Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 12
XUÂN TỚI BĂNG TAN
Ngồi thuyền giữa đông, sắc trời âm u, trên sông lại chỉ có thuyền bọn họ rẽ nước mà đi. Tiếng huân vốn thê lương ai oán nay thêm mưa chiều lâm thâm, khiến nhà thuyền đang khua chèo cũng sa nước mắt.
Đầu nguồn sông Thiếu nằm ở miền Bắc nước Tấn, độ xuân hè thuyền buôn ngược Bắc xuôi Nam tấp nập, nhưng lúc này đã vào đông, lại thêm hai ngày nay mưa phùn gió bấc liên miên, bến sông chỉ thấy lơ thơ mấy con thuyền nhỏ.
Thuyền cũ quá không được, mui mỏng quá không ưng, nhà thuyền xấu quá không ổn, già quá không thuê, yếu ớt không chịu, kén cá chọn canh mãi, Triệu Vô Tuất chỉ chọn được một chiếc thuyền nhỏ mui đen.
Hôm qua Thập đã hứa với Ngư sẽ thuê hai thuyền, nhưng chưa kịp đề nghị đã bị Triệu Vô Tuất chặn họng. Hắn nói vừa rồi ở chợ đã mua than củi và lò lửa cho cô, giờ không còn dư nhiều tiền để thuê thêm thuyền nữa.
Lúc nói câu đó, túi tiền nặng trịch vẫn lủng lẳng bên hông hắn, đừng nói thuê hai thuyền, dù có mua hai thuyền rồi mua thêm hai nô lệ chèo thuyền cũng dư sức, nhưng hắn nhất định không chịu thuê thêm cái nữa. Chỉ giận chuyến này Thập quên đem tiền, không xu dính túi, đành ngậm bồ hòn làm ngọt.
Khi lên thuyền, mặt Ngư còn cau có hơn cả cô. Với Ngư, ngồi xe có khó chịu đến mấy chẳng qua chỉ mất mười ngày; nhưng đi thuyền ít nhất phải hai tháng, Thập và Triệu Vô Tuất cứ khủng khỉnh thế này, y cũng ngộp thở theo.
Thập tự thấy áy náy với Ngư nên sau khi lên thuyền bèn cố gắng kiếm chuyện để tán gẫu.
Ngư có vẻ khá thích chiếc huân của cô nên cứ đòi nghe lại khúc nhạc dưới gốc mai lần nữa. Cô thấy Triệu Vô Tuất không phản đối bèn lấy huân ra thổi.
Ngồi thuyền giữa đông, sắc trời âm u, trên sông lại chỉ có thuyền bọn họ rẽ nước mà đi. Tiếng huân vốn thê lương ai oán nay thêm mưa chiều lâm thâm, khiến nhà thuyền đang khua chèo cũng sa nước mắt.
Nhạc dứt, trong khoang thuyền lặng phắc.
Ba người ngồi đối diện nhau, lòng mỗi người lại miên man với một hồi ức riêng.
Chập choạng tối, tiếng gió ngoài mui thuyền càng lúc càng to, không có tịch dương, chẳng có ráng chiều, mặt sông âm u như một chiếc đai xám đen.
“Tối nay quý khách tạm nghỉ trong rừng nhé!” Nhà thuyền tìm một cánh rừng gần đó neo thuyền lại, chèo thuyền ngược gió giữa mùa đông giá rét thế này quá tốn sức, ông ta cũng đã thở dốc.
Triệu Vô Tuất gật đầu, mọi người liền xuống thuyền.
Ngư cùng Triệu Vô Tuất bắt đầu dựng lán tránh gió, Thập lấy trong ngực áo ra một cái bánh kê mua ban chiều, đưa lên miệng.
“Cô nương đừng ăn bánh kê cứng đanh lạnh ngắt ấy nữa! Để tôi đi bắt cá nấu nồi canh cho cô nương!” Ngư đi đến giật lấy bánh kê trong tay Thập nhét vào miệng, lúng búng nói, “Cô nương mau lại giúp gia chủ bắc lán đi! Hai người làm chung cho vui!” Dứt lời y nháy mắt với cô rồi mượn ông lái đồ nghề bắt cá, bỏ đi mất.
Thập hiểu lòng Ngư, nhưng Triệu Vô Tuất chẳng cho cô cơ hội nhúng tay. Hắn đi qua đi lại bên cạnh cô, cứ như cô không hề tồn tại vậy.
“Hai ta giờ đến làm bạn cũng không được nữa sao?” Cô thõng tay đứng cạnh hắn, lòng buồn vô hạn.
Triệu Vô Tuất ngước nhìn cô, chẳng nói câu nào.
Lòng cô như đeo đá, vừa nặng nề vừa ngột ngạt, muốn hét lên một tiếng phá vỡ không khí gượng gạo này, nhưng đứng trước mặt hắn, đến nói cô cũng không thốt ra được câu nào.
Ngư bắt cho Thập cả giỏ cá bé, cô nấu cháo kê với cá, ăn xong thì cũng tới lúc đi ngủ. Ông lái và Ngư chui vào một lán, Triệu Vô Tuất chui vào lán còn lại. Thập nhìn mấy thanh củi cháy rừng rực trong đống lửa, lặng lẽ nằm xuống, cuộn tròn tay chân lạnh cóng.
Thao thức trắng đêm, chuyện xưa như một con rắn lạnh buốt trườn trong tim cô. Khi đống lửa trước mặt trở thành đống tro lạnh lẽo, khi nền trời tím sẫm rạng lên phía đằng Đông lần nữa, ngôi lán cô đăm đăm nhìn cả đêm vẫn lặng ngắt.
Kẻ không được yêu vẫn khao khát được yêu, ấy là nỗi bi ai lớn nhất của cô hiện giờ.
Trên đường đi, cuối cùng Thập cũng học được cách tự bổ củi, bắc lán, đặt bẫy bắt thú, nhưng cô càng độc lập, Triệu Vô Tuất càng cau có. Hắn rất hiếm khi nói chuyện với cô, mỗi lần mở miệng là lại bới móc mấy chuyện không đâu hoặc sai phái cô làm những việc cô không làm được. Có lẽ hắn đang đợi cô khuất phục, phục xuống chân hắn khóc lóc kể lể những đau khổ sau khi rời khỏi hắn, nói rằng cô mong được hắn rủ lòng thương tới nhường nào. Nhưng cô không thể làm vậy, bởi cô biết nếu mình thực sự quỳ rạp trước mặt hắn, hắn sẽ nghiệt ngã ngoảnh đi.
