Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 16
NƯỚC CŨ NGƯỜI XƯA
Thập ở thành Ung mười năm, tuy có qua lại với Ngũ Phong và hai đời thái tử nước Tần, nhưng chưa từng đặt chân vào cung Tần. Về phần Tần bá, Thập mới chỉ gặp ông một lần duy nhất lúc theo Hồng Dược ra ngoài thành dự lễ tế Xuân. Có điều lần ấy đứng cách quá xa nên chỉ thấy một bóng người khôi ngô, mũ cao áo dài giữa đám đông huyên náo.
Mùa hạ năm thứ bốn mươi ba đời Chu Kính vương, cuối cùng Thập cũng về tới thành Ung.
Từ khi Tư theo Thập rời Tần sang Tấn tới giờ đã tròn năm năm. Trong năm năm ấy, Tư từ một thiếu nữ ngây thơ búi tóc trái đào đã trở thành một người mẹ. Tuy ở Tấn, Tư có cô có Vu An, nhưng trong lòng vẫn luôn nhớ nhung quê cũ. Nhìn thấy lầu cổng thành Ung đã có phần cũ kỹ vì dầu dãi nắng mưa từ đằng xa, nghe thấy giọng quê hương quen thuộc quanh mình, Tư bế con, mừng rơi nước mắt.
Năm xưa Tư nửa câu tiếng Tấn cũng chẳng biết nói đã quả quyết theo Thập rời Tần sang Tấn, vậy mà mãi tới hôm nay, khi nhìn thấy đôi dòng nước mắt trên má bạn, Thập mới thực sự hiểu được, đằng sau quyết định ấy là những dứt bỏ và hy sinh lớn lao biết nhường nào.
Bấy nhiêu năm ấy, Thập đâu chỉ nợ Tư một trận đòn roi.
Vừa qua cổng thành đã có xe ngựa từ cung Tần phái tới đón đợi ngay bên đường. Phù Thư đứng cạnh xe, nhiều năm không gặp, y đã để râu dài, trông thấy bọn Thập cũng chẳng kịp hàn huyên, vội vã vái chào rồi giục họ lên xe. Phu xe hô lớn một tiếng, tức thì người qua kẻ lại bên đường lũ lượt dạt sang hai bên, nhường đường cho xe ngựa bon bon chạy thẳng vào cung.
Thập ở thành Ung mười năm, tuy có qua lại với Ngũ Phong và hai đời thái tử nước Tần, nhưng chưa từng đặt chân vào cung Tần. Về phần Tần bá, Thập mới chỉ gặp ông một lần duy nhất lúc theo Hồng Dược ra ngoài thành dự lễ tế xuân. Có điều lần ấy đứng cách quá xa nên chỉ thấy một bóng người khôi ngô, mũ cao áo dài giữa đám đông huyên náo.
Phù Thư cưỡi ngựa đi trước, xe ngựa theo sát đằng sau, cổng lớn cung Tần lần lượt mở ra đón họ.
Khi đại điện cung Tần sừng sững hiện ra trước mắt, Đổng Thạch đang ngồi trong lòng Tư ngó nghiêng chợt trỏ lên mái cung điện nguy nga reo to, “Mẹ nhìn kìa, trên mái nhà có người!”
“Suỵt!” Tư vội bịt miệng Đổng Thạch.
Thập ngẩng đầu nhìn lên theo tay Đổng Thạch, thấy một người vận triều phục đứng trên mái điện cao tới trăm thước, quay mặt về phía Bắc giũ tung một tấm áo đen thùng thình thêu sơn hà nhật nguyệt. Gió phần phật, áo phấp phới, người kia lớn tiếng khóc với trời cao, “Hỡi ôi… Xin bá về đi… xin bá về đi… về đi…”
Quay về Bắc gọi hồn, hồn hỡi mau về.
Áo rộng chạm đất, Phù Thư xuống ngựa, phu xe dừng xe, mọi người trong cung Tần đều quỳ rạp, tiếng khóc dậy đất.
Năm thứ bốn mươi ba đời Chu Kính vương, giữa mùa hè, Tần bá qua đời. Thiên tử ban tên thụy là “Điệu”, tức Tần Điệu công.
Chỉ trong một đêm, trên dưới thành Ung trắng xóa một màu, từ quyền quý cho tới lê dân nhớ ơn vua nên nhất loạt để tang.
Thập làm con dân nước Tần mười năm, vốn cũng định mặc áo sô, đội mũ mấn, vào điện phúng điếu tiên quân, nhưng Phù Thư lại sai người đưa Thập và Tư tới thẳng một khu nhà ở hậu cung.
Tế lễ, báo tang, phúng điếu, tiểu liệm, đại liệm… Đủ mọi nghi thức tang lễ phức tạp rườm rà, Thập ở cung Tần đã mấy ngày mà chẳng thấy mặt mũi công tử Lợi đâu cả.
Trong năm năm qua, Ngũ Phong được phong làm chủ soái, lại nhậm chức uy lũy trong quân. Tang lễ Tần bá, Ngũ Phong đang chỉ huy xây thành mới ở nơi đóng quân miền Tây, hay tin vua mất song cũng không thể về thành Ung đưa tiễn. Trong phủ tướng quân, quản gia Tần Cổ đang bệnh nặng, sau khi Điệu công qua đời được bảy ngày, Tư đã đem con rời cung về phủ tướng quân.
Trong khu nhà vắng tanh ở cung Tần, ngày nào Thập cũng ngủ đến khi mặt trời lên tới ba con sào mới trở dậy, buổi chiều lại gối lên tiếng ve ra rả ngoài sân đánh thêm giấc nữa. Hễ nghĩ tới chuyện ở Tấn hay chuyện về Triệu Vô Tuất, cô liền ra sân quét tước, múa kiếm, giặt áo, nhớ ra việc gì thì làm việc đó, chỉ mong cho mình mệt nhoài. Có mệt mới ngủ tiếp được.
Cứ vô tri vô giác như vậy hơn nửa tháng, chẳng biết từ hôm nào, hễ mặt trời mọc lên tới ngọn ngô đồng trong sân, một tốp thái giám sẽ tới gõ cửa phòng Thập, hai người khiêng tảng băng, một người bưng cuộn sách, còn một người ôm tráp sơn đỏ.
Mùa hè nóng nực, tảng băng mỗi bề chừng ba thước vuông, vừa đưa vào phòng đã xua tan hơi nóng nực. Sách mỗi ngày chỉ có hai cuốn, nhưng ghi chép từ cách vu nữ nước Thục nấu phương đồ tới bí quyết chế hương của quán Nam Hương nước Sở; từ cách làm quả khô ướp mật của Trịnh tới lối nhuộm vải mới của Tề; thảy đều hết sức mới lạ. Còn trong chiếc tráp sơn đỏ vẽ chim loan ngậm cành cây theo kiểu dáng nước Sở nọ lại đầy đủ những vật dụng cần thiết để thực hiện những bí thuật chép trong sách.
Từ ấy Thập mải miết chế hương, làm mứt, nhuộm vải, nấu phương đồ, hỏng thì làm lại, thành công cũng mua vui được vài trống canh. Ngày tháng cứ thấm thoắt trôi qua như thế.
Tháng Tám, nước Tần vào thu. Trời âm u mấy hôm, đổ mưa to mấy bận, tiếng ve ngoài sân cũng bặt dần, chỉ có lá ngô đồng rụng tơi bời, chỗ xanh chỗ vàng. Tư dẫn Đổng Thạch vào cung thăm, kể với Thập rằng mấy hôm trước phái đoàn nước Tấn sang phúng viếng Điệu công đã trở về. Tộc Trí phái thế tử Trí Nhan đi, còn tộc Triệu phái con trai thứ sáu dòng chính của Triệu Ưởng, Tấn hầu chưa triệu Thập về Tân Giáng, còn Triệu Vô Tuất vẫn hằng ngày gửi thư tới phủ tướng quân.
