Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 19

SỢ NGƯỜI NGUY KHỐN

Qua khe rèm, Thập không thấy được những người ngồi trên tiệc, chỉ thấy bốn cây đèn đồng cao hơn trượng chính giữa chiếu rượu. Đế đèn không trang trí cầu kỳ, trên đĩa đèn đúc hình thợ săn bằng đồng tay cầm kiếm sắc, dường như đang đuổi giết con thú dữ cuống cuồng tháo chạy trong dầu đèn. Mãnh thú ngẩng đầu rên rỉ, lưỡi lửa phụt ra từ miệng.

Triệu Tắc sang Tấn, Trần Bàn cũng sang Tấn. Triệu Ưởng bệnh nặng, Tấn hầu sắp chết, thành Tân Giáng này đã thành chốn ai cũng tới được.

Triệu Tắc đến rất kín đáo, còn Trần Bàn chuyến này tới Tân Giáng để làm gì?

Thập còn đang ngẫm nghĩ về mục đích Trần Bàn tới Tân Giáng thì Trí Dao đã phái người đến mời cô dự tiệc, mà bữa tiệc ấy lại chiêu đãi chính Trần Bàn, thế tử tộc Trần nước Tề.

Mặt trời xuống núi, quạ chiều chao liệng, cỗ xe ngựa kẽo kẹt lắc lư dừng lại trong ánh mắt mong chờ của quản gia phủ Trí.

Thập bước xuống xe, ngẩng đầu nhìn lên cánh cổng cao ngất của phủ Trí dưới sương chiều bàng bạc đỏ, đối với cô hai cánh cổng này chẳng khác nào cổng dẫn tới suối vàng, hễ bước vào là nửa người lạnh ngắt. Nỗi sợ toát lên từ tận đáy lòng, muốn khắc phục nhưng không cách nào khắc phục được.

Từ sau khi đánh Vệ trở về, Triệu Ưởng dần mất quyền kiểm soát cục diện triều đình nước Tấn, đám người tộc Trí cứ nuốt dần từng chút một từ trên xuống dưới quyền lực vốn thuộc về tộc Triệu. Giờ đây Trí Dao chỉ còn cách đỉnh cao một bước, bị một kẻ như gã ngày đêm rình rập, tính kế hãm hại, tình cảnh cô còn nguy nan hơn đi trên băng mỏng nữa.

Quản gia vừa nói luôn miệng vừa dẫn cô đi qua cầu, qua sảnh đường, tới căn phòng sáng quái dị khảm đầy gương đồng năm xưa cô bái kiến Trí Dao lần đầu.

Quản gia vào trong bẩm báo, Thập thõng tay đứng ngoài hành lang.

Một bức rèm trúc xanh. Ngoài rèm là bóng đêm buông, tối om như mực; trong rèm lại sáng như ban ngày, tiếng nhạc vang trời.

Qua khe rèm, Thập không thấy được những người ngồi trên tiệc, chỉ thấy bốn cây đèn đồng cao hơn trượng chính giữa chiếu rượu. Đế đèn không trang trí cầu kỳ, trên đĩa đèn đúc hình thợ săn bằng đồng tay cầm kiếm sắc, dường như đang đuổi giết con thú dữ cuống cuồng tháo chạy trong dầu đèn. Mãnh thú ngẩng đầu rên rỉ, lưỡi lửa phụt ra từ miệng. Trên vách tường, trong gương đồng, cũng có mấy trăm lưỡi lửa không ngừng nuốt nhả. Bóng kiếm, bóng thú, bóng lửa không ngừng biến ảo trước mặt Thập, ánh lửa nhoáng lên, tựa như bất cứ lúc nào con thú lửa cũng có thể từ trong tường lao ra, lôi người trong phòng vào gương chén sạch.

“Vu sĩ, gia chủ mời người vào.” Quản gia vén rèm trúc, tươi cười nhìn cô.

Thập hít sâu một hơi, bước vào địa ngục đèn đuốc sáng choang nọ.

Băng qua ánh mắt bao người, băng qua những chiếc lông vũ đủ màu phất phơ trong tay đám vũ cơ, lúc này chủ tiệc đang ngồi trên đệm gấm nghiêng người nói nhỏ gì đó với con trai, thấy cô bước tới bèn giơ tay cho ngừng nhạc lại.

“Tôi đến muộn, mong á khanh thứ tội.” Thập bước lên hành lễ tạ tội.

Trí Dao ngồi trên đệm gấm đỏ thêu chim phượng, chẳng hề lên tiếng đáp, chỉ gõ ngón tay trắng đến xám xanh lên cần cổ chim phượng thêu trên đệm, mặc cho cô đứng khom lưng giơ tay giữa bao nhiêu ánh mắt. Hai năm nay cô vẫn luôn né tránh gã như tránh lửa, gã triệu kiến mười lần thì cô phải khước từ đến bảy. Hôm nay tới đây, e rằng ngay ải đầu tiên đã khó qua.

“Sao hôm nay vu sĩ lại chịu tới thế? Không nghĩ ra được lý do gì mới để từ chối khanh phụ ta à?” Trí Dao không cất lời, kẻ lên tiếng là Trí Nhan ngồi cạnh gã, giọng khàn khàn như vịt đực, nghe khá chối tai.

“Tôi thực không dám! Trước kia không tiện tới bái kiến quả thực là vì việc công bận bịu. Tôi phụng chỉ đi sứ sang Tần nửa năm, giờ lại phải lo chuẩn bị lễ đế ngoài ngoại ô phía Nam thành…”

“Được rồi! Vu sĩ đến muộn đã làm mất hứng, còn viện đủ thứ lý do đường hoàng thế làm gì? Muốn phá hỏng hết hứng thú của bọn ta sao?” Trí Dao lạnh lùng ngắt lời Thập.

“Quả là mất hứng.” Trí Nhan bưng chén rượu nhìn cô, vẻ như đang xem kịch hay.

“Ha ha ha, làm gì có chuyện mất hứng? Trí khanh không biết đấy thôi, lúc lửa lòng rực cháy lại gặp một kẻ tựa băng tuyết giống vu sĩ đây, nghe mấy câu nghiêm túc đường hoàng mà lạnh lùng như thế mới thực sự là tình thú, khoái lắm!” Thập đương bối rối thì một giọng rành rọt pha thêm mấy phần êm ái chợt vang lên. Cô hơi nghiêng đầu, thấy kẻ lên tiếng là Trần Bàn vận bộ áo lụa đỏ rực, tươi cười ngồi sau chiếc bàn dài bên phải phía dưới Trí Dao, tay ôm một nhạc kỹ tuyệt sắc, cả đám tùy tùng nước Tề ngồi sau nhất loạt gật gù hưởng ứng. Thấy Thập quay sang nhìn mình, y ranh mãnh nháy mắt trái, đá lông nheo với cô.

