Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 11
DẠ LUỐNG BÂNG KHUÂNG
Năm xưa bà ta đưa Triệu Ưởng qua sông, ông ngồi trên thuyền bà ta, hẳn là vừa gặp đã xiêu lòng. Bằng không ông cũng chẳng đưa bà ta về nhà, rồi lại đưa tới Thiên Xu. Vậy mà bây giờ nói giết là giết, chẳng tra manh mối, không hỏi bằng cớ, thậm chí cũng chẳng triệu kẻ tố cáo là Thập tới đối chất đã khép cho bà ta tội chết.
Ngũ Âm chết thật rồi, Hắc Tử đã chứng thực lời Sử Mặc.
Hai năm nay, dưới sự cai quản của Ngũ Âm, Thiên Xu đã xảy ra rất nhiều sai sót, làm hỏng mấy việc lớn của Tấn. Thập và Triệu Vô Tuất bị tộc Trần truy đuổi ở Tề, một phần cũng là bởi trong số ám vệ bên cạnh có gian tế tộc Trần trà trộn. Thế nên Triệu Ưởng từ lâu đã nghi ngờ trong Thiên Xu có kẻ muốn phản, nhưng không xác định được là ai.
Sau khi Ngũ Âm vào Tân Giáng, Triệu Ưởng không hề gặp bà ta. Đến hôm kia cuối cùng mới chịu triệu bà ta tới gặp, hai người đóng cửa chuyện trò hơn nửa canh giờ. Tới khi mở cửa ra, chỉ thấy Ngũ Âm tủm tỉm cười ngồi đối diện Triệu Ưởng. Mọi người đều cho rằng thế là chuyện bà ta phản Triệu theo Trần sẽ không bị truy cứu nữa. Nào ngờ tinh mơ hôm qua, Triệu Ưởng lại sai người cột đá tảng vào chân Ngũ Âm, dìm xuống sông Quái bên ngoài thành. Trước lúc xử tử, ông thậm chí không buồn gặp lại bà ta.
Năm xưa bà ta đưa Triệu Ưởng qua sông, ông ngồi trên thuyền bà ta, hẳn là vừa gặp đã xiêu lòng. Bằng không ông cũng chẳng đưa bà ta về nhà, rồi lại đưa tới Thiên Xu. Vậy mà bây giờ nói giết là giết, chẳng tra manh mối, không hỏi bằng cớ, thậm chí cũng chẳng triệu kẻ tố cáo là Thập tới đối chất đã khép cho bà ta tội chết. Lẽ nào ân ái và ân tình của đàn ông chỉ có thế thôi ư?
Thập nghi hoặc, băn khoăn, nhưng chẳng ai trả lời được cho cô.
Hắc Tử được lệnh phải ở lại phủ Triệu huấn luyện binh lính trong phủ cho Triệu Ưởng, Vu An gửi thư nói tháng Bảy sẽ về Tân Giáng. Thế nên cô chỉ sáng sáng tới rừng trúc giúp Sử Mặc biên soạn sách vở, chiều chiều lại ghé nhà Tư chơi với Tiểu Thạch Tử.
Sử Mặc gạt cô, nhưng ông vẫn là sư phụ cô. Năm xưa rời xa Triệu Vô Tuất là lựa chọn của cô; giờ đây không cần cô là lựa chọn của hắn. Sử Mặc chỉ châm một mồi lửa giữa hai bọn họ, chính họ đã thổi bùng nó lên thành lửa cháy ngút trời, thiêu rụi xương cốt.
Phủ thái sử, nhà Tư, rừng trúc, hằng ngày cô đi đi lại lại, ra thành vào thành, nhưng hai người ở trong cùng một tòa thành lại chẳng lúc nào chạm mặt nữa.
Tân Giáng bắt đầu nóng lên, chớp mắt đã tới tháng Sáu, hai gốc dâm bụt trong sân đã cao quá đầu người, lá xanh biêng biếc phủ khắp cành dài, nụ hoa lấp ló giữa đám lá, tựa như bất cứ lúc nào đóa dâm bụt đầu tiên của hè năm nay cũng có thể nở bung.
Hôm ấy Thập đang cầm xẻng xới đất cho cây, vô tình phát hiện một cây lược nằm ngay ngắn giữa đám lá khô, chính là cây lược cô đã trao cho Ngũ Âm bên bờ sông Quái.
Thập ngẩng lên, bầu trời đầu hạ xanh ngắt, giữa dòng sông xa xa, một lá thuyền lan dập dềnh theo làn sóng, có cô lái đứng đầu thuyền, chống sào hát véo von, “Hai người hôm ấy sang sông, chơi vơi thuyền nhỏ giữa dòng nổi trôi, kể ra để nhớ lấy người, trong lòng luống những ngậm ngùi bâng khuâng…”*
Cuối tháng Sáu nhạc kỹ mới vào phủ Triệu sinh được một con trai. Nghe nói khi sinh ngôi thai bị ngược, khiến người mẹ vật vã cả đêm mới đẻ được, đứa bé vừa chào đời đã mồ côi mẹ.
Phủ Triệu chẳng ai tới mời Sử Mặc, cũng chẳng ai nhờ Thập đến chúc phúc cho đứa nhỏ. Một tháng sau, đứa bé vốn là con lớn của Triệu Vô Tuất được cho làm con thừa tự một người họ hàng xa của tộc Triệu, rồi được đưa đi thật xa khỏi Tân Giáng.
