Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 22

ÁO SÔ KHĂN TRẮNG

Lúc này tuy mặt trời đã lên, nhưng cả dãy cửa sổ trên tường Đông nhà trước vẫn đóng chặt. Bặt tiếng người, lặng tiếng gió, buổi mai bị chết chóc nhuộm trắng này quá yên tĩnh, yên tĩnh đến mức khiến người ta có cảm giác hết thảy đều không thực.

Triệu Vô Tuất âm thầm lên kế hoạch để Thập rời Tấn sang Sở, cô thận trọng giấu kín bí mật nhỏ của mình, ngày ngày vẫn làm những việc cần làm. Chiều hôm ấy, Thập và Tư hầu hạ Triệu Ưởng xong, cuối cùng cũng được ngồi xuống ăn “bữa sáng”.

“Thập à, mình biết cậu buồn, nhưng không thể hành hạ bản thân qua ngày như thế được, ít ra cũng phải ăn thêm chút chứ!” Tư nhíu mày múc một muôi thịt băm thật to rưới lên bát cháo kê của Thập.

Nhìn chỗ kê bóng nhẫy mỡ, Thập lợm cả giọng, vội đẩy bát về phía bạn, “Mình no rồi, cậu ăn đi.” Từ khi có mang, Thập ăn rất ít, càng không đụng đến những thứ tanh và ngấy. Triệu Vô Tuất lo thắt ruột, vắt óc nghĩ đủ cách ép cô ăn thêm. Nhưng hơn một tháng trôi qua, cô không béo lên mà còn xanh xao nhợt nhạt đi. Tư ngỡ Thập chán ăn bỏ uống bởi đau khổ vì tình nên cả ngày lo lắng. Nhưng tai mắt Trí Dao có ở khắp nơi, dù biết bạn lo lắng, Thập cũng buộc phải giữ kín miệng.

“Một bát cháo kê, nửa đĩa rau thái nhỏ, Đổng Thạch ăn còn chẳng đủ, cậu ăn thế sao no được? Ăn thêm nữa đi, đây là thịt bụng nai, hơi béo nhưng bỏ thêm gừng thơm lắm.” Mặc cho Thập đùn đẩy, Tư vẫn xăng xái lấy thìa gỗ múc một thìa cháo kê thật đầy đút tận miệng.

Ngửi thấy mùi tanh của thịt nai, Thập xây xẩm mặt mày, nhưng không muốn bạn lo, đành cố nuốt thìa cháo xuống bụng. Thấy cô chịu ăn, Tư vội trộn thịt băm trong bát với cháo kê rồi múc thêm cho cô thìa nữa. Nhìn thìa cháo chỗ trắng chỗ vàng, Thập sởn cả gai ốc, vội đẩy tay Tư ra, “Hôm nay mình no thật rồi mà, cậu ăn thêm đi.”

“Thập!”

“No thật rồi mà!” Thập cầm lấy bát sành trong tay Tư, nắm tay bạn hỏi, “Mấy hôm nay cứ quên không hỏi cậu, có phải dạo này Vu An lại vào ở phủ thái tử rồi không?”

“Cậu cũng biết à?” Nhắc tới Vu An, Tư cuối cùng cũng chịu bỏ thìa xuống, “Hơn nửa tháng trước thái tử phái người đến triệu chàng vào phủ, nói là có chuyện cần bàn bạc với chàng. Lúc đi chẳng mang gì cả, về sau đằng đó lại sai người tới lấy một hòm quần áo đồ đạc của chàng, từ ấy chàng ở luôn trong phủ thái tử chưa về.”

“Giờ bệ hạ bệnh nặng, thái tử lại khá xem trọng Vu An, Vu An có chí, bận rộn cũng chẳng đáng ngại, cậu đừng lo quá. Hay tối nay cậu đừng về nữa, để mình sai người đón luôn Tiểu Thạch tới đây, lâu lắm mình chưa gặp nó rồi.”

“Thôi đừng!” Tư xua tay lia lịa, “Con trai nghịch ngợm lắm, giờ Triệu Chu không có ở đây, Đổng Thạch đến cũng chẳng có bạn chơi, làm ồn quấy rầy khanh tướng là tội lớn đấy.”

“Cậu không có nhà, Vu An cũng đi vắng, để nó ở đó một mình không ổn. Hay là mấy hôm tới cậu về với nó đi, một mình mình ở đây được rồi.” Nghĩ tới cảnh Đổng Thạch mếu máo tủi thân, lòng Thập càng thêm áy náy, suy cho cùng cũng là cô làm phiền nhà họ.

“Nói vớ vẩn! Nếu mình về, khoan nói ngày lo sắc ba bữa thuốc cho khanh tướng, chỉ riêng mỗi tối trước khi đi ngủ phải nấu cả thùng nước lá để khanh tướng tắm, cậu đã mệt chết rồi. Nhìn gương mặt vàng như sáp của cậu xem, cậu còn sợ mình chưa đủ lo à?” Tư giận dỗi.

“Còn có Bá Lỗ đỡ đần mình mà.”

“Anh ta cũng gầy như que củi đấy thôi…” Tư buồn rầu bóp tay Thập, “Mình thực sự không hiểu bọn mình ở lại đây làm gì nữa? Triệu Vô Tuất đối xử với cậu như vậy, sao cậu còn giúp tộc Triệu nhiều thế? Khanh tướng sống hay chết có liên quan gì đến bọn mình đâu, ông ấy chết thì thôi, mình cùng cậu về Tần là xong. Bất luận xảy ra chuyện gì, dẫu trời có sập xuống chăng nữa, trên đời vẫn còn một nơi để bọn mình nương náu mà…”

Tư càng nói càng lớn tiếng khiến Thập phát hoảng, vội nhỏm dậy bịt miệng bạn lại, “Cậu be bé cái mồm thôi.” Cửa sổ căn phòng xép này nhìn thẳng ra phòng ngủ của Triệu Ưởng.

Tư siết chặt tay Thập, mồ hôi lạnh từ lòng bàn tay Tư như thấm vào mu bàn tay cô. Tư vẫn cho rằng Triệu Vô Tuất đã phụ Thập. Bên này Thập ngày một gầy mòn, còn đằng kia Hằng Nhã vì sinh được con trai nên cả ngày nói cười rôm rả. Tư ở phủ Triệu ngày ngày chứng kiến cảnh ấy, uất ức quá độ mới buột miệng thốt ra những lời này. Thập đang muốn lựa lời an ủi bạn thì Tư chợt giãy ra khỏi bàn tay cô bịt miệng, nhìn ra cửa sổ phòng Triệu Ưởng cách đó chừng hai trượng hỏi, “Cậu bảo khanh tướng rốt cuộc là người tốt hay người xấu?”

