng luôn đến tìm cô. Giờ hắn không tới thì để cô đi tìm hắn vậy!
Phủ Ngụy cách phủ Triệu mấy con phố, cô đi nhanh, chưa đầy hài khắc đã tới. Ngụy Xỉ đã qua đời, giờ chủ nhân phủ Ngụy là hạ quân tá Ngụy Câu, y vừa được phong khanh, nếu cô muốn gặp mặt phải đưa bái thiếp trước, sau đó đem theo lễ vật bái kiến, nhưng hôm nay cô đang vội, chỉ đi tay không, dù đã tới cổng phủ Ngụy nhưng lại không thể chạy bừa lên gọi cổng được.
Cô đợi dưới gốc ngô đồng đối diện phủ Ngụy hơn nửa ngày trời từ sáng sớm đến chiều. Nắng xuân tháng Tư khiến bóng người đổ dài dưới tàn cây từ từ ngắn lại, rồi lại chầm chậm dài ra. Cổng phủ Ngụy người ra kẻ vào, nhưng chẳng thấy bóng dáng Triệu Vô Tuất đâu cả.
Đến chạng vạng, trời chuyển sắc ngả vàng, những giọt mưa to như hạt đậu từ trên trời đổ xuống tán ngô đồng lộp độp. Bầu trời âm u bắt đầu sáng lên, màn mưa như dải lụa bạch rào rào buông xuống. Thập đứng giữa cơn mưa xối xả, nhìn cánh cổng khép chặt, sực vỡ lẽ.
Hắn vốn không tới phủ Ngụy, hắn chỉ không muốn gặp cô thôi.
Mưa rơi như trút, nước mưa chảy dọc theo tóc cô xuống tận miệng, Thập ướt như chuột lột, nghiến răng lê đôi chân cứng đờ về phủ Triệu. Mưa vừa ngớt, mấy kẻ hầu mặc áo đen đang mải miết quét nước mưa ngoài cổng phủ. Triệu Vô Tuất ra khỏi phủ tiễn khách, đang đứng bên cổng.
Thập thoạt trông đã thấy hắn, hắn thoạt trông đã thấy cô.
Những âm thanh huyên náo giữa đất trời thoắt chốc ngưng bặt trong khoảnh khắc ấy.
Xa cách hơn hai năm, bao nhớ nhung chất chứa suốt mấy trăm ngày đêm chợt biến thành mười bước ngắn ngủi trước mắt.
“Hồng Vân nhi…” Thập nhìn bóng người trong mộng, nghẹn ngào cất tiếng.
Hắn nheo cặp mắt dài nhìn cô, vẻ mặt lạnh lùng ấy cô chưa từng thấy bao giờ.
Tim cô đau nhói, trong ống tay áo lạnh ngắt, nước mưa theo cánh tay tí tách nhỏ xuống, cô tiến lên một bước, rồi một bước nữa, hơi thở run rẩy khiến khoảnh khắc nhếch nhác thảm hại này càng thêm thảm hại.
Người trên thềm cuối cùng cũng cử động, khi cô vừa bước lên thềm, hắn bỗng dửng dưng quay đi.
Đám người hầu quét nước mưa ngoài cổng thấy hắn đi rồi cũng nhất loạt xách chổi đi theo, đóng sập cửa lại đánh rầm.
Thập đứng đờ ra, máu trong người chợt lạnh hẳn đi.
“Thập à…” Một bàn tay ấm áp mềm mại từ đằng sau nhẹ nhàng kéo tay cô.
Thập run rẩy quay lại ôm chặt người nọ, không kìm nổi òa lên khóc thất thanh.
Hai năm nay không phải cô không uất ức. Nhưng giữa đường mắc bệnh, ngã gục trên phố ở Thương Khâu, cô không hề khóc; bán thân làm nô, giặt áo quét nhà cho người, cô không hề khóc; bị tên quản gia Tán mượn rượu sờ soạng, cô không hề khóc; vòng vo mãi rồi vẫn quay về đây, ấy thế mà cô lại ôm Tư đứng giữa con phố sau cơn mưa lớn khóc thảm thiết.
Cô yêu hắn nên mới rời xa hắn, nhưng hắn có thật sự yêu cô chăng?
Trước kia mỗi lần gặp lại, Tư đều khóc sướt mướt. Vậy mà lần này Tư không khóc. Tư chỉ ôm chặt cô, âu yếm mà kiên định. Tư của cô đã làm mẹ, trên đời này còn ai kiên cường hơn người mẹ nữa? Tư lau nước mắt cho cô rồi cười nói, “Mình về nhà đi Thập!”