Triệu thế tử lấy vợ ba năm không có con, khó khăn lắm mới sinh được một đứa lại đem cho. Trong thành Tân Giáng nhất thời dấy lên đủ mọi lời ong tiếng ve.
Những câu chuyện truyền qua miệng đám ngồi lê đôi mách thôi thì đủ vành đủ vẻ, khó nghe có, ly kỳ cũng có. Hắc Tử ở trong phủ Triệu cũng hóng hớt, chạy tới tận rừng trúc ton hót với cô rằng đứa bé nọ thực ra đã mồ côi từ trong bụng mẹ, cha nó là phó tướng của Triệu Vô Tuất khi đánh Vệ, vì bảo vệ hắn trong trận chiến ở Đế Khâu mà chết thảm, thế nên Triệu Vô Tuất muốn nuôi dưỡng đứa con côi của kẻ nọ, nhưng Triệu Ưởng không muốn đứa bé đó ở bên cạnh hắn dưới danh nghĩa con lớn, nên đã sai người đưa đi.
Những lời đồn đại ấy là thật hay giả chỉ có Triệu Vô Tuất biết, nhưng ngay sau hôm chạm mặt cô ở cổng phủ, hắn đã dẫn Ngư đến Sở.
“Trần Bàn đi sứ Sở, Tề Sở sắp liên minh, mau tìm Bạch công, phân tán uy quyền.” Lời Thập nhờ Hắc Tử nhắn, gã đã nhắn nguyên văn. Có điều cô không ngờ Triệu Vô Tuất lại đích thân đi tìm Bạch công Thắng. Tề muốn lôi kéo Sở cùng đánh Tấn, nếu người Tấn muốn phá hoại việc họ kết liên minh, ắt phải gây ra chút “động tĩnh” ở Sở, khiến Sở vương trẻ tuổi không còn bụng dạ nào để ý tới lời mời liên minh của Tề nữa.
Đại phu ấp Sào Bạch công Thắng là anh họ của Sở vương Hùng Chương, con trai thái tử Kiến nước Sở năm xưa. Ông ta đã chiêu binh mãi mã, thu nạp người hiền, tiềm phục nhiều năm ở biên giới hai nước Sở và Ngô, là một “mồi lửa” tuyệt vời. Nếu Triệu Vô Tuất châm được mồi lửa này thì lửa lớn ngút trời sẽ rần rật cháy trên đất Sở. Tới lúc đó, liên minh Tề Sở chẳng cần phá cũng tự tan rã.
Từ Tấn sang Sở, núi cao sông dài, nếu Triệu Vô Tuất ở lại kinh đô Sở nửa tháng rồi lại tới ấp Sào gặp Bạch công Thắng thì đến cuối năm cũng chưa chắc về được.
Được lang Trần chữa trị, bệnh Triệu Ưởng cũng đỡ dần, ông đã có thể xử lý các việc lớn trong triều suôn sẻ. Tộc Trí dĩ nhiên là thất vọng, song chẳng làm sao được. Trí Dao vẫn lăm le chuẩn bị nhậm chức chính khanh, giờ đâm ra buồn nản vô cùng, trong vòng chưa đến bảy ngày đã đánh chết chín ả hầu trong phủ để trút giận. Người phủ Trí nơm nớp lo sợ, Thập cũng chẳng hơn gì.
Tộc Trí luôn muốn tìm kiếm bé gái mắt xanh để được trường sinh bất lão, mà chỉ cô mới có thể sinh ra một đứa trẻ như vậy.
Trên đường từ Tấn sang Tề, cô đã thấy kinh lần đầu, giờ đã có thể mang thai sinh con như Tư vậy. Hai tháng nay, cô vẫn âm thầm liên lạc với mấy ám tử Thiên Xu cài trong phủ Trí, hòng tìm manh mối về dược nhân. Chẳng biết Trí Dao đã phát hiện ra hay chưa mà cứ dăm ba hôm lại triệu cô tới phủ. Mỗi lần bước vào cổng phủ Trí, cô lại thấp thỏm chẳng biết mình còn ra được nữa không.
Bất luận Trí Dao nói gì với mình, cô cũng có cảm giác gã có thể trở mặt giam cô vào một gian phòng ngầm thần không hay quỷ chẳng biết rồi dùng cách nào đó mà cô không dám tưởng tượng ép cô sinh ra một đứa bé cô không muốn sinh. Một đứa không được thì sinh đứa thứ hai; đứa thứ hai không được lại sinh đứa thứ ba… Ý nghĩ ấy khiến Thập gần như suy sụp. Cô đã đánh mất Vô Tuất, đánh mất Vô Tà, nếu cô biến mất, liệu có ai bất chấp tất cả tìm kiếm cô nữa chăng.
Hôm ấy phủ Trí lại phái người tới triệu cô, kẻ truyền lời vừa bước vào cửa, Thập đã run tay đánh vỡ chiếc bát mới của Sử Mặc.
Sử Mặc nhận ra nỗi sợ của cô. Ông đã gần bảy mươi, râu tóc bạc trắng, ông không phải cao thủ giữa ánh đao bóng kiếm, ông không biết quyền cước, cũng không biết múa kiếm, nhưng ông là Sử Mặc.
Về sau chẳng biết Sử Mặc dùng thủ đoạn gì mà Trí Dao không vô duyên vô cớ triệu Thập tới phủ nữa, đám người âm thầm bám theo cô cũng mất tăm. Cô mừng húm, bèn thu dọn đồ đạc chuyển tới ở hẳn với Sử Mặc.