Nửa tháng sau, thuyền của họ đến Trịnh. Cơn bão tuyết lớn giữ chân họ lại thành Hoài. Đây là một thành trấn không to cũng không nhỏ, quán dịch chỉ có mười mấy gian phòng. Lúc này trời còn chưa tối hẳn, vậy mà trong quán dịch đã chật kín người tránh bão.
“Chủ nhân à, người ngồi uống rượu đằng kia sao trông giống Khổng đại phu nước Vệ thế nhỉ?” Vừa bước vào cổng quán dịch, Ngư đã trỏ một bàn khách trong góc sảnh thì thào.
Thập nhìn theo tay Ngư chỉ, thấy một người đàn ông tuổi ngoại tứ tuần, trán rộng mũi to, mặt mày ủ ê ngồi giữa đám bợm nhậu ồn ào, bên trái còn một bà già đầu chít khăn xanh, mặt cúi gằm nên không trông rõ diện mạo, nhưng đôi vai run rẩy đã thể hiện rõ nỗi quẫn bách và bứt rứt.
“Các người tìm chỗ ngồi trước đi, để ta lại đó xem thử.” Triệu Vô Tuất đi thẳng về phía người đàn ông nọ, kẻ kia nhác thấy hắn lập tức bỏ bát rượu xuống, cầm lấy thanh kiếm ở thắt lưng.
Ngư cũng giơ tay rút loan đao.
“Đừng vội, Khổng Ly đâu phải đối thủ của gia chủ anh.” Thập giữ tay Ngư lại, quay sang nhìn ba người trong góc.
Bên trong quán quá ồn, cô không nghe được Triệu Vô Tuất nói gì với Khổng Ly, chỉ thấy vẻ mặt Khổng Ly từ sợ hãi đổi thành giận dữ, sau đó lại chuyển sang buồn rầu.
“Cô nương, sao Khổng đại phu không ở Đế Khâu làm tướng lại chạy sang Trịnh?” Ngư chiếm lấy một chỗ ngồi xuống.
Thập nhìn Khổng Ly, cảm thán, “Quyền thần gặp phải bạo quân, e rằng ông ta phải trốn khỏi Vệ để giữ mạng.”
Chẳng bao lâu sau, lời Triệu Vô Tuất đã chứng thực suy đoán của cô.
Thì ra sau khi Khoái Hội lên ngôi ở Vệ đã giết cả đám đại phu trước kia phản đối lập lão làm vua. Khổng Ly vốn là cháu đằng ngoại của Khoái Hội, lại lập công lớn trong khi giúp lão đoạt ngôi, cứ ngỡ lưỡi đao đồ tể của Khoái Hội sẽ không vung tới đầu mình, nào ngờ hè năm nay Khoái Hội bày tiệc trong cung, lấy cớ ban thưởng lừa Khổng Ly vào cung uống rượu, định đầu độc chết trên tiệc. May mà Khổng Ly được người bên cạnh mật báo, vội dẫn mẹ già và vợ con đi thâu đêm trốn khỏi Đế Khâu.
Từ sau khi gặp Khổng Ly, đôi mày Triệu Vô Tuất vẫn nhíu chặt. Thập biết hắn đang lo lắng về kết quả chuyến đi sứ sang Vệ của Bưu Lương, còn cô lại lo rằng phen này họ tới Tống chỉ tổ uổng công.
Bão tuyết lớn kéo dài trọn tám ngày, mặt sông bên ngoài đóng băng, mặt đường cũng đóng băng. Người trong quán dịch ai cũng muốn đi, nhưng chẳng ai đi nổi.
Rõ ràng vẫn đang đông mà lại khăng khăng đi hái quả mùa thu. Ý tưởng điên rồ của Tấn hầu và Triệu Ưởng hại cô phải đón một cái tết lạnh lẽo ở trạm dịch xa lạ này. Nghĩ lại thì một năm qua trôi quá nhanh, tưởng như mới hôm qua thôi cô còn đương lục xem các mật hàm ở lầu Tỏa Tâm, vậy mà chớp mắt đã hết năm.
Cũng ngày này năm ngoái, Thập tìm được trong lầu Tỏa Tâm hai ghi chép về việc tộc Trí phái người đi tìm tộc Công Thâu nước Lỗ, một cái viết vào năm thứ hai mươi ba đời Chu Kính vương, một cái viết vào năm thứ hai mươi lăm.
Năm thứ hai mươi ba đời Chu Kính vương, ông nội Trí Dao sai Công Thâu Ban có thiên bẩm về chế tạo cạm bẫy thiết kế một gian hầm ngầm ngay dưới phòng ngủ của mình để giam mẹ cô, rồi lại lệnh cho một người tên Ninh trong tộc Công Thâu chế tạo cỗ “xe thất hương” biếu Sử Mặc nhằm che đậy. Năm thứ hai mươi lăm đời Chu Kính vương, cũng là mùa xuân năm thứ hai sau khi mẹ cô được Đạo Chích cứu thoát khỏi hầm ngầm, Trí Dao bấy giờ còn nhỏ tuổi đã đích thân sang Lỗ, tìm Công Thâu Ninh chế tạo “xe thất hương” năm xưa để đóng một cỗ “xe thất bảo” dâng lên Tấn hầu.
Thời điểm Trí Dao sang Lỗ quá trùng hợp, khiến Thập không khỏi ngờ rằng kẻ đã đóng “xe thất bảo”, cũng tức là Công Thâu Ninh tiếng tăm lừng lẫy một thời rồi đột nhiên mai danh ẩn tích, thực ra đã âm thầm thiết kế cho tộc Trí một căn hầm khác, giam giữ dược nhân mà cô nhọc nhằn tìm kiếm bấy nhiêu năm.
Thập chưa từng thấy “xe thất bảo” của Tấn hầu, nhưng “xe thất hương” của Sử Mặc đậu ngay sân sau phủ thái sử. Sử Mặc không thích cỗ xe ấy, cũng không thích người khác nhắc tới nó trước mặt ông. Sau khi về Tân Giáng, Thập từng hỏi ông về tung tích Công Thâu Ninh nhưng bị ông buông một câu “không biết” chặn họng, về sau cô lại tìm dịp xin ông “xe thất hương”, cũng bị từ chối thẳng thừng. Người đời đồn đại rằng Công Thâu Ninh đã chết, nhưng Thập không tin, nên lại nhờ người gửi thư sang Lỗ, nhờ Đoan Mộc Tứ dò hỏi tung tích Công Thâu Ninh giúp mình.