Thập gật đầu lắng nghe. Thấy sắc mặt bạn đã khá hơn hẳn tháng trước, Tư không kìm được hỏi, “Cậu không đọc thư Triệu Vô Tuất thật ư? Ngày nào người đưa thư cũng tới phủ tướng quân, cứ hỏi mình có thư trả lời không.”
“Có đọc cũng chẳng có gì để trả lời, thà chẳng đọc cho xong.” Thập ôm Đổng Thạch, dúi ít mứt quả mới làm vào túi đeo bên hông nó.
“Không đọc cũng tốt, chẳng qua chỉ toàn lời ngon tiếng ngọt dỗ cậu về thôi. À phải, hôm qua có cả một cuộn thư từ Tề gửi sang, còn nói rõ phải giao cho cậu.” Tư lấy trong bọc đưa cho Thập một cuộn thẻ tre ngoài quấn bọc gỗ, hai đầu gắn đất sét niêm phong nhưng không thấy tên người gửi. Thập đứng dậy lấy dùi gỗ đập vỡ niêm phong, vừa mở ra đã thấy nét chữ đẹp đẽ của Tố.
Trong thư, Tố chúc mừng cô đã cắt đứt được tơ tình mà rời Tấn, còn mời cô khi nào tang lễ Điệu công kết thúc thì sang Tề gặp mặt. Cuối thư còn có ba hàng chữ nhỏ, nét chữ khác hẳn, lời lẽ cũng bông lơn cợt nhả, nói gì mà nếu ngày sau cô lấy Tần bá sinh được con gái thì nhất định phải giữ lại một đứa để tộc Trần nước Tề sang cầu hôn, tới chừng đó cô chọn ai làm rể, tộc Trần sẽ lập kẻ đó làm con nối nghiệp. Những lời này không phải của Trần Bàn thì còn ai vào đây nữa.
Đọc thư xong, Thập chợt thấy buồn cười, sao cô rời xa Triệu Vô Tuất mà ai ai cũng lấy làm mừng thế nhỉ? Cô ở lại Tần làm Hằng Nhã vui mừng, Sử Mặc vui mừng, Tư vui mừng, Triệu Ưởng có lẽ cũng vui mừng. Giờ cả người Tề cũng viết thư bày tỏ rằng họ mừng khôn xiết. Mọi người vui, riêng mình buồn, ngoài gượng cười, cô còn biết làm sao nữa.
Con phải để tang cha ba năm, không được uống rượu, nghe nhạc, thân cận nữ quyến. Công tử Lợi đến giờ vẫn chưa tới gặp Thập, rõ ràng đã liệt cô vào hàng nữ quyến. Nhưng hắn không gặp cô, Tấn hầu cũng không triệu cô về Tấn, lẽ nào cô cứ phải ở cung Tần mãi? Nếu không vướng chuyện dược nhân thì cô ở đâu cũng được cả, nhưng giờ thấy Đoan Mộc Tứ đã sắp hết thời gian để tang Khổng Khâu, Thập chỉ nóng lòng muốn sang Lỗ tìm người năm xưa từng xây hầm ngầm cho Trí Dao.
“Túi hương này ta mới may, bên trong bỏ hương an miên, ngươi đem về trao cho bệ hạ, hằng đêm ngài đặt bên gối cho dễ ngủ. Còn hũ muối thảo dược này, hằng ngày có thể bỏ một dúm vào bát cháo.” Thập trao túi hương bằng vải thô màu trắng cùng hũ muối thảo dược mới làm cho thái giám đưa sách, còn dặn gã ngày mai tới nhớ mang cho cô một tấm chăn đắp đỡ lạnh.
Thái giám vâng dạ rồi hành lễ lui xuống.
Thập ngồi sau bàn, giở cuộn thẻ tre mới đưa tới hôm nay ra. Trên thẻ tre không ghi bí quyết gì cả, chỉ viết vỏn vẹn một bài thơ. :::: poem
Yêu yêu chấu chấu kêu vang,
Cào cào đã thấy tung tăng nhảy cùng.
Lúc mà chưa thấy được chồng,
Buồn rầu lo nghĩ tấc lòng nào nguôi.
Nếu mà trông thấy được người,
Hay là cùng đã được hồi gặp nhau,
Thì lòng lắng dịu xiết bao!
Núi Nam kia bước lên cao,
Nói là đi hái ngọn rau quyết dùng.
Lúc mà chưa thấy được chồng,
Buồn rầu lo nghĩ tấc lòng nào nguôi.
Nếu mà trông thấy được người,
Hay là cùng đã được hồi gặp nhau,
Thì lòng vui đẹp xiết bao!
Núi Nam kia đã trèo lên,
Rằng rau vi hái ở trên mà dùng.
Lúc mà chưa thấy được chồng,
Bi thương khổ sở tấc lòng nào nguôi.
Nếu mà trông thấy được người,
Hay là cùng đã được hồi gặp nhau,
Thì lòng bình lặng xiết bao!* ::::
Ngày thu côn trùng kêu rả rích mà chẳng gặp được người muốn gặp, lòng buồn vời vợi, u uất dường bao. Nỗi khổ biệt ly, mối sầu vì nhớ nhung mà không được gặp gỡ cứ thiêu đốt cõi lòng từng giờ từng khắc. Phải gặp được người ấy, lòng mới có thể nguôi ngoai; phải gặp được người ấy, lòng mới có thể vui sướng và bình lặng được.
Đây là bài thơ tình của người vợ viết cho chồng ở nơi xa, kẻ viết cũng muốn mượn những lời này để bày tỏ nỗi sầu khổ và nhớ nhung vì gần trong gang tấc mà chẳng thể gặp được cô. Nhưng nhẩm đọc mấy câu thơ trên thẻ tre, tâm trí Thập lại hiện ra một gương mặt khác khiến lòng cô đau thắt.
Giờ hắn đang làm gì nhỉ? Thấy lá vàng đầy đất, côn trùng rỉ rả, hắn có chạnh lòng nhớ đến cô không?
Mấy tháng nay cô đã cố ép mình không nhớ tới hắn nữa, nhưng nhớ nhung một khi đã tràn ra như vỡ đê thì chẳng cách nào kìm nén nổi. Cô cuộn bừa cuộn thẻ tre lại, bước đến bên song, ngẩng đầu lên thấy mây trôi đầy trời, nhạn bay thành hàng, đã sẵn buồn thương lại thêm mấy phần cảm khái.
“Cộc, cộc, cộc.” Có người gõ nhẹ cửa phòng cô.
“Vào đi.” Thập hít sâu một hơi, xoay người bước đến ngồi xuống sau bàn.
Cửa phòng hé mở, thái giám cúi đầu bưng một khay to sơn đen vào, trên khay là một tấm chăn gấm bảy màu được gấp vuông vắn.
“Để mai tới đưa sách thì đưa luôn cũng được, việc gì phải mất công đi chuyến nữa. Cứ để trên sập cho ta nhé, đa tạ.”
Thái giám nọ không đáp chỉ gật đầu, khom người lại bên sập, đặt tấm chăn xuống cạnh gối cô.
Thập đứng dậy bước tới phía sau tấm lưng quen thuộc nọ, đoan chính vái một vái dài theo lễ bái kiến quân chủ, “Vu sĩ Tấn bái kiến bệ hạ.”