Trong căn nhà bên bờ sông Quái, Tư đun nước nóng, thay áo cho cô. Cô tựa vai bạn ngồi dưới mái hiên, Tư xoa đầu cô, tức giận nói, “Hắn phụ cậu thì bọn mình cũng chẳng cần hắn nữa. Mai mình sẽ bứng hai gốc dâm bụt đáng ghét này đi!”
“Đừng, lỗi đâu phải ở hoa mà là ở mình. Hôm qua mình nên theo đoàn xe vào thành mới phải, ít nhất bấy giờ chàng còn chịu đợi mình.”
Tư nén giận đến đỏ bừng mặt, tới khi không nén nổi mới nâng mặt cô lên nói, “Ngốc ơi là ngốc, Triệu Vô Tuất đợi Ngũ Âm chứ đâu có đợi cậu. Ngũ Âm vừa xuống xe, hắn đã đi thẳng vào phủ, chẳng buồn nhìn xem cậu có trong xe không nữa. Tháng trước hắn đón một nhạc kỹ bụng chửa vượt mặt vào phủ, chừng hai tháng nữa nhạc kỹ kia sẽ lâm bồn. Nếu hắn còn nghĩ đến cậu thì đừng có để người phủ Triệu vời cậu tới chúc phúc cho con lớn của hắn.”
Chàng có con rồi…
Chàng có con rồi…
Thập đờ người ra nhìn Tư nhưng trái tim thoắt chốc đã bị móc khỏi lồng ngực, ném xuống vực nước sâu. Nói chẳng nên lời, thở không ra hơi, chỉ còn đôi mắt tuôn lệ không ngừng.
Dầm mưa một trận, nghe Tư nói một hồi, Thập ngã bệnh liền nửa tháng.
Ban đầu chỉ là cảm mạo ho hắng, về sau đến tối lại lúc sốt lúc lạnh, ngực nóng như lửa đốt mà sau lưng đầm đìa mồ hôi lạnh. Tư ngày đêm săn sóc cô, nhưng cô sợ lây sang bạn, mới được ba ngày đã đuổi Tư đi. Tư còn con nhỏ, nghe nói thằng bé cả ngày khóc lóc đòi mẹ, kẻ làm mẹ nuôi như cô thực chẳng ra sao hết.
Lang Trần tới xem bệnh cho cô mấy lần, lần nào cũng hỏi cô ngủ có ngon không? Nhưng làm sao ngon được? Cả đêm cô cứ chập chờn mơ, trong cơn mơ không có Triệu Vô Tuất, chỉ có tiếng ca nữ ở quán Phù Tô lảnh lót hát đến kiệt sức và cánh đồng tuyết mênh mang bên ngoài thành Ngải Lăng.
Nửa tháng trôi qua, đống bã thuốc ngoài cửa càng lúc càng cao thêm, tâm bệnh triền miên nhờ tài nghệ của lang Trần cuối cùng cũng khởi sắc.
Hôm ấy cô ăn mặc chỉnh trang lại, ghé chợ mua một con gà cảnh lông đỏ, một túi to hoa quả tươi rồi dong xe ra ngoài thành.
Rừng trúc ngày xuân, đâu đâu cũng thấy những măng trúc non mới nhú. Căn nhà trúc của Sử Mặc cách mộ thầy Thái không xa, cả căn nhà thênh thang cùng tường rào bao quanh phải chiếm đến hai ba mẫu đất. Trong nhà lò hương, sập gấm, giá sách, án thư, chiếu cói chẳng thiếu thứ gì, ngay cả cây đèn mười sáu đĩa chạm chim hạc ngậm cành cây Sở vương ban tặng vốn bày ở phủ thái sử cũng được Sử Mặc mang tới đây.
Thập cử ngỡ Sử Mặc dọn ra khỏi phủ thái sử để trải nghiệm cuộc sống thanh bần năm xưa của thầy Thái, giờ xem ra cô đã nghĩ quá nhiều rồi. Có khi mở cái rương gỗ to tướng trong góc tường kia ra, còn đầy đủ cả phương đồ đất Thục, lò nhỏ để đun và mấy món đồ gốm dùng khi uống nữa ấy chứ.
Cô bỏ các thứ lỉnh kỉnh xuống, quét tước trong nhà một lượt rồi loay hoay hầm canh gà. Nhưng đợi hơn một canh giờ vẫn chẳng thấy bóng dáng Sử Mặc. Cô đành ra ngoài tìm, chưa ra khỏi rừng trúc đã thấy một người đội nón ngồi bên sông Quái câu cá.
“Khương Thái công buông cần, câu được Văn vương. Thái sử công buông cần, định câu gì đây?” Thập xách giỏ cá trống không bên cạnh Sử Mặc lên, mỉm cười nói đùa.