“Đồ đệ à, ta già rồi, không che chở cho ngươi cả đời được đâu.”
Sử Mặc dang đôi cánh rộng bảo vệ cho cô, nhưng ông vẫn muốn cô rời Tấn, tới một nơi an toàn hơn. Một ông lão bảy mươi cả ngày càm ràm lải nhải nghe còn nhức đầu hơn một con chim sẻ lách chách bên tai nữa. Nhưng ông là sư phụ của cô, mỗi lần như thế cô chỉ có thể lặp đi lặp lại rằng, sư phụ, con đang đợi một bức thư từ Lỗ, hễ nhận được thư, con làm xong việc của mình sẽ ngoan ngoãn về đầm Vân Mộng ngay, hoặc tới nơi nào đó xa hơn cũng được.
Vu An về Tân Giáng vào đợt nóng nhất mùa hè, trong ngoài nhà hầm hập như nung, mọi người tốt nhất là nằm im không nhúc nhích, bởi hễ nhúc nhích là mồ hôi túa ra đầm đìa. Nhưng Tư chẳng hề ngại nóng, biết hôm nay Vu An có thể sẽ về đến, từ sáng sớm Tư đã bồng Đổng Thạch tới giao cho Thập rồi tự mình ra ngoài thành đợi.
Đổng Thạch bé bỏng được mẹ nuôi cho mũm mĩm mập mạp, lại còn ấm sực. Nó vừa rúc vào lòng Thập, mồ hôi cô đã chảy dài như ôm lò lửa giữa mùa hè. Suốt buổi sáng, lưng áo cô không lúc nào khô được. Cô nghĩ đằng nào cũng ướt áo rồi, chi bằng cho ướt luôn.
Vừa qua trưa, cô đã xách thùng gỗ, bế Đổng Thạch ra bờ sông Quái, cởi hết quần áo đặt nó vào thùng, mình cũng lội xuống nước theo. Thằng bé lắc lư đứng trong thùng, bị té ít nước vào người là cười sằng sặc. “Mẹ nuôi ơi, thêm nữa đi. Mẹ nuôi ơi, thêm nữa đi mà.” Tiếng gọi non nớt của nó vừa lanh lảnh vừa vang, lẫn trong tiếng cười như nắc nẻ. Thập dám khẳng định, chắc chắn Sử Mặc ngồi trong nhà nhắm mắt dưỡng thần cũng nghe thấy.
“Thập! Thạch! Hai người lên đây!”
Khi Tư đến, Thập và Đổng Thạch đang hào hứng nô đùa, Tư đứng trên bờ gọi ơi ới mà cả hai chẳng hề nghe thấy. Tới khi họ nghe được thì Tư đã nổi giận đùng đùng.
“Nó mới bằng ấy mà cậu đã lôi nó xuống nước hả? Cậu vừa đỡ ốm mà đã dám dầm mình dưới nước thế à?”
“Trời nóng thế này, làm sao cảm lạnh được. Cậu xem thằng bé vui chưa kìa!” Thập đẩy thùng bơi vào bờ, vừa lội vừa hỏi, “Vu An đâu? Cậu ra ngoài thành đón anh ta mà? Không đón được à?”
“Trong nhà thái sử.” Tư lội xuống nước ẵm Đổng Thạch, thằng bé đang mải chơi, cứ bám vào mép thùng ré lên. Thập đang lo không dỗ nổi thì thằng bé đã bị mẹ kéo ra khỏi thùng, phát vào mông rồi lườm cho một cái, nó lập tức nín khe.
“Vu An có nói sao lần này lại về không? Trời nóng thế này mà anh ta còn lặn lội từ bến Phong Lăng về Tân Giáng, Thiên Xu ở trong núi sâu, mát mẻ hơn chỗ bọn mình nhiều.” Thập leo lên bờ, cúi đầu vắt áo, mới vắt được hai tay áo, ngẩng lên đã thấy Vu An đứng sau lưng Tư tự lúc nào, bên cạnh là Dương cải trang nam. Thập vội khoác tấm áo dài đặt bên bờ sông, gắt gỏng, “Đi khẽ như mèo thế, định làm người ta sợ chết à? May mà vừa rồi tôi chưa nói xấu anh đấy.”
“Tư kể chuyến này về em bị ốm lâu lắm hả?” Vu An ra hiệu bảo Dương xách thùng gỗ dưới chân Thập.
“Vì đi đường vất vả thôi, giờ tôi khỏe rồi. Anh về làm gì thế? Giao ai cai quản Thiên Xu?”
“Ta đã giao cho Kỳ Dũng thay mình xử lý công việc rồi, khanh tướng nói lần này ta giúp Vô Tuất đánh Vệ có công, đã bảo ty công ghi nhận, thưởng cho một phủ đệ ở mạn Tây thành, lại xin bệ hạ phong ta một chức quan ở kinh, phụ trách giúp á lữ canh gác kinh thành.”
“Vậy thì tốt quá!” Thập nắm tay Tư cười tươi rói, nhưng vừa nghĩ lại, cô đã tắt hẳn nụ cười, “Thế phủ anh tên…” Năm xưa Đổng An Vu bị khép tội làm loạn, dù Triệu Ưởng có lòng muốn đề bạt con trai ông ta, e rằng vẫn không thể công khai mang danh tộc Đổng được.