Bốn tháng sau khi gửi thư đi, cô nhận được tin thầy Khổng lìa trần, ông lão quật cường ấy, vào một ngày tháng Tư, khi cảnh xuân đương độ đẹp nhất, đã mãi mãi rời khỏi cõi đời lúc nào cũng hắt hủi ông mà ông lại luôn lo âu, kỳ vọng vào nó. Xa cách nghìn trùng, Thập đứng giữa gió thu se sắt ở Tấn bái vọng về phía Đông, tự hiểu rằng trong vòng ba năm, Đoan Mộc Tứ sẽ dựng nhà giữ mộ thầy, không trả lời thư cô nữa.
Lỗ nằm ngay sát Tống, có lẽ sau khi tới gặp thái sử Tử Vi nước Tống, cô có thể sang Lỗ một chuyến để viếng thầy Khổng, tiện thể gặp Đoan Mộc Tứ và ở lại Khúc Phụ ít lâu nghe ngóng tin về Công Thâu Ninh. Như vậy cô cũng khỏi phải cùng xe chung thuyền với Triệu Vô Tuất về Tân Giáng.
Đương nghĩ vậy, Thập chợt nghe thấy tiếng chân đi trên hành lang ngoài cửa.
“Nước nóng của quý khách đây.” Có người gõ nhẹ cửa phòng cô.
Thập mở cửa, bên ngoài là người hầu trong trạm dịch, gã gập người hành lễ với cô rồi đưa ra một vò sành đen.
“Anh có đưa nhầm không đấy? Tôi đâu có xin quản sự nước nóng!”
“Là vị khách cụt tay dưới nhà sai tôi đưa lên đấy ạ.” Gã hầu cung kính đáp.
“Ồ, vậy…” Thập nhận vò nước đang định cảm ơn thì kẻ đưa nước đã xoay người chạy xuống nhà.
Hôm nay là ba mươi tết, Triệu Vô Tuất hình như đang uống rượu với Khổng Ly. Ngư vừa lên báo ngày mai bất luận có tuyết hay không, họ cũng phải lên đường tới Thương Khâu. Khổng Ly phen này cũng định dẫn mẹ già và vợ con chạy sang Tống lánh nạn. Triệu Vô Tuất định đi trước Khổng Ly một bước, nhân lúc Tống công chưa nắm được thế cục bên Vệ, thử thăm dò ý Tống công về việc kết liên minh.
Bên ngoài trạm dịch gió tuyết vần vũ, gió đêm gào rít như sói tru, cuốn những bông tuyết như lông ngỗng quét qua đồng ruộng, thung lũng. Thời tiết này không thể đi thuyền, nếu đổi sang ngồi xe ngựa thì đôi chân coi như tàn phế một nửa của cô cũng cần ngâm nước ấm mới được.
Thay áo trong, đốt củi sưởi xong thì nước trong vại sành cũng vừa đủ nguội. Thập ngồi trên sập, ngâm chân vào chậu nước bốc hơi nghi ngút, bàn chân lạnh cứng được làn nước ấm vỗ về dần dần ấm lên.
Nhưng sao trong phòng lại thoang thoảng mùi hoa thế nhỉ? Hay cô ngửi nhầm? Lần này lên đường rõ ràng cô không mang túi hương mà. Thập vừa nghĩ vậy thì chợt thấy hơi choáng váng, nhác thấy vò nước đen cạnh chân, cô thầm than gay to rồi.
Thập đứng dậy toan bước ra khỏi chậu nước, nhưng mọi vật trong phòng dường như bắt đầu xoay mòng mòng. Cô ngã xuống đất, song chẳng hề thấy đau, chỉ thấy lâng lâng bồng bềnh như đang nằm trên mây, cuối cùng nhắm mắt lịm đi.
Trong bóng tối, cô dập dềnh chìm nổi, nghe thấy tiếng đao kiếm chém vào nhau loảng xoảng, rồi tiếng băng tuyết rít gào như dời non lấp biển. Sau mấy tiếng thét thảm thiết, tất cả lại chìm vào yên lặng. Hồi lâu sau, chỉ nghe thấy một giọng run run cuống cuồng gọi bên tai cô, Thập à, Thập…
Chắc chắn cô vẫn đang mơ. Từ năm ngoái trở về Tân Giáng gặp hắn, hắn đã chẳng còn gọi tên cô nữa. Cứ cô nương thế này cô nương thế nọ, tưởng như cô thực sự chỉ là người dưng nước lã chẳng liên quan tới hắn vậy.
Nghĩ đến đó lòng cô lại chua chát, đành thả lỏng cơ thể, để mình trôi nổi giữa hư không.
“Sao tay nàng lạnh thế này? vết thương ở chân cầm máu chưa?”
“Thưa, cầm rồi.”
“Sao người còn chưa tỉnh?”
“Cô nương có vẻ bị người ta bỏ thuốc, lại là thuốc cực nặng. Nhưng kẻ bỏ thuốc đã chết cả rồi, chúng ta cũng chẳng biết tìm thuốc giải ở đâu nữa!”
“Vậy ngươi mau đi tìm thầy thuốc đi!”
“Chủ nhân, nửa đêm nửa hôm thế này, trời vừa tối vừa đổ tuyết lớn, biết đi đâu tìm thầy thuốc bây giờ? Bản thân cô nương đã bằng nửa thần y rồi, trong tay nải cô ấy mang rất nhiều thuốc, hay chủ nhân thử tìm xem?”
“Lấy ra đây cho ta!”
Có người thận trọng nâng đầu cô lên, dịu dàng ôm cô vào lòng. Chẳng mẩy chốc, mùi thuốc lạ lùng đã ứ đầy khoang mũi cô. Khổ nỗi cô không cử động được thân thể tứ chi, đành lắc đầu thở dài trong mộng, kẻ này chọn đi chọn lại lại lấy túi thuốc chế từ hoa túy tâm ra chữa cho cô, e rằng phen này cô phải ngủ ba ngày ba đêm mất.
Tới khi Thập tỉnh lại lần nữa thì vẫn là chiều tối, trong phòng thắp đèn, gió ngoài cửa sổ dường như đã ngừng.
Ngư nhắm mắt ngồi dựa cuối giường cô, còn Triệu Vô Tuất chẳng thấy tăm hơi. Cô mấp máy môi toan nói nhưng miệng vừa đắng vừa khô, lưỡi dính vào hàm trên, không cử động được, đôi chân cũng đau buốt từng cơn.
“Ngư?” Cố nuốt nước bọt mãi, cuối cùng cô cũng thốt ra được một tiếng.