Ánh mắt Trí Dao đảo một vòng giữa Thập và Trần Bàn, đoạn gã cười nói, “Trần thế tử đúng là chưa uống đã say! Con thần nước Tấn ta đâu phải phường son phấn trên phố Ung Môn nước Tề các vị.”

“Ha ha ha, vu sĩ có vóc ngọc trời ban, dung mạo như thần tiên, Bàn đường đột quá, mong vu sĩ thứ tội!” Trần Bàn vờ vịt bước ra hành lễ với cô, cô cũng quay sang vái trả.

Trí Nhan thấy vậy định lên tiếng thì bị Trí Dao ngăn lại.

“Vu sĩ ngồi xuống đi!” Trí Dao nói.

“Tạ ơn á khanh.”

“Tấu nhạc!” Trí Nhan đanh mặt, vỗ tay một tiếng, đám nhạc công dưới chân tường Đông lại bắt đầu tấu lên khúc nhạc của người Di miền Đông xa xôi làm lòng người mê mẩn.

Giữa ánh đèn đuốc lóa mắt, người cô không muốn gặp nhất lúc này đang cúi đầu ngồi đó, bên cạnh hắn là chỗ trống cuối cùng trên chiếu tiệc đêm nay.

Thập đứng đờ ra, không cất bước nổi. Những ánh mắt chán ghét, săm soi, cười cợt trên tiệc lại đồng loạt đổ dồn vào cô. May thay, may mà hắn không nhìn cô.

“Vu sĩ, mời nhập tiệc.” Nữ tỳ bày bát đũa xong, khẽ giục Thập.

Cô miễn cưỡng vòng qua chiếc bàn dài đi đến cạnh hắn, không có thứ mùi quen thuộc khiến cô vừa nhớ nhung vừa sợ hãi, chỉ có mùi rượu nồng nặc theo hơi thở nặng nề của kẻ nọ phả vào mặt cô.

Hắn uống rượu, còn say nữa ư? Có cả Trí Dao lẫn Trần Bàn ở đây, sao hắn lại chuốc say mình?

Mặc kệ hắn đi, hắn có say khướt cũng chẳng liên quan gì tới cô.

Thập đau xót nghĩ, giơ tay bóp chặt chiếc chén có quai trên bàn, chỉ giận kẻ nào hầu rượu rót quá đầy, tay cô mới hơi nghiêng, rượu đã sánh ra quá nửa. Rượu chảy dọc theo hoa văn trên bàn về phía hắn. Cô hoảng hốt, vội đứng dậy lau, mu bàn tay lạnh buốt chạm phải ngón tay nóng rực, hắn vẫn ngồi im bất động, còn cô lại như chạm phải lửa. Tay đã rút về, nhưng mắt lại bất giác nhìn sang hắn, vừa nhìn đã sa vào đôi mắt đỏ ngầu vì rượu.

Chủ nhân đôi mắt ấy nhíu mày nhìn cô, cô thót cả tim, vội vàng quay đi.

Nhạc công ôm sênh lắc lư thân mình, vũ cơ xinh đẹp ôm chiếc trống nhỏ xanh biếc vừa gõ vừa múa trước mặt Thập, cô nhìn chằm chằm vào mấy ngón tay sơn đỏ của vũ cơ, song tai chỉ nghe thấy hơi thở nặng nhọc và tiếng ho cố nén. Trời ạ, rốt cuộc hắn đã uống bao nhiêu rượu mà cả mũi cũng đỏ lựng lên thế kia?

Ánh mắt người bên cạnh khiến cô như ngồi trên bàn chông, tay đặt trên bàn hay buông thõng cạnh người đều thấy ngượng nghịu cả. Lúc này, một ả hầu chừng hơn mười tuổi bưng một bàn cờ bằng ngọc máu gà óng như mỡ đông đi về phía cô. Mười hai con cờ ngọc đen trắng, sáu thẻ bài ngà voi, chính là bộ cờ lục bác đám quyền quý hay chơi mỗi lúc đấu rượu đọ tiền.

“Gia chủ mời vu sĩ chơi ván cờ.” Ả hầu bưng bàn cờ, cung kính nói.

“Cờ lục bác à?” Thập vừa nhón một tấm thẻ ngà khắc hoa giơ lên nhìn, kiếm sĩ Thủ sau lưng Triệu Vô Tuất đã nhào lên, “Vu sĩ!” Y giữ lấy tay cô, vẻ kinh hoảng.

“Thủ!” Triệu Vô Tuất xẵng giọng, kiếm sĩ Thủ đương mở miệng định nói lập tức nín khe.

Sao vậy? Thập đưa mắt hỏi Thủ.

Thủ nhăn mặt, có miệng mà khó mở lời.

Lúc này khúc nhạc đã dừng, các vũ cơ nối nhau đi ra. Trí Dao vận chiếc áo thụng màu tía dựa hờ vào bàn, nhất cử nhất động của những người bên dưới đều lọt vào cặp mắt đầy chế nhạo của gã. “Vu sĩ có biết đánh cờ lục bác chăng?” Gã xoay đôi đũa trong tay, cười hỏi Thập.

“Hồi ở phủ thái sử, tôi từng hầu sư phụ chơi mấy ván.” Thấy Triệu Vô Tuất dửng dưng, kiếm sĩ Thủ lo lắng, Thập biết ván cờ này còn có ẩn tình, nhưng đành thành thật trả lời.

“Thái sử là cao thủ lục bác nước Tấn ta đó!” Trí Dao vung đũa ra hiệu cho nữ tỳ bày bàn cờ ra giữa chiếu tiệc, “Thường nói cuộc cờ như cuộc chiến, hôm nay Trần thế tử đã thắng liền bốn người ở phủ Trí mỗ, chém giết đến mức bàn cờ này nhỏ máu ròng ròng. Thế nào, vu sĩ có bằng lòng ra đấu một trận vì Trí mỗ, gỡ lại chút thể diện cho người Tấn không?”

Thể diện của người Tấn là thể diện của nước Tấn, thua thắng trên bàn cờ là thua thắng giữa hai nước Tề và Tấn. Gã đã nói đến nước này nghĩa là không cho cô từ chối.

“Xin vâng lệnh!” Cô nhíu mày đáp.

“Ha ha ha, hay lắm. Mời Trần thế tử! Vật cược không đổi, để Trí mỗ xem thế tử có thắng thêm được ván nữa không.” Trí Dao vỗ tay cười bảo Trần Bàn.