“Ý khanh tướng là muốn thái sử tìm cho ta một cái họ mới trong sổ họ, nhưng ta cảm thấy chẳng việc gì phải mất công như vậy, nếu bài vị cha ta đã được đưa vào tông miếu tộc Triệu thì ta cũng nhập vào một chi nhỏ của tộc Triệu, lấy theo tộc Triệu, nhận họ Doanh là xong!”
“Ừm, vậy cũng được. Anh chớ nóng lòng, chờ thêm ít năm nữa ắt sẽ có cơ hội khác thôi.”
“Ừ, thể nào cũng sẽ có dịp mà. Giờ cứ để khanh tướng vui là được.” Vu An giơ tay bế Đổng Thạch từ tay Tư, thằng bé vừa rồi nô đùa dưới sông, lên bờ là ngả vào người mẹ, giờ đã lơ mơ ngủ. Nhưng lơ mơ thì lơ mơ, vừa được Vu An bế, hai cánh tay mũm mĩm đã quàng chặt lấy cổ cha.
Tấn hầu ban cho Vu An một tòa phủ đệ cũ, nghe nói trước đây là sản nghiệp của Phạm Cát Xạ ở Tân Giáng, nhà cửa bên trong hơi cũ kỹ, sân vườn cũng hoang tàn, nhưng nhà trước nhà sau đều được thiết kế khéo léo, lại nhiều phòng.
Ý Triệu Ưởng là muốn để ô nhân phụ trách việc xây xướng trong thành sửa sang lại phòng ốc rồi cả nhà Vu An hẵng dọn vào. Nhưng Vu An lại xin ô nhân mười người thợ, nói muốn tự mình sửa nhà. Trời nóng thế này, ai mà muốn đội nắng đứng trông coi thợ thuyền cơ chứ? Thế nên Vu An vừa nói, ô nhân đã đồng ý ngay, còn cấp thêm cho hai người.
Tư mỗi ngày đều phải chuẩn bị hai bữa cơm cho Vu An và đám thợ nên sáng sớm đã đưa Đổng Thạch tới gửi ở chỗ Thập, dặn đi dặn lại nào là đừng để nó ngã, đừng cho nó vầy nước, nhớ đút cho nó ăn, nhớ dỗ nó ngủ trưa.
Nhà họ sửa mất hai tháng, Thập phải làm mẹ hai tháng, còn vất vả hơn dang nắng dọn cỏ ở sân sau nhà họ. Có điều mệt thì mệt, có Đổng Thạch tới chơi, mỗi ngày cô và Sử Mặc cũng cười được mấy lần.
Hai tháng sau, nhà mới của vợ chồng Tư cũng sửa xong. Tường trắng ngói mới, cột nhà sơn son, rèm lụa Tề thêu, Triệu Ưởng còn phái người đưa đồ gia dụng tới, Thập bỏ tiền cho người trồng đầy hạnh, đào và phỉ ở sân sau nhà họ, còn tự tay bắc một giàn bầu nậm. Sau này Tư khỏi phải ra ngoài mua bầu nữa, Thập cũng có hoa đào để ủ rượu.
Ngày tháng cứ trôi qua êm đềm như nước, lá vàng bên bờ sông Quái rụng hết, chớp mắt đã đến mùa đông.
Hơn nửa năm nay, chính trị nước Tấn yên ổn, nhưng ba nước Tề, Sở, Vệ lại xáo trộn tanh bành.
Ở Tề, tuy Trần Hằng đã lập công tử Lữ Ngao lên làm vua, nhưng công tử Ngao rõ ràng không mấy tin tưởng vị “công thần” đã mưu sát anh mình nên dù Trần Hằng vẫn làm tướng trên triều, song lại bị Tề hầu và hai tộc Cao, Quốc ngấm ngầm tước đoạt kha khá quyền lực.
Ở Sở, đại phu ấp Sào Bạch công Thắng lấy cớ dâng chiến lợi phẩm lên Sở vương, dẫn quân vào thành, bắt nhốt Sở vương Hùng Chương, giết lệnh doãn Tử Tây, tư mã Tử Kỳ, tự lập làm Sở vương. Mối liên minh giữa hai nước Tề Sở cũng theo đó mà tan vỡ.
Ở Vệ, Triệu Ưởng nâng đỡ Khoái Hội lên làm vua, nhưng Khoái Hội lưu lạc ở Tấn nhiều năm, cực kỳ oán hận các đại phu nước Vệ đã phản bội mình, nên vừa lên ngôi đã bắt đầu viện đủ mọi cớ tàn sát những kẻ chống đối. Khắp triều đình Vệ, ai nấy đều nơm nớp lo sợ.
Đằng sau cục diện hỗn loạn của ba nước ít nhiều đều có bóng dáng nước Tấn, mà đằng sau sự bình yên của Tấn cũng nhất định có những nước khác đang rình rập chờ thời cơ. Cả thiên hạ tranh giành đấu đá này tựa như một cánh cung bị kéo căng, tất cả những người bị vây hãm trong cuộc cờ đều nghe được tiếng dây cung rít lên kẽo kẹt.
Dây cung đứt, thiên hạ loạn. Cuối cùng kẻ nào sẽ kéo đứt dây cung đây?
Khi trận tuyết đầu mùa trút xuống thành Tân Giáng, Triệu Vô Tuất cũng trở về. Sớm hơn Thập dự tính nhiều.