“Dạ!” Ngư bật dậy, chạy tới định đỡ cô. Song Thập vội vã xua tay, ra hiệu bảo y rót cho mình bát nước.
“Tôi ngủ bao lâu rồi?” Cô hỏi bằng giọng khàn đặc.
“Cô nương ngủ gần ba ngày rồi, gia chủ đã vời tất cả thầy thuốc vời được trong thành Hoài tới xem bệnh mà chẳng tác dụng gì.” Ngư xách chiếc ấm có quai trên bàn lên, rót cho cô một bát nước đầy.
“Giờ chủ nhân anh đâu?”
“Đang thắng ngựa bên ngoài! May mà cô nương tỉnh lại, bằng không gia chủ định đi thâu đêm tới kinh đô nước Trịnh tìm thầy thuốc cho cô nương đấy. Bên ngoài đang đổ tuyết lớn lắm, chẳng nhìn thấy đường sá gì hết.”
“Tôi không sao rồi.” Thập uống hơn nửa bát nước mới thấy mình đã sống lại, “Dạo này tôi yếu quá, không chịu nổi sức thuốc, bằng không đã chẳng mê man lâu thế.”
“Cô nương làm bọn tôi sợ quá.” Ngư đón lấy bát từ tay cô, đúng lúc ấy cửa phòng kẽo kẹt mở ra, Triệu Vô Tuất mình đầy gió tuyết xuất hiện. Hắn tay cầm nón lá, mình khoác áo tơi, gương mặt bợt bạt vì gió tuyết, nhưng tai và mũi lại đỏ lựng. Thấy cô đã tỉnh, hắn cũng chẳng nói gì, chỉ cầm nón trúc đội gió tuyết đứng cạnh cửa nhìn cô.
“Gia chủ, cô nương tỉnh rồi, tối nay gia chủ khỏi cần tới kinh đô nước Trịnh nữa.” Thấy hai người đều lặng thinh, Ngư vội chạy tới cầm lấy nón lá từ tay Triệu Vô Tuất.
“Ta thấy rồi.” Triệu Vô Tuất xoay người cởi áo tơi rồi cau có liếc xéo cô, “Đầu bếp phủ thái sử ngày nào cũng đưa hộp cơm tới rừng trúc bên ngoài thành, chẳng lẽ bên trong toàn đựng đá à? Nhẹ đến mức gió thổi cũng bay, còn trách người ta bỏ thuốc nặng. Chẳng được tích sự gì, chỉ rước thêm tội nợ.”
“Anh…” Gầy cũng tại cô, hôn mê lâu cũng tại cô, chẳng biết kẻ nào cho cô hít hoa túy tâm đấy chứ! Thập trừng mắt nhìn Triệu Vô Tuất rồi quay sang bảo Ngư, “Người hầu trong trạm dịch này bỏ thuốc tôi đấy, phòng tôi có mất mát gì không?”
“Cô nương à, chúng muốn bắt cóc cô thôi, tên hầu đưa nước đã bị diệt khẩu rồi.” Ngư nói, vẻ vẫn chưa hết sợ.
“Diệt khẩu rồi ư?” Cô bàng hoàng.
“Tên hầu đưa nước đã mất dạng từ buổi tối ba hôm trước, khi người ta phát hiện ra xác hắn dưới sông thì đã đông cứng thành băng rồi. Nửa đêm nửa hôm, ai lại ra sông băng múc nước bao giờ? Chắc chắn là có kẻ muốn giết hắn diệt khẩu nên đã quăng xuống sông cho chết đuối.”
Có kẻ muốn bắt cóc cô ư? Vì sao chứ? Giờ cô chẳng còn khăng khít gì với tộc Triệu nước Tấn nữa, chắc hẳn chúng không định nhắm vào Triệu Vô Tuất; cũng không thể là Trí Dao, nếu muốn bắt cóc cô thì gã cần chi phái người bám theo đến tận Trịnh thế này. Lẽ nào… là người nọ? Người đàn ông uống nước cúc trong sảnh đường hôm ấy, rõ ràng cô đã gặp ở đâu rồi…
“Cô nương nghĩ ra manh mối gì rồi?” Triệu Vô Tuất cắt ngang dòng suy tưởng của Thập.
Thập sắp xếp lại suy nghĩ rồi đáp, “Lúc chúng ta bắt gặp Khổng Ly, cạnh bàn ông ta có một người đàn ông. Trời rét cắt da như vậy, kẻ khác đều uống rượu, chỉ mình y uống nước, trong nước còn ngâm cúc vàng, dưới đất cũng vương vãi rất nhiều bã hoa đổ đi. Y ngồi đó rất lâu, hơn nữa tôi cứ có cảm giác hình như mình đã gặp ở đâu đó, mà không sao nhớ ra được.”
“Có phải là người của Trần Nghịch không?” Triệu Vô Tuất gặng.
“Đại ca ư? Không thể nào. Nếu anh ấy muốn dẫn tôi đi thì sẽ không để thuộc hạ giết người vô tội bịt miệng đâu.”
“Ồ, cô hiểu gã quá nhỉ.” Ánh mắt Triệu Vô Tuất sa sầm.
“Kẻ bắt tôi đều bị anh giết rồi à?” Cô hỏi.
“Giết ba tên, còn một tên tự sát. Bốn tên này dọc đường đã bám theo chúng ta rất lâu, lúc ở trong rừng ta lạnh nhạt với cô như vậy mà chúng cũng không dám ra tay, phải đợi khi ta say rượu mới động thủ, quả là coi trọng Triệu Vô Tuất này quá.”
“Ồ!” Ngư đập bàn, sực vỡ ra, “Chẳng trách hôm ấy nhiều người muốn trọ lại như vậy mà chúng ta lại kiếm được tận hai phòng, còn cách nhau xa tít, hóa ra đều là kẻ xấu sắp đặt cả!”
“Tên đàn ông cô thấy trông thế nào?” Triệu Vô Tuất hỏi.
“Khoảng hơn ba mươi tuổi, mặt mũi đẹp, phong thái cũng rất đẹp, khóe mắt có một nốt ruồi giống tôi, tay phải giấu trong ống tay áo, hẳn là một kẻ quen dùng tay trái.”
“Trong số những kẻ đã chết không có y.”