Triệu Ưởng là người tốt hay xấu ư? Câu hỏi này Thập có nghĩ cả ngày cũng không trả lời được, bởi nó quá phức tạp, phức tạp tới mức cô thà bỏ qua không nghĩ còn hơn.

“Mình không biết.”

“Ôi, hồi nhỏ cậu phân biệt tốt xấu rất rõ, giờ lại bảo là không biết.” Tư quay sang nhìn Thập.

Thập cười ảo não, “Đúng thế, đủ thấy bọn mình càng sống càng hồ đồ.”

“Đã hồ đồ rồi thì cứ tiếp tục hồ đồ mà sống thôi!” Tư nhoẻn miệng cười, ưỡn ngực giục, “Đi nào, cậu đi bốc thuốc, mình đi sắc thuốc. Hôm nay cố làm xong sớm rồi cậu về nhà với mình nhé, Đổng Thạch nhớ cậu đấy.”

“Được.”

Đêm ấy cô ngủ lại nhà Tư. Đổng Thạch vốn đòi cô ngủ cùng, nhưng Thập sợ nó ngủ rồi vẫn đạp chân liên hồi nên lấy cớ khó ngủ, ăn xong bát chè Tư nấu thì về phòng mình nghỉ. Mới vào thu, đêm lạnh như nước, tàn cây ngô đồng đã úa một nửa ngoài sân xào xạc trong gió, mấy con côn trùng mùa thu mượn bóng đêm tuôn ra từ khe đá để tụ lại trên thềm ngoài cửa, rả rích nỉ non. Nếu là trước kia, hẳn cô đã trằn trọc mãi không ngủ được, nhưng giờ trong bụng cô đang có sâu ngủ, vừa đặt mình xuống giường đã thiếp đi.

Nửa đêm, thấy thắt lưng ê ẩm, Thập ôm tấm chăn mỏng trở mình, lại thấy cổ họng khô rang, đành ngồi dậy mở mắt định tìm ít nước uống, nhưng sửng sốt nhận ra một người đang đứng lù lù giữa phòng.

“Ai vậy?” Cô quát lên.

“Ta đây.” Giọng Vu An vang lên trong bóng tối.

“Sao anh lại tới đây? Giờ nào rồi?” Cô thở phào, nhét Phục Linh Sách vào chăn.

“Chưa đến gà gáy. Tư bảo tối qua em ngủ lại nên ta tới xem em thế nào.” Vu An bước ra từ trong bóng tối, ánh trăng nhạt nhòa bên ngoài rọi qua song cửa chiếu lên mình, hắn mặc cả bộ đồ trắng toát, mũ mấn, áo sô.

“Tấn hầu hoăng rồi ư?” Thập bàng hoàng hỏi.

“Ừm, nhắm mắt trước giờ Hợi.”

“Mất thế nào?” Tuy Tấn hầu mãi không đỡ, nhưng gần đây cũng không nghe nói bệnh tình chuyển biến xấu, sao lại đột ngột lìa trần được?

“Nghe người hầu kể, buổi chiều bệ hạ ăn mấy cái bánh ngọt, đến đêm đờm tắc cổ, không thở được, thế là qua đời.” Vu An nhặt đá lửa cô để bên giường, thắp ngọn nến cạnh cửa sổ, “Thái tử vốn định hai hôm nữa sẽ triệu thái sử và em vào cung cầu phúc xua bệnh cho bệ hạ, giờ thì không cần cầu phúc nữa rồi, hai vị chuẩn bị lo tang lễ đi thôi.”

“Hôm nay anh về để báo Tư bài trí lại trong phủ à?” Thập khoác áo ngoài vào, xỏ giày xuống giường.

“Ừm. Đêm qua thái sử hay tin rồi, đến khi trời sáng, em cũng phải vào cung thôi. Có điều… em đi như thế bên khanh tướng có ổn không?” Vu An mượn ánh nến nhìn sâu vào mắt cô.

Thập hiểu ý hắn, bèn hỏi thẳng, “Anh muốn hỏi thăm bệnh tình khanh tướng chứ gì?”

“Ừm, lần trước lễ đế trông khanh tướng đã khá rồi, nhưng hơn tháng nay ngày nào em cũng gọi Tư sang phủ Triệu nên ta vẫn hơi lo.”

“Tư ngày nào cũng ở bên cạnh khanh tướng, sao anh không hỏi cô ấy?”

“Em dặn nàng không được bàn luận về bệnh tình khanh tướng với người khác, đời nào nàng chịu kể với ta?” Vu An rót cho Thập chén nước, cô đón lấy nhấp một ngụm, nước mát xoa dịu cổ họng khô rát, nhưng trôi xuống bụng lại làm cô run lên vì lạnh.

“Thập à, từ hôm nay thái tử sẽ phải để tang cho tiên quân. Trong thời gian để tang không lo việc nước, nên thái tử nhất định phải chọn một trong hai người Triệu Ưởng hoặc Trí Dao để phó thác. Bệnh tình khanh tướng thế nào, em đừng giấu ta nữa.”

“Bất luận khanh tướng yếu hay khỏe thì ông ấy vẫn là chính khanh nước Tấn. Tân quân muốn phó thác việc nước, theo lễ pháp không thể chọn á khanh mà bỏ qua chính khanh được. Nếu sợ Trí Dao không vui, tân quân có thể giao các việc lễ nghi trước tang lễ cho Trí Dao. Trí Dao xưa nay thích thể hiện, hẳn sẽ thích tiếp đãi công tử vương tôn các nước tới phúng viếng.”

“Thái tử còn đương phân vân chưa quyết mà em đã sắp xếp đâu vào đấy rồi.”

“Vậy xin hỏi á lữ, tôi sắp xếp như thế có hợp ý á lữ chăng?” Cô nhìn Vu An đầy thâm ý.

Ánh mắt Vu An lóe lên, không đáp. Cô lại nói tiếp, “Còn nhớ lần tôi thấy anh buộc băng tang trên kiếm là từ mười hai năm trước, bấy giờ anh côi cút bơ vơ, phiêu bạt khắp nơi để giữ mạng, giờ đã rộng mở đường mây rồi.”