Sớm hôm ấy trời đổ tuyết lắc rắc, bông tuyết khá lớn nhưng lại rất thưa, bay phơ phất trên không như lông vũ. Triệu Vô Tuất và Ngư cưỡi ngựa vào thành từ cổng Tây, dừng trước cổng phủ Triệu. Nô bộc bưng chậu nước, nữ tỳ cầm khăn sạch, hầu thiếp giúp sửa lại áo mũ, còn cả cô vợ đôi mắt long lanh của hắn đều nhất tề kéo ra. Lau mặt, rửa tay, phủi tuyết, cảnh tượng rộn ràng hệt như năm xưa Thập tới phủ Triệu lần đầu, chỉ là người đã khác hẳn.
Thập lẳng lặng xoay người bỏ đi, bỗng nhiên thấy một bóng người cụt tay chắn trước mặt, ra là Ngư.
“Cô nương về rồi à!” Y mừng rỡ kêu lên.
“Chào Ngư, anh vẫn khỏe chứ?” Thập mỉm cười vén tấm mạng sa xanh che mặt.
“Mấy năm nay cô nương đi đâu vậy? Làm chủ nhân tìm mãi! Mau, mau, chủ nhân ở bên này, để tôi dẫn cô nương đi!” Ngư tóm lấy Thập, vừa kéo đi vừa lớn tiếng gọi Triệu Vô Tuất, “Chủ nhân xem này, cô nương về rồi!” Y chưa dứt lời, cả đám người trước cổng phủ đã đổ dồn mắt vào cô, cô vội quay đi, buông mạng che mặt xuống.
“Cô vẫn chưa đi à?” Triệu Vô Tuất đứng trên cao nhìn xuống Thập, cô gái bên cạnh hắn cũng nhìn cô trừng trừng. Cô lặng lẽ lắc đầu.
Hắn cười khẩy, thờ ơ nói, “Vậy phiền cô nương lần sau muốn đi nhớ bảo Triệu mỗ một tiếng, Triệu mỗ đâu phải hạng bạc tình bạc nghĩa, nhất định sẽ chuẩn bị rượu tiễn biệt cô nương.”
Lời hắn tràn đầy ý chế nhạo, nhưng Thập chẳng có tư cách tức giận, năm xưa bị Sử Mặc lừa gạt, đánh thuốc mê rồi vứt bỏ hắn, quả thực là lỗi của cô.
“Xin lỗi.” Cô khó nhọc cất lời, giọng khàn đặc, khó mà nghe rõ.
“Xin lỗi à? Cô nương có lỗi gì với Triệu mỗ đâu? Được vui hưởng đêm xuân với người đẹp như cô nương, còn không phải trả tiền, là Triệu mỗ hời rồi.” Triệu Vô Tuất đanh mặt nhìn cô, nét mặt không nhìn ra là tức giận hay căm ghét, nhưng người đứng sau hắn đã tỏ vẻ khinh bỉ thấy rõ.
“Đêm ấy với thế tử là qua đường, nhưng với tôi thì khác. Bên bờ hồ Lạc Tinh, suốt đời suốt kiếp chỉ có một lần. Nếu thế tử muốn quên thì cứ quên đi, một mình tôi nhớ là được…”
Thập vừa lùi lại, hắn bỗng giơ tay tóm lấy mảnh sa xanh dưới vành nón tre của cô.
Thập ngạc nhiên ngẩng lên thì hắn lại thình lình rụt tay về.
“Cô đi đi.” Triệu Vô Tuất mím chặt môi, lầm lì quay đi.
Rừng thông hứa hẹn, bên hồ thành hôn, yêu nhau tới trời long đất lở, cuối cùng vẫn đi đến bước đường cùng này.
“Triệu thế tử giờ đây mọi sự hanh thông, tôi lấy làm mừng lắm. Ngày sau rời Tấn, ắt sẽ tới báo cùng thế tử, xin thế tử ban rượu tiễn biệt, để tế những chuyện xưa kia. Cáo từ.” Thập thướt tha hành lễ với bóng người trên thềm rồi xoay người sải bước đi thẳng. May quá, may thay hôm nay cô đội nón, bằng không nói mấy câu này mà nước mắt đầm đìa, e rằng sẽ bị cười chết mất.
Mấy ngày sau đó, khắp chợ búa quán xá trong thành Tân Giáng đều râm ran bàn tán chuyện thế tử phụ tộc Triệu vác roi quật nữ nhạc ở giáo phường.
Hôm ấy Triệu Vô Tuất có ý ví Thập với đám con gái bán thân ở giáo phường, cô ả tộc Địch kia bèn đùng đùng kéo đến giáo phường tìm “cô”. Công chúa tộc Địch phương Bắc vung roi vun vút, mấy nhạc kỹ dáng dấp gần giống Thập ở các giáo phường Tân Giáng đều vô cớ ăn mấy chục roi, toạc thịt rách da, nát tươm quần áo.
Tư lo lắng kể chuyện này với Thập. Đến giờ Tư vẫn lo một ngày nào đó bạn mình nghĩ không thông sẽ chạy tới phủ Triệu làm hầu thiếp cho Triệu Vô Tuất. Tư nói chủ mẫu ghê gớm như vậy, Thập không hầu hạ nổi đâu. Nếu Thập vào phủ Triệu làm thiếp, e rằng cứ dăm ba hôm lại phải ăn một trận đòn roi, chẳng biết có qua nổi nửa tháng không nữa.
Nỗi lo hão huyền của Tư làm Thập dở khóc dở cười, đành ôm bạn dỗ dành rằng trừ phi Kỳ sơn sụp đổ, ba sông chảy ngược, bằng không cô chẳng đời nào đi làm thiếp Triệu Vô Tuất. Huống hồ hắn và cô đã hẹn thề trước, nếu tính ra thì cô mới là chính thất của Triệu Vô Tuất, còn cô ả tộc Địch hung hãn kia chỉ có thể coi là thiếp.