Trần Bàn đẩy nhạc kỹ trong lòng ra, cũng cả cười đứng dậy, “Vậy Bàn xin vu sĩ chỉ giáo.”

Bàn cờ bằng ngọc loang lổ vết đỏ bày giữa bốn cây đèn đồng, những ngọn lửa rừng rực lay động vây lấy Thập và Trần Bàn. Trước bình phong, nhạc công mù khoanh chân lại, đặt cây ngũ huyền cầm lên đầu gối. Tiếng đàn cất lên, hai người hành lễ với nhau rồi ngồi xuống hai bên bàn cờ.

“Cô nương của ta ơi, nhớ giơ cao đánh khẽ nhé!” Trần Bàn bày xong sáu quân cờ rồi toe toét cười, nhả ra một câu hờn mát mà thái giám Bì hay nói.

Thập trừng mắt nhìn gã, tập trung bày cờ.

Cờ lục bác, hai bên đấu với nhau, mỗi bên sáu quân, năm quân tán, một quân kiêu, kiêu có thể ăn tán, tán có thể hóa kiêu. Trên bàn cờ còn có đường bác, trên đường bác có cửa sinh, cửa tử, theo phép tương sinh tương khắc.

Cuộc cờ như cuộc chiến, về điểm này Trí Dao nói chẳng sai. Nhưng cũng bởi điểm này nên cô không thích chơi cờ. Đời người đã có quá nhiều mưu toan sát phạt, cần chi chém giết nhau trên bàn cờ nữa? Nếu đã chém giết, sao có thể nói là chơi cho vui được?

Trần Bàn nhìn có vẻ lông bông, nhưng nắm rất rõ thuật bài binh bố trận. Y tính toán sáng suốt, quyết đoán sát phạt. Cô mệt mỏi chống đỡ, chưa đầy một khắc đã thua.

“Vu sĩ nhường nhịn rồi.” Trần Bàn thắng cờ, ngồi tại chỗ chắp tay hành lễ với cô.

“Trần thế tử quả là cao cờ.” Trí Dao ngồi trên thấy Thập thua bèn phất tay áo cao giọng gọi, “Người đâu, rót đầy rượu cho Triệu thế tử.”

“Dạ.” Thái giám đứng hầu bên cạnh tức khắc múc đầy hai đấu rượu tiêu trong vò đồng vuông đổ vào chén Triệu Vô Tuất.

“Tôi thua cờ, rượu này nên để tôi uống mới phải, khỏi phiền Triệu thế tử.”

“Dám chơi dám chịu.” Kẻ vừa rồi còn âm thầm đấu mắt với cô chẳng đợi Trí Dao đáp lời đã ngửa cổ dốc cả chén rượu tiêu cay sè vào bụng.

“Hay lắm, rót thêm cho Triệu thế tử nào!” Trí Dao giơ tay, thái giám lại bước lên rót rượu.

Chuyện này là sao? Nhìn Triệu Vô Tuất mặt đỏ đến tận cổ lại dốc thêm một chén rượu nữa vào miệng, lòng Thập dấy lên một cảm xúc lạ lùng khó tả.

“Chậc chậc, đây là chén thứ mười rồi đấy. Yến tiệc đêm nay một mình Triệu thế tử nếm hết rượu ngon trong thiên hạ, Bàn chơi cờ đến khát khô cả cổ, muốn uống một ngụm còn khó.” Trần Bàn vờ vịt buông một câu rồi ghé tai Thập, cắn vành tai cô nói nhỏ, “Bất luận cô nương thua thật hay giả, Bàn cũng phải thay Trịnh bá cảm tạ cô nương.”

Trịnh bá ư? Ván cờ này liên quan gì tới nước Trịnh?

Rượu tiêu dễ bốc, Triệu Vô Tuất uống liền ba chén đã gục mặt xuống, hai sợi gân xanh trên vầng trán đỏ nhừ giần giật vì hơi rượu. Dám chơi dám chịu… Hắn đã cược gì với Trí Dao mà phải liều mạng nốc rượu như vậy?

“Thua liền năm ván. Triệu Vô Tuất à, chi bằng ván cuối này ngươi tự đánh đi, nếu thua thì đừng chõ mũi vào việc nước Trịnh nữa.” Thấy Triệu Vô Tuất đã say mèm, đôi môi đỏ như thấm máu của Trí Dao không giấu được nụ cười.

Triệu Vô Tuất đỡ trán thở dốc, còn chưa kịp đáp, kiếm sĩ Thủ đã lê gối lên hai bước, dập đầu thưa, “Bẩm á khanh, gia chủ tôi đã say lắm rồi. Ván cuối cùng này, để ngày mai gia chủ tỉnh rượu lại chơi cờ với Trần thế tử được không?”

“Hừ! Tiệc rượu phủ Trí ta đâu có chỗ cho một hạ sĩ phủ Triệu nhà ngươi lên tiếng? Ngươi đã trung thành như thế thì chơi ván này thử xem. Triệu Vô Tuất hiền hậu hơn Trí Dao ta, ngày mai tỉnh rượu cũng sẽ không trách ngươi làm hỏng chuyện. Người đâu!” Trí Dao vừa dứt lời đã có người chạy đến kéo kiếm sĩ Thủ.

Kiếm sĩ Thủ luống cuống, vội dập đầu van xin, “Kẻ hèn này không biết chơi cờ… Kẻ hèn…”

“Á khanh!” Triệu Vô Tuất mặt đỏ gay và Thập không hẹn mà cùng thốt lên.

Cô ngoái lại nhìn hắn, hắn ngước lên nhìn cô, ánh mắt vừa chạm nhau, đã chẳng cần nói thêm gì nữa. Thập chắp tay bảo Trí Dao, “Á khanh, hay là ván cuối để tôi chơi đi, đừng để hạng thô lỗ hèn hạ này làm mất mặt người Tấn chúng ta.”

Trí Dao nhìn Trần Bàn rồi lại nhìn Triệu Vô Tuất, ưỡn thẳng người ra phía sau cười nói, “Được thôi, hè năm nay Trịnh bá khóc hay cười trông cả vào ván này của vu sĩ đấy.”

Gieo thẻ, đi cờ, lập kiêu, ăn tán, thuật chơi cờ lục bác chủ yếu nằm ở vận may và cách bày cuộc.

Ván vừa rồi lòng Thập thấp thỏm không yên, tới ván này thì không dám lơ là mảy may.

Thận trọng bày cuộc, đánh bước nào rào bước đó, lòng cô nôn nóng muốn thắng, nhưng vận may lại thua Trần Bàn.