“Em không mừng cho ta sao?” Vu An vuốt nhẹ lên chuôi kiếm quấn vải sô.

“Anh không phải đi giết mướn nữa, dĩ nhiên là tôi mừng rồi. Nhưng anh thân thiết với tân quân, lỡ sau này có sơ sẩy gì thì không cách nào cứu vãn nổi đâu.”

“Em sợ ta đi vào vết xe đổ của cha mình ư?”

“Chuyện của ông ấy quả thực có thể thành tấm gương tày liếp.”

“Yên tâm đi, ta không phải ông ấy, ít nhất ta sẽ không chết trong oan ức vậy đâu.”

“Vu An, anh không hiểu ý tôi rồi.” cô đặt chén nước xuống, than.

“Ta hiểu chứ. Nhưng ta không hiểu được em.” Vu An lại gần Thập, cầm dải nút kết đeo bên mình cô lên, ấy là dải nút kết từng bị Triệu Vô Tuất trả lại.

Thập chột dạ, vội giật lại nắm trong tay, “Tôi sẽ không ở phủ Triệu mãi đâu.”

“Em tận mắt chứng kiến chuyện đêm ấy mà vẫn từ Tần trở về. Trước kia ta đâu có ngờ em lại là người hèn mọn đến thế. Nếu ở lại Tần, ít ra trong mắt bọn ta, trong mắt Triệu Vô Tuất em vẫn còn có khí khái.”

“Chẳng lẽ tôi đành đoạn bỏ đi thì thành cao quý chắc?”

“ít ra còn giống em.”

“Không, anh không hiểu tôi. Anh cũng không hiểu Vô Tuất.” Thập đưa tay đặt lên bụng. Từ lúc bỏ Sở về Tấn, cuộc sống cô đã xảy ra quá nhiều biến cố, lần nào cũng khiến cô đau đớn không thiết sống nữa. Nhưng giờ đây chỉ cần hắn yêu cô, chỉ cần có đứa con này, cô sẽ không bao giờ hối hận về quyết định trước kia.

Ánh mắt Vu An dừng trên tay cô, mí mắt hắn hơi giần giật, bờ môi cứng đờ há ra mấy lần mới khàn khàn thốt lên, “Thập à, ta vẫn nhắc lại câu cũ, mong rằng ngày sau cả em và ta đều không hối hận về lựa chọn hôm nay.”

“Tôi không hối hận đâu, mong rằng anh cũng vậy.”

Ánh lửa đỏ thẫm hắt lên hai gương mặt quật cường, giữa không khí im lìm giằng co, chợt một tiếng gà gáy cất lên kết thúc cuộc chuyện trò căng thẳng.

Tư thức suốt đêm, cho giăng vải sô trắng khắp phủ để tuyên cáo việc quân chủ đời trước đã lìa trần và một quân chủ mới được mong đợi bấy lâu ra đời. Trong cuộc đấu đá nảy lửa giữa hai nhà Triệu Trí, thái độ sốt sắng của Vu An khiến Thập thấy bất an, nhưng nỗi bất an ấy chẳng mấy chốc đã bị xua tan bởi sự xuất hiện của một người.

“Vu sĩ, có người từ Lỗ sang.”

Ngoài phủ thái sử, một đứa hầu nhỏ đỡ Thập xuống xe. Trời vừa sáng, Sử Mặc đã đi mất, cả phủ thái sử như một tòa thành không.

“Ở đâu?” Thập hỏi đứa hầu.

“Đang đợi ở nhà trước, nói là từ kinh đô Khúc Phụ nước Lỗ tới đưa đồ cho vu sĩ.” Đứa hầu nhỏ lật đật chạy theo chân Thập.

“Sư phụ bảo ta bao giờ vào cung?”

“Lý ra thì giờ đã phải vào rồi, có muộn nữa cũng không được quá giờ cơm.”

“Biết rồi, chuẩn bị đồ tang cho ta đi, lát nữa cùng vào cung luôn.”

“Vâng.” Đứa hầu nhỏ vâng lệnh đi ngay.

Đêm qua Tấn hầu đột ngột qua đời, trời còn chưa sáng, người trong phủ thái sử đều đã vội vã theo Sử Mặc vào cung. Lúc này tuy mặt trời đã lên, nhưng cả dãy cửa sổ trên tường Đông nhà trước vẫn đóng chặt. Bặt tiếng người, lặng tiếng gió, buổi mai bị chết chóc nhuộm trắng này quá yên tĩnh, yên tĩnh đến mức khiến người ta có cảm giác hết thảy đều không thực.

Thập đẩy cửa phòng, đập ngay vào mắt là một người đàn ông trạc tứ tuần, dưới ánh nắng sớm nhàn nhạt, y ôm một bọc vải xanh nhỏ ngồi quỳ trên chiếu cói, nhắm mắt như đang ngủ.

Thập đi đến trước mặt người nọ, khẽ đằng hắng mấy tiếng, người nọ rùn vai ngước lên. Hẳn y đã lâu lắm không ngủ ngon giấc, trên gương mặt mệt mỏi, đôi mí mắt cố giương lên, như chỉ chực sụp xuống bất cứ lúc nào.

“Xin hỏi tiên sinh là người đưa thư cho Đoan Mộc tiên sinh ư?”

Kẻ đang buồn ngủ nghe thấy hai chữ “Đoan Mộc” liền giơ tay lên véo vào mặt mình, “Các hạ… là vu sĩ Tử Ảm?”

“Đúng vậy.”

Người nọ quan sát cô, ánh mắt dò xét ấy khiến buổi mai trắng xóa tang tóc này chân thực hẳn lên. Đoan Mộc Tứ đã hồi âm, cô sắp biết tin về Công Thâu Ninh, sắp biết được vị trí hầm ngầm trong phủ Trí, sắp gặp được Lê rồi!

“Vất vả cho tiên sinh quá, trao thư của Đoan Mộc tiên sinh cho tôi được chưa?” Thập nhìn chằm chằm bọc vải xanh trong lòng người nọ, giọng bất giác run lên.

Song người nọ lại ôm chặt bọc vải, cảnh giác đáp, “Thư sẽ giao cho vu sĩ, nhưng vu sĩ phải trả lời tôi vài câu đã.”

“Tiên sinh cứ hỏi đừng ngại.” Thập gập gối ngồi ngay ngắn xuống chiếu.