“Đừng gọi bệ hạ, ta chưa kế vị mà.” Người đứng phía trước khẽ thở dài, xoay mình lại.
Thập đứng thẳng dậy, giơ tay vái hờ hắn một vái như thời thiếu nữ, khẽ nói, “Thập bái kiến công tử.”
Công tử Lợi cúi đầu nhìn cô, trong cặp mắt đỏ lừ vì mệt mỏi không có ý trách cứ, chỉ tràn ngập đau khổ. “Ta đợi một tiếng công tử của cô đã năm năm rồi đấy! Năm xưa cô đã hứa với ta, nếu ta mời cô sang Tần, cô sẽ sang ngay. Vậy mà bấy lâu nay ta gửi bao nhiêu thư, sao cô chẳng trả lời lấy một bức?”
“Thập vào cung đã ba tháng, sao công tử không tới gặp?”
“Lúc mà chưa thấy được chồng, buồn rầu lo nghĩ tấc lòng nào nguôi. Nếu mà trông thấy được người, hay là cùng đã được hồi gặp nhau, thì lòng lắng dịu xiết bao. Ta không gặp cô là vì đang để tang, không thể gặp được. Hôm nay cô gửi túi thơm, ta đã bất chấp lễ pháp đến đây, chẳng dám mong được chuyện trò, chỉ muốn len lén nhìn cô một cái cũng thỏa. Còn cô… Rõ ràng cô đến được, mà không chịu đến.” Công tử Lợi đăm đăm nhìn Thập, như muốn tìm hiểu nguyên nhân cô năm lần bảy lượt khước từ mình suốt năm năm.
“Bận này công tử gửi thư cho Tấn hầu vời vu sĩ Tử Ảm sang cầu phúc, công tử có thể đường đường chính chính tới gặp tôi mà. Ba tháng nay công tử không tới, bởi trong lòng công tử không có Tử Ảm, chỉ có Thập. Năm năm nay tôi không sang, cũng bởi trong lòng công tử chỉ có Thập, không có Tử Ảm. Người công tử bao phen mời mọc đều là Thập, nhưng trong phủ thái sử nước Tấn không có nàng Thập, nàng Thập năm xưa đã chết dưới sông VỊ rồi.”
“Nhưng cô vẫn sống sờ sờ đấy thôi.”
“Công tử…”
“Thôi thôi, từ khi quen biết tới giờ, ta có lúc nào đấu lý lại cô đâu. Ta đi đây.”
“Công tử!” Thập níu lấy tay áo công tử Lợi.
Công tử Lợi ngoái đầu lại, rõ ràng cô muốn nói rất nhiều điều, song cuối cùng chỉ thốt ra được một câu, “Xin bớt đau buồn.”
Công tử Lợi khẽ gật đầu rồi xoay người đi khỏi.
Con để tang cha, ba ngày không ăn cơm, một năm không ăn rau trái, mặc áo sô, ở nhà bé, không yến ẩm, không gần nữ sắc. Hai mắt hắn sưng húp, mặt mày xanh xao, nhưng vừa nhận được túi thơm cô gửi, chưa đầy nửa buổi đã tìm tới. Gặp được người, lòng lắng dịu; gặp được người, lòng vui sướng; gặp được người, lòng bình lặng. Tình cảm sâu nặng này, cô biết phải đền đáp sao đây? Cô biết hắn muốn giữ mình lại, nhưng hắn đang phải để tang ba năm, lẽ nào hắn định giữ cô lại ba năm, tới khi hắn tế trời kế ngôi ư? Nếu vậy e rằng cô sẽ phải ở lại cung Tần luôn, như lời Trần Bàn nói. Nhưng đi một vòng lớn như thế, nếu cuối cùng vẫn trở thành một người thiếp trong cung Tần, há chẳng phải đời cô sẽ là một trò cười ư?
Không, cô không thể ở lại đây được.
Đêm ấy, Thập quấn chăn nghe tiếng côn trùng ngoài cửa nỉ non, nhớ lại rất nhiều chuyện thuở thiếu thời, cũng nghĩ rất nhiều cách rời cung Tần. Sáng sớm hôm sau, thái giám thường đưa sách cho cô vẫn tới đúng giờ, nhưng lần này lại đem tới một bộ áo vu sĩ trắng tinh cùng một đạo chỉ dụ của quân chủ mới.
Công tử Lợi triệu Thập tới gặp. Thập tới gian điện bên đơn sơ, thấy hắn đang khoác áo tang. Lần này hắn không gọi cô là Thập nữa, chỉ mời cô dự lễ tang Tần Điệu công như một vu sĩ. Vua chư hầu qua đời, thi thể phải quàn ở tông miếu năm tháng, nếu muốn dự lễ tang, cô phải ở lại Tần thêm hai tháng nữa. Nhưng thỉnh cầu của hắn hợp tình hợp lý, cô không thể từ chối được.
“Đây là các việc sắp xếp trong ngày hạ táng, vu sĩ xem còn sơ sót chỗ nào không.”
“Ngoại thần tuân lệnh.”
Công tử Lợi sai thái giám khiêng một rương thẻ tre, thanh gỗ đặt trước mặt Thập. Thập cúi người vái tạ, hai thái giám lại xếp tất cả mọi thứ trong rương lên chiếc bàn dài sơn đen trước mặt cô.
“Lui xuống cả đi!” Công tử Lợi xua tay, tức thì người hầu kẻ hạ trong điện nhất loạt lui ra.
Trong điện chợt yên ắng lạ thường, cô cúi đầu đọc, hắn cũng lẳng lặng giở sách. Thoạt đầu cô còn nghe được tiếng thở của đôi bên, về sau chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng chim sẻ đuổi nhau ngoài điện kêu chiêm chiếp, vừa như ở ngay bên tai, lại như từ xa đưa lại, văng vẳng khắp gian điện thênh thang như tiếng vọng trong khe núi.
“Thì ra… Triệu thế tử cùng cô đọc sách ở phủ thái sử là cảm giác này đây.” Giữa lúc yên tĩnh, giọng công tử Lợi buồn buồn vang lên.
Thập ngạc nhiên ngẩng đầu, chạm ngay ánh mắt hắn.
“Khỏi cần giải thích chuyện giữa hai người. Năm xưa lần đầu gặp hắn ở thành Ung, ta đã biết hắn cũng đem lòng ái mộ cô, hệt như ta. Gặp được một nhân vật như hắn, cô xiêu lòng cũng là chuyện sớm muộn. Chỉ trách ta trước kia quá mềm lòng với cô thôi.”
“Quá mềm lòng ư?”
“Năm xưa những lời cô nói trên lầu cổng thành đều là gạt ta cả, cô không muốn lấy ta nên mới bịa ra chuyện trời phạt để dọa ta, đúng không? Chiêu hồn sông Vị, cô đã chết trong lòng ta một lần, khó khăn lắm ta mới được gặp lại cô, sao dám mạo hiểm tính mạng cô lần nữa. Ta sợ, nên biết rõ cô gạt mình mà vẫn để cô đi. Nhưng mấy năm nay, ngày nào ta cũng hối hận.”
“Công tử…”
“Vợ Triệu Vô Tuất đánh cô đấy à?” Công tử Lợi ngồi xuống trước mặt Thập, vuốt nhẹ lên vết sẹo mờ dưới cằm cô, “Năm xưa lẽ ra ta nên nhẫn tâm giữ cô lại mới phải. Như thế cô đã chẳng bị hắn thương tổn thế này.”