Trần Bàn ăn liền hai quân tán của cô, cười tươi rói, “Người Tấn gọi vu sĩ là con thần, sao thần linh đêm nay lại quên phù hộ con mình thế? Lẽ nào… thần linh cũng biết việc vu sĩ làm hộ Triệu thế tử không phải việc nghĩa, cũng chẳng phải việc ‘hiếu’?” Nói tới chữ “hiếu”, Trần Bàn còn cố tình ngẩng lên nhìn cô.

Thập siết chặt thẻ ngà trong tay, cụp mắt đáp, “Nói nhiều mất hên, nếu Trần thế tử muốn thắng thì ngậm miệng lại đi!”

“Khỏi lo khỏi lo, Bàn xưa nay nói toàn lời tốt lành cả, cũng…” Trần Bàn chưa nói hết câu, cô đã ném thẻ ngà trong tay ra, thái giám đứng cách đó chừng ba bước cao giọng hô lên: “Ngũ bạch!”

Gieo được ngũ bạch, có thể ăn một quân bất kỳ của đối phương. Bị cô ăn mất một quân kiêu mới lập, miệng Trần Bàn há hốc, tưởng như nhét vừa cả quả trứng gà.

Đi quân, gieo thẻ, cô liên tục bày cuộc sát phạt, ăn liền ba quân của Trần Bàn. Lần gieo cuối cùng, nếu cô lại được ngũ bạch nữa, Trần Bàn sẽ thua.

“Gieo đi, ta không tin vu sĩ lại được ngũ bạch lần nữa.” Trần Bàn mân mê quân kiêu cuối cùng của mình, cười gượng gạo.

Thập tiện tay gieo thẻ, thái giám lại xướng lên: “Ngũ bạch!”

“Đừng đem thần linh ra đùa, lắm lời hỏng chuyện, mong Trần thế tử nhớ kỹ.” Thập nhoẻn cười, ăn tất cả quân còn lại của Trần Bàn.

Nhân lúc nhạc công chưa dứt tiếng nhạc, Trần Bàn ấn bàn tay cầm cờ của cô xuống, “Cô nương không nỡ để Triệu Vô Tuất uống rượu, mà đang tâm đẩy dân chúng nước Trịnh vào lửa chiến tranh ư?”

“Tấn hầu bệnh nặng, không đến lúc cực chẳng đã, Tấn sẽ không cất quân đánh Trịnh. Thế tử trở về bảo Trịnh bá nhường nhịn Tống công đôi chút là xong, làm gì có lửa chiến tranh tàn sát dân lành? Chuyện mình không lo được, chớ có đổ lên đầu tôi!”

“Ta đổ lên đầu cô ấy à? Được thôi, hôm nay cô thắng ta, nhưng lại hại chết Triệu Vô Tuất đấy.” Trần Bàn cười quái dị, quay sang nói với Trí Dao, “Bàn thua rồi, chừng nào về Tề nhất định sẽ chuyển lời Trí khanh cho cha và bệ hạ.”

“Tốt lắm.” Rõ ràng đã thắng cờ, vậy mà vẻ mặt Trí Dao chẳng có gì là vui vẻ, gã chòng chọc nhìn Triệu Vô Tuất đang cố ngồi thẳng, vẫy tay, “Người đâu, rót cho Triệu thế tử thêm ba chén thiêu trữu!”

Rượu tiêu đổi thành thiêu trữu! Chẳng phải cô đã thắng rồi ư, sao vẫn bắt hắn uống?

“Á khanh…”

“Ván vừa rồi vu sĩ chẳng phí một binh một tốt, một xe một ngựa đã giành được cho tộc Triệu ít nhất hai tòa thành. Việc đáng mừng như thế, lẽ nào Triệu thế tử không nên uống rượu ăn mừng? Múc đi, không, lấy chén lớn ra đây!”

“Ta đã nói rồi, cô nhường ta một ván có phải tốt không. Giờ hắn thảm rồi.” Trần Bàn nhún vai, quay về chỗ mình.

Chén đồng trên bàn Triệu Vô Tuất đã bị đổi thành chén pha lê to, thái giám múc rượu múc rất khéo, rượu sóng sánh chạm đúng miệng chén.

“Tạ… á khanh ban rượu.” Triệu Vô Tuất bưng chén lên uống ừng ực hết nửa, nhưng thiêu trữu cay xé họng, bụng hắn lại đang đầy rượu, không sao nuốt xuống được, cuối cùng gục xuống bàn nôn thốc tháo.

Quen nhau bao năm, trước mặt cô lúc nào hắn cũng điềm tĩnh thong dong, chẳng gì không làm được. Còn những lúc khốn đốn, khổ sở, nhục nhã, hắn không bao giờ muốn để cô chứng kiến, vậy mà giờ đây hắn lại nôn mửa thảm hại nhường này trước mặt cô.

Kiếm sĩ Thủ cuống quýt dọn bãi nôn trên bàn, nữ tỳ bưng nước tới để Triệu Vô Tuất súc miệng, thái giám múc rượu lại múc một muôi thiêu trữu khoan thai rót đầy chén.

“Tôi giúp thế tử thắng cờ, thế tử cũng thưởng cho tôi một chén rượu ngon nếm thử nhé!” Thập vươn tay bưng chén rượu trên bàn lên.

Nào ngờ Triệu Vô Tuất giữ tay cô lại, tay kia bưng lấy chén rượu đầy, “Ta không sao, ngồi xuống đi!” Hắn nhìn cô đăm đăm, ánh mắt ấy xoáy vào lồng ngực cô, khiến lòng cô đau nhói.

Cô giành phần thắng cho người Tấn, song lại khiến Trí Dao thua mất thành. Trí Dao bực bội ra mặt.

Trí Nhan không ngồi yên được nữa, bèn ghé tai người cha đang cau có nói mấy câu rồi đứng dậy hỏi Trần Bàn, “Trần thế tử, Nhan nghe nói dưới trướng thế tử có một gia thần được người ta gọi là Nghĩa quân tử, rất giỏi kiếm thuật. Vời gã ra biểu diễn cho các vị ngồi đây xem một màn, để uống rượu thêm vui được chăng?”

“Dĩ nhiên rồi.” Trần Bàn thua cờ nhưng cũng chẳng lấy thế làm buồn, vẫn tươi cười vui vẻ.

“Nhan cho rằng một người múa kiếm thì khó mà thấy được cái hay của kiếm thuật, Triệu thế tử nước Tấn ta cũng xuất thân thị vệ, chi bằng hai người đọ kiếm xem sao?”

“Gia chủ đang say, sao có thể đọ kiếm được?” Một gia thần khác của Triệu Vô Tuất kinh hãi thốt lên.