“Tôi cũng đoán thế.” … Từ đó về sau, Triệu Vô Tuất không lúc nào để cô một mình nữa. Mỗi tối tới trạm dịch, nếu có phòng nhất định đặt hai gian, một gian cho Ngư, gian kia hắn ở cùng cô. Sáng nào Ngư cũng nhìn họ với ánh mắt cực kỳ mờ ám, nhưng y nào có biết họ vẫn chia ra người ngủ trên giường kẻ ngủ dưới đất, suốt đêm chẳng ai nói với ai câu nào. Nghe tiếng thở của Triệu Vô Tuất, Thập trằn trọc mãi không ngủ được. Hắn chẳng hề trở mình, nhưng ngày nào lên xe cũng nhắm nghiền mắt ngủ gật. Thấy hắn mệt mỏi, ánh mắt Ngư nhìn cô lại càng thêm mờ ám lạ lùng.
Chuyến này họ đi cả ngàn dặm đường từ Tây sang Đông, từ mùa đông rét buốt tuyết bay đầy trời tới ngày xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, rốt cuộc đến cuối tháng Hai cũng tới được Thương Khâu, kinh đô nước Tống.
Ngư giúp Triệu Vô Tuất đưa bái thiếp tới phủ thái sử nước Tống xong liền nôn nóng ghé ngay quán Phù Tô. So với các cô nàng thướt tha trên phố Ung Môn, rượu ở quán Phù Tô hấp dẫn y hơn nhiều. Phải cái y không uống được mấy, khi say lại hay thất thố.
“Cô nương, quán rượu này thơm thật! Cả tường cũng thơm nữa.” Ngư vừa bước vào cổng quán Phù Tô đã sờ mó ngó nghiêng, người hầu trong quán nhác thấy định chạy tới ngăn nhưng vừa trông thấy Triệu Vô Tuất đội mũ đeo ngọc phía sau thì đã vồn vã cười toe toét, khom người lúc cúc chạy ra đón, “Quý khách từ đâu đến vậy? Muốn uống gì ạ? Ngồi ngoài hay trong?”
“Ngồi trong.” Triệu Vô Tuất buông ra hai chữ, tên hầu càng cười tươi hơn, “Ngồi trong, ba khách nhé.”
“Là sao thế cô nương?” Ngư thì thào hỏi.
“Rượu ngồi trong khác với ngồi ngoài.” Thập trỏ những dãy vò nhỏ bằng sành đỏ chạm hoa dưới sàn nhà trong.
“Khác thế nào ạ?”
“Đắt.”
“Hở?”
“Mời quý khách xem, muốn uống loại gì ạ?” Tên hầu bưng lên một khay vàng vuông vức, trên khay đặt mười thẻ gỗ, mỗi thẻ ghi tên một loại rượu cùng giá tiền.
Ngư không biết chữ cũng không biết số, chỉ đưa mắt nhìn Triệu Vô Tuất ra ý hỏi.
Triệu Vô Tuất hớp một ngụm nước hầu gái trong quán bưng lên rồi trỏ Thập, “Cứ hỏi cô ấy, cô ấy nắm rõ các loại rượu ở đây nhất.”
“Đây là Ngọc Lộ Xuân, Chu Nhan Đà, Áp Sầu Hương, Thanh Liên Toái, Nhất Phù Bạch…” Thập đọc tên các loại rượu cho Ngư nghe, rồi trỏ thẻ Chu Nhan Đà bảo y, “Anh uống loại Chu Nhan Đà này đi, thanh đạm dễ uống, lại khó say.”
“Chậc, thôi thôi, nghe đã biết là rượu của đàn bà. Cô nương vừa bảo đây là gì nhỉ?” Ngư chỉ vào một thẻ hỏi.
“Nhất Phù Bạch.”
“Đúng rồi, tôi muốn gọi cái này.”
“Đây là thiêu trữu ủ sáu năm cùng với dược liệu, cực cay cực nồng, sức rượu anh không uống nổi đâu.”
“Được mà được mà, cứ chọn cái này đi! Chủ nhân, đưa tiền cho tôi nào!” Ngư toét miệng cười.
Triệu Vô Tuất móc tiền ra xếp chồng lên thẻ gỗ, tên hầu lại tươi cười chìa khay vàng tới trước mặt Thập, “Chắc vị này cũng là khách quen của quán, sao trước kia tôi chưa gặp bao giờ nhỉ?”
“Không phải khách quen mà là khách cũ, mấy năm nay chưa ghé rồi.” Thập chỉ bừa vào tấm thẻ gỗ ghi Thanh Liên Toái.
Triệu Vô Tuất trả tiền xong, ngẩng lên hỏi cô, “Đêm hôm ấy uống rượu trong nhà với Trần Nghịch, cô uống loại nào?”
Thập ngây ra một thoáng mới hiểu ý hắn.
Hóa ra từ lâu hắn đã biết đêm ấy cô nấp sau cửa sổ nhìn hắn nồng nàn bên vợ mới.
“Áp Sầu Hương.”
Rượu họ chọn chẳng mấy chốc đã được bưng lên, Triệu Vô Tuất cầm chén của mình lên nhấp một ngụm, đôi mày tức thì chau lại.
Trần Nghịch từng hỏi Thập, sao Áp Sầu Hương của cô đắng thế? Cô đáp, đắng mới át được mối sầu. Còn Triệu Vô Tuất không hỏi, bởi hắn chẳng cần hỏi cũng biết.
Một chén Nhất Phù Bạch vừa trôi xuống bụng, Ngư đã đỏ mặt tía tai, nói liến thoắng, “Cô nương à, gia chủ nhà tôi chỉ độc miệng vậy thôi, cô đừng trách nhé. Lúc cô bỏ đi mất, gia chủ đã đốt cả căn nhà tranh, cô có biết không? Gia chủ khóc lóc đi tìm cô khắp nơi, không ngờ gia chủ còn khóc nữa! Cô nàng tộc Địch kia lần đầu tiên gặp gia chủ cũng bị gia chủ dọa cho phát khóc. Lúc cô ở đầm Vân Mộng, gia chủ bỏ cả…”
Triệu Vô Tuất đanh mặt bịt chặt miệng Ngư như vồ gà bắt cá.
“Đừng đi lung tung!” Hắn quay lại lạnh lùng ném cho Thập một câu rồi kéo Ngư đang la lối om sòm đi ra ngoài.
Thập đờ ra nhìn bóng họ biến mất ngoài cổng quán Phù Tô, hồi lâu vẫn chưa hết rúng động. Đầm Vân Mộng… Hắn từng tới đầm Vân Mộng tìm cô ư? Lẽ nào đêm ấy không phải cô nằm mơ? Hai nước Tấn Sở cách nhau nào chỉ nghìn dặm, bấy giờ bên ngoài thành Đế Khâu còn một trận ác chiến đang đợi hắn, sao hắn có thể tới đầm Vân Mộng tìm cô được?
