Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 13
GIÓ MÂY LẠI NỔI
Hôm ấy họ tới viếng thăm Tống thái sử Tử Vi như đã hẹn, nhưng không ngờ vừa ra khỏi phòng đã thấy thái giám tới quán dịch truyền ý chỉ của Tống công, nói là muốn triệu Triệu thế tử nước Tấn vào cung yết kiến. Triệu Vô Tuất phải vào cung, song bái thiếp đã được gửi tới phủ thái sử từ mấy hôm trước, nên họ đành chia đôi ngả, Thập một mình đi gặp Tử Vi.
Hôm ấy họ tới viếng thăm Tống thái sử Tử Vi như đã hẹn, nhưng không ngờ vừa ra khỏi phòng đã thấy thái giám tới quán dịch truyền ý chỉ của Tống công, nói là muốn triệu Triệu thế tử nước Tấn vào cung yết kiến. Triệu Vô Tuất phải vào cung, song bái thiếp đã được gửi tới phủ thái sử từ mấy hôm trước, nên họ đành chia đôi ngả, Thập một mình đi gặp Tử Vi.
Tử Vi là bạn cũ của Sử Mặc, khác với dáng vẻ không giận mà oai của Sử Mặc, người này nhìn bề ngoài cực kỳ hiền hòa, song bên trong lại vô cùng ghê gớm. Quán Phù Tô mỗi ngày kiếm cả đấu vàng do ông ta một tay lập ra, tin tức các miền Nam Bắc đi qua quán Phù Tô dĩ nhiên cũng đều lọt vào tai ông ta. Thế nên khác với kế hoạch ban đầu của Triệu Vô Tuất, Thập chẳng buồn vòng vo dò hỏi ý kiến ông ta về việc ba nước Tấn, Vệ, Tống liên minh mà thẳng thắn trình bày luôn mục đích của mình. Tử Vi nghe xong rất vui, bởi cô không coi ông là kẻ ngốc, cũng không coi ông như người ngoài.
Tử Vi cầm chuỗi mắt chuồn Sử Mặc gửi Thập tặng mình, tiết lộ cho cô biết Tống công không ưa người Tề, Tống hiện giờ quả thực cũng muốn để Tấn giúp dạy cho nước Trịnh đáng ghét một bài học, nhưng nước Vệ vua tôi lục đục, khó mà yên ổn lâu dài, bàn chuyện kết liên minh lúc này e còn hơi sớm.
Ý Tử Vi đã rõ ràng: bọn ta có thể kết liên minh với các người, nhưng ngươi phải giải quyết nước Vệ trước đã, kẻo bọn ta theo các người, về sau lại bị người Tề cho một trận.
Ba nước Trịnh, Vệ, Tống nằm kẹp giữa hai nước Tề và Tấn, ai lôi kéo được thì kẻ đó sẽ thành bá chủ tiếp theo của thiên hạ. Mà trong ba nước này, thế lực nước Vệ lớn nhất, muốn khiến hai nước kia cúi đầu thì phải lung lạc được Vệ trước. Để lôi kéo nước Vệ xưng bá thiên hạ, Triệu Ưởng đã đợi mười mấy năm. Tiếc rằng Khoái Hội nước Vệ thực làm người ta không sao yên tâm nổi.
Thập hứa với Tử Vi sẽ chuyển lời tới Triệu Ưởng, Tử Vi giữ cô lại ăn một bữa nhẹ do quán Phù Tô đưa tới rồi lại cùng cô đàm luận về tinh tượng cả ngày.
Mặt trời ngả về Tây, Thập đứng dậy cáo từ, quản gia phủ thái sử đưa cô ra tận cổng.
Ngư đã đợi cả ngày ngoài cổng, thấy cô trở ra lập tức bước tới đón.
“Quý khách đi thong thả, đây là chút tấm lòng của gia chủ.” Quản gia bưng một tráp nhỏ sơn đỏ chạm hoa tới trước mặt Thập.
Cô hành lễ tạ ơn, nhận lấy tráp đưa cho Ngư rồi lễ độ hỏi, “Xin hỏi quản gia, quản gia Tán trước kia trong phủ các vị đâu rồi?”
“Bẩm quý khách, quản gia Tán qua đời hơn một năm rồi.”
“Chết rồi ư, sao lại chết?” Suốt cả ngày nay, Thập chẳng thấy tăm hơi gã quản gia Tán mắt đục mày thưa, vẻ mặt dâm tà ở phủ Tử Vi đâu, cứ ngỡ gã đắc tội với Tử Vi bị đuổi tới nơi khác rồi, không ngờ lại đã chết.
“Ngã xuống giếng chết, chết ngay trong trại rượu đằng sau quán Phù Tô, khu trại ấy cũng bị niêm phong rồi.” Nhắc tới “trại rượu”, quản gia lén liếc Thập, trước kia ông ta là quản sự ở nhà sau phủ Tử Vi, tuy không trò chuyện nhưng chắc cũng biết tên biết mặt cô, chẳng qua lần này cô ăn mặc theo lối nam nhi, lại là sứ thần nước Tấn nên ông ta không dám gọi một tiếng “ả Thập” mà thôi.
“Quý khách quen kẻ tội nghiệp nọ ư?” Quản gia hỏi dò.
“Cũng không thể gọi là quen được.” Thập tủm tỉm cười, giơ tay vái chào, “Làm phiền quản gia tiễn chân, tôi xin cáo từ!”
“Quý khách đi cẩn thận.” Quản gia đáp lễ, Thập dẫn Ngư đi về phía đám đông bên ngoài phủ.
“Cô nương, sao hôm nay cô vào lâu thế? Không thương thuyết được à?” Ngư hỏi.
“Cả đống rắc rối ở Vệ vẫn ngổn ngang ra đấy, sao thương thuyết nổi. Tử Vi cho cái gì vậy? Mở ra tôi xem nào.”