“Xin hỏi vu sĩ, ả hầu đi theo Đoan Mộc tiên sinh tên gì?” Người nọ vừa săm soi nét mặt Thập vừa hỏi.

“Ngũ Nguyệt Dương.”

“Nhà bà ngoại Ngũ Nguyệt Dương ở đâu?”

“Làng chài vực Cam.”

“Đoan Mộc tiên sinh gặp vu sĩ lần đầu…”

“Ở nhà thầy Nhan, Ngũ Nguyệt Dương nhờ tôi tới xem bệnh cho thầy Nhan. À không không, ở rừng cây bên ngoài kinh đô nước Tần mới đúng, tôi còn tính sổ sách giúp Đoan Mộc tiên sinh.” Hẳn Đoan Mộc Tứ sợ thư trả lời rơi vào tay kẻ khác nên mới không gửi qua trạm dịch, còn sợ người đưa thư nhận lầm người nên cố tình chuẩn bị nhiều câu hỏi chỉ mình cô biết. Thấy y cẩn thận như vậy, Thập càng nóng lòng muốn đọc thư, “Nếu tiên sinh còn câu nào muốn hỏi thì cứ hỏi đi, tôi nhất định sẽ thành thực trả lời.”

“Hết rồi.” Người nọ thở phào, cúi đầu cởi bọc vải, lấy ra một cuộn thẻ tre đưa cho cô, “Đây là thư Đoan Mộc tiên sinh gửi vu sĩ, mời vu sĩ xem qua.”

“Đa tạ!” Thập đón lấy cuộn thẻ tre, hấp tấp mở niêm phong và bọc gỗ ra.

Trong thư Đoan Mộc Tứ kể rất nhiều chuyện xảy ra ở Lỗ sau khi thầy Khổng từ trần. Y nói sang năm muốn mời cô tới Khúc Phụ luận đạo với đám học trò cửa Khổng, còn nói rất mong một ngày được đọc cuốn sử Thừa của Tấn do Sử Mặc biên soạn. Thập đọc đi đọc lại mấy lần, chẳng thấy y nhắc tới tộc Công Thâu nửa chữ.

“Đoan Mộc tiên sinh chỉ nhờ tiên sinh đưa cuộn thư này thôi ư? Còn thư từ gì khác không?” Cô ngờ vực hỏi.

“Thưa không.”

“Sao lại không được? Tiên sinh bôn ba nghìn dặm tới đây, chẳng lẽ chỉ để đưa cuộn thư này thôi sao?”

“Đoan Mộc tiên sinh còn chuẩn bị một xe quà cáp hậu hĩnh tặng cho vu sĩ. Đây là danh sách quà tặng, vật phẩm giờ đều ở quán dịch cả.” Đoạn y lấy trong bọc ra một tấm thẻ gỗ đưa cho cô.

Ngọc trai, xà cừ, san hô, hương liệu của người Di, cung của người Yên, gấm lụa đất Tề… danh mục quà dài dằng dặc mà chẳng thấy tăm hơi hai chữ “Công Thâu” đâu cả.

“Không còn gì nữa à?” Thập vẫn cố gặng.

“Thưa không.” Kẻ nọ lắc đầu.

Chuyện này là sao nhỉ? Lẽ nào Đoan Mộc Tứ không tìm được tung tích Công Thâu Ninh? Hay y biết chuyện này nguy hiểm, không muốn cô đối đầu với tộc Trí nên không chịu nói với cô? Hoặc là…

Thập nhìn người đàn ông mệt mỏi trước mặt, trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ, vội bỏ thẻ gỗ xuống, chắp tay hành lễ, “Dám hỏi tiên sinh xưng hô thế nào?”

Thấy cô thi lễ, người kia thoáng sững ra rồi chắp tay đáp lễ, “Tại hạ là… Công Thâu Ninh nước Lỗ.”

“Công Thâu tiên sinh!” Thập vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nhìn người trước mặt. Đoan Mộc Tứ không cho cô biết tung tích của Công Thâu Ninh, y đưa luôn Công Thâu Ninh tới chỗ cô!

Công Thâu Ninh là chú họ của kỳ tài Công Thâu Ban nước Lỗ. Năm xưa Công Thâu Ban đã giúp Trí Lịch thiết kế căn hầm ngầm giam giữ mẹ cô, nhưng lại bị gã bạn thân Đạo Chích gài bẫy chôm mất chìa mở khóa Thất Khiếu Linh Lung. Sau khi mẹ cô trốn mất, Trí Dao không tin tưởng Công Thâu Ban nữa, nên đã tìm tới Công Thâu Ninh bừng bừng dã tâm, chỉ muốn chèn ép Công Thâu Ban, mượn tiếng đóng “xe thất bảo” cho Tấn hầu, bỏ nhiều tiền vàng mời y thiết kế cho một căn hầm mới. Ba năm sau, “xe thất bảo” được cha Trí Dao dâng lên Tấn hầu làm quà mừng thọ, song từ ấy Công Thâu Ninh cũng biến mất khỏi đất Lỗ. Có người nói Công Thâu Ninh mang theo nhiều tiền vàng nên trên đường về Lỗ đã bị kẻ cướp giết chết; người lại nói trong lúc y rèn khóa mới thì chậu lửa bùng lên, đốt trụi cả y lẫn lò rèn; cũng có người nói y và thợ học việc động đao kiếm với nhau, đôi bên đều trọng thương mà chết. Tin đồn nào cũng nói Công Thâu Ninh đã chết, bởi một kẻ tự phụ lại đầy dã tâm như y nếu còn sống nhất định không chịu mai danh ẩn tích, để Công Thâu Ban trẻ tuổi trở thành tông chủ tộc Công Thâu.

Công Thâu Ninh đã ở ẩn mười mấy năm kể với cô rằng, tộc Trí quả thực đã đốt trụi lò rèn của y, cướp tiền vàng đã thưởng cho y, giết thợ học việc của y, còn ép y phải đâm đầu xuống biển. Nhưng tộc Trí không biết rằng một cô gái tộc Đông Di đã cứu được một gã đàn ông tên Ninh bị sóng đánh dạt vào bờ biển, họ đã thành hôn ở vực Cam, sinh được một con gái, tên Ngũ Nguyệt Dương.