Tư gật gù, bấy giờ mới lo cho mình, quay sang hỏi Thập có nên nạp Dương làm thiếp cho Vu An không. Từ lâu Tư đã nhận ra cậu trai ngày ngày đi theo Vu An thực ra là một thiếu nữ kiều diễm, hơn nữa còn đem lòng ái mộ hắn, cũng như mình khi xưa vậy.
Nghe Tư nói xong, Thập gập ngón tay cốc mạnh vào trán bạn, “Nạp thiếp cóc gì! Vu An không nói, Dương không nói, cậu tự dưng lại đi lo vớ lo vẩn! Mau sinh thêm cho Vu An hai đứa nữa, để anh ta cả đời khỏi phải nạp thiếp!”
Cô vừa xẵng giọng nói xong thì Vu An đẩy cửa bước vào.
Đang nói sau lưng lại bị người ta tóm được tại trận, mặt Thập đỏ bừng lên.
Vu An nhìn cô rồi bước tới siết chặt tay Tư, dịu giọng, “Đổng Thư ta kiếp này có mình Tư là đủ, chuyện nạp thiếp đừng bao giờ nhắc tới nữa.”
Mười năm, Tư đợi mười năm, cuối cùng cũng đợi được ngày này.
Tư không khóc nhưng Thập ngồi bên lại thấy mắt cay sè vì cảm động, chỉ biết bưng miệng lẳng lặng lùi ra khỏi phòng.
Bên ngoài cửa, Dương mặc áo chẽn cũng đang rưng rưng nước mắt.
Năm thứ bốn mươi đời Chu Kính vương, dưới sự dàn xếp của Đoan Mộc Tứ, hai nước Lỗ và Tề lại bắt tay hòa hảo với nhau. Lỗ phái sứ thần sang Tề, Tề trả lại ấp Thành vốn thuộc về Lỗ, xem chừng việc kết liên minh đã ở trong tầm tay.
Trước cục diện ấy, Tấn hầu và Triệu Ưởng đều đứng ngồi không yên. Ba nước Tấn, Tống và Vệ sắp kết liên minh, Tấn hầu thậm chí còn định phái Triệu Ưởng dẫn quân đánh Trịnh, khiến Trịnh phải khuất phục Tấn.
Nhưng việc kết liên minh đâu có đơn giản như vậy? Nước Tống vẫn vênh vang rằng mình là dân cũ từ triều Thương, lại là nước công hầu, tuy nhỏ nhưng chưa chắc đã chịu xuống nước liên minh công khai; Vệ thì dễ hơn, dù sao quân chủ Vệ Khoái Hội cũng chịu ơn Triệu Ưởng nhiều năm, theo lý thì nên báo đáp. Thế nên mùa đông năm thứ bốn mươi mốt đời Chu Kính vương, Triệu Ưởng sai Bưu Lương đi sứ sang Vệ bàn việc kết liên minh với Khoái Hội, lại cử thế tử Triệu Vô Tuất cùng thái sử Mặc sang Tống “bái kiến” Tống công và Tống thái sử Tử Vi.
Nghe lệnh ban ra, Thập trợn tròn mắt. Sử Mặc tuổi đã cao, lại phải lên đường giữa đông giá, đừng nói tới được kinh đô Thương Khâu nước Tống, mà có tới được biên giới Tống hay không cũng là vấn đề. Triệu Ưởng ra lệnh này, lẽ nào muốn dồn Sử Mặc vào chỗ chết?
Sử Mặc nghe lệnh cũng lo âu hết sức. Có điều ông lại lo rằng đồ đệ nữ của ông sẽ phải “đi cùng xe” với Triệu Vô Tuất sang Tống.
Tới giờ cơm tối, mệnh lệnh thứ hai trong cung mới đưa đến, đại ý là thái sử Mặc cao tuổi, bệ hạ lo thái sử vất vả nên sai đệ tử Tử Ảm thay thầy sang Tống, đi cùng Triệu thế tử Vô Tuất.
Cả bữa, Thập ăn mà như nhai rơm.
Tháng Mười, khi nhà nhà trong thành Tân Giáng đang bận bịu lo lễ lạt cúng tổ tiên cuối năm, Thập lại phải cùng vị “phu quân” đã vứt bỏ cô như đôi giày cũ lên đường sang Tống.
Trước lúc xuất hành, Thập gói ghém hành lý rồi ngồi đợi trên thềm trước chỗ ở của Triệu Vô Tuất. Trong nhà, vợ hắn đang mặc áo đội mũ, xỏ tất đi giày cho hắn. Một cô nàng từng vung roi vun vút giờ lại khóc tấm ta tấm tức. Triệu Vô Tuất vừa đi Sở hơn nửa năm, giờ mới về lại phải sang Tống, chẳng trách vợ hắn lưu luyến khôn nguôi, khóc lóc thảm thiết làm vậy. Nhưng người trong phòng cũng từng là phu quân của Thập, nước mắt cô biết nuốt vào đâu đây.
Nửa canh giờ, rồi một canh giờ, cô cứ ôm gối ngồi chờ giữa gió bấc.
Ngư bên cạnh đã rét không chịu nổi, đứng dậy định gọi cửa, nhưng nghe thấy người đàn bà bên trong khóc nức nở, y lại không dám, “Cô nương mau gọi cửa đi! Cứ dùng dằng mãi thế này có khi trong kia đẻ con luôn ấy chứ!”