“Nàng có đôi mắt dịu dàng nhất, dễ khiến người ta yêu thương nhất trên đời, nhưng lại có cái miệng khéo lừa người và trái tim lạnh như băng.”
“Sao ta không có cơ hội được nói không?”
“Thập à, sao nàng lại giày vò ta thế này? Sao ta không thể được hạnh phúc?”
Những lời trách móc của Triệu Vô Tuất trong mơ hôm ấy lại vang lên bên tai Thập, lòng cô rối bời, vội bưng chén rượu trên bàn lên uống cạn. Thanh Liên Toái ngọt ngào cay nồng trôi xuống bụng, bên tai bỗng vẳng đến tiếng đàn mê hồn mà quen thuộc.
Tim thót lại, cô vịn bàn đứng phắt dậy, bất chấp cái nhìn của mọi người xung quanh, vén bức rèm trúc che trước mặt người đàn lên.
Không phải Tố.
Thập khom người hành lễ, buông rèm xuống, nhưng dưới bức rèm lại lăn ra một hạt gỗ.
“Đình Nhạn.”
Thập mân mê hai chữ trên hạt gỗ, tim cũng đập dồn theo hơi rượu. Là bẫy ư? Người Tề định bắt cóc cô ư? Cô có nên đợi Triệu Vô Tuất về không? Nhưng nếu người đợi cô ở đình Nhạn thực sự là Tố, có lẽ Triệu Vô Tuất sẽ giết cả chị ta.
Đình Nhạn, vì mái đình vút cao như nhạn dang cánh mà thành tên. Nó được xây trên đường cái quan ở ngoại ô phía Tây thành Thương Khâu, từng là nơi cô nàng cất rượu nước Tống ngà ngật say đứng đợi chồng hơn một trăm ngày. Hôm nay Tố cũng đợi Thập ở đó.
“Lâu rồi không gặp.” Tố đứng cạnh cột đình tróc sơn loang lổ cười tươi tắn nhìn Thập.
“Lâu rồi không gặp.” Thập bước đến dưới mái đình nhưng vẫn không sao tin được người con gái trước mắt lại là một trong số những người ít ỏi có quan hệ máu mủ với mình.
“Kẻ bỏ thuốc định bắt tôi đi ở trạm dịch thành Hoài là người của chị ư?” Đây là Tố, là Tố mà cô không bao giờ nhìn thấu được, dù biết rõ quan hệ giữa hai người, cô cũng chẳng cách nào mở lòng với Tố.
“Coi là vậy đi.” Thấy Thập dừng lại cách mình nửa trượng, Tố cúi đầu cười.
“Nếu chị muốn gặp tôi thì cứ chuyển lời như hôm nay là được, cần gì phải giết người?”
“Giết người tiện hơn chứ. Bỏ thuốc em cũng không phải muốn bắt em thật, chỉ định thử Triệu Vô Tuất thôi. Chị cứ ngỡ hai người xa cách mấy năm, Triệu Vô Tuất lại cưới vợ khác, chắc đã dứt tình với em. Nào ngờ chết mất bốn tên tiểu tốt, lại phát hiện ra tình hắn dành cho em vẫn còn sâu như biển. Tiếc thật, thế này thì vẫn chưa phải lúc để dẫn em về Tề rồi.” Tố bước tới ngồi xuống cạnh chiếc bàn đá giữa đình rồi vẫy tay gọi Thập lại.
“Kiếp này tôi sẽ không đặt chân đến Tề nữa đâu.”
Tố lờ đi như không nghe thấy lời cô, cười cười lấy trong túi đeo bên người ra một lọ nhỏ bằng sành đỏ đặt lên bàn, “Nghe nói em mắc chứng đau chân, đây là phương thuốc bí truyền của người Di miền Đông, mỗi tối bỏ một viên vào ngâm chân có thể khơi thông gân cốt, giúp khí huyết lưu thông.”
“Chị tốn thời gian với tôi làm gì? Dù tôi xích mích với Vô Tuất, cũng sẽ không quay sang giúp Tề đâu.”
“Yên tâm đi, rồi sẽ có ngày thôi.” Tố tươi cười đẩy lọ thuốc tới trước mặt Thập.
Nếu là trước đây, có lẽ Thập sẽ cho rằng Tố nhiệt tình với mình như vậy chỉ để lôi kéo thêm một mưu sĩ cho Trần Hằng, nhưng giờ đây trước tình cảm ân cần của Tố, cô không thể vô tình phớt lờ được. Cô đi tới trước mặt Tố, thẳng lưng ngồi xuống, hít sâu một hơi rồi nói, “Tố, có lẽ em nên gọi là chị Tố mới phải. Em biết tộc Triệu và tộc Phạm đã kết mối ân oán nhiều năm, cũng biết quan hệ giữa cha chị và mẹ em. Nhưng em không thể theo chị sang Tề được, dù không có Triệu Vô Tuất, em cũng không thể giúp Tề hại Tấn. Mẹ em là người Tấn, đến lúc lâm chung, bà vẫn nói tiếng Tấn.”
“Chuyện mẹ em là Sử Mặc kể cho em à?” Tố thoáng ngạc nhiên, “Vậy Sử Mặc có cho em biết cha em là ai, vì sao mẹ em bị bắt vào phủ Trí, vì sao Trí Dao lại chăm chắm muốn ăn thịt em không?”
“Chị nói lời này nghĩa là sao? Sư phụ không biết cha em là ai cả.”
“Nực cười! Sử Mặc là vu sĩ chúc phúc trong hôn lễ của cha mẹ em năm xưa, làm gì có chuyện không biết cha em?” Tố cười nhạt.
“Chị nói bậy!”
“Chị lừa em làm gì? Lúc em còn trong bụng mẹ, chị còn sờ em nữa đấy. Nếu không xảy ra loạn lục khanh, có lẽ chị sẽ cõng em đi chơi phố, dạy em luyện kiếm, cùng em đọc thơ. Mẹ chị ghét mẹ em, nhưng chị quý mẹ em lắm, bà ấy nhoẻn cười đẹp hơn ai hết. Chị quý cả cha em nữa, ông ấy chơi đàn rất hay. Năm xưa vì cưới mẹ em mà…”
“Ông ấy là ai?” Thập bần thần cắt lời Tố.
Tố nhướng đôi mày nhạt, cười đáp, “Chuyện thú vị nhường này, chị không thể cho em biết được. Chi bằng em hỏi Sử Mặc đi. Hôm nay chị tới đây là muốn tặng em một món quà, coi như tạ lỗi với em về chuyện ở trạm dịch thành Hoài.” Dứt lời Tố cúi xuống lấy trong túi đeo bên người ra một cuộn thẻ tre đặt lên bàn.