Công Thâu Ninh là người từng chết một lần, y nói nếu không phải vì nợ Đoan Mộc Tứ một món ân tình nặng tày non thì sẽ không bao giờ xuất hiện ở đây. Nếu vừa rồi cô không đoán ra thân phận của y thì theo lời Đoan Mộc Tứ hứa, Công Thâu Ninh chỉ cần giao xe châu báu cho cô là có thể về Khúc Phụ đoàn tụ với vợ con.

Nghe Công Thâu Ninh kể xong, Thập không khỏi cảm thán trước sự kỹ lưỡng của Đoan Mộc Tứ, đồng thời cũng xúc động khôn nguôi trước nghĩa cử Công Thâu Ninh liều mình sang Tấn, “Công Thâu tiên sinh, chỉ cần tiên sinh cho tôi biết vị trí căn hầm trong phủ Trí, hôm nay tôi sẽ đưa tiên sinh ra khỏi thành về Lỗ.”

Từ lúc nói rõ thân phận, Công Thâu Ninh vẫn mặt ủ mày chau, nghe cô hỏi lại càng lộ vẻ khó xử.

“Tiên sinh có gì khó nói ư?” Cô cố nói thật chậm, không để y thấy mình quá sốt sắng.

Công Thâu Ninh chắp tay thưa, “Vu sĩ bỏ quá cho, không phải tôi không muốn giúp, mà tôi quả thực không biết phòng ngầm phủ Trí xây ở đâu cả.”

“Sao lại thế được?” Trí Dao nhờ y xây phòng ngầm, sao y lại không biết đặt ở đâu? Nếu y không biết, năm xưa Trí Dao cần gì giết y bịt miệng?

Bên kia bàn, Công Thâu Ninh như nghe được tiếng lòng cô, y giơ tay xé tay áo trái, rút ra một cuốn sách da mỏng giấu giữa hai lần vải thô của tay áo, đặt lên bàn, rồi cúi đầu rút trong búi tóc ra một vật hình hổ đen bóng đè xuống một góc tấm da, “Đây là bản đồ bố trí các cạm bẫy trong phòng ngầm phủ Trí, đây là chìa mở khóa Âm Dương ở cửa hầm. Năm xưa cạm bẫy chống trộm trong phòng ngầm quả là do tôi thiết kế, nhưng việc xây cất phòng ngầm và cài cắm cạm bẫy lại có thợ khéo khác của phủ Trí. Tộc Trí từng nhiều lần phái người truy sát tôi, đám thợ thuyền xây phòng ngầm kia e rằng cũng thành xương khô lâu rồi, chẳng nói được gì nữa đâu.”

“Nói vậy là… không ai biết vị trí phòng ngầm ở đâu ư?”

“Ninh phụ lòng mong đợi của vu sĩ rồi.”

“Không sao…” Thập cầm cuốn sách như làm bằng da người cũ kỹ trên bàn lên, lại mân mê những vết khắc mảnh như sợi tóc trên mình “hổ đen”, không thể nói rằng cô không thất vọng, nhưng ít ra có được hai thứ này, cô cũng coi như bước được thêm một bước về phía Lê, “Cảm ơn tiên sinh liều mình đưa hai thứ này tới đây, ngày sau nếu cứu được người trong phòng ngầm, tôi sẽ nhớ ơn tiên sinh suốt đời.” Thấy Thập hành lễ tạ ơn, Công Thâu Ninh vội lùi lại hai bước, chắp tay đáp, “Vu sĩ làm thế này tôi tổn thọ mất. Năm xưa tôi nối giáo cho giặc, xin vu sĩ thứ tội.”

“Tiên sinh là thợ, dốc sức làm theo ý chủ thuê có tội gì đâu?”

“Không xét kỹ không hỏi rõ, ấy là tội.” Công Thâu Ninh nhìn cô rồi khom người vái một vái dài. Vái xong, y đứng thẳng dậy nói tiếp, “Chìa mở khóa Âm Dương năm xưa đã bị tộc Trí lấy đi, tôi đành vâng lời Đoan Mộc tiên sinh rèn cho vu sĩ con ‘hổ đen’ mới này. Tuy nhiên, nó chưa từng mở khóa Âm Dương. Khóa Âm Dương thiết kế rất phức tạp, chỉ cần vằn trên thân hổ khác đi chút ít thì chẳng những không mở được khóa mà còn khởi động cạm bẫy trong hầm, dồn người ta vào chỗ chết. Vu sĩ hiểu ý tôi chứ?”

“Tôi hiểu rồi.” Thập giơ “hổ đen” trong tay lên trước mắt, hơi xoay ngón tay, những vằn chi chít trên thân hổ đã loang ra trước mặt cô như sóng dưới ánh sáng lờ mờ trong phòng, “Trước khi tiên sinh ẩn cư từng được xưng tụng là Quỷ Công, tuy đây là chìa mới làm, nhưng tôi tin tiên sinh.”

Nghe cô ca tụng tay nghề của mình, Công Thâu Ninh chỉ nhíu mày, “Khóa Âm Dương do chính tôi chế ra lúc trẻ, Công Thâu Ninh bấy giờ luôn tự phụ rằng đẽo cá thì cá lặn được xuống nước, làm chim thì chim bay được lên trời, nhưng vu sĩ nhìn đôi tay tôi bây giờ xem…” Công Thâu Ninh kéo hai tay áo thùng thình lên, để lộ ra đôi tay chằng chịt vết thương như củi khô, “Đôi tay này hỏng lâu rồi, ‘hổ đen’ do nó làm ra mười phần thì đến tám chín không mở được khóa. Tôi không biết kẻ bị giam trong phòng ngầm là ai, có quan hệ gì với vu sĩ, có điều bấy nhiêu năm trôi qua, người bên trong dù còn thoi thóp hơi tàn thì chắc hẳn cũng chỉ là cái xác không hồn thôi. Chi bằng để người đó ra đi đi! Nếu vì con hổ hỏng này của tôi mà vu sĩ gặp nạn thì tôi đã phụ lời nhờ cậy của Đoan Mộc tiên sinh rồi.”

Để người đó đi ư… Hai chục năm, anh trai cô đã bị người ta róc thịt cắt máu dưới đáy suối vàng hai chục năm rồi, sao cô có thể để anh mình đi được? Lúc anh chỉ là một cái bóng, cô còn không thể buông tay, giờ chỉ còn một bước cuối cùng, sao cô dừng lại được?