Sử Mặc không ngoảnh lại, chỉ đứng dậy đổ hết giun trong hũ sành bên cạnh xuống sông, “Về bấy lâu mà giờ mới tới thăm sư phụ, đồ đệ hư hỏng thực đáng đánh.” Nói rồi ông quay người lấy cần câu gõ mạnh vào đầu cô một cái. Cô ôm đầu kêu oai oái, ông bèn xách bộ đồ câu đi vào rừng trúc.
“Sư phụ, đợi đồ đệ với.” Thập vội đuổi theo.
“Mặt mày xanh tái thế kia, ốm à?” Sử Mặc vào nhà ngồi ngay ngắn, bưng bát canh gà cô mới múc lên. Thập chỉ cười giục ông mau nếm thử, song ông lại đặt bát xuống, nhíu cặp mày dài, “Đã đi rồi sao còn quay lại? Không bỏ được Vô Tuất ư?”
“Đâu phải đệ tử không bỏ được Vô Tuất, đệ tử không bỏ được sư phụ đấy chứ! Canh này chị bếp ở quán Phù Tô nước Tống dạy đệ tử nấu, tuy nước canh trong vắt nhưng nấu mất công lắm luôn. Sợ sư phụ răng yếu, đệ tử còn lọc thịt gà ra, băm viên thành mọc, người ăn luôn lúc còn nóng đi, một bát này bằng hai nén vàng đấy!” Thập bưng bát canh tới trước mặt Sử Mặc, cố cười thật tươi.
Sử Mặc khẽ thở dài, đón lấy bát canh nhấp một ngụm rồi cầm thìa múc một viên mọc gà đưa lên miệng, “Ta chưa váng đầu hoa mắt, vẫn đi lại ăn uống được, có gì mà ngươi phải lo lắng.”
“Ngon không ạ?”
“Được đấy.”
Có món ngon nào trên đời mà Sử Mặc chưa từng nếm đâu? Được ông khen câu này, coi như hôm nay cô không phí công xuống bếp. Cô vén tay áo định múc thêm cho ông bát nữa, nhưng cổ tay vừa lộ ra đã bị ông tóm lấy, “Chỉ toàn da bọc xương. Chẳng lẽ đất Tống đất Sở đói khổ lắm à? Nếu ngươi đã định đi, chắc chẳng đến nỗi không mang xu nào đâu nhỉ? Ngồi xuống, ăn một bát luôn đi!” Sử Mặc giành lấy chiếc muôi dài trong tay Thập, múc cho cô một bát đầy tú hụ mọc gà, chẳng có tí canh nào.
Thập múc một viên mọc đưa lên miệng, cười khì đáp, “Sở nhiều món ngon lắm, nếu không vì lo lắng cho sư phụ, đồ đệ chẳng muốn về đâu.”
“Thế thì ngươi về làm gì? Nước Tấn đối với ngươi là họa chứ không phải phúc. Ta còn phải nói bao nhiêu lần ngươi mới hiểu hả?” Sử Mặc sầm mặt, rõ ràng rất thất vọng về việc cô trở lại.
“Sư phụ biết mẹ đệ tử không? Đêm ấy ở chỗ Doãn Cao, người vừa thấy đệ tử đã biết đệ tử là con bà ấy rồi đúng không?” Thập đặt thìa xuống, quỳ thẳng lên.
Sử Mặc thoáng thần ra rồi lạnh lùng hỏi, “Ngũ Âm bảo ngươi à?”
“Không phải, Ngũ Âm chỉ nói hai mươi năm trước sư phụ từng giúp khanh tướng nắm giữ Thiên Xu, những mật hàm trong lầu Tỏa Tâm cũng đều do sư phụ sắp xếp cất giữ. Thiên Xu được đặt theo tên sao, các viện cũng phân theo bát quái, quả thực giống cách làm của sư phụ.”
“Nên ngươi muốn hỏi gì đây?”
“Đệ tử muốn hỏi mẹ đệ tử lấy ai? Ngũ Âm nói bà yêu một kẻ không nên yêu, đó là ai? Vì sao kẻ đó lại để tộc Trí bắt đi người vợ đang bụng mang dạ chửa, có phải kẻ đó cũng chết rồi không? Cha đệ tử cũng chết rồi à? Mấy cuốn lụa thời kỳ đầu ở lầu Tỏa Tâm đều đã rách hỏng, có phải trong đó có tin tức về cha mẹ đệ tử không?”
“Mấy cuốn lụa đó bị chuột gặm, những chuyện ghi chép trong đó cũng đã quá lâu nên chẳng cần khôi phục lại nữa. Mẹ ngươi tuy có liên quan đến tộc Phạm nước Tấn nhưng suy cho cùng chỉ là cháu ngoại, Thiên Xu cần gì phải ghi chép tường tận mọi chuyện về bà ta?”