“Cái gì đây?” Ấy là một cuộn thẻ tre buộc bằng dây đỏ, thân thẻ rất ngắn, chỉ bằng hai ngón tay, ngoài quấn bọc gỗ, hai đầu hở ra được niêm phong bằng đất sét, trên lớp đất sét lại đóng dấu của Vệ hầu.
“Thư quân chủ nước Vệ Khoái Hội viết cho Tề hầu. Đây mới là một bức thôi, còn bức nữa đang trên đường, mấy hôm nữa chị sẽ nhờ người đưa cho em. Muốn giao cho Triệu Vô Tuất hay không, tự em quyết định.”
“Vật quan trọng như vậy sao chị không giao cho Trần Hằng?” Thập cầm lấy cuộn thẻ tre, quả nhiên bên trên có ấn của Khoái Hội và chữ “Tề hầu nhận”.
“Chị có lý do riêng.” Tố thắt miệng túi lại, nhìn ra cổng thành cách đó không xa rồi đứng dậy, “Chị phải đi đây, kẻo nấn ná nữa lại bị Triệu Vô Tuất của em bắt mất.”
“Chị chớ đi vội, em còn chuyện muốn hỏi.” Thập giơ tay níu Tố lại.
“Hôm nay không kịp rồi.” Tố vừa dứt lời, trên con đường phía Đông ngôi đình chợt hiện ra một thớt ngựa ô, người cưỡi ngựa phi rất nhanh, chớp mắt đã tới nơi.
“Đại ca?” Thập ngỡ ngàng nhìn người trên ngựa.
Trần Nghịch cúi đầu nhìn cô rồi giơ tay kéo Tố lên ngựa. Tố ngồi sau lưng gã, quay lại cười ranh mãnh, “Bọn ta ở Tề đợi em, đừng quên nhé.”
“Bảo trọng.” Trần Nghịch nhìn cô chăm chú rồi thúc ngựa phi đi.
Nước Tề, cha, sư phụ…
Thập cúi đầu trầm tư, xoay người đi về phía cổng thành, nhưng mới được hai bước đã bị Triệu Vô Tuất như một cơn lốc ập tới chắn đường.
“Lần này cô lại định trốn đi đâu hả?” Hắn tóm chặt tay Thập, quát lên như sấm.
“Tôi đâu có bỏ trốn.”
“Thế cô tới đây làm gì!”
“Tôi… tôi tới tiễn một người.” Thập nhìn về phía con đường cái quan vắng tanh đằng sau.
“Ai?”
”… Một cô cất rượu ở quán Phù Tô.”
“Chỉ giỏi nói bậy nói bạ, mau theo ta về!” Triệu Vô Tuất nhíu mày, kéo cô quay phắt đi. Hắn nắm rất chặt, mấy ngón tay cô bị hắn siết đau như sắp nát.
“Anh buông tôi ra!” Thập đau đớn vùng vẫy.
“Ta không buông!” Hắn càng siết mạnh.
“Buông ra!”
“Không buông!”
“Triệu Vô Tuất, anh còn muốn làm mình làm mẩy đến bao giờ nữa?” Thập ôm đầy một bụng phẫn uất, nghiến răng dùng hết sức vằng ra, “Năm xưa là tôi sai, tôi làm tổn thương anh, nhưng giờ anh cũng đã làm tổn thương tôi, hai ta coi như huề, được không?”
“Huề ư? Không bao giờ huề được.” Triệu Vô Tuất quay sang, dưới đôi mày cau là đôi mắt đầy phẫn nộ và đau đớn.
“Anh muốn hai ta cứ giày vò nhau, trừng phạt nhau thế này mãi ư? Đủ lắm rồi, Triệu Vô Tuất! Nếu anh buông được thì buông; nếu anh vẫn cần tôi thì nói là cần. Chúng ta chẳng ai biết được ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì, chẳng ai biết được thế gian này mai đây sẽ thành ra thế nào… Sinh ra giữa thời loạn, hai ta đều là phù du, sống hôm nay thì biết hôm nay, bỏ lỡ một ngày, chẳng ai biết được liệu có còn ngày mai không. Hai ta đã bỏ lỡ ba năm, lẽ nào còn muốn lỡ tiếp ba mươi năm nữa? Tôi… tôi lấy đâu ra ba mươi năm để chờ anh chứ?”
“Ta đâu có muốn bỏ lỡ cô, ta đâu có muốn ngay sau hôm thành hôn đã bị cô vứt bỏ!” Triệu Vô Tuất sấn lại gần, cúi đầu nhìn cô chòng chọc đầy căm phẫn.
“Tôi ngỡ…”
“Ngỡ cái gì? Cô còn định bịa ra chuyện gì để lừa gạt ta nữa? Năm xưa cô bỏ ta mà đi, ta đã thề với thần hồ Lạc Tinh rằng, nếu có một ngày ả đàn bà vứt bỏ ta quay lại tìm, ta sẽ không để yên cho cô ta, sẽ không tha thứ cho cô ta, sẽ không yêu cô ta một mảy may, sẽ không để cô ta dẻo mồm mê hoặc ta nữa…” Ánh mắt Triệu Vô Tuất dừng trên môi Thập, cô nhói lòng cụp mắt xuống, lại bị hắn nâng mặt lên, “Giờ cô là đồ đệ thái sử, ta là thế tử tộc Triệu, ngoài ra, hai ta chẳng là gì cả. Cô vừa lòng chưa? Đây là điều cô vẫn hằng mong muốn, đúng không?”
“Tôi…” Thập nghẹn lời, khí uất dồn ứ trong ngực, hồi lâu cũng không bật ra được câu nào phản bác, “Phải, anh nói đúng lắm. Tôi sai rồi, tôi không nên bỏ đi, càng không nên quay trở lại… Tôi không nên gặp lại anh!” Dưới cái nhìn dồn ép của Triệu Vô Tuất, đốm lửa le lói cuối cùng trong lòng Thập rốt cuộc cũng tắt lịm.
“Không quay trở lại ư? Vậy cô muốn đi đâu?”
“Đi tới nơi nào không có anh, tới nơi nào đó xa hơn cả đầm Vân Mộng, cách anh thật xa, cách nước Tấn thật xa, cách những thứ đáng sợ này thật xa.” Thập nhìn mặt Triệu Vô Tuất, lại nhớ tới lời Tố, rối loạn tới mức cả người chỉ chực nổ tung bất cứ lúc nào.