“Công Thâu tiên sinh khỏi cần lo cho tôi, chỉ cần nói thật cho tôi biết, lúc làm con hổ đen mới này, tiên sinh đã dốc hết tâm sức chưa? Nếu người bị giam trong đó là Ngũ Nguyệt Dương, tiên sinh có chịu dùng thử nó không?”

“Chuyện này…”

“Tiên sinh có chịu thử không?”

Công Thâu Ninh cúi đầu nhìn đôi tay quắt queo như cành khô của mình, siết chặt mười ngón tay lại rồi thả lỏng ra, sau đó lặng thinh, lặng thinh mãi.

“Tiên sinh?”

“Nếu con bé bị giam trong đó, Ninh ắt phải đánh liều thử một lần.” Công Thâu Ninh nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng cũng ngẩng lên.

“Được, tiên sinh đã tin vào bản thân thì tôi cũng tin vào tiên sinh.” Thập cầm “hổ đen” trong lòng bàn tay, gật đầu cười.

Công Thâu Ninh xúc động ra mặt, giơ tay vái dài, “Tội nhân cảm tạ vu sĩ!”

“Đến giờ rồi, thưa vu sĩ.” Đứa hầu nhỏ thở gấp, gõ cửa giục giã.

Thập đáp vọng ra rồi nói với Công Thâu Ninh, “Tấn hầu mới qua đời, hôm nay tôi phải vào cung, tiên sinh đi đường vất vả, cứ ở lại quán dịch mấy bữa, đợi tôi rời cung sẽ tiễn tiên sinh ra khỏi thành.” Đoạn cô mở cuộn da ra, dùng ánh mắt khẩn nài Công Thâu Ninh nán lại thêm mấy hôm, giảng giải cho mình cách bố trí cạm bẫy trong phòng ngầm.

“Vu sĩ thực có lòng.” Công Thâu Ninh chắp tay thi lễ, coi như nhận lời.

Thập như trút được gánh nặng, toan đứng dậy thì Công Thâu Ninh bỗng vươn tay nắm lấy cổ tay cô.

Cô ngỡ ngàng đưa mắt hỏi y.

Y liếc mắt ra cửa phòng rồi đứng dậy trỏ một chỗ đánh dấu như gợn sóng màu cỏ lam trên cuộn da, nói rất khẽ, “Các cạm bẫy khác trong lối ngầm, chỉ cần bản vẽ này, vu sĩ sẽ phá giải được cả; chỉ có chỗ này phải hết sức lưu ý.”

“Đó là gì thế?”

“Là một cạm bẫy ở góc Đông Nam phòng ngầm, nếu tra không đúng chìa vào ổ khóa cửa, nó sẽ tháo nước vào phòng ngầm, lối ngầm dẫn vào phòng cũng sẽ sụp xuống, khiến người bên trong và bên ngoài phòng ngầm bị kẹt lại, chết đuối.”

“Ra là vậy.” Thảo nào Công Thâu Ninh sợ con hồ mới này sẽ khiến cô mất mạng, cạm bẫy này nguy hiểm thật.

“Vu sĩ…” Chú hầu nhỏ ngoài cửa lại giục. Thập sợ nó đẩy cửa vào, đành nhét bản vẽ vào ngực áo rồi nài nỉ Công Thâu Ninh, “Xin tiên sinh ở lại Tân Giáng thêm mấy hôm, chờ tôi ra khỏi cung rồi nói kỹ cho tôi về ‘danh sách quà tặng’.”

“Thưa vâng.” Công Thâu Ninh lùi lại cúi đầu vái một vái.

Thập đứng dậy mở cửa phòng ra, tức thì đứa hầu nhỏ đứng ngoài ôm áo sô mũ mấn xộc vào, “Vu sĩ mau thay áo đi! Tân quân trách tội bây giờ!”

Tấn hầu hoăng, toàn thành để tang.

Thập đánh xe đi trên phố thấy trắng toát một màu, cảnh tượng đìu hiu khiến nỗi thê lương và bất an như cỏ dại mùa xuân không ngừng sinh sôi trong lòng cô, chẳng làm sao kìm hãm nổi. Giữa lúc gió nổi mây vần, cái chết đột ngột của Tấn hầu như một đám mây đen dày bao phủ phía trên cung điện. Đám quyền quý vận đồ tang từ bốn phương tám hướng trong thành ùn ùn đổ về cung, chẳng ai biết đám mây đen trên đỉnh đầu sẽ thay đổi số phận mình ra sao.

Bên ngoài tẩm điện nơi đặt thi thể Tấn hầu đứng đầy quốc thích vận áo sô, kẻ nào kẻ nấy đói cồn cào, song vẫn liên tục đáp lễ những người tới phúng viếng theo đúng phép tắc. Tân quân Cơ Tạc mặc đồ tang đơn sơ đứng cạnh cổng điện, mặt trắng bệch, mắt đờ đẫn, đói khát và mệt mỏi giày vò gã, Thập nghĩ có lẽ gã bắt đầu lo rằng những cơn ác mộng hành hạ cha mình suốt đời cuối cùng cũng sẽ đẩy mình đi tới chỗ chết.

Sau trận mưa tầm tã, cung Tấn nguy nga mà chông chênh rốt cuộc cũng đợi được sứ giả của Chu vương. Chu thiên tử đang ốm đã ban tên thụy cho Tấn hầu quá cố là “Định”, tức Tấn Định công. Tang lễ Định công tới ngày thứ mười, Thập tìm được cơ hội rời cung, song đã trễ hẹn với Công Thâu Ninh mất bảy ngày.

Quán dịch trong kinh vào dịp quốc tang chật kín người, ông lão quản sự đứng giữa đám đông ồn ã, lớn tiếng báo với cô, đoàn xe nước Lỗ đã đi vào sáng ngày thứ hai sau khi Tấn hầu qua đời.

Cô thất hẹn, Công Thâu Ninh cũng chẳng chờ cô đủ ba ngày. Nhưng cô hiểu lý do y rời Tấn. Đứng trước sự sống chết, vợ con y ở nơi xa cũng không muốn y cố chấp làm quân tử mà uổng mạng. Hiềm nỗi y đi rồi, cô biết hỏi ai về bí mật trong bản vẽ này đây?

Đêm ấy, cô vùi đầu trong kho sách phủ thái sử. Nếu trướng Mê Hồn bên ngoài Thiên Xu thực sự là tác phẩm của ông ngoại cô thì giờ cô chỉ có thể hy vọng mình thực sự được thừa hưởng ba phần tài trí, bảy phần thông minh của ông ngoại như lời Sử Mặc nói.