“Công tử nặng tình, Thập chẳng biết lấy gì báo đáp cả.” Thập khom người dập đầu.
Công tử Lợi gượng cười, “Cô thông minh là thế, ta muốn gì, cô đâu phải không biết. Ta có thể cho cô những gì, cô cũng rõ cả. Chỉ tiếc rằng thứ kẻ khác bon chen tranh đoạt, cô lại chẳng màng. Trước kia ta yêu cô vì điểm này, giờ hận cô cũng vì điểm này.”
Nhìn cặp mắt buồn thảm của công tử Lợi, lòng Thập trĩu nặng. Nếu năm xưa cô phải lòng người đàn ông trước mặt thì tốt biết mấy, như vậy hết thảy những khó khăn trong đời cô đều sẽ được tháo gỡ dễ dàng. Tiếc rằng đâu phải cứ muốn yêu là yêu được.
“Thập à, ở lại đi, được không? Cô muốn rời cung cũng được, chỉ cần ở lại Tần thôi.” Công tử Lợi tha thiết nhìn cô, khẩn nài.
Thập lắc đầu, phục xuống vái lạy lần nữa, “Thập còn mấy việc dở dang ở Tấn, chôn cất tiên quân xong, xin công tử cho Thập trở về.”
“Còn việc chưa xong, hay còn tình chưa dứt?”
“Quả thực vẫn còn việc chưa xong.”
“Được, cô đứng dậy đi đã.” Công tử Lợi thở dài, cúi xuống đỡ cô dậy, “Còn việc gì chưa xong vậy? Lợi giúp được không?”
Giúp ư? Một tia sáng chợt lóe lên trong đầu cô như sao băng. Phải rồi, tuy mấy năm nay Tần vẫn nằm yên ở phía Tây, nhưng người Tần đã âm thầm dệt nên một mạng lưới tình báo lớn phủ khắp các nước, chẳng kém gì Thiên Xu. Cô một lòng muốn sang Lỗ tìm manh mối dược nhân mà đâu ngờ một “kho báu” lớn đang đứng ngay trước mặt mình. Nhưng… cô là vu sĩ Tấn, liệu có được xem mật báo của người Tần không?
“Thập có một thỉnh cầu hơi quá đáng, mong công tử chấp thuận.” Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng cô vẫn quỳ sụp xuống nói ra thỉnh cầu mà chính cô cũng thấy hoang đường.
Công tử Lợi lặng thinh nghe cô nói xong mới đỡ cô dậy, “Đứng dậy đi! Theo ta nào.”
“Công tử đồng ý ư?” Thập ngước lên, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.
“Cô nghĩ ta sẽ từ chối à?”
“Thập là vu sĩ Tấn, công tử kiêng kỵ cũng phải.”
“Hôm nay cô mới nói câu này thì quá muộn rồi. Cô còn nhớ tên phản thần Trọng Quảng năm xưa bị cô bày kế giết chết ở kinh đô Đại Lệ không?”
“Thưa, Thập vẫn nhớ.”
“Vậy cô nghĩ lại xem, năm xưa Trọng Quảng phải chết chỉ vì nắm được tình hình bố phòng của quân Tần ở biên giới phía Đông; còn cô khi sang Tấn, đừng nói biên giới phía Đông mà ngay cả bản đồ bố phòng toàn nước Tần cô cũng vẽ ra được chuẩn xác. Cô còn biết cả cách gửi và đọc mật báo của người Tần suốt trăm năm nay nữa. Nhưng cô có thấy ta phái thích khách đi giết cô không? Xưa ta đã tin cô, nay còn tiếc gì mấy phong mật báo lâu năm cơ chứ?”
Tin cô, không giết cô…
Thập sửng sốt nhìn công tử Lợi, hóa ra bấy nhiêu năm nay, cô không chỉ phải cảm tạ ân tình sâu nặng của hắn, mà còn phải cảm ơn hắn đã không giết mình.
Cung Tần canh gác nghiêm ngặt, nơi cất giữ mật báo lại nằm sát bên góc Đông Nam tẩm cung của Tần bá. Ấy là một gian phòng thênh thang, chỉ có cột trụ, không có vách ngăn, ngoài cổng có thị vệ canh giữ, bên trong có thái giám quét tước dọn dẹp, vô vàn giá gỗ cao thấp so le kê thành từng hàng giữa phòng. Công tử Lợi dẫn cô bước vào, thái giám thấy hắn tới vội cúi đầu lui xuống.
“Đây đều là các mật báo từ khắp nơi đưa tới ư?” Thập tiện tay rút một cuộn thẻ tre từ giá gỗ bên cạnh.
“Không, đây đều là sách cổ thu thập từ các nước và văn kiện quan trọng các đại thần dâng lên trong nhiều năm. Thứ cô muốn xem ở phía trong cơ, theo ta vào đây.” Công tử Lợi cất cuộn thẻ tre trong tay Thập về chỗ cũ rồi dẫn cô vào trong.
Chiều thu, ánh nắng vàng đem theo cả những hạt bụi lả tả, xiên xiên rọi qua khoảng hở giữa hàng hàng giá sách, trong phòng tranh tối tranh sáng, bóng sáng đan xen, công tử Lợi dẫn cô đi giữa những cuốn thẻ tre cũ kỹ đếm không xuể, cô giẫm lên thềm sáng mà đi, lại có cảm giác như băng qua năm tháng.
“Những ghi chép về Tấn đều ở đây, còn Tề Lỗ ở bên kia.” Công tử Lợi đi tới trước một dãy giá gỗ, trỏ lên lớp lớp thẻ tre đã ngả vàng trên giá bảo, “Cô muốn tìm gì, ta tìm phụ cho.”
“Không được, giờ chắc hẳn công tử còn cả núi chính sự phải xử lý.” Thập buột miệng từ chối.
“Trong lúc để tang, quân chủ mới không cần xử lý chính sự, người Tần chúng ta cũng hiểu lễ pháp mà.” Công tử Lợi kiễng chân rút hai cuộn thẻ tre từ giá gỗ sau lưng cô xuống, tự mình giở một cuộn ra, còn cuộn kia đưa cho cô, “Vừa rồi cô nói thân thế mình có thể liên quan tới tộc Phạm nước Tấn phải không?”
“Vâng.” Thập gật đầu.
“Tộc Phạm là vọng tộc nước Tấn, những ghi chép liên quan tới họ hẳn không ít. Ta sẽ lọc ra cho cô theo mốc thời gian, cô chỉ việc chọn xem những gì mình cần thôi ” Nói rồi công tử Lợi đặt cuộn thẻ tre đã đọc xong sang một bên, rồi lại giơ tay rút một cuộn khác trên giá.
“Công tử đang để tang không lo chính sự, vậy sứ thần các nước tới thành Ung phúng viếng cũng về cả rồi sao?” Nhìn người đàn ông võ vàng trước mắt, Thập hiểu hắn muốn nán lại đây, có lẽ cung điện treo đầy phướn trắng kia khiến hắn thấy vừa đau đớn vừa ngột ngạt, có lẽ hắn muốn trộm lấy chút thời gian êm đềm ngày cũ bên cô, khiến mình tạm quên đi nỗi đau trong lòng cùng gánh nặng trên vai, nhưng cô không thể để hắn ở lại, bởi cô không muốn vô duyên vô cớ trở thành yêu nhân mê hoặc quân chủ trong lời đám triều thần nước Tần.
“Hôm nay chẳng có sắp xếp gì hết.” Công tử Lợi ngước mắt lên khỏi cuộn thẻ tre, “Cô không muốn ta ở lại đây à?”