Trí Nhan cười cười bước xuống, đi tới trước bàn Triệu Vô Tuất, “Triệu huynh năm xưa chỉ một chiêu đã đánh bại Thái Nhân, giờ làm Triệu thế tử mấy năm mà không cầm nổi kiếm nữa à? Mới uống mấy chén rượu đã sợ kiếm sĩ thật rồi sao? Vu sĩ chơi cờ hộ ngươi, chẳng lẽ giờ cũng phải đọ kiếm thay ngươi nữa ư?”

“Thế tử!” Thập trừng mắt nhìn Trí Nhan, quát khẽ.

“Ồ? Vu sĩ định đọ kiếm với Trần Nghịch thật à?” Trí Nhan cười ha hả, đang định đối đáp với cô thì Triệu Vô Tuất đã loạng choạng cầm kiếm đứng dậy.

“Gia chủ!”

“Ha ha ha, hay lắm.” Trí Nhan cười phá lên, phấn khích quay sang bên trái sảnh tiệc gọi to, “Nghĩa quân tử đâu rồi? Bước ra so cao thấp một phen với Triệu thế tử đi chứ!”

Trần Nghịch đang ngồi phía sau Trần Bàn, suốt bữa tiệc Trần Bàn trái ôm phải ấp thả sức chơi bời, còn Trần Nghịch chỉ lẳng lặng ngồi dưới ánh đèn, tựa hồ hết thảy huyên náo chẳng liên quan gì tới gã. Nhưng lúc này mọi người trên tiệc đều đang đổ dồn mắt vào gã, Trần Bàn cũng nhìn gã như đang xem kịch hay.

Trần Nghịch đứng dậy quỳ xuống hành lễ rồi chắp tay cụp mắt thưa, “Ba hôm trước Nghịch bị thương, không cầm kiếm được. Mong Trí thế tử thứ tội!”

“Bị thương ư?”

Trần Nghịch không đáp, chỉ cụp mắt quỳ dưới đất.

Trần Bàn liếc xéo gã rồi quay sang vỗ đùi cười bảo Trí Nhan, “Ôi chao, sao ta lại quên mất nhỉ! Trí thế tử bỏ quá cho, ba hôm trước Bàn và Nghịch đến quán cá ở ngoại ô ăn, còn chưa đến cửa đã bị một kẻ láu táu va phải. Nghịch chắn cho Bàn nên bị thương ở cổ tay, không cầm kiếm được, không cách nào cầm kiếm được nữa.”

Trần Bàn nói rất khoa trương, nhưng chỉ mình Thập biết hôm ấy ở phường Gia Ngư Trần Nghịch không hề bị thương, gã từ chối Trí Nhan, bất chấp đắc tội tộc Trí chỉ bởi gã là bậc quân tử đường hoàng, gã kính trọng đối thủ, cũng kính trọng thanh kiếm trong tay mình.

Trần Nghịch sẽ không làm chuyện đục nước béo cò, nhưng trên cõi đời này, chung quy tiểu nhân vẫn nhiều hơn quân tử.

Trí Nhan bị Trần Bàn khước từ, quay lại thấy Triệu Vô Tuất gục đầu đứng đó, vẻ như đã say khướt thì nhếch môi cười, cúi đầu tháo thanh kiếm đeo trên mình ra, đi tới trước mặt hắn, “Nghĩa quân tử đã bị thương thì Nhan cả gan xin Triệu huynh chỉ giáo vậy!” Dứt lời, mặc cho Triệu Vô Tuất đang đờ ra vì say, Trí Nhan giơ tay hành lễ qua quýt rồi tuốt kiếm chém tới.

Thập và kiếm sĩ Thủ cùng hít vào một hơi khí lạnh. Đây đâu phải đọ kiếm, rõ ràng là muốn giết người! Triệu Vô Tuất có giỏi kiếm thuật tới đâu chăng nữa thì lúc này đến kiếm còn không rút ra nổi, sao đọ lại được Trí Nhan? Trí Nhan cố tình làm nhục Triệu Vô Tuất, đời nào chịu nương tay?

Triệu Vô Tuất bị Trí Nhan ép phải lùi liền mấy bước, tránh trái né phải, tay áo, vạt áo vẫn bị rạch mấy nhát.

Trên thềm cao, gương mặt Trí Dao cuối cùng cũng tươi lên.

Giữa phòng sáng, tiếng la kinh hoảng chốc chốc lại cất lên.

Kiếm sĩ Thủ xông ra giữa tiệc quỳ sụp xuống dập đầu lia lịa với Trí Dao, song gã chỉ cười nhìn cuộc so kiếm không chút công bằng bên dưới, vung tay ném một chiếc chén đồng nện vào lưng kiếm sĩ Thủ.

Lưng Triệu Vô Tuất đụng phải cột trụ trong sảnh, cả người ngã nhào vào giữa đám nhạc công, làm họ hoảng hốt ôm đàn bưng sênh chạy tan tác. Trí Nhan vạch đám đông xỉa kiếm đâm tới, bấy giờ Triệu Vô Tuất mới miễn cưỡng rút được kiếm ra đỡ. Trí Nhan đang dương dương tự đắc không ngờ Triệu Vô Tuất vẫn đón đỡ được, vô ý trượt chân, suýt thì ngã. Triệu Vô Tuất say rượu đỡ mạnh một chiêu, trường kiếm tuột tay bay ra. Thái giám hầu rượu bên cạnh Trí Dao thấy trường kiếm vút tới như rơi xuống đầu mình, vội vàng rụt cổ lại, đánh đổ cả muôi rượu nóng vào chân.

“Ngươi?” Trí Nhan thấy kiếm của Triệu Vô Tuất rơi xuống đúng dưới chân cha mình thì nổi giận vung kiếm nhằm vào ngực hắn.

Triệu Vô Tuất đánh rơi kiếm, đành vung tay áo lùi tránh. Nhưng chân hắn đã liêu xiêu không vững, đâu tránh nổi đòn tấn công dồn dập của Trí Nhan. Tay trái bị thương, tay phải cũng tứa máu, máu tươi ròng ròng nhỏ xuống chiếu cỏ bồ vàng úa.

“Tôi thua rồi.” Triệu Vô Tuất nắm tay phải bị thương, nhíu mày nhận thua.

Song Trí Nhan như không nghe thấy, vẫn chĩa kiếm đâm vào ngực trái hắn.

Thấy thế, Thập chẳng kịp nghĩ ngợi, nhào về phía Triệu Vô Tuất.

“Keng!” Hai kiếm giao nhau, Trần Nghịch lao ra chắn trước mặt cô, trường kiếm trong tay ép Trí Nhan phải lùi lại hai bước.