Chong đèn đọc sách, đêm dài dằng dặc mà yên tĩnh, ánh nến, ánh trăng, ánh sao dệt nên một tấm lưới mộng thật lớn, nhẹ nhàng bao bọc lấy cô, cô cố chống mắt lên nhưng càng đọc càng thấy những thẻ tre lốm đốm ngả vàng trên bàn khó hiểu hơn. Những hình vẽ lạ lùng trên cuộn da như những loài tinh quái sống, từng con từng đàn đứng dậy, nhảy nhót, xoay tròn, chạy đuổi trên bàn, mãi tới khi Thập không trụ nổi, nhắm mắt thiếp đi.

Trong mơ cô thấy vụn gỗ, dăm bào rợp trời, những bánh răng cực lớn khớp vào nhau, rầm rầm xoay tròn trên đầu. Sâu trong cảnh mộng, một con hổ đen mình đầy vết khắc nhìn cô chằm chằm, cô cố lê đôi chân nặng trịch lại gần nó, nhưng những đợt sóng dựng đứng như bức tường thình lình dấy lên trước mặt cô, nhấn chìm tất cả. Không còn vụn gỗ dăm bào, không còn bánh răng chuyển động, giữa sóng dữ đục ngầu, chỉ có mình cô chới với vùng vẫy.

“Vô Tuất!!” Cô tuyệt vọng thét lên.

“Ta đây!” Triệu Vô Tuất ôm cô trong lòng, vỗ nhẹ lên tấm lưng đẫm mồ hôi, “Sao vậy, nàng lại mơ thấy ác mộng à?”

“Sao chàng lại ở đây?” Cô ngạc nhiên.

“Người trong cung bảo nàng rời cung từ sớm, ta nghĩ nàng sẽ tới tìm mình nên đã đợi ở phủ nửa ngày, nào ngờ nàng lại đến đây. Dự tang lễ chục ngày chưa đủ mệt à?” Triệu Vô Tuất rút cuộn da ra khỏi tay Thập, cô thót tim, thầm than không ổn, vội kéo hắn lại than thở, “Tê cả chân rồi.”

Hắn liếc qua cuộn da rồi tiện tay ném ra bàn, cúi xuống bế bổng cô lên, “Đàn bà có mang chẳng phải sẽ béo lên ư, sao nàng nhẹ thế này?”

Cô thờ phào, níu vạt áo hắn trách móc, “Thiếp chưa trách chàng, chàng còn dám chê thiếp à? Bề tôi để tang vua phải mặc áo sô, ba ngày không được ăn gì. Thiếp đang mang thai, còn không ăn không uống suốt ba ngày, phải quỳ gối hát đưa linh. Nếu không nhờ Vu An khuyên tân quân để Doãn Cao đảm nhiệm ty chúc trong tang lễ, lại lén lút đưa cháo cho thiếp thì e rằng chàng chẳng gặp được thiếp nữa đâu.”

“Ta vô dụng, đúng là đáng ăn mắng. Nàng cứ mắng đi, ta nghe đây.” Triệu Vô Tuất bế cô đi về phía giường.

“Thôi thôi, nếu chàng vào cung được thì đã vào rồi. Chàng không vào cũng là sự chẳng đặng đừng. Muốn tới mà không thể tới, mấy ngày vừa rồi chàng cũng khổ sở đâu kém gì thiếp.”

“Đâu chỉ khổ sở, mà là ngày dài như năm.” Triệu Vô Tuất đặt cô xuống giường, chóp mũi lành lạnh của hắn cọ vào trán cô rồi lại dụi vào hõm cổ. Sợ hắn phóng túng, cô vội đẩy ra, “Chàng lo mà cảm ơn Vu An, vợ chồng họ đều cho rằng chàng phụ rẫy thiếp, oán giận chàng lắm đấy.”

“Biết rồi, chừng nào thời cơ chín muồi, ta nhất định sẽ tạ ơn họ. Có điều lần này ngoài Tiểu Thư, nàng còn phải cảm ơn một người nữa đấy.” Triệu Vô Tuất áp sát vào mặt cô hít hà rồi ngẩng lên nghiêm trang nói.

“Ai vậy?”

“Sư phụ nàng.”

“Sư phụ thiếp ư?”

“Tang lễ Định công, mọi người trong cung đều phải nhịn ăn. Dù Đổng Thư được sủng ái tới đâu, cũng không dám bảo ty thiện phòng nổi lửa làm bữa cho nàng. Suốt ba hôm ấy, bệ hạ chỉ cho phép một mình thái sử được ăn hai bát cháo trắng mỗi ngày. Thái sử thấy nàng không chịu nổi đã nhờ Đổng Thư đưa cháo cho nàng, còn mình nhịn đói.”

“Gì cơ?” Cô thảng thốt.

Hôm ấy sau khi gặp Công Thâu Ninh, Thập vội vã vào cung, tới khi trông thấy thái tử Tạc mặc áo tang mới sực nhớ ra, trước tang lễ ba ngày phải nhịn ăn. Tiếc rằng đã lỡ vào cung, đành an ủi bản thân rằng nhịn ba ngày cũng chẳng sao. Nào ngờ khi có mang không như lúc bình thường. Ngày đầu tiên vào cung, chưa đến chính ngọ, cô đã đói quặn ruột, chẳng sức đâu hát đưa linh nữa, tới lúc cơn buồn nôn nổi lên, đến mấp máy môi lấy lệ cũng khó nhọc vô cùng. Hôm ấy Sử Mặc quỳ đối diện cô, nhắm mắt ngâm tụng, như thể chẳng thấy gì cả. Nhưng đến chiều, cô lại được Vu An dúi cho bát cháo trắng, còn Sử Mặc sáng hôm sau đã ngất lịm trước linh sàng Định công.

“Sư phụ thiếp bằng ấy tuổi rồi, ông làm ra chuyện ngốc nghếch như thế, sao chàng không bảo thiếp sớm? Nếu thiếp biết, nhất định không thể ăn phần cháo của ông được. Năm xưa chàng vào được cung Tề, sao lại không vào được cung Tấn? Dầu không vào được chàng vẫn có tai mắt trong cung kia mà, tiện tay dúi cho thiếp cái bánh kê là xong, chàng thế này là hại chết thiếp rồi!” Nhớ đến cảnh Sử Mặc nhắm nghiền hai mắt, tim cô đau thắt, nỗi đau này không thể thốt ra lời, cũng chẳng thể gào thét, chỉ biết trút lên Triệu Vô Tuất, nhưng chưa kịp trút giận xong, cô đã nghĩ tới một khả năng hoang đường hơn, “Triệu Vô Tuất, chàng không vào cung đưa đồ ăn cho thiếp, có phải ngay từ đầu đã định gài bẫy sư phụ thiếp không?”