“Không, Thập chỉ tò mò thôi, thường ngày công tử đối với Thúc Quy cũng trì hoãn quốc sự, phá bỏ lễ pháp thế này ư?”
Nghe cô nhắc tới Thúc Quy, công tử Lợi thoáng sững ra rồi gượng cười, đặt cuộn thẻ tre đang cầm vào tay cô, “Lời này nếu một cô gái khác thốt ra thì là làm nũng tranh sủng, mà sao cô nói ra lại thành răn dạy thế nhỉ? Được rồi, ta đi là được chứ gì? Quân phụ mới qua đời, ngày nào cũng có cả đống việc nước chờ ta xử lý kia kìa. Người Tần hiểu lễ, nhưng có những lễ nghi chắc hẳn quân phụ cũng không muốn ta cố chấp giữ làm gì. Cô cứ đọc thẻ tre trên ba hàng giá này đi, lát nữa ta lại tới đón cô.”
“Cung tiễn công tử.” Thập lùi một bước, khom người vái.
Công tử Lợi chăm chú nhìn cô rồi xoay người dời gót.
Bóng nắng chầm chậm di dịch trên mặt sàn trải kín chiếu cỏ, thời gian trôi qua từng chút một, nhưng Thập ngồi giữa đống thẻ tre chồng chất vẫn chưa thu lượm được gì.
Trong những ghi chép của người Tần về tộc Phạm, chẳng hề nhắc tới người đàn bà tên Thuấn. Thế giới này vốn thuộc về đàn ông, trong cuộc chơi của họ, nữ nhi chẳng là gì cả, số phận và sống chết của những con người ấy vốn không đáng được ghi lại. Mà nước Lỗ nơi Công Thâu Ninh ở lại nằm về phía Đông, cách Tần quá xa, nên những ghi chép của Tần về Lỗ rất ít. Thập chỉ tìm được duy nhất một đoạn ghi chép về tộc Công Thâu, song cũng chỉ nói qua về việc chế tạo chiến xa nước Lỗ, chẳng hề đả động tới những chuyện vụn vặt bên lề.
Hai canh giờ trôi qua, nỗi kích động và hồi hộp lúc mới bước vào đã tan biến. Có lẽ cô chẳng nên đào bới những chuyện từ hai mươi năm trước, có lẽ đứa bé tên Lê kia chưa từng tồn tại, có lẽ trên đời chẳng ai có thể cho cô biết năm xưa mẹ đã gặp phải chuyện gì… Thập thở dài, nằm xuống mặt sàn ngổn ngang thẻ tre, nhắm mắt lại tiện tay nhặt một cuộn lên, vừa giở ra đã bị bụi bặm rơi xuống đầy mặt, hắt xì liên tục.
“Triệu Ưởng bỏ trốn, nhị khanh vây Tấn Dương. Tấn hầu triệu Sử Mặc vào bói. Tộc Trí cũng bói.” Mấy câu ngắn ngủi trên tấm thẻ tre lốm đốm vết mốc thình lình lọt vào mắt Thập, cô vội quệt mũi nhỏm dậy.
Năm xưa Triệu Ưởng giết Hàm Đan đại phu Triệu Ngọ, con trai Triệu Ngọ là Triệu Tắc cùng tộc Phạm và tộc Trung Hàng đứng ra thảo phạt tộc Triệu. Ban đầu Tấn hầu đứng về phía tộc Phạm và tộc Trung Hàng, Trí Lịch bấy giờ là chính khanh cũng chủ trương thảo phạt Triệu Ưởng, bởi vậy vào mùa hè năm Triệu Ngọ qua đời, Phạm Cát Xạ đã dẫn quân đánh thẳng vào phủ Triệu, tộc Triệu bị truy đuổi, giữa đêm phải chạy lên phía Bắc, tới thành Tấn Dương.
Những chuyện này Triệu Vô Tuất đã kể cho cô nghe từ lâu, nhưng cô không hiểu tại sao mấy tháng sau khi Triệu Ưởng chạy đến Tấn Dương, chính khanh Trí Lịch lại đột ngột quay ra bảo vệ tộc Triệu. Thái độ thay đổi đột ngột của Trí Lịch đã khiến cục diện xoay chuyển hoàn toàn, tộc Phạm và tộc Trung Hàng vốn cầm chắc phần thắng, thế như chẻ tre bỗng dưng lại rơi vào thảm bại.
Ai đã thuyết phục Trí Lịch? Ai đã cứu tộc Triệu? Trước kia cô cứ thắc mắc mãi, hôm nay mới tìm được câu trả lời.
Hai mươi năm trước, có lẽ mọi người đều ngỡ rằng thái Sử Mặc nước Tấn chỉ một lòng phụng sự Tấn hầu, phụng sự thần linh, không ngả về ai trong số lục khanh. Nhưng cô biết, trong lòng Sử Mặc từ lâu đã nhận Triệu Ưởng là chủ. Giữa lúc tộc Triệu nguy nan nhất, Tấn hầu và Trí Lịch lại cho vời Sử Mặc bói điềm lành dữ, Sử Mặc ắt sẽ ra tay cứu Triệu Ưởng.
Năm xưa rốt cuộc sư phụ cô đã mượn tiếng thần linh để nói gì với Tấn hầu và Trí Lịch? Tại sao chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, cục diện triều đình nước Tấn lại thay đổi lớn đến vậy?
Nhìn mấy dòng chữ trên tấm thẻ tre loang mốc, trong đầu cô hiện lên cảnh Sử Mặc mũ cao áo vu, một mình bước vào cổng phủ Trí giữa cơn bão táp mưa sa lớn nhất trong vòng trăm năm trở lại đây ở Tấn. Một quẻ gieo xuống, gió mây xoay vần, kẻ năm xưa nghịch chuyển càn khôn, quyết định sự sống chết của tam khanh và vận mệnh nước Tấn có lẽ không phải Trí Lịch, mà là Sử Mặc.
“Sao cô lại nằm xuống thế? Đọc nhiều mệt quá à?” Lúc công tử Lợi bước vào, Thập đang nằm giữa đống thẻ tre, thần người ra.
“Công tử xử lý xong chính sự rồi ư?” Cô hỏi.
“Ta là con người, cũng phải có lúc nghỉ ngơi chứ. Cô đã tìm được thứ cần tìm chưa?” Công tử Lợi gập gối ngồi xuống cạnh Thập.
“Chưa.” Thập ngồi dậy cuộn thẻ tre lại, cất lên giá, “Mẹ tôi chỉ là cháu ngoại ở nhờ trong phủ Phạm, nếu lấy quý khanh, đại phu có lẽ còn được ghi lại, nhưng cha tôi có thể chỉ là một người bình thường nên mật hàm ở Tần không có ghi chép gì về họ.”
“Thập à, thực ra ta có một suy đoán khác.” Công tử Lợi ngập ngừng.
“Suy đoán gì cơ?”
“Trước kia ta từng hỏi cô sao lại thêu dâm bụt lên khăn tay đem bên người, cô đáp rằng cô thích dâm bụt, bởi đấy là loài hoa mẹ cô yêu nhất, đúng không?”
“Đúng, nhưng liên quan gì tới thân thế của tôi?”
“Nếu mẹ cô chỉ là thiếp một lái buôn bình thường ở Kinh Dương thì chẳng liên quan gì. Nhưng hôm nay cô lại kể rằng bà ấy là người Tấn, còn là thân thích với tông chủ tộc Phạm nước Tấn, khiến ta nhớ tới một câu chuyện từng nghe hồi nhỏ.”
“Chuyện gì vậy?” Thập tức thì chăm chú hẳn.