“Trí thế tử, đọ kiếm phải có chừng mực.” Trần Nghịch tra kiếm vào vỏ, trầm giọng nói.

“Nhan nhi, Triệu thế tử đã nhận thua, con đánh tiếp như thế còn ra thể thống gì nữa?” Trí Dao ngồi trên cầm chén khẽ quát.

“Triệu huynh nhận thua rồi ư? Vậy Nhan thất lễ rồi.”

Tiếng hò reo tán thưởng rộ lên khắp sảnh đường, Trí Nhan tra kiếm vào vỏ, không nén được nụ cười đắc ý.

“Mau đi đi, hắn đi rồi kìa.” Trần Nghịch cúi xuống nhìn Thập. Cô ngoảnh lại, người đằng sau đã biến mất phía cuối những đèn đuốc sáng trưng.

Đêm đã khuya, vầng trăng đỏ rực to tròn treo giữa bầu không, con phố dài vắng tanh vắng ngắt. Thập dáo dác nhìn quanh, bấy giờ mới hiểu hóa ra từ bỏ một người không phải buông tay hắn, tránh ánh mắt hắn là được, lòng đã gắn liền với hắn, làm sao trốn thoát nổi.

Xa xa, dưới ánh trăng đơn độc, kẻ nắm giữ trái tim cô đang vịn vào tường nôn thốc tháo.

Tiếng rên đau đớn của hắn bị nén lại rất khẽ, nhưng bóng đêm tĩnh lặng lại khuếch đại nó lên, cô chỉ dám đứng từ xa nhìn hắn, nhìn hắn nôn hết ra rồi đứng dậy đi tiếp.

Hắn lúc đi lúc nghỉ, lang thang trên con phố dài im lìm giữa đêm hôm khuya khoắt. Cô lặng lẽ theo sau hắn, không dám lại gần, cũng không dám bỏ đi.

Máu nóng của Triệu Vô Tuất nhỏ dưới chân cô, chiếc bóng đổ dài của hắn dưới ánh trăng lay động cạnh cô, nhưng ngoại trừ lẽo đẽo theo sau ra, cô hoàn toàn không biết lúc này mình nên làm gì. Cội nguồn đau khổ của hắn, cội nguồn đau khổ của cô cũng như màn đêm đen xé chẳng rách, hét không toạc này, chẳng thể làm gì được.

Hai chiếc bóng, một vành trăng, họ cứ thế lầm lũi đi giữa đêm đen. Không có người khác, không có cãi vã, không có nợ máu thù sâu giữa hai gia tộc, chia xa hơn nửa năm, đây là lần họ ở bên nhau lâu nhất.

Một trước một sau, giẫm bóng đi theo, qua không biết bao nhiêu lối rẽ, không biết bao nhiêu khúc quanh, cuối cùng hắn vẫn về tới nơi thuộc về mình.

Ngoài cổng phủ Triệu, Thập nhìn hắn bước từng bước lên thềm, cô biết đằng sau cánh cổng ấy có người xót xa cho vết thương của hắn, vỗ về nỗi đau khổ của hắn. Còn cô, một đứa con gái kẻ thù, một vu sĩ thờ phụng thần linh, ngoài âm thầm bỏ đi ra, chẳng thể làm gì nữa cả. Nhưng cô có thể đi đâu đây? Cô không có hắn, cũng không có nhà, đâu mới là bến đỗ của cô?

Sương đêm dày đặc, Thập đứng dưới vầng trăng cô quạnh, chợt thấy mình chẳng biết đi đâu về đâu nữa.

Lộp cộp, lộp cộp… Tiếng vó ngựa giòn giã phá tan màn đêm yên tĩnh.

Cô sửng sốt ngoái lại, thấy Triệu Vô Tuất phóng ngựa từ cổng phủ lao ra.

Thập đứng đờ người, hắn cúi xuống giơ tay kéo cô lên ngựa.

“Đi!” Con tuấn mã nghe giọng chủ liền tung vó lao vào màn sương đêm mênh mông, chạy về phía vầng trăng đang từ từ xuống núi.

Triệu Vô Tuất đã say mèm, say đến điên cuồng, đến phóng túng.

Hắn dùng thân thể nóng hổi của mình chà lên từng tấc da thịt cô hầm hập. Lấy cái điên cuồng của mình, ép cô điên theo hắn.

Trăng lặn lúc nào, cô cũng không biết nữa, chỉ nhớ trước khi thiếp đi, qua mái tóc rối tung của hắn, cô đã thấy sao mai mọc lên trên bầu trời xanh tím than đằng Đông.

Hơn nửa năm nay cô chưa được ngủ say thế này. Trong bóng tối, có tấm thân ấm áp bao bọc lấy cô, tiếng thở đều đều bên tai như thủy triều dưới ánh trăng, từng đợt từng đợt đưa cô về bến mộng.

Lúc nhắm mắt, rõ ràng cô đã thiếp đi trên bãi cỏ ven bờ hồ nhạn, vậy mà khi mở mắt ra lại thấy mình nằm trên giường trong căn nhà tranh. Kẻ say rượu đã tỉnh, nhưng chưa hoàn toàn tỉnh rượu, thấy cô mở mắt, hắn trở mình nằm đè lên cô. Cô giơ tay đẩy vào ngực hắn, hắn chống hai tay lên, nhìn cô chăm chú, ánh mắt như chất vấn.

Thập muốn trốn chạy, nhưng lúc này trên mình cô không một mảnh vải, quần áo cũng chẳng biết đã cởi ở đâu nữa.

“Để ta đi đi.” Cô cố kéo tấm chăn mỏng trên giường lên che ngực.

“Vĩnh viễn đừng bao giờ chắn kiếm cho ta, vĩnh viễn.” Hắn nhìn sâu vào mắt cô, nói rành rọt từng chữ rồi cả người rùn xuống, rúc vào dưới tấm chăn cô đang đắp.

Muốn trốn ư? Không sao trốn nổi. Hắn biết rõ từng chỗ bí mật trên thân thể cô, dưới thế tấn công không chút khoan nhượng của hắn, chút lý trí cô cố gom góp được lại tản ra, tan tác.

Mệt quá, cô lại thiếp đi. Tới khi tỉnh giấc, cô ôm chăn ngồi dậy, nhìn ra vầng dương đỏ ối ngoài cửa sổ, bần thần hồi lâu mới nhận ra đó không phải mặt trời mới mọc mà là bóng chiều tà ngày hôm sau.