“Cô dám?!”
“Sao tôi không dám?”
“Ngoài bỏ trốn ra, cô còn biết làm gì nữa hả?” Triệu Vô Tuất điên tiết, đôi tay đang nắm lấy cô thình lình ôm chầm cô vào lòng.
“Tôi biết tìm đường quay về, tôi biết quay về tìm phu quân tôi nhung nhớ hơn bảy trăm ngày đêm, nhưng anh có biết làm gì khác ngoài đẩy tôi ra không?” Thập vận hết sức giãy giụa trong vòng tay ghì chặt của Triệu Vô Tuất, nước mắt nén nhịn bấy lâu thoáng chốc tràn mi, “Anh buông tôi ra, anh không có tư cách đối xử với tôi như vậy! Nếu lời thề bên bờ hồ Lạc Tinh đối với anh chỉ là dối trá thì anh buông tôi ra đi! Hai ta vui vầy một đêm, sáng hôm sau ai đi đường nấy, tôi không nhận tiền của anh, không cần áo cưới của anh, anh cũng đừng để ý đến tôi nữa!” Cô đẩy mạnh vào ngực Triệu Vô Tuất, toan xô hắn ra, nhưng rõ ràng dốc hết sức lực toàn thân, mà vẫn bị hắn từng chút từng chút kéo vào lòng ôm chặt.
“Nắm lấy tay người, hẹn thề sinh tử. Không ai dối trá cả, bên bờ hồ Lạc Tinh, ta đã cưới vợ, nhưng lại để lạc mất nàng. Hôm đó ta đốt nhà tranh, đốt cả áo cưới của nàng, ta đã thề trước hồ Lạc Tinh rất nhiều điều, thề rằng nếu có một ngày nàng quay lại, ta sẽ không để yên cho nàng, sẽ không tha thứ cho nàng, sẽ không yêu nàng một mảy may nào nữa, sẽ không để nàng dẻo mồm mê hoặc ta nữa. Nhưng câu cuối cùng ta nói với thần hồ là, xin người hãy phù hộ cho nàng trở về, chỉ cần người phù hộ cho nàng trở về, những lời con nói lúc trước đều không tính, chỉ cần người phù hộ cho nàng trở về thôi… Từ Tống, đến Sở rồi đến Thiên Xu, sao nàng bắt ta đợi lâu thế hả? Nàng có biết ta đợi nàng bao lâu, hận nàng bao lâu, nhớ nàng bao lâu không…” Triệu Vô Tuất áp mặt vào đỉnh đầu cô, bỗng chốc, mấy giọt nước âm ấm nhỏ xuống tóc cô, thấm vào tận đáy lòng. Ba năm rồi, ở ngoại ô kinh đô nước Tống, cuối cùng cô cũng đợi được người mình muốn, cuối cùng hắn cũng gạt bỏ lòng kiêu hãnh của hắn, tha cho bản thân, cũng là tha cho cô.
Thập co người trong vòng tay Triệu Vô Tuất, nước mắt tuôn trào như vỡ đê, lúc mừng rỡ, khi lại bi thương, sau cùng không kìm được khóc váng.
Khóc mãi đến mệt lả, cô lau khô nước mắt, ngẩng lên nhìn người trước mặt, “Triệu Vô Tuất, chàng thề như thế không sợ thần hồ cười cho à?”
“Cứ để thần hồ cười đi, ta chịu hết…” Triệu Vô Tuất cúi xuống ngậm lấy môi cô, khẽ thì thầm.
Đêm ấy là một đêm dài đằng đẵng si mê quấn quýt. Hắn nôn nóng đến mức như muốn bù đắp lại tất cả hơn bảy trăm ngày đêm ly biệt.
Sáng hôm sau mở cửa phòng, ánh mắt Ngư nhìn hai người mờ ám thấy rõ. Có điều lần này Thập lại ngượng đỏ cả mặt nấp sau lưng Triệu Vô Tuất xẵng giọng, “Nhìn gì mà nhìn? Hễ say là làm loạn!”
Ngư nhìn Thập rồi nhìn sang Triệu Vô Tuất, cười ngoác đến mang tai.
Sập gấm triền miên, tình nồng ý đượm, mấy ngày sau đó, trừ khi dẫn Thập tới quán Phù Tô lót dạ, những lúc còn lại, Triệu Vô Tuất chỉ muốn lột da rút xương, ăn sống nuốt tươi cô. Trong căn phòng nhỏ, đất trời vần vũ, chẳng phân ngày đêm, sinh lực hắn dồi dào đến mức cô phải líu lưỡi cạn lời.
“Nàng hại ta ba năm không có con, đến bao giờ mới chịu đền cho ta một đứa con đây?”
“Đứa bé kia là con phó tướng chàng thật à?”
“Có thể phải, có thể không, đằng nào cũng chẳng liên quan tới ta.”
“Chàng trước kia vướng chuyện trăng hoa, nhưng không phải hạng quất ngựa truy phong.”
“Hừm, nếu chẳng phải năm xưa rơi vào tay nàng, giờ chắc ta đã con cái đầy đàn trong phủ, đâu đến mức trở thành trò cười cho người Tân Giáng.”
“Đầy đàn á? Chàng tự mãn vừa thôi.”
“Nàng xem ta có tự mãn hay không nhé!” Hắn tung mình nhào tới tóm Thập, cô húc vào ngực hắn, la lớn, “Đừng đùa nữa, chúng ta là sứ thần nước Tấn, sắp phải đi gặp Tống thái sử và Tống công rồi!”
“Gặp thế nào đây? Cứ thế này đi gặp à?” Hắn giơ tay xốc eo cô, bế cô ngồi dậy.
“Chàng?” Thập thấy người lạnh toát, vội cúi xuống ôm ngực. Hắn cười phá lên, giơ hai tay nâng cô lên thật cao.
“Đồ điên Triệu Vô Tuất kia! Thiếp đang không mặc đồ, lạnh quá!”
“Lạnh à? Thế này là hết lạnh ngay.”
“Chủ nhân, cô nương, hai vị nhỏ tiếng thôi!”
Giọng Ngư từ bên ngoài vọng vào làm Thập nóng bừng cả người, vội vàng ngậm miệng, toàn thân đỏ nhừ như tôm luộc.
“Ha ha ha, tha cho nàng đấy, mai chúng ta đi gặp Tống thái sử.” Kẻ không sợ lạnh nghênh ngang nhảy từ trên giường xuống, khoác áo đi ra cửa phòng, mở hé cửa bảo Ngư bên ngoài: “Xéo!”