“Chuyện từ lâu lắm rồi, ta nhớ bấy giờ Bách Lý đại phu vừa lấy Nhiễm Doanh, cô ruột ta về làm vợ, song lại giấu quân phụ theo đuổi một vũ cơ tên Thiều trong cung. Hiềm nỗi vũ cơ nọ cao ngạo, hình như có ý lấy lòng quân phụ ta. Mẹ ta là con gái Vệ hầu, dĩ nhiên không thèm tranh sủng với một vũ cơ, nhưng cũng không muốn quân phụ có người mới mà lơ là mình. Thế là bà nghĩ ra một cách, bày kế cho Bách Lý đại phu trồng mười dặm rừng mai ở ngọn núi bên ngoài thành Ung, rồi mời quân phụ và vũ cơ nọ tới ngắm mai. Vũ cơ nọ rất yêu hoa mai, thấy Bách Lý đại phu có lòng như vậy, dĩ nhiên phải cảm động. Quân phụ cũng xúc động trước tấm chân tình của Bách Lý đại phu nên sau khi vũ cơ múa một điệu ở rừng mai, quân phụ đã thưởng bà ta cho Bách Lý đại phu. Sau này quân phụ hay được chân tướng, chẳng những không trách mẹ ta, còn khen bà thông tuệ. Hôm ấy sau khi quân phụ đi khỏi, ta cũng học theo người ca ngợi mẹ, song bà chỉ bế ta đặt lên đầu gối, cười buồn nói, ‘Nghìn khóm dâm bụt ngoài thành Hàm Đan, mười dặm rừng mai bên bờ sông Vị, cảnh đẹp tuyệt thế ta đều đã ngắm, chỉ tiếc chẳng có bông hoa nào thuộc về ta.”’
“Nghìn khóm dâm bụt ngoài thành Hàm Đan ư?”
“Ừm, thành Hàm Đan và thành Đế Khâu nằm đối diện nhau ở hai bên bờ sông, năm xưa mẹ ta về Vệ thăm nhà, từng thấy thiếu chủ Hàm Đan là Triệu Tắc tự tay trồng nghìn khóm dâm bụt tặng cô gái mình thương. Hè vừa mới chớm, bên bờ Hoàng Hà, muôn vàn đóa hoa đua nhau khoe sắc thắm, phong cảnh đẹp vô ngần, khiến mẹ ta ngắm một lần mà không sao quên được, về sau mới dựa theo đó bày kế cho Bách Lý đại phu lấy lòng người đẹp.”
“Nghìn khóm dâm bụt bên bờ Hoàng Hà…” Nhìn công tử Lợi bên cạnh, song trước mắt Thập lại chập chờn bóng dáng một người đàn ông khác. Mắt phượng dài, nốt ruồi lệ nơi khóe mắt, đóa dâm bụt thêu trên viền tay áo cùng hương giang ly thoang thoảng trong đêm. Là ông ta ư? ông ta là cha cô sao?
“Kìa Thập?” Công tử Lợi khẽ gọi.
“Mẹ tôi tên Thuấn.” Cô lẩm bẩm.
“Thuấn, tên gọi của hoa dâm bụt à?”
“Đúng, tên gọi của hoa dâm bụt…” Thập cúi xuống đỡ lấy mái đầu choáng váng, chợt thấy vừa muốn cười vừa muốn khóc, cô nhớ lại câu cuối cùng người đàn ông kia bỏ lại trước khi biến mất trong con ngõ tối ở Thương Khâu hôm ấy: “Nhóc con à, bất luận là ai nuôi dạy ngươi thành người, kẻ đó cũng đã làm rất tốt.”
Triệu Tắc, ông ta thực sự là cha cô ư? Nếu ông ta là cha cô, sao bấy nhiêu năm không đi tìm cô, sao lúc ở Tề lại trăm phương nghìn kế hãm hại cô, sao gặp cô lại chẳng hề hỏi mẹ cô qua đời thế nào?
“Vườn dâm bụt ngoài thành Hàm Đan giờ có còn không?” Thập hít sâu một hơi, ngẩng lên hỏi.
Công tử Lợi lo âu nhìn cô lắc đầu, “Đã cháy trụi lâu rồi. Năm xưa Triệu Ưởng giết Hàm Đan đại phu Triệu Ngọ, còn sai người đưa thi thể Triệu Ngọ về Hàm Đan, uy hiếp con trai Triệu Ngọ là Triệu Tắc phải lập tức giải năm trăm hộ tù binh người Vệ đến Tấn Dương. Triệu Tắc không chịu, tức giận đuổi sứ giả tộc Triệu khỏi thành Hàm Đan. Sứ giả nọ nhục nhã, lúc ra khỏi thành ngang qua vườn dâm bụt đã châm một mồi lửa, đốt trụi nghìn gốc dâm bụt trong vườn. Triệu Tắc nổi trận lôi đình, dấy binh làm loạn. Từ đó mới dẫn tới loạn lục khanh ở Tấn.”
“Ra thế…”
Thành Hàm Đan, ngôi thành đẹp nhất bên bờ Hoàng Hà. Cô từng vô số lần nghe tới nó qua lời người khác, hoặc đọc trên thẻ tre, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng nơi đó có thể là nhà mình, là nơi cha mẹ mình từng sống. Cô cũng không sao tưởng tượng nổi trên đời từng có ngàn khóm dâm bụt, muôn đóa hoa tươi nở rộ vì người mẹ tội nghiệp của mình. Bởi nếu những điều ấy là thật thì hồi ức khi đứng dưới nắng lén ngắm nhìn cành dâm bụt bên tường kia đối với bà thực tàn nhẫn biết bao.
“Thập này, cô bảo Hàm Đan quân Triệu Tắc có thể là cha mình sao?” Thấy Thập lặng đi hồi lâu, công tử Lợi khẽ hỏi.
Cô trân trân nhìn vào mắt hắn, không đáp. Triệu Tắc không thể là cha cô, tuyệt đối không thể.
Cô vịn giá gỗ đứng dậy, thấy muôn ngàn thẻ tre lắc lư chao đảo quanh mình, cô đi giữa vô vàn bí mật, chỉ thấy hoa mày chóng mặt buồn nôn.
Đêm ấy, sau khi gà gáy lại đổ mưa, tiếng mưa trút xuống lá rụng ngoài vườn rào rạt. Thập ôm chăn gấm nằm trên giường, chong chong nhìn ra ô cửa sổ tối đen. Dù chẳng thấy gì, cô vẫn chong mắt nhìn như thế suốt đêm.
Không lâu sau thì trời sáng. Mọi thứ trước mắt dần sáng tỏ, Thập hít sâu một hơi, nhắm mắt lại.
Ngủ mê man chẳng biết bao lâu, tới khi cô tỉnh lại mưa vẫn chưa tạnh, cứ rì rào dai dẳng mãi. Thập khép vạt áo ngồi dậy, vừa bước xuống giường đã nghe có tiếng hỏi khẽ ngoài cửa, “Vu sĩ dậy rồi ạ?”
“Dậy rồi.” Cô khoác áo đi tới nhẹ nhàng kéo cửa ra.
Một thái giám khom lưng đứng trước cửa, tấm áo sô tang đã ướt quá nửa. Thấy cô mở cửa, y vội chắp tay hành lễ, “Hôm qua bệ hạ đã tìm giúp vu sĩ một người dân ở Hàm Đan hai mươi năm trước, nếu vu sĩ muốn gặp, nô tài sẽ lập tức đưa người vào cung.”
“Người Hàm Đan ư? Ở đâu?” Cô níu lấy cánh cửa.