Người bên cạnh đã đi đâu mất, bên gối đặt một bộ đồ sạch sẽ. Cô cố nén cơn đau ê ẩm khắp người, mặc áo vào, lại phát hiện trên chiếc váy đỏ thắm có một xâu bạch ngọc. Năm con nhạn ngọc được ngăn ra bởi các nút kết tương tư, con nào con nấy sống động như thật, mỗi con một vẻ.

Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghênh, sáu lễ trong nghi thức cưới xin, có đến năm lễ tặng nhạn.

Năm xưa ở Tề, hắn nói sang năm khi chim nhạn bay về sẽ tặng nhạn cho cô. Nào ngờ từ khi từ biệt bên bờ hồ Lạc Tinh tới giờ đã tròn năm năm. Cứ ngỡ đôi lòng quấn quýt là có thể bên nhau suốt đời, cùng tới tận chân trời góc bể. Thu đi xuân đến, nhạn còn có lúc bay về, vậy mà họ đã đánh mất lời thề thuở trước.

Thập mở cửa bước ra ngoài, căn nhà tranh này là nơi hắn tránh gió trú mưa, liếm láp vết thương. Năm xưa cô ở phủ Trí giả thần giả quỷ dọa nạt Trí Nhan xong, Triệu Vô Tuất đã đợi cô trước cổng phủ Trí rồi đưa cô tới đây. Cũng dưới gốc mộc lan này, hắn bế cô xuống ngựa, cô tưởng hắn định hôn mình thì hắn lại giận dữ ném cô xuống hồ nước lạnh ngắt giữa mùa đông.

Băng lửa giao thoa…

“Nàng đang nghĩ gì thế?” Cô bị ôm chặt từ phía sau. Hoa mộc lan trắng muốt như ngọc nhuốm đẫm ráng chiều, rực lên một vầng hào quang đỏ cam nhàn nhạt. Thập bóp nhẹ bàn tay to quàng quanh eo mình, hắn cúi đầu hôn lên mái tóc xõa dài của cô.

“Đau không?” Cô hỏi.

“Không đau.” Hắn vén tóc Thập, gục đầu vào hõm cổ cô, “Nếu biết chảy mấy giọt máu mà có thể khiến nàng mềm lòng thì ta đã tự ra tay từ lâu, khỏi cần thằng ranh Trí Nhan kia.”

“Hôm qua chàng say quá, nếu không có người ngăn lại, Trí Nhan có thể làm chàng bị thương nặng hơn đấy.”

“Nàng giúp ta thắng cờ, ta không đổ mấy giọt máu thì Trí Dao không cam lòng, e rằng sẽ hủy giao ước, thế chẳng phải nàng uổng công vô ích ư?”

“Nhưng chúng sỉ nhục chàng…”

“Ta ghi sổ cả rồi.” Triệu Vô Tuất xoay người Thập lại, ôm lấy cô, “Đêm qua, điều làm ta đau đớn nhất là nàng lao ra chắn kiếm. Dù ta có say cũng không tới nỗi chết trong tay Trí Nhan đâu, lỡ hắn làm tổn thương nàng, ta mới thực sự thua.”

“Trần Bàn và Trí Dao cược gì, còn chàng và Trí Dao cược gì mà chàng phải liều mạng như vậy?”

“Nàng đoán xem chuyến này Trần Bàn sang Tấn vì chuyện gì?”

“Từ năm ngoái, Trịnh đã nhiều lần quấy nhiễu biên giới Tống, Tống không chịu nổi, nhất định đã xin Tấn giúp đỡ. Để lôi kéo Tống, Tấn định cất quân đánh Trịnh, nhưng Tề chắc chắn không muốn Tấn đánh Trịnh nên đã cử Trần Bàn sang làm thuyết khách.”

“Nàng ở Tần nửa năm mà vẫn nắm rõ chuyện Trung Nguyên nhỉ.” Triệu Vô Tuất tủm tỉm cười, xem như ngầm thừa nhận.

“Tấn hầu bệnh nặng, khanh tướng cũng ốm yếu suốt mấy năm nay, có đánh Trịnh hay không phải xem ý Trí Dao. Nhưng đêm qua ta không cảm thấy Trí Dao muốn đánh Trịnh.”

“Trí Dao không định đánh Trịnh. Gã và Trần Bàn cược xem kẻ nào phải đi điều đình tranh chấp giữa hai nước Tống và Trịnh. Nàng thắng Trần Bàn một ván thì Tề ắt phải ra mặt ngăn Trịnh quấy nhiễu Tống, Trịnh bá còn phải chuẩn bị lễ vật tạ lỗi với Tống công.” Triệu Vô Tuất kéo cô băng qua dải đất đầy hoa dại, trỏ cây bách đằng xa nói, “Đói rồi hả, ta nấu canh cá rau hạnh cho nàng ở đằng kia kìa.”

“Còn chàng, chàng cược gì với Trí Dao thế? Sao Trí Dao lại bảo ta đã giành cho chàng hai tòa thành?”

“Nàng cứ thong thả, đi đâu mà vội. Không mệt không đói à? Xem ra một ngày một đêm vừa rồi ta vẫn còn nương tay với nàng lắm.” Thấy cô lẵng nhẵng hỏi mãi, Triệu Vô Tuất quàng tay ôm cô vào lòng.

Thập đỏ bừng mặt, giơ cả hai tay ra bưng mặt hắn.

Triệu Vô Tuất cười khanh khách dưới tay cô rồi nắm cổ tay cô hỏi, “Nàng ngượng thì bưng mặt ta làm gì? Ta đâu có ngượng.”

“Đói rồi, ta đi ăn đây.” Cô rút phắt tay lại, chạy vụt ra bờ hồ.

Hồ nhạn ngày xuân đã trút bỏ vẻ tiêu điều trước kia, mặt hồ như gương in bóng ráng chiều đỏ ối, chim nhạn kết bầy rúc trong bụi cỏ bên hồ nghỉ chân, thỉnh thoảng lại có vài con đập cánh bay lên, tiếng kêu xao xác vang xa. Dưới gốc bách cách bầy nhạn không xa, Triệu Vô Tuất bắc một giá gỗ, trên giá lủng lẳng một chiếc nồi đồng nghi ngút khói. Thập tự tìm bát, lấy muôi gỗ múc đầy một bát canh cá.

Triệu Vô Tuất vui vẻ đi đến bên cạnh cô nói, “Ta và Trí Dao cược cơ hội để tộc Triệu đánh Trịnh. Trí Dao vin cớ khanh phụ bệnh nặng lâu ngày, muốn huy động một mình tộc Trí đánh Trịnh. Như vậy gã vừa lập được uy trong quân, lại có thể độc chiếm phong thưởng. Đất phong nằm ở phía Bắc, ta không thể không tranh.”