“Vâng.” Ngư cúi đầu mở tráp nhỏ trong tay ra.
Thập liếc mắt nhìn qua, bất giác dừng khựng lại. Ấy là một chiếc mũ ngọc trắng muốt trơn bóng, không chạm mây lành như thường thấy mà lại chạm đầy những đóa hoa diễm lệ động lòng người: dâm bụt, trạch lan, thược dược, đào mận, cỏ huyên, đường nét tinh xảo, mỗi hoa một vẻ. Thập là vu sĩ, cũng là nữ nhi, Tử Vi biết thân phận của cô nên mới tặng chiếc mũ bách hoa thế này.
“Cô nương nói thái sử Tử Vi là kẻ hám tiền mà. Sao lại tặng cô nương món quà quý giá nhường này?” Thấy cả đám người đi đường đã xúm lại quanh họ ngó nghiêng, Ngư vội đậy tráp lại.
“Ông ta muốn hối lộ tôi chứ sao!” Thập tặng chuỗi mắt chuồn là muốn nhờ Tử Vi thuyết phục Tống công liên minh với Tấn, Tử Vi tặng mũ bách hoa e rằng cũng muốn cô thuyết phục Sử Mặc khuyên Triệu Ưởng cất quân giúp Tống đánh Trịnh. Mọi sự trên đời đều có hai mặt đề nghị và tiếp thu, Thập và Tử Vi hiểu rõ điều này, cũng biết không dễ gì thuyết phục được đối phương. Hôm nay nhìn bề ngoài thì họ chỉ đàm luận về thuật chiêm tinh, song thực ra từng câu từng chữ đều không rời đại thế thiên hạ. Nói bã bọt mép, lao tâm khổ tứ, giờ có được tặng mũ bách hoa, cô cũng chẳng phấn chấn lên nổi.
Bóng nắng xiên xiên, sắc chiều dần buông, gió lạnh từ đầu phố thổi tới lùa vào áo se sắt. Tháng Hai vẫn rét, hễ tắt nắng là thấy lạnh ngay, cứ như hơi ấm cả ngày chỉ là dối gạt.
Từ phủ Tống thái sử tới quán dịch khá xa, Thập đi chưa được nửa đường đã hắt hơi sổ mũi. Ngư vô cùng hối hận vì ban sáng ra đi không đem thêm áo khoác cho cô, song cô chỉ trách bản thân sống trong nhung lụa quá lâu, dãi tí gió lạnh cũng không chịu nổi. Nhớ lại thì hồi nhỏ thật thích, bất luận người ta đánh đập đá đạp thế nào, ốm đau ra sao, hễ khỏi một cái là lại khỏe như vâm. Đâu như bây giờ… Thập còn đương than thầm, chợt thấy trong con ngõ trước mặt xộc ra bốn năm đứa choai choai trông như ăn mày, quấn lấy nhau giằng giật đấm đá ầm ĩ, không biết là tranh giành cái gì. Lát sau cũng chẳng biết đứa nào giằng được thứ đang tranh, tức thì bị cả đám quây lấy đánh tơi bời.
“Anh mau lại xem xem!”
Ngư gật đầu, đang định bước đến thì phía sau thình lình vọt ra một bóng đen, giật phắt lấy tráp sơn đựng mũ bách hoa trong tay y.
Ngư thoáng sững ra rồi lập tức rút loan đao, chửi toáng lên đuổi theo. Thập gọi với “Cẩn thận có bẫy!”, y đã theo bóng đen nọ chạy vào một con ngõ.
Đứng giữa phố chiều nhập nhoạng, một bên là con ngõ Ngư vừa chạy vào, bên kia là đám ăn mày đang đánh nhau túi bụi, Thập bỗng đâm ngơ ngác, chẳng biết mình nên làm gì. Đúng lúc này, một ngọn đèn bọc lụa đỏ lững lờ trôi ra từ ngõ hẻm đằng trước, cầm đèn là một người đàn ông dáng cao to, áo mỏng tóc búi, lưng không đeo trường kiếm, chỉ có một túi hương tua dài phất phơ bay giữa gió lộng.
Đám ăn mày thấy có người đến thì nháo nhào tản ra, nhưng không bỏ đi mà vẫn chờn vờn quanh đó, nhìn chòng chọc vào kẻ đang nằm dưới đất.
Thập chạy tới, thấy một thằng bé chừng tám chín tuổi nằm sõng soài, mặt mũi sưng húp vì bị đánh nhưng vẫn ôm khư khư vật trong lòng không buông.
Người đàn ông cầm đèn dừng lại cạnh thằng bé, Thập tưởng ông ta sẽ cứu nó, nào ngờ ông ta chỉ rút từ thắt lưng ra một con dao găm nạm đầy đá quý ném xuống trước mặt nó rồi đi thẳng.
Thằng bé nhặt con dao, loạng choạng bò dậy rồi ù té chạy. Đám choai choai rình rập xung quanh như thú hoang hò hét rượt theo sau.
Thập dấn lên mấy bước, đuổi theo người cầm đèn, bỗng dưng kẻ nọ quay đầu lại nhìn cô.
Mày dài, mắt phượng, nốt ruồi lệ, là người ấy! Người đàn ông uống nước hoa cúc trong quán dịch ở thành Hoài! Không ngờ ông ta cũng tới Thương Khâu!
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, Thập vội vàng đuổi tới.
Thành Thương Khâu chằng chịt ngõ ngách, mới được một chốc, cô đã bị mất dấu. Vòng qua vòng lại, khó khăn lắm mới quay lại được con phố ban đầu, vừa bước ra khỏi ngõ, cô đã thấy hai cái xác ăn mày nằm dưới đất, trong đó có cả thằng bé bị đánh hồi nãy. Bụng nó bị đâm khá nhiều nhát, miệng và bụng bê bết máu, thứ ôm trong lòng chẳng thấy đâu, con dao găm cũng mất tăm.