“Nếu chỉ là một cô cháu gái bình thường của tộc Phạm thì sao sư phụ phải nhớ mãi không quên? Năm xưa sư phụ nhận Thập làm đệ tử, sao cứ liên tục hỏi về mẹ đệ tử vậy?”
Sử Mặc nhất thời cứng họng, ông chăm chú nhìn cô, trong đôi mắt già nua như có sóng cuộn lên. Thập hơi hoảng nhưng không muốn lùi bước, đành cố thẳng lưng ngồi trước mặt ông.
Hồi lâu Sử Mặc mới thõng hai tay xuống, nghiêm trang nhìn cô, “Chuyện qua lâu rồi, giờ ngươi muốn hỏi thì ta cũng chẳng giấu nữa. ông ngoại ngươi từng là bạn thân với ta thời trẻ, trướng Mê Hồn bên ngoài Thiên Xu là do ta chiếu theo bản vẽ trước kia của ông ấy mà bày ra. Mấy năm nay nhìn ngươi trưởng thành, ta vẫn thường cảm thấy ngươi thông tuệ nhạy bén nhường ấy quá nửa là nhờ di truyền từ ông ngoại. Lúc lâm chung, ông ấy đã nhờ ta che chở cho mẹ ngươi bình an một đời, nhưng ta không làm được. Năm ấy ngươi nghìn dặm xa xôi từ Tần đến phủ thái sử của ta, nhìn thấy đôi mắt ngươi, ta đã biết trời cao lại đưa ngươi tới bên cạnh ta rồi. Thần linh muốn ban cho Thái Mặc ta một cơ hội nữa để giữ lời hứa. Kiếp này ta đã làm sai rất nhiều việc, phụ lòng rất nhiều người, chỉ có ngươi là cơ hội duy nhất để ta bù đắp sai lầm. Ta không thể che chở cho mẹ ngươi bình an, song không thể để ngươi gặp phải bất cứ nguy hiểm nào nữa. Thập à, nghe lời sư phụ, mau về Sở đi, đừng ở lại Tấn nữa. Vô Tuất không phải người phù hợp với ngươi, ngươi và hắn chung quy cũng không thể ở bên nhau đâu.”
“Sư phụ muốn thay ông ngoại và mẹ che chở cho đệ tử bình an một đời ư?”
“Phải.”
“Và đệ tử quyết không thể ở lại Tấn?”
“Phải.”
“Thế nên… năm xưa khanh tướng không hề bệnh nặng tưởng chết, phải không? Người muốn đệ tử rời xa Vô Tuất nên mới cố tình viết thư lừa đệ tử… phải không?” Thập nhìn ông lão tóc bạc phơ trước mặt, cuối cùng cũng thốt ra suy đoán đáng sợ từ tận đáy lòng.
”… Ngươi phải hiểu cho nỗi khổ của ta.”
“Chuyện này là thật à?” Thập trợn trừng mắt nhìn Sử Mặc, gần như không dám tin vào tai mình nữa. Hơn hai năm nay, cô chưa từng nghi ngờ ông, chưa từng nghi ngờ bức thư kia là giả. Ông nhắn cô rằng Triệu Ưởng bệnh nặng, tộc Triệu lâm nguy, cô bèn tin ngay, thế mà cô lại tin ngay…
“Hiểu trò chẳng ai bằng thầy, sư phụ đã đoán được đệ tử đọc thư xong nhất định sẽ rời bỏ Vô Tuất ư?”
“Bản thân ngươi cũng biết ngươi ở lại Tấn chỉ có hại mà chẳng được lợi gì.”
“Thái sử Tử Vi nước Tống cứu đệ tử trên phố ở Thương Khâu cũng là do sư phụ sắp xếp à? Sao đệ tử lại ngu ngốc thế nhỉ, trên đời này làm gì có nô lệ nào tự chuộc thân được cơ chứ? Tử Vi chịu giao khế ước bán thân, thả đệ tử đi chỉ bởi đệ tử là học trò thái sử Mặc mà thôi!”
Thấy Sử Mặc mím môi, Thập đứng phắt dậy, chạy thẳng ra ngoài.
“Đứng lại!” Tiếng quát lạnh lùng của Sử Mặc vang lên sau lưng. Thập dừng bước, chỉ nghe ông chậm rãi nói, “Hôm qua Ngũ Âm đã bị khanh tướng trói hai chân lại, buộc đá ném xuống sông Quái rồi. Hôm nay ta nói câu này, ngươi hãy nhớ lấy, trên đời này thứ mong manh nhất là ân ái của đàn ông. Ngươi ở lại đây thực sự không đáng đâu.”