“Nhưng chẳng phải chàng nói Trí Dao không định đánh Trịnh ư? Hai nước Tống Trịnh hục hặc nhau, chỉ cần hòa giải là được mà.”

“Ngốc ạ, ấy là nói để gạt người Tề thôi, nàng cũng tin à? Trí Dao không phải không muốn đánh Trịnh, chẳng qua ngại bệnh của Tấn hầu nên không thể đánh Trịnh thôi. Nhưng hai nước Tống Trịnh đã giao tranh hơn trăm năm nay, Trí Dao thể nào cũng sẽ tìm được cớ xuất binh. Nếu ta không phòng trước, chẳng lẽ lại để gã độc chiếm cả bốn thành phía Bắc, cắt đứt đường lên Bắc của tộc Triệu ta ư?”

Nước Tấn phía Tây giáp Tần, Nam cạnh Sở, Đông có Trịnh, Vệ, Tề, Lỗ. Tộc Triệu muốn mở đất, chỉ có thể mở mang về phía Bắc. Năm xưa để giúp Triệu Ưởng tiến lên phía Bắc, Đổng An Vu xây dựng cả thành trì lớn giữa vùng hoang vu, để tòa thành ấy có dân chúng, Triệu Ưởng mới đòi ông nội cô là Triệu Ngọ giao ra năm trăm hộ tù binh người Vệ, hủy Hàm Đan để lấp đầy Tấn Dương. Nhà của cô, những người thân của cô đã thành vật hy sinh trên con đường tiến lên phía Bắc của tộc Triệu như thế.

“Giờ chàng vẫn muốn mở mang về phía Bắc à?’ Thập bưng bát canh cá, nhưng mồm miệng đã nhạt thếch.

“Phía Bắc là đường sống của tộc Triệu, ta buộc phải tranh giành.”

“Nếu đêm qua ta thua thì sao?”

“Thua trắng sáu ván thì quả là trời giúp Trí Dao rồi Tiếc rằng thần linh thương xót ta nên đã ban nàng cho ta.” Đoạn Triệu Vô Tuất giơ tay lau canh cá vương bên khóe môi cô, cô mím môi, đặt bát canh xuống đứng dậy, “Tối qua là lòng kiêu mạn của Trần Bàn đã giúp chàng, chẳng liên quan gì tới ta. Ta no rồi, phải về đây.”

“Nàng vẫn trách ta ư?” Triệu Vô Tuất giữ tay cô lại.

“Ta không trách chàng. Nhưng chàng sắp làm cha rồi, qua hôm nay, chúng ta có thể không gặp thì đừng gặp nhau nữa!” Thập cố sức gỡ tay hắn ra, nhưng lần này gỡ thế nào cũng không được.

“Ta phải đi đây.”

“Không cho nàng đi.” Triệu Vô Tuất dang hai tay ôm ghì cô vào lòng, “Lòng nàng có ta, lòng ta cũng chỉ có nàng. Sau này giữa đôi ta sẽ không có bất cứ kẻ không liên quan nào nữa. Lời thề lúc thành hôn, Triệu Vô Tuất ta cả đời chỉ nói một lần. Sống chết hẹn thề, bên nhau đến già. Giờ nàng chưa già, ta cũng chưa già, sao đã vội đuổi ta đi?”

“Chuyện đêm qua chỉ là ngoài ý muốn thôi. Những lời ta nói hôm trú mưa ở lán cỏ mới là thật lòng. Chàng không thay đổi, là ta đã thay đổi. Sau này ta đi đâu, đi với ai, có về hay không, chẳng liên quan gì tới chàng hết.” Chưa nói hết câu, giọng cô đã nghẹn lại.

“Một lần là đủ rồi, nàng không được vứt bỏ ta lần nữa! Bất luận nàng tin hay không, Triệu Vô Tuất ta từ trước tới giờ chưa từng phụ nàng mảy may. Chỉ cần ta hạ được nước Đại phương Bắc, ta sẽ không cần ngựa của nhà mẹ Hằng Nhã, sau này nàng cũng sẽ không phải nhìn thấy mẹ con cô ả nữa.”

“Nước Đại là nước Đại của Bá Doanh, con… cũng là con chàng mà.”

“Đó không phải con ta! Ta chỉ cần con của nàng với ta thôi. Nàng đợi ta đi, chỉ hai năm, không, chỉ một năm thôi.” Triệu Vô Tuất nâng mặt cô lên, thiết tha nài nỉ.

Thập nhìn hắn, mắt đã ầng ậng nước, “Hồng Vân nhi, đôi ta không thể có con được… ta không thể đợi chàng, cũng không thể yêu chàng được nữa.”

“Tại sao?”

“Bởi vì…” Vì ta là con gái Hàm Đan quân Triệu Tắc, vì cha chàng đã hủy hoại gia đình ta, nếu ta ở bên chàng, sinh con đẻ cái thì biết ăn nói sao với người mẹ đã mất đây…

“Kìa Thập?”

“Đừng hỏi ta tại sao.”

“Được rồi, nàng không muốn nói thì ta không hỏi nữa.”

Thấy hắn ôn tồn như thế, nước mắt cô thoắt chốc lăn dài, “Ta không muốn khóc, ta không được khóc.”

“Nàng đâu có khóc.” Hắn thở dài, áp đầu cô vào ngực mình.

Khi họ trở về thành, mặt trời đã lặn, vầng trăng nhạt treo trên đỉnh núi, mây màu mỏng như sa lững lờ trôi theo gió trên bầu trời lam thẫm. Triệu Vô Tuất cưỡi ngựa, đặt cô ngồi phía trước, tiếng vó ngựa dập dìu đưa cô về căn nhà bên bờ sông Quái.

Không muốn buông người phía sau ra nhưng lại buộc phải buông ra. Tiếng vó ngựa vừa dừng, cô đã nhảy từ trên ngựa xuống, chạy thẳng vào nhà.

Ngoài cổng lặng như tờ, chỉ có mấy con sẻ núi liếp chiếp kêu trên cành dâm bụt.

Cô biết hắn đang đứng trước cổng, hắn cũng biết cô đang đứng bên trong.

Một cánh cổng ngăn cách hai con người, hai trái tim.

“Chàng đi đi!” Cô nhắm nghiền mắt lại.

Một ngọn gió thốc qua thổi tung ngọn tóc, mở mắt ra, cô đã bị hắn bế bổng lên.

“Thập à, chẳng có gì là không thể, đối với ta chẳng có gì là không thể hết!” Triệu Vô Tuất bế cô, đá tung cánh cửa phòng ọp ẹp.

Báo cáo nội dung xấu