Thái giám lo lắng nhìn cô rồi cúi đầu thưa, “Giờ đang ở quán dịch trong thành, nếu vu sĩ muốn gặp…”
“Ta muốn ra ngoài cung, chuẩn bị xe cho ta!”
“Dạ!”
Quân chủ mới từ trần, phố phường thành Ung trắng xóa một màu tang tóc, chợ búa cũng chẳng thấy trẻ con nô đùa chạy chơi và đám du hiệp uống rượu cà khịa nhau nữa, ai nấy đều mặc áo tang, mặt mày nghiêm nghị.
Thập xuống xe, được thái giám dẫn vào quán dịch. Quản sự quán dịch vừa nhác thấy họ đã vội vàng ra đón. Thái giám đi theo cô trao đổi với ông ta một hồi, ông ta liền khom người dẫn họ lên gác.
“Người đâu cả rồi? Không có rượu, cả thịt cũng không có à?” Giữa sảnh có một bàn khách khứa ăn mặc kỳ dị đang đập bàn quát tướng lên.
“Đó là người ở đâu vậy?” Thập hỏi.
“Mấy tên người Địch mọi rợ ấy mà, chẳng biết phép tắc gì cả, nói là tới phúng viếng tiên quân nhưng bữa nào cũng đòi rượu thịt.” Quản sự nhìn đám người giữa sảnh, tức tối đáp.
Thái giám thì thào bảo cô, “Chắc là người Tiên Ngu phía Bắc đấy. Quân chủ Tiên Ngu giành lại độc lập, lần này phái con út vào cung phúng viếng. Quý nhân nọ lúc gặp bệ hạ cũng lễ độ lắm, nói tiếng Tần cũng khá nữa.”
“Quý nhân lễ độ, nhưng có vẻ kiệm lời, chẳng cai quản người dưới gì cả. Ôi chao, ầm ĩ bấy nhiêu ngày, giờ họ cũng sắp đi rồi. Mời vu sĩ đi bên này, người ở trong phòng kia.” Vừa nói chuyện, quản sự vừa dẫn cô tới bên ngoài một gian phòng nhỏ.
Thái giám cúi đầu nói, “Nô tài đợi ở đây, bệ hạ có dặn rằng vu sĩ cứ hỏi han cho kỹ, về cung muộn cũng không sao.”
“Được.” Thập đương nôn nóng, chỉ gật đầu rồi đẩy cửa bước vào.
Năm xưa sau khi thoát vây ở Tấn Dương, Triệu Ưởng từng dốc toàn bộ binh lực tộc Triệu vây đánh Hàm Đan, nhưng đánh mãi không hạ được. Một là bởi Hàm Đan quân Triệu Tắc giỏi dùng binh, giỏi giữ thành; hai là vì dân Hàm Đan thực lòng ủng hộ cha con Triệu Tắc. Vệ hầu thất đức, tộc Triệu ba lần đánh thành Đế Khâu, mỗi lần chỉ mất chừng nửa tháng. Nhưng năm xưa thành Hàm Đan trước sự tấn công mãnh liệt của Triệu Ưởng lại trụ vững được tận năm năm, như một kỳ tích. Năm năm, hơn một ngàn tám trăm ngày đêm, Triệu Tắc cố thủ Hàm Đan, mãi tới khi hết tên hết lương, người chết đói đầy đường mới đành phải từ bỏ.
Năm mẹ mất, Thập lên bốn tuổi, cũng là năm thành Hàm Đan bị phá. Có phải lúc sinh thời ngày ngày mẹ cô đều đợi kỳ tích xảy ra, đợi Triệu Tắc chuyển bại thành thắng, đón mình về nhà. Cuối cùng bà ra đi trong giấc mộng, có phải vì hay tin thành Hàm Đan thất thủ nên tuyệt vọng từ bỏ không.
Ông lão dân Hàm Đan cũ đầu tóc bạc phơ, khóc lóc kể lại thảm cảnh thê lương phải đổi con cho nhau ăn trong thành năm ấy, linh hồn cô dường như cũng theo tiếng nấc nghẹn ngào của ông mà bay tới tòa thành bị tàn phá bởi ngọn lửa chiến tranh.
Ông lão kể xong, Thập không kìm được hỏi, “Lão trượng có biết năm xưa Hàm Đan quân cưới con gái nhà nào không?”
Ông lão là thợ gốm ở Hàm Đan từ hai mươi mấy năm trước, nhắc tới chuyện trong thành thì rành rẽ như lòng bàn tay, nhưng chẳng biết gì việc cô hỏi.
“Vậy trước khi thành Hàm Đan bị vây, thiếu chủ Triệu Tắc có con cái gì không?” Thập không nản lòng, lại hỏi tiếp.
“Hình như có một con trai.” ông lão lau dòng nước mắt đục ngầu.
“Con trai tên gì?”
“Hồi còn rất nhỏ, đứa bé ấy đã theo Triệu đại phu tới xưởng gốm, hình như tên là… tên là…”
“Có phải tên Lê chăng?”
“Lê ư?” Ông lão nhíu mày cố nhớ lại, lẩm nhẩm vài cái tên khác, nhưng sau cùng vẫn lắc đầu, “Kẻ hèn này già rồi, quả thực không nhớ được nữa.” Nói đoạn lẩy bẩy hành lễ tạ tội, cô phải vội vàng đỡ dậy, “Không sao, hôm nay lão trượng vất vả rồi, nếu sau này nhớ ra cứ sai người báo cho tôi nhé.”
Xong xuôi, ông lão được quản sự quán dịch đưa về. Bước ra khỏi quán dịch, trên phố ngựa xe qua lại như mắc cửi, song Thập chỉ thấy trước mắt tối sầm, hễ nhắm mắt là đất trời chao đảo, tưởng như vừa rồi người đau thấu tim gan trong quán dịch không phải ông lão nọ mà là cô; nhớ lại chuyện cũ ở Hàm Đan rồi khóc như mưa gió cũng không phải ông lão mà là cô.
“Vu sĩ, giờ chúng ta về cung à?” Thái giám ghé lại hỏi.
“Tới phủ tướng quân đi!” Nhìn bầu trời hoàng hôn đằng xa, Thập cảm khái đáp.
Mười mấy năm nay cô vẫn luôn khao khát có một người thân, một người thân máu mủ ruột rà, gắn bó nương tựa vào nhau.
Mười mấy năm sau, trời cao thực sự ban cho cô một người thân, một người thân năm lần bảy lượt muốn dồn cô vào chỗ chết, một người thân từ suối vàng bò lên, khắp người rừng rực lửa báo thù.
Nhưng cô căm ghét hận thù, sợ hãi hận thù, bởi hận thù chẳng đâu không len vào được, chỉ cần hơi lơi lỏng, nó sẽ bén rễ trong lòng, rồi kết thành quả độc. Trước khi đầu độc chết kẻ địch, thứ quả kịch độc ấy thường sẽ đầu độc chết chính bản thân kẻ trồng ra nó.
Trên đường từ quán dịch đến phủ tướng quân, đầu cô như có lửa đốt, trong đám lửa là thành Hàm Đan cô chưa thấy bao giờ, ngoài đám lửa là Triệu Ưởng mặt mày hung tợn cùng quân đội tộc Triệu đông nghịt. Ngọn lửa hận thù lấn át mọi suy nghĩ của cô, đến nỗi rõ ràng cô đã trông thấy cậu, nhưng lại để cậu biến mất trước mặt mình lần nữa.