“Nếu là ngươi, ngươi sẽ làm gì?” Sau lưng chợt vang lên giọng đàn ông xa lạ, người Thập tê rần, hơi lạnh từ sống lưng xộc lên tận óc.
“Ông…”
“Đừng quay lại, nhìn nó rồi trả lời ta.” Một thứ cứng đanh lạnh ngắt chĩa vào hông cô.
Thập lấy lại bình tĩnh, chế nhạo, “Đám các vị từ Tề sang không biết trên đời có hai chữ ‘cứu người’ ư?”
“Con dao găm kia là cơ hội ta cho nó. Tiếc rằng nó quá ngu ngốc. Còn ngươi, ngươi có phải người thông minh không?” Vật cứng sau lưng ấn sâu vào thắt lưng cô thêm mấy phân, cô hít sâu một hơi, lạnh lùng đáp, “Tôi sẽ ném dao găm cho đứa nào chạy nhanh nhất.”
“Ồ? Chẳng lẽ ngươi không muốn đống đá quý nạm trên vỏ dao? Nên biết rằng người nhà còn đang đợi ngươi đem tiền về cứu mạng đấy!” Giọng kẻ nọ đầy hóm hỉnh.
Thập nhìn vạt áo đẫm máu của thằng bé, ngoái lại đáp, “Trong ngực áo vẫn còn thứ khác đem cầm lấy tiền được mà.”
“Ha ha ha, đúng là thông minh…” Kẻ nọ ngửa mặt cười phá lên, Thập nhận thấy vật đang gí vào lưng mình hơi lơi lỏng, liền quay phắt lại rút Phục Linh Sách từ thắt lưng ra, “vút” một tiếng, quất bay vật trong tay kẻ kia. Chỉ nghe tiếng vỡ lanh canh, cây trâm ngọc nhẵn nhụi tức thì vỡ nát.
“Ha ha ha ha…” Kẻ nọ nhìn cô, cười càng “đắc ý” hơn.
Bị đánh vỡ trâm ngọc thì có gì mà đắc ý nhỉ?
“Ông là ai? Ông cố ý dụ người của tôi đi xa, rốt cuộc muốn làm gì?”
“Ta là người Tấn, tên Triệu Tắc.” Người đàn ông thôi cười, nhìn cô bằng cặp mắt sáng rực.
“Triệu Tắc? Hàm Đan quân… Triệu Tắc!”
“Không ngờ ngươi cũng từng nghe đến tên ta. Ta cứ tưởng cái tên này bị cấm tiệt ở tộc Triệu rồi chứ.”
Nhân vật tiếng tăm lừng lẫy như Hàm Đan quân Triệu Tắc, dĩ nhiên Thập đã từng nghe danh. Nếu nói năm xưa loạn lục khanh bắt nguồn từ việc Triệu Ưởng giết Triệu Ngọ thì kẻ thực sự châm ngòi nhen lên ngọn lửa đốt đồng chính là người đứng trước mặt cô đây.
Hơn hai mươi năm trước, cha Vu An là Đổng An Vu xây dựng thành Tấn Dương cho tộc Triệu, có thành ắt phải có dân, Triệu Ưởng bèn lệnh cho Hàm Đan đại phu bấy giờ là Triệu Ngọ đưa năm trăm hộ con tin người Vệ trong thành Hàm Đan đến Tấn Dương. Triệu Ngọ không thuận, Triệu Ưởng nổi giận giết ông ta. Con trai Triệu Ngọ là Triệu Tắc tự lập làm Hàm Đan quân, thề báo thù cha. Hai gia tộc lớn là tộc Trung Hàng và tộc Phạm đều có họ với Hàm Đan quân nên đã chỉ trích Triệu Ưởng tru sát triều thần, dẫn quân đánh Triệu Ưởng. Từ đó mới dẫn tới loạn lục khanh kéo dài suốt tám năm.
Nghe đồn Hàm Đan quân Triệu Tắc là mỹ nam hiếm có trên đời, giờ xem ra không phải đồn nhảm. Hiện ông ta chắc đã ngoại tứ tuần nhưng nhìn bề ngoài chỉ khoảng ba mươi.
“Hôm nay Hàm Đan quân tới đây là được người ta nhờ vả ư?” Thập hỏi.
Triệu Tắc tủm tỉm cười, lấy từ tay áo ra một cuộn thẻ tre quấn bọc gỗ, gắn đất sét niêm phong, ném cho Thập.
Thập đón lấy, nhìn qua con dấu của vua Vệ bên trên, cười nói, “Tôi vốn định khi nào có đủ hai bức sẽ mở ra xem rồi mới quyết có giao cho Vô Tuất hay không. Giờ Hàm Đan quân đích thân tới đưa thư thì tôi chẳng cần đọc nữa, đem đốt luôn cho rồi.”
“Ngươi không muốn biết Vệ hầu và Tề hầu bàn tính gì với nhau sao?”
“Muốn, nhưng trên đời này chẳng ai muốn thấy Triệu Ưởng chết hơn Hàm Đan quân cả. Chuyện có lợi cho Tấn, có lợi cho tộc Triệu, ông đời nào chịu làm.”
Nghe cô nói, Triệu Tắc không phản bác, chỉ cúi đầu cười, mân mê túi hương đeo bên hông, “Nhóc con à, bất luận là ai nuôi dạy ngươi thành người, kẻ đó cũng đã làm rất tốt.” Dứt lời ông ta cúi đầu thổi tắt ngọn đèn lồng trong tay, đèn vừa tắt, ông ta cũng biến mất trước mặt cô như một làn khói, chỉ còn hương giang ly ngan ngát trong gió, mãi không tan đi.
Khi Thập về tới quán dịch, đuốc chỉ đường đã cháy rừng rực trong chậu lửa chân cao bên ngoài cổng, Ngư đang quỳ trên bãi đá dăm dưới chân ngọn đuốc, ánh lửa hắt vào mặt y đỏ gay gắt.