Thập xoa tay rồi hà hơi cho ấm, “Anh đi mà gọi, sao lại bảo tôi? Đừng gọi tôi là cô nương, kẻo chủ mẫu nhà anh nghe thấy, tôi lại phải ăn một trận đòn roi bây giờ.”
“Cô nương mà sợ ả ta à? Huống hồ trong kia có hai người, một người muốn đánh cô, người kia kiểu gì chẳng xót mà ngăn lại?”
“Gia chủ nhà anh giờ chỉ muốn ăn tươi nuốt sống tôi thôi, tôi chẳng thèm chuốc nhục đâu.” Thập đứng dậy đi tới dưới một gốc mai trong sân. Ấy là một cội mai già, trên những cành cong queo đen như sơn lấm tấm mấy nụ hoa đỏ thẫm, cô độc quật cường, toát lên khí phách hào sảng hơn cả rừng mai Hương Tuyết Hải ở Tần.
Thập đứng đó ngắm mai, trong khi Ngư vẫn đợi dưới mái hiên, phải hà hơi giậm chân cho đỡ lạnh. Tâm cô đã lạnh nên không cảm thấy thân thể giá buốt mấy, còn Ngư có lẽ sẽ cóng chết mất. Thập khẽ thở dài, cúi đầu lấy trong túi đeo bên mình ra chiếc huân, thổi bừa một khúc, không ngờ lại là khúc nhạc năm xưa Chúc Độc say khướt trên ngựa, vừa hát vừa bỏ nước bỏ nhà đi.
Khi xưa cất bước ra đi, bên đường liễu biếc xanh rì bóng râm. Nay ta trở gót lại thăm, tuyết bay trắng xóa lạnh căm nỗi mình… Hiểu ta thời mới thương tình, cầm bằng không hiểu, cười mình viển vông…
Khúc nhạc buồn còn chưa thổi hết, cánh cửa phòng sau lưng đã mở toang.
Triệu Vô Tuất đứng trong cửa, tóc cột mũ đen, mình vận áo đen, gương mặt sa sầm, chỉ có chiếc đai đỏ tía thêu mây cuốn đính móc ngọc quấn quanh thắt lưng là còn chút sắc màu.
Thập vái hờ hắn một cái rồi xoay người đi ra ngoài.
Ngư lấy tay xoa mặt rồi hối hả theo sau, quên bẵng kẻ đằng sau mới là chủ mình.
Trời buốt giá, ba người chen chúc trong xe, Triệu Vô Tuất chẳng nói chẳng rằng, Thập chẳng hé răng, Ngư liếm môi rồi cũng ngoan ngoãn ngậm miệng. Phu xe quát to một tiếng, hai thớt ngựa ô tung vó phi đi giữa gió rét.
Giờ chưa tới độ rét đậm, mặt sông chưa đóng băng nên họ định đi xe ngựa từ Tân Giáng đến bến sông Thiếu rồi chuyển sang đi thuyền, xuôi sông Thiếu xuống miền Nam rồi theo sông Đan sang Đông, tới thẳng Thương Khâu.
Từ Tân Giáng tới bến sông Thiếu phải ngồi xe ít nhất mười hôm. Trước khi lên đường, Thập đã dự liệu được tình cảnh khó xử trên xe nên chuẩn bị sẵn đồ để giết thời gian: một con dao vót, một bó nan tre. Mỗi ngày ngồi xe cô lại đan một giỏ tre, đến tối tới trạm dịch thì đem tặng quản sự trạm dịch, như vậy trước khi đi ngủ có thể nhờ người ở trạm dịch đun thêm cho một chậu nước nóng ngâm chân.
Hôm nay cũng là một ngày im lìm trên xe. Thập lấy dao vót ra rồi cúi xuống lúi húi rút mấy nan tre thì Triệu Vô Tuất đã giẫm lên mớ nan, “Cô nương không còn việc gì khác để làm à? Ngư, đưa tay nải cho cô ấy, để cô ấy vá mấy cái áo rách hộ ngươi!”
Mấy hôm nay Ngư bức bối khôn xiết, dọc đường đi cả Thập lẫn Triệu Vô Tuất đều không nói năng gì, y cũng không dám nói chuyện, nên hễ tới trạm dịch là tìm người uống rượu đánh bạc, tới lúc mọi người đi ngủ cả, y lại một mình luyện đao trong sảnh. Vậy là ban ngày lên xe, y có thể lăn ra ngủ. Giờ Triệu Vô Tuất gọi, y đã ngủ không biết trời đất gì.
“Anh ta ngủ rồi.” Thập rút một nan tre dưới chân hắn.
Triệu Vô Tuất sầm mặt, vung nắm đấm nhắm thẳng vào ngực Ngư.
Ngư đang ngủ chợt quát lên một tiếng, rút phăng loan đao cạnh tay, ánh đao nhoáng lên, suýt nữa đã xé toạc mui xe. “Có thích khách!” Ngư mở to mắt, xách đao toan xông ra ngoài.
“Đưa áo ngươi cho cô ấy, để cô ấy vá cho.” Triệu Vô Tuất giữ Ngư lại, buông một câu khiến y ngẩn tò te rồi nhắm mắt ngủ.
Thập khẽ thở dài chìa tay ra, Ngư ngơ ngác đưa tay nải bên dưới chỗ ngồi cho cô, “Cô nương, chủ nhân có ý gì vậy?”