“Bẩm vu sĩ, sứ thần Tiên Ngu đã rời thành Ung trước khi mặt trời lặn, quý nhân vu sĩ nhác thấy bên ngoài phủ tướng quân cũng đi rồi.” Thái giám khom lưng đứng trước cửa phòng cô ở cung Tần, dè dặt bẩm.
“Không đuổi kịp ư?”
“Thưa, đuổi kịp, nhưng mà…”
“Cậu ta không muốn quay lại gặp ta, đúng không?”
“Nô tài vô dụng.”
“Không liên quan đến ngươi, lui xuống đi!”
Thái giám nọ âm thầm lui ra. Trong gian nhà nhỏ ở cung Tần, trăng lạnh như sương, ánh trăng đầy đất.
Rốt cuộc sao cô lại để vuột mất cậu nhỉ? Vì xoay người hay vì thất thần? Hai canh giờ trước, cậu đã đứng ngay giữa con ngõ mà trước kia họ hay lui tới mỗi khi ra khỏi phủ. Dưới ánh chiều tà, bóng cậu trông rất thương tâm, rất cô quạnh. Cậu là Vô Tà của cô, dù cậu tóc dài xõa vai, mặc quần lông, dù cậu cách cô rất xa, xa đến mức không trông rõ mặt mũi, nhưng cô vẫn phải nhận ra cậu chứ. Vậy mà cô… cô lại cần người khác báo rằng, cậu từng tới.
Tư nói quá muộn, khi Thập chạy ra khỏi phủ tướng quân, đã chẳng thấy bóng dáng Vô Tà đâu nữa.
Cô không thể trách Tư nói quá muộn, bởi Tần Cổ đã mất, Tư đang để tang, còn phải đưa quan tài về Bình Dương, giữa lúc đau buồn như thế, Tư còn nhớ kể với cô chuyện Vô Tà tới tìm, cô nên cảm ơn bạn.
Là tự cô bỏ qua cậu, thù hận vừa nảy mầm trong lòng đã khiến cô để mất người mình nhung nhớ bao năm.
Tiên Ngu, hóa ra cậu là đứa con út bị lạc của quân chủ Tiên Ngu. Cô nên mừng cho cậu vì đã tìm thấy người thân, tìm thấy gia đình mình mới phải. Cậu đã không còn là của riêng cô, lời hứa sống chết có nhau cũng chẳng ai nhắc tới nữa. Cậu đã thực sự tự do, còn cô đành một mình đối mặt với cuộc sống như ác mộng, đối mặt với kết cục đáng sợ mà cô có thể tưởng tượng ra.
Những gì cô yêu quý đều đã rời xa, những gì cô trân trọng cũng không cách nào giữ nổi.
Thần linh ơi, lẽ nào đây là số mệnh của con?
Cô muốn bình yên thì trời cao lại ban cho chiến tranh; cô muốn có người thân thì trời cao lại ban kẻ thù; năm xưa cô muốn chết, nhưng sao trời cao vẫn buộc cô phải sống? Sao trời cao để cho cô gặp họ rồi lại lần lượt cướp đi từng người một, vì sao chứ?
Nhìn ngọn nến chập chờn lay động trên bàn, nước mắt Thập thánh thót rơi.
Thần linh vô tình, gió càng vô tình hơn. Một cơn gió lạnh thổi qua, đĩa nến duy nhất còn lại trên bàn cũng tắt ngấm.
Thập đờ đẫn nhìn cả căn phòng lạnh ngắt tối om, chợt thấy chua xót đến xé lòng. Tiếng khóc cố kìm nén bấy lâu bật ra khỏi cổ họng, nhớ lại mọi chuyện trải qua bao năm nay, nhớ lại mọi thứ mình đánh mất trong những ngày qua, những kẻ mình phải nhẫn nhịn suốt bấy lâu, cô ngồi trong bóng tối khóc ròng, như một đứa bé lạc đường, như một đứa bé đánh mất tất cả. Tiếng khóc không chút kìm nén giữa đêm vắng nghe như từng tràng gào thét.
“Thập à, cô không đành để tôi đi đến thế ư?” Một vòng tay ấm áp nhẹ nhàng ôm lấy cô giữa bóng đêm vô tận.
Thập sững sờ rồi quay phắt lại ôm cổ người nọ. Cô ôm rất chặt, như người chết đuối ôm lấy cọc, chỉ sợ cậu sẽ biến mất trước mặt mình lần nữa. Từ sau khi chia tay, cô vẫn luôn mong ngày gặp lại, cô ôm Vô Tà, chẳng nói được câu nào, chỉ vùi mặt vào mái tóc xoăn mềm mại của cậu, khóc đến đứt gan đứt ruột, nước mắt đầm đìa.
Vô Tà cũng ôm chặt lấy cô bất động, mặc cho cô gào khóc.
“Bất luận cô ở đâu tôi cũng tìm được, bất luận ở đâu…”
Đêm ấy Thập chẳng nhớ nổi mình đã thiếp đi ra sao nữa, chỉ nhớ mình đã ôm Vô Tà nức nở nói rất nhiều rất nhiều, đến trong mơ dường như cũng đang nói chuyện với cậu. Từ khi xa nhau ở vực Cam, cô chẳng ngờ mình lại có nhiều chuyện muốn nói với cậu như thế.
Sáng ra tỉnh dậy, trời đã sáng bảnh, nhưng cô cố mãi mới hé được mắt. Đêm qua khóc nhiều quá, mắt cô sưng húp như quả hạnh vỏ mỏng, lấy kim khêu có khi không ra máu mà ra nước mắt.
Thập lờ đờ ngồi dậy, khẽ gọi mấy tiếng Vô Tà mà chẳng thấy ai đáp, tim cô bỗng chìm hẳn xuống, vội tốc chăn nhảy xuống giường. Nhìn quanh phòng một lượt, lại xông ra vườn tìm lần nữa, vẫn chẳng thấy bóng dáng cậu đâu.
Cậu đi rồi, cậu lại đi rồi. Cô cứ ngỡ lần này họ sẽ có dịp nói lời từ biệt chứ.
Cô đứng giữa mảnh vườn ngập lá rụng, lòng đầy chua xót, vội hít sâu một hơi, quệt nước mắt. Thôi vậy, cậu có nước có nhà của mình, cậu chịu quay về gặp cô một lần, cô nên biết đủ mới đúng. Chẳng lẽ còn muốn cậu bỏ tất cả theo cô phiêu bạt góc bể chân trời hay sao?
Gió lạnh cuối thu lay rụng hai chiếc lá khô cuối cùng còn sót lại trên cây ngô đồng, lùa hai cánh cửa gỗ sau lưng kêu kẽo kẹt, cô im lặng xoay người bước vào phòng. Trên bàn có một cuộn thẻ tre đang đọc dở, nhưng cô chẳng bụng dạ nào đọc tiếp nữa, đẩy ngón trỏ toan cuộn nó lại thì thình lình trông thấy bốn chữ to cồ cộ nổi bật hẳn lên giữa những hàng chữ nhỏ lít nhít: Xin hẹn ba năm.
“Xin hẹn ba năm”, cậu còn tập viết chữ nữa à?
Nhìn bốn chữ to tướng xiêu vẹo trên thẻ tre, cô vừa khóc vừa cười.
Đêm qua cô đã hẹn với cậu những gì nhỉ? Cô nói muốn cùng cậu đi đến góc bể chân trời, tới một nơi xa xôi vắng bóng người ư? Cô nói muốn cùng cậu chữa bệnh săn bắn, không hỏi thế sự, sống nốt đời này ư? Ba năm, cậu thực sự sẽ bỏ nước bỏ nhà đi theo cô sao?