“Chủ nhân nhà anh đâu?”
“Đi tìm cô nương rồi.”
“Lấy lại được mũ ngọc chưa?”
“Thưa, lấy được rồi.”
“Ôi chao, anh bị phạt cũng đáng lắm! Đi theo chủ nhân anh bấy lâu mà còn mắc phải một chiêu dụ địch cỏn con. Hôm nay nếu thực sự có kẻ định gây bất lợi cho hai chúng ta thì tôi không về được đã đành, cả anh cũng mất mạng trong ngõ ngách nào đó ở thành Thương Khâu này rồi.”
“Xin cô nương xử phạt.” Ngư cau mày, cúi người dập đầu thật mạnh xuống bãi đá dăm dưới chân.
Thập thở dài, giơ tay toan kéo y dậy nhưng lại túm phải cánh tay áo rỗng không. Cô đành nắm vai y kéo lên, nhưng Ngư bướng bỉnh cứ trì người xuống, kéo thế nào cũng không chịu đứng dậy. Thập lúc này đã mệt lử, vừa nổi cáu, đầu đã đau buốt, “Anh mau đứng dậy cho tôi! Năm xưa anh không nghe lời tôi, giết chết ả Ngư rồi tự chặt tay mình, giờ còn định hủy cả hai chân, thành người tàn tật mới bằng lòng hay sao? Mau đứng dậy đi tìm gia chủ anh về đi, cứ bảo là tôi bị lạc đường, tự về được rồi.”
“Cô nương…” Ngư ngẩng lên nhìn Thập, cô thừa dịp kéo y dậy, “Mau đi đi!”
“Dạ!” Ngư vội đáp rồi xoay người chạy đi.
Thập nhìn ống tay áo rỗng của y bay phần phật trong gió, thầm than, “Ngu muội quá chừng, nếu năm xưa anh đừng giết ả Ngư, có phải bây giờ cô ấy đã sinh con đẻ cái cho anh không!”
Ngư đi rồi, Thập mới lấy trong ngực áo ra hai cuộn thẻ tre Tố và Triệu Tắc trao cho mình. Tố từng nói bên cạnh Trần Hằng có một mưu sĩ người Tấn, hết thảy mưu mô cạm bẫy đều do một tay người này bày ra. Giờ xem ra kẻ này chính là Hàm Đan quân Triệu Tắc. Lúc ở Lâm Truy, gần như cô đi bước nào cũng sa vào cạm bẫy của ông ta, còn phải chạy trối chết để giữ mạng, đến cuối cùng chẳng những không bảo vệ nổi Tề hầu Lữ Nhâm mà còn khiến Triệu Vô Tuất mất đi Trương Mạnh Đàm.
Giờ Triệu Tắc chính tay trao thư cho cô, thật chẳng khác nào con rắn độc đặt nanh độc của nó vào tay cô, còn cười dụ dỗ, “Không sao đâu, cứ sờ thử xem.”
Khoái Hội có thể đã phản bội Triệu Ưởng, cũng có thể không, nhưng phong thư rắn độc đưa tới, Thập không dám đọc, cũng chẳng dám trao cho ai cả. Cô vung tay ném hai cuộn thẻ tre vào chậu lửa cháy phừng phừng bên cạnh.
Thực lòng mà nói, cô không tin vào số mệnh, cũng không tin trên chín tầng trời có kẻ thực sự quan tâm tới vui buồn sướng khổ hay sống chết của mỗi con người trên thế gian này. Thập mải miên man suy nghĩ, chẳng hề để ý thấy trời đã bắt đầu vần vũ chuyển mưa, tới khi cô đặt chân lên thềm trạm dịch mới nghe sau lưng vang tiếng mưa rơi lộp độp. Tiếng mưa vang vọng giữa đêm khuya, như muôn vàn hạt đậu rang trên trời rào rào rơi xuống. Thập vội vàng lao ra bới tung chậu lửa trước cổng tìm hai cuộn thẻ tre. Nhưng khi cô vừa ôm được hai cuộn thẻ tre ướt sũng vào lòng thì Triệu Vô Tuất và Ngư đã lù lù hiện ra giữa màn mưa như trút nước.
“Nàng làm gì thế này?” Triệu Vô Tuất chạy bổ tới, kéo Thập đang ướt dầm dề vào quán dịch.
Thập ôm hai cuộn thẻ tre, nhìn màn mưa tầm tã trên đầu, sửng sốt.
Mọi chuyện xảy ra sau đó đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của cô.
Triệu Vô Tuất sai người đưa thư của Khoái Hội về Tân Giáng, Triệu Ưởng hay tin Khoái Hội định phản Tấn theo Tề thì nổi giận đùng đùng, ông ta lập tức sai người gửi thư sang Vệ, yêu cầu Khoái Hội đưa con lớn sang Tấn làm con tin để tỏ lòng cảm tạ và trung thành với nước Tấn. Khoái Hội ba lần bảy lượt trì hoãn, cuối cùng cự tuyệt.
Tâm huyết mười năm thoắt chốc tan thành mây khói, Triệu Ưởng không sao chấp nhận nổi sự phản bội như vậy.
Mùa hạ năm thứ bốn mươi hai đời Chu Kính vương, Triệu Ưởng đã ngoài sáu mươi bất chấp lời khuyên ngăn của mọi người, một lần nữa bước lên chiến xa, mặc giáp xuất chinh. Tháng Sáu, quân Tấn vây Vệ, Tề phái đại quân tới cứu viện.
Khi những chuyện này xảy ra, Thập đang ở bên cạnh Triệu Ưởng. Trên bãi chiến trường bên ngoài thành Đế Khâu, cô trông thấy Hàm Đan quân Triệu Tắc đã cải trang, cũng thấy cả Tề khanh Quốc Quán. Nhác thấy Quốc Quán, Thập hiểu ra ngay vì sao Tố và Triệu Tắc lại đưa hai phong thư mật cho mình.