“Có gì đâu, anh cứ ngủ tiếp đi. Tới bến sông, chúng ta sẽ thuê hai thuyền, đến chừng đó anh muốn nói chuyện thì nói, khỏi phải ngủ vùi suốt ngày nữa.”
“Ôi, tạ ơn cô nương!” Ngư thở phào nhẹ nhõm, vẻ như cuối cùng cũng sắp hết khổ rồi.
Thập lấy kim chỉ trong túi đeo bên người ra, mượn ánh sáng rọi qua rèm xe, kiểm tra đám quần áo cho Ngư.
Trời lạnh lẽo âm u, xe ngựa tròng trành, vá áo suy cho cùng cũng không như đan giỏ. Vá xong một áo trong, một áo dài, đang khâu viền cổ tay cho áo dài thì xe ngựa chạy qua một bãi đá mấp mô, mũi kim lỡ đâm vào ngón tay cô, giọt máu bằng hạt đậu tức thì ứa ra.
“Bảo cô vá là cô vá à? Vá đã vụng, mắt còn kém nữa.” Suốt dọc đường Triệu Vô Tuất nhắm mắt dưỡng thần, giờ lại thình lình mở mắt, giật lấy tấm áo dài trên gối cô quăng ra xa.
Vá vụng ư? Mắt kém ư? Lúc còn ân ái, thấy cái gì cũng tốt đẹp; hết ân tình thì thấy gì cũng ngứa mắt à?
Thập cúi xuống nhặt tấm áo bị quăng đi, vừa ngẩng lên thì chiếc thắt lưng đỏ tía thêu mây kép của Triệu Vô Tuất đập ngay vào mắt.
Cũ không bằng mới, thắt lưng người mới thêu mới là đẹp nhất nhỉ.
Cô quay đi, lầm lì bóp đầu ngón tay rỉ máu.
Triệu Vô Tuất nhìn theo ánh mắt cô, trông thấy đai gấm trên thắt lưng mình, hắn nhíu mày, không nói gì nữa.
Đến chiều, bên ngoài đổ mưa lâm thâm, xe ngựa đi giữa mưa dầm, rốt cuộc cũng tới trạm dịch cuối cùng trong hành trình.
Không có giỏ làm quà, cô cũng ngại không dám xin chậu nước nóng trước khi đi ngủ. Đến đêm, cô cởi giày, đang tắt đèn chuẩn bị ngủ thì Ngư chợt gõ cửa.
“Cô nương, tôi đun cho cô ít nước này.” Y xách một ấm sành hai quai xỏ dây thừng bước vào, “Cô nương mỗi tối trước khi đi ngủ lại xin một chậu nước nóng là để uống hay rửa mặt thế? Tắm rửa thì không đủ rồi.”
“Anh nhờ quản sự đun à?” Cô lê giày ra lấy một chậu sành trên giá đặt xuống đất.
“Quản sự ngủ rồi, tôi tự chẻ củi đun đấy.” Ngư đổ nước vào chậu, bấy giờ Thập mới thấy mặt y lem luốc chỗ đen chỗ xám, cả lông mày cũng bám vụn gỗ. Giờ y chỉ còn một tay, lại đi chẻ củi đun nước.
“Anh rửa mặt trước đi! Tôi ngâm chân trước khi đi ngủ ấy mà, hai năm nay bôn ba bên ngoài tôi mắc phải cái bệnh hễ trời lạnh mà không ngâm chân buổi tối thì hôm sau ngồi hay đứng lâu chân lại đau âm ỉ. Anh rửa mặt trước rồi tôi lấy nước ấy ngâm chân là xong.”
“Ôi không, không! Mặt tôi bẩn lắm, cô nương cứ ngâm chân trước đi, xong tôi hẵng rửa mặt.”
Lấy nước ngâm chân rửa mặt ư? Nhìn gương mặt thực thà giữa làn hơi nước nghi ngút của Ngư, cô bất giác bật cười. Ngư gãi đầu, vuốt mặt rồi cũng cười theo.
“Cô nương à, cô và gia chủ rốt cuộc làm sao vậy? Dạo đó ở Lỗ, sao cô nương nói đi là đi ngay thế?” Ngư lấy nửa ấm nước Thập chia cho rửa mặt, lau luôn cả cổ.
“Năm xưa tôi tin lầm một câu nói, ngỡ rằng…” Thập cởi tất ngâm chân vào nước ấm, ngẩng lên thấy Ngư đang tò mò nhìn mình chăm chú, cô lại ngập ngừng.
“Ngỡ rằng sao cơ?”
“Không có gì, chuyện qua rồi, đừng nhắc lại nữa.” Lúc đó Triệu Ưởng quả thực đã đổ bệnh, một khi đổ bệnh, cũng chẳng ai nói chắc được có chết không. Cô và Triệu Vô Tuất giờ đã chia lìa, cần chi kéo Sử Mặc vào chuyện này nữa. “Ngư à, hôm nay anh ngủ sớm đi, chiều mai ta tới bến sông rồi. Tới đó lại phải thuê thuyền, mua lương thực, anh phải giữ sức khỏe để còn lo chứ.”
“Tôi biết rồi! Cô nương cũng ngủ sớm đi nhé.” Ngư đi đổ nước cho cô rồi khép cửa lui ra.
Thập ngâm chân nước ấm, cả người cũng ấm ran, bèn tắt đèn lên giường, ngủ say đến tận sáng hôm sau.