“Lo bên ngoài thì đánh nước yếu, lo bên trong thì đánh nước mạnh.” Trần Hằng định giờ mửng cũ, xúi giục để Triệu Ưởng và Quốc Quán sống mái với nhau ở Vệ, còn mình ngồi ung dung hưởng lợi.
Thập bèn tâu với Triệu Ưởng mối lo của mình.
May mà Triệu Ưởng không phải Ngô vương Phù Sai, tuy ông ta hận Khoái Hội phản bội nhưng cũng hiểu rõ mình không thể đối đầu trực diện với quân Tề nên đã quyết định lui binh.
Tháng Mười, đợi khi triều đình nước Tề còn đang bàn cãi không thôi, Triệu Ưởng lại dẫn quân đánh Vệ.
Lần này ông ta đánh hạ kinh đô nước Vệ. Khoái Hội trốn khỏi cung trong đêm, bỏ chạy sang Tề. Cùng tháng, Triệu Ưởng lập Vệ công tôn Ban Sư lên làm vua ở Đế Khâu.
Giữa tháng Mười, khi Thập tưởng rằng mọi chuyện đã đâu vào đấy, mình sắp được về Tân Giáng đoàn tụ với Triệu Vô Tuất thì lại xảy ra biến cố. Trên đường về Tấn, Triệu Ưởng lao lực quá độ, bệnh cũ tái phát, ngã khỏi chiến xa. Khoái Hội chạy đến nửa đường hay tin lại được thân tín hộ tống quay về Vệ, đuổi Ban Sư đi, lấy lại ngôi vị.
Cuối cùng tất cả chỉ là công dã tràng.
Ngồi bên giường bệnh Triệu Ưởng, Thập mới thực sự nhận rõ sự nham hiểm ẩn giấu trong hai cuộn thẻ tre nọ: đoạt Vệ, diệt Ưởng, loạn Tấn.
Tuyết lớn bắt đầu rơi trên đồng hoang bao la nước Vệ. Tuyết ở đây giá buốt, ẩm thấp, không có bông tuyết bay lả tả phất phơ, chỉ có vô vàn vụn băng lẫn nước mưa đổ xuống. Ngoài trướng gió rét thấu xương lồng lộng, trong trướng mọi thứ đều chao đảo, cả thế giới dường như có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Đại quân xuất chinh, mỗi ngày tiêu tốn cả ngàn vàng, mà trận chiến ở Vệ đi đi về về đã khiến quân Tấn mất gần nửa năm. Triệu Ưởng không định về Tấn, lúc này về Tấn có nghĩa là một khi cục diện triều chính nước Tề ổn định, Vệ ắt sẽ rơi vào tay người Tề.
Thế nên trước khi mê man, Triệu Ưởng đã dặn Thập một câu cuối cùng: đánh Vệ.
Nhưng một cô gái như cô làm sao đánh nổi Vệ đây?
Hôm ấy là lần đầu tiên cô bước lên chiến xa. Giữa đồng tuyết trắng xóa mênh mang, giáp da của các binh lính đen thẫm như mực, trong thế giới đen trắng đan xen ấy, chỉ mình cô tóc đen búi cao, áo đỏ phấp phới.
Cô muốn Khoái Hội nhìn thấy mình, nhìn thật rõ mình.
Trên thành Đế Khâu, Khoái Hội mặc giáp cầm giáo lên lầu cổng thành, Thập gần như nghe được tiếng cười khinh khỉnh bật ra từ cổ họng lão vào khoảnh khắc trông thấy cô.
Thập đánh xe chạy tới, lệnh cho lão ra ngoài thành đầu hàng.
Lão cầm cung lên, bắn gãy cờ hiệu trên chiến xa của cô.
Trận công thành chỉ kéo dài nửa canh giờ, Thập đã thu quân về. Khi Hướng Sào xông vào trướng, Thập đang xử lý vết thương bị tên bắn trên tay.
“Vu sĩ, Sào là phó tướng trong quân, ngày mai công thành nên để Sào chỉ huy thì hơn. Sào tuy bất tài nhưng trong vòng nửa tháng ắt sẽ hạ được Đế Khâu, bắt giữ Vệ hầu!” Biểu hiện của Thập hôm nay khiến Hướng Sào tức giận hết sức, gã mồ hôi đầy đầu xông tới trước mặt cô, gân xanh hai bên thái dương giần giật.
Thập thận trọng thả tay áo đang xắn cao xuống, đứng dậy múc một bát nước nóng từ chiếc nồi treo bốc hơi nghi ngút giữa trướng đưa cho Hướng Sào, “Tướng quân chớ nôn nóng, uống bát nước ấm đã nào. Ngoài kia lại đổ tuyết rồi hả?”
Hướng Sào không giơ tay đón lấy bát nước, nếu chẳng phải trước kia bên bờ hồ Lạc Tinh Thập từng gián tiếp cứu mạng gã khỏi tay Tống công, e rằng lúc này gã đã sai người lôi cô ra khỏi trướng, xử theo quân pháp rồi.
“Tướng quân có biết trước lúc mê man khanh tướng đã chỉ vào tôi, chứ không phải tướng quân, nói rằng phải đánh Vệ không?” Thập hớp một ngụm nước nóng, tươi cười nhìn Hướng Sào.
Hướng Sào cố nén giận, gượng gạo đáp, “Lúc ở Tống, Sào từng nghe nói Tấn khanh Triệu Ưởng xưa nay rất tin bói toán đoán quẻ. Vu sĩ là con thần của người Tấn, đánh thành bắt giặc ắt có thần linh phù hộ.”
“Tướng quân nhầm to. Khanh tướng nắm quyền ở Tấn mấy chục năm nay, đâu phải dựa vào bói toán đoán quẻ. Chuyến này khanh tướng đánh Vệ, cốt là đánh vào lòng người, chứ không phải đánh thành, nên mới chọn tôi mà gạt bỏ tướng quân.”
“Đánh vào lòng người ư?” Hướng Sào nghi hoặc chau mày nhìn cô. Cô đặt bát nước xuống toan giải thích thì hành nhân Chúc Quá vén màn bước vào. Chúc Quá vái Hướng Sào rồi bảo cô, “Vu sĩ tính chuẩn quá, gian tế của Vệ hầu đã đến rồi.”
“Vậy hắn đã thấy những thứ cần thấy rồi nhỉ?” Thập hỏi.
“Thưa vâng. Đêm nay Vệ hầu sẽ biết chuyện khanh tướng ngã chiến xa hôn mê, cũng biết Hướng tướng quân bất hòa với vu sĩ, trong quân Tấn lại có mấy chục người đột ngột phát thương hàn.”
“Tốt quá, phiền Chúc đại phu rồi.” Thập hành lễ cảm tạ.
Chúc Quá nhìn Hướng Sào, đáp lễ Thập rồi lui ra.
Nghe Chúc Quá tâu bày, Hướng Sào vẫn cau có, đanh mặt bảo Thập, “Tiết lộ chuyện khanh tướng hôn mê cho Vệ hầu, lại tung tin giả rằng trong quân có người mắc thương hàn, lẽ nào đây là đánh vào lòng người mà vu sĩ nói? Vu sĩ tỏ ra yếu thế trước Vệ hầu như vậy, có phải cho rằng Vệ hầu được tin này sẽ đâm ra cuồng vọng tự đại, ngày mai sẽ ra khỏi thành giao chiến với quân Tấn không? Giữ thành dễ, giao chiến khó, đạo lý này đến trẻ con ba tuổi còn biết, Vệ hầu há lại không biết sao? Huống hô trước đây khanh tướng ba lần đánh Vệ, Vệ hầu lúc này đã là chim sợ cành cong. Sào đoán rằng dù mai chỉ có mười tên kéo ra đánh thành, Vệ hầu cũng sẽ không mở cổng thành đánh trả đâu.”
“Tướng quân nói phải lắm, nhưng tôi đâu có bảo định lừa Vệ hầu ra khỏi thành giao chiến?”
“Ý vu sĩ là sao? Không nhử Vệ hầu ra khỏi thành thì phải tấn công vào, thế chẳng phải ý định ‘đánh vào lòng người’ chỉ là nói suông thôi ư?”
Thập mỉm cười, cầm một bọc đồ gói bằng vải đen trên bàn đặt vào tay Hướng Sào, “Đây là chiến bào tôi sai người làm riêng cho tướng quân, tướng quân về thử xem có vừa không.”
“Sào không cần chiến bào mới!” Hướng Sào giận dữ.
“Tướng quân cứ mở ra xem đã!” Thập cười, nhét bọc đồ vào lòng gã.
Hướng Sào nhíu mày mở bọc ra rồi ngẩng lên ngờ vực nhìn cô.
Thập ra ngoài trướng nhìn quanh một vòng rồi trở vào, ra hiệu cho gã ghé tai lại gần.
Hướng Sào nửa tin nửa ngờ ghé lại, cô bèn nói kỹ cho gã nghe kế hoạch của mình.
Nghe xong, Hướng Sào đổi hẳn sắc mặt, lùi lại hai bước, hành lễ cung kính thưa, “Kế vu sĩ hay quá, Sào nhất định không phụ sự ủy thác của vu sĩ!”
Hôm sau, gió lớn. Đến chiều Thập dẫn quân rời doanh trại, tới khi mặt trời ngả về Tây mới bắt đầu gióng trống đánh thành.
Khoái Hội lên lầu cổng thành nhìn xuống rồi bỏ đi.
Thuở nhỏ Thập đọc binh thư thấy viết rằng, quân sĩ có sĩ khí, ban đầu thịnh, sau rồi suy, cuối cùng kiệt quệ. Sử Mặc cũng nói trời đất có khí thiêng, khí sớm mạnh, khí trưa oải, khí chiều yếu.
Để “chiêu đãi” Khoái Hội, cô đã chọn lúc khí thiêng và sĩ khí yếu nhất mà gióng trống đánh thành.
Quân Tấn uể oải giương cung bắn lên lầu cổng thành, mấy trăm mũi tên chưa bay tới tường thành đã bị gió lớn thổi bạt đi, ràn rạt rơi xuống đất. Thập lại vờ vịt thúc cung thủ bắn thêm lượt nữa, lần này cuối cùng cũng bắn ngã được mấy tên lính Vệ, bấy giờ cô mới hài lòng đánh chiêng thu quân.
Đêm khuya, cô ngồi bên giường Triệu Ưởng sắc thuốc, hành nhân Chúc Quá lội tuyết bước vào trướng.
Chúc Quá bằng tuổi Triệu Ưởng, từ sau khi Mật Tào chết thảm, Chúc Độc bỏ nhà đi, tóc ông cụ đã bạc trắng, gương mặt vốn nghiêm nghị lại càng hiếm thấy nụ cười. Lúc này ông vén rèm bước vào, trông thấy Thập, gương mặt muôn năm chẳng thấy cười ấy rốt cuộc cũng tươi lên.
“Vu sĩ liệu sự như thần, Hướng tướng quân đã trà trộn vào thành Đế Khâu rồi.” Chúc Quá bước đến cạnh Thập nói khẽ.
“Ồ, tốt quá.” Cô thở phào, đứng dậy đưa miếng da dùng quạt lửa cho ông ta, “Chúc đại phu, phiền ông lo cho khanh tướng nhé! Hôm nay tôi bị trúng gió, e rằng không thể…” Chưa nói dứt câu cô đã bịt miệng hắt xì hai cái. Suy cho cùng sức khỏe cô cũng khó mà hành quân đánh trận được, ban chiều đứng dãi gió hai canh giờ, tới lúc về đã chóng mặt hụt hơi, hắt xì liên tục. Việc mới quá nửa, người đã sắp ốm, quả là vô dụng.
Thấy mặt cô tái nhợt, Chúc Quá tỏ vẻ quan tâm, “Vu sĩ cảm lạnh rồi, chi bằng mai để hai phó tướng kia lo việc công thành thôi! Lỡ vu sĩ có bề gì, khanh tướng và thái sử không bỏ qua cho lão đâu.”
“Không được! Phen này tôi quyết giết bằng được Khoái Hội, không tận mắt thấy lão rơi đầu, tôi không yên tâm nổi.”
“Vậy vu sĩ mau về trướng nghỉ ngơi đi, đêm nay nếu trên lầu cổng thành có biến động gì, lão sẽ tới báo ngay.”
“Cảm ơn Chúc đại phu!” Thập cảm kích hành lễ rồi lấy tay áo bịt mũi miệng, vội vàng lui ra.
Đêm ấy cô vốn không định ngủ nhưng vừa đặt mình nằm xuống đã ngủ mê mệt. Tới khi tên lính hầu ngoài trướng chạy vào lay cô tỉnh dậy, Chúc Quá đã đích thân dẫn quân xông vào thành Đế Khâu.
Hai hôm trước, Thập trao cho Hướng Sào một bộ quân phục cũ của Vệ lột ra từ xác chết. Khoái Hội rất sợ Triệu Ưởng, dù Triệu Ưởng bệnh nặng mê man, chỉ để một kẻ non nớt như Thập cầm quân, Khoái Hội cũng không dám mở cổng thành thu xác cho quân Vệ. Trời đông lạnh giá, những binh sĩ bất hạnh rơi xuống từ lầu cổng thành cứ nằm phơi xác giữa bùn đất, từ từ lạnh ngắt, cứng lại, vô vọng nhìn trừng trừng lên lầu cổng thành nơi mình từng chiến đấu.
Khoái Hội làm vua bất nghĩa, nhưng lão hiểu rõ một điều, kẻ giữ thành quý nhất là tên bắn. Thế nên hôm qua Thập cố ý chờ gió thật to mới cho bắn hai đợt tên suông. Quả nhiên tới đêm, một toán quân sĩ trong thành đã mò ra nhặt đống tên vương vãi gần lầu cổng thành. Hướng Sào cải trang thành lính Vệ nhân đó trà trộn vào thành Đế Khâu.
Sau khi vào thành, Hướng Sào tới tìm đại phu Thạch Phố trước kia Triệu Ưởng cài lại trong thành Đế Khâu, nhờ Thạch Phố thống lĩnh mấy trăm thợ thuyền đang sửa sang cung điện cho Khoái Hội bao vây cung điện, bắt giữ Khoái Hội, cùng lúc đó, Thập sẽ cho đánh vào cổng thành, thu hút binh lực trong thành.
Nào ngờ Khoái Hội thất đức bội nghĩa, từ lâu đã đánh mất lòng dân. Hướng Sào, Thạch Phố vừa hô hào, mấy trăm thợ thuyền bị lão bóc lột tàn tệ đã bao vây tẩm cung suốt đêm. Tẩm cung bị bao vây, đám binh lính trên lầu cổng thành cũng đã sẵn thất vọng về Khoái Hội, lũ lượt buông vũ khí đầu hàng.
Thấy vậy, Chúc Quá chẳng kịp đánh thức Thập, tự mình leo lên chiến xa chỉ huy quân đội xông thẳng vào thành Đế Khâu.
Bình minh vừa lên, Thập khoác áo dài đứng giữa đồng hoang nước Vệ, ngẩng đầu nhìn lên lầu cổng thành đèn đuốc sáng rực.
Ba ngày, đến ngày thứ ba, cô đã thay Triệu Ưởng hạ được thành Đế Khâu.
Chẳng biết đó có phải ý trời hay không nhưng lúc này đây, cô đã tìm được một lời giải thích khiến cô yên lòng về cơn mưa như trút xuống thành Thương Khâu hôm ấy: Kẻ làm vua phải cai trị bằng đức độ, chớ nên để dân oán giận, bằng không cả đất trời cũng khó dung.
Khoái Hội đã cùng đường nhưng lão không muốn chết, bèn dẫn theo hai con trai lẻn ra khỏi tẩm cung theo lối đi ngầm. Nhưng vừa rời tẩm cung, thái tử Tật đã bị đám thợ thuyền giết dưới tường cung, công tử Thanh cũng chẳng còn mạng mà trốn khỏi thành Đế Khâu nữa.
Đằng Đông còn chưa sáng hẳn, gió bấc buốt xương cuốn theo sương lạnh và vụn băng lồng lộng quét qua đồng hoang. Dưới lầu cổng thành, một người đàn ông tóc tai rũ rượi chống thanh kiếm gãy bò ra khỏi đống xác chất chồng, tấm áo đen khoác ngoài đã bị xé mất một ống tay, để lộ cánh tay trái máu me bê bết, chân phải cũng trật khớp khi nhảy xuống lầu cổng thành, phải đi tập tễnh.
Đây vốn là đất nước của lão, thành Đế Khâu đằng sau vốn là thành trì của lão.
Nhưng qua hôm nay, mọi thứ đã chẳng còn liên quan tới lão nữa.
Thập lẳng lặng nhìn Khoái Hội qua bãi hoang ngổn ngang thi thể lạnh cứng, Khoái Hội cũng đã trông thấy cô.
Cô cứ ngỡ kẻ cuồng vọng như lão sẽ xông tới chém giết mình, liều một trận sống mái, song lão chỉ giẫm lên gương mặt những binh lính từng chiến đấu vì lão, liêu xiêu chạy về phía Tây.
Hèn hạ! Thập cười khẩy, rút một mũi tên gắn lông trắng từ bao tên sau lưng, giương cung lắp tên, nghiêng người ngắm bắn.
Dây cung vừa buông, đầu tên lạnh lẽo xé toang gió bấc rét buốt cắm ngập vào bắp chân Khoái Hội.
Lão ngã nhào xuống đất, trong khi Thập tung mình nhảy lên ngựa.
Khoái Hội gắng gượng bò dậy, cúi xuống bẻ gãy đuôi tên cắm trên bắp chân rồi đem theo đầu tên khập khiễng chạy trối chết.
Lão vốn giết người chẳng hề chớp mắt vậy mà tới lượt mình lại tham sống sợ chết nhường này!
Thập kẹp hai chân, con tuấn mã trắng muốt cô cưỡi tung vó phi nhanh như chớp.
“Ngươi thua rồi.” Cô ghìm cương chắn đường Khoái Hội.
Khoái Hội dừng chân, thở hồng hộc ngẩng nhìn cô, “Oắt con, hôm nay ngươi tha cho quả nhân, ngày sau quả nhân sẽ ban cho ngươi mười thành trì phía Nam nước Vệ! Những gì Triệu Ưởng cho ngươi, quả nhân cũng cho được!”
“Mười thành phía Nam ư?”
“Đúng, mười thành phía Nam!”
“Tiếc ghê, tay ngươi bẩn quá, những thứ ngươi cho ta không thèm.” Thập ngồi trên ngựa nhìn xuống kẻ từng làm nhục mình, làm nhục Minh Di, khiến hai nước Tấn Vệ phải giao chiến mấy phen, còn vong ơn bội nghĩa, không biết liêm sỉ nọ, “Đi thôi, trước khi ngươi chết, ta dẫn ngươi đi gặp một người.”
Thập thúc ngựa lại gần Khoái Hội, lão lùi hai bước, nhìn cô trừng trừng, mắt đỏ ngầu như loài lang sói. Cô tiếp tục dấn tới, lão thình lình vung thanh kiếm gãy lên bổ nhào vào cô.
Hiềm nỗi lúc này lão đã chẳng còn là dũng sĩ từng trải trăm trận năm xưa, cô cũng chẳng còn là đứa bé con bên bờ sông Quái để cho lão hà hiếp nữa. Kiếm Khoái Hội còn chưa kịp chém xuống, Thập đã rút Phục Linh Sách ra quất vào mặt lão.
Gai ngược trên Phục Linh Sách lóc một lớp da trên má trái Khoái Hội, lão bưng mặt gầm lên, Thập thừa cơ vòng hai tay, dùng Phục Linh Sách quấn lấy đôi tay lão.
Phục Linh Sách do thợ rèn Quỷ người nước Việt làm từ nguyên liệu thừa sau khi rèn ba thanh kiếm báu Long Uyên, Thái A, Công Bố, bền chắc vô cùng, không gì phá được. Khoái Hội bị Phục Linh Sách kéo lê sau vó ngựa, không giằng ra nổi, đành gào lên chửi, “Đồ dân đen mạt hạng! Ngươi mau thả ta ra, ta là Vệ hầu do thiên tử sách phong! Ta là vua một nước! Rồi ngươi sẽ bị trời phạt! Đồ dân đen mạt hạng…” Lão chửi bới luôn miệng, nhưng tiếng chửi cứ yếu dần, rồi tắt lịm.
Thập ngoái lại nhìn lão già ngất lịm bị kéo lê sau ngựa, khóe môi không khỏi cong lên.
Dân đen mạt hạng ư? Đã bao lâu rồi mới lại có kẻ gọi cô như thế nhỉ? Người đời gọi cô là con thần, là quỷ núi, là vu sĩ, là quốc sĩ, giờ cô cũng chẳng nhớ nổi lần trước bị gọi dân đen là lúc nào nữa…
Khoái Hội bị bắt được một hôm thì Triệu Ưởng tỉnh lại, họ gặp nhau trong trướng.
Khoái Hội lúc này vẫn là quân chủ nước Vệ, nhưng lại bị quân lính ấn vai, bắt quỳ trước giường Triệu Ưởng.
Triệu Ưởng mở mắt ra nhìn lão, không trách mắng, không chửi rủa, chỉ giơ tay nói một câu, “Hướng tướng quân, giao hắn cho người Nhung Châu phía Tây, cứ nói là tộc Triệu nước Tấn tặng họ một món quà.”
“Vâng!” Hướng Sào được lệnh liền tóm lấy Khoái Hội lôi đi.
Khoái Hội vùng vẫy, nhổ toẹt một bãi nước bọt lẫn máu về phía Triệu Ưởng trên sập, cười khẩy, “Triệu Chí Phụ, ta là quân hầu được thiên tử ngự phong, ngươi dám động đến ta à! ”
Triệu Ưởng nhắm mắt lại, nhếch môi hờ hững đáp, “Chừng nào Hướng tướng quân trở về, chớ quên đem đầu Vệ hầu về cho bản tướng!”
Khoái Hội chửi bới ầm ĩ, cứ thế bị nhét vào bao tải, để Hướng Sào đích thân đưa tới thành Nhung Châu.
Thành Nhung Châu và thành Đế Khâu nằm đối diện nhau. Có điều người Nhung là ngoại tộc, trong mấy năm làm vua, Khoái Hội đã năm lần bảy lượt chế nhạo làm nhục thủ lĩnh tộc Nhung, nên tay thủ lĩnh kia vừa mở bao tải ra thấy Khoái Hội, liền rút đao lấy mạng lão.
Không phụ lòng mọi người mong mỏi, Hướng Sào đã đem đầu Khoái Hội trở về. Trước tất cả tướng sĩ toàn quân, Triệu Ưởng thưởng cho Thập chiếc đầu lâu máu chảy ròng ròng nọ.