Triệu Vô Tuất ngẩn ra rồi nắm chặt tay cô cười đáp, “Thái sử cao ngạo, nàng lại quật cường, trâu nghé húc nhau, ta đành kéo cả hai lại vậy.”

“Triệu Vô Tuất!”

“Nàng và thái sử công giận dỗi nhau bấy lâu, cũng nên làm hòa thôi. Ít lâu nữa nàng sang Sở rồi. Dăm ba năm sau nàng về, ai mà nói chắc được lúc ấy thái sử công còn tại thế không? Kế này của ta quả là hạ sách, nhưng ta không muốn sau này nàng phải hối hận. Thấy thái sử ngất giữa linh đường, bệ hạ đã cho người đưa thêm cơm nước rồi. Tính ra thì nàng chịu đói nửa ngày, ông ấy cũng chịu đói nửa ngày. Nếu nàng giận ta, trở về ta sẽ nhịn hẳn ba ngày, coi như chịu khổ cùng nàng được không?”

Cô không đáp, trừng mắt nhìn Triệu Vô Tuất. Hắn nhíu mày năn nỉ, “Được không?”

“Được, dĩ nhiên là được rồi. Tốt nhất chàng cứ nhịn hẳn mười ngày nửa tháng, đói tới mức bụng trống không, khỏi phải nặn ra mấy mưu kế vớ vẩn này nữa!”

“Mười ngày nửa tháng ư? Tiểu Nha nhi ơi, mẹ con mang thai mà không to bụng, chỉ lớn lối, sau này con đừng học thói ác ôn của mẹ nhé!” Triệu Vô Tuất vừa than vãn vừa áp mặt vào bụng cô.

Thập đẩy phắt đầu hắn ra, hậm hực, “Đừng có học cha con, đã xấu xa còn lươn lẹo.”

“Ta đâu nỡ để mẹ con nàng chịu đói? Định công vừa qua đời, ban ngày có đến mấy trăm con mắt nhìn vào ta, dù ta có vào cung cũng không vào được tẩm điện chính. Đến đêm, ta mang bánh mơ nàng thích ăn trèo tường vào, nhưng tìm mãi không thấy nàng. Nàng ngủ ở đâu thế?”

“Thiếp…” Sau khi Định công qua đời, Cơ Tạc không sao ngủ được, tuy cô là vu sĩ canh linh cữu song đêm nào cũng phải quỳ trên sập hầu tân quân vào giấc. Vợ đang mang thai lại hầu tân quân ngủ, cô thấy khó mở miệng giải thích với Triệu Vô Tuất.

“Thiếp ở trong phòng Cơ Tạc. Cơ Tạc gặp ác mộng suốt đêm, hoảng hốt không ngủ được.”

“Nàng canh cả đêm trong phòng bệ hạ ư?” Triệu Vô Tuất biến sắc mặt, kéo tấm chăn mỏng đắp kín người cô, “Bấy nhiêu ngày không ngủ đủ, thế mà còn trốn ở đây xem bản vẽ cạm bẫy, mau ngủ đi!”

“Sao chàng…” Hắn mới nhìn qua sao đã biết là bản vẽ cạm bẫy?

“Cứ ngủ đi đã.” Triệu Vô Tuất không trả lời, chỉ ấn mái đầu vừa ngóc lên của cô xuống giường.

“Chàng lấy bản vẽ của thiếp rồi à? Trả thiếp đây!” Cô kéo tay áo Triệu Vô Tuất, ngồi nhỏm dậy, hắn hừm một tiếng, tránh tay cô, “Không lo ăn uống nghỉ ngơi cho tử tế, ra khỏi cung cũng chẳng tới tìm ta mà mò đến quán dịch, xem ra mọi sự lạ đều bắt nguồn từ bản vẽ này. Bản vẽ da người, phòng ngầm lối kín, lẽ nào đây là bản vẽ thiết kế cạm bẫy trong phòng ngầm phủ Trí?” Nói đoạn hắn rút cuộn da mỏng ố vàng trong tay áo ra.

“Mau trả thiếp! Thứ này không liên quan đến tộc Trí, cũng không liên quan đến chàng.” Cô vội giơ tay giật.

“Không liên quan đến ta hả? Cạm bẫy hiểm ác nhường này, cả thành Tân Giáng ngoài ta ra, còn ai giúp được nàng nữa? Nàng đã muốn cứu huynh trưởng thì còn giấu giếm làm gì?”

Đúng vậy, cả Tân Giáng này ngoài hắn ra, chẳng còn ai giúp được cô. Nhưng lỡ chìa khóa Công Thâu Ninh đưa không mở được khóa Âm Dương thì cả hắn và Lê đều sẽ bỏ mạng. Cô muốn cứu anh, nhưng lại không dám để hắn mạo hiểm.

“Sao lại ngân ngấn nước mắt thế? Nếu đây đúng là bản vẽ cạm bẫy trong phòng ngầm phủ Trí thì nàng phải vui mừng mới đúng chứ!”

“Hồng Vân nhi à, ngay sau hôm Định công hoăng, Công Thâu Ninh nước Lỗ đã tới phủ thái sử tìm thiếp.”

“Công Thâu Ninh làm ra xe thất hương và xe thất bảo ấy à?”

“Phải. Năm xưa Trí Dao mượn tiếng đóng xe, sai y thiết kế một phòng ngầm khác để giam giữ dược nhân. Cuộn da người trên tay chàng là sơ đồ bố trí cạm bẫy, còn con hổ đen này là chìa khóa mở cửa.” Thập lấy “hổ đen” trong ngực áo ra đặt vào tay Triệu Vô Tuất.

Triệu Vô Tuất từ kinh ngạc đổi thành mừng rỡ, cười phá lên, “Chuyện đáng mừng thế này, sao nàng lại giấu ta? Trước kia ta còn sợ nàng lấn cấn về dược nhân không chịu rời Tấn, giờ chìa khóa cũng đã tới tay, ta có thể thay nàng cứu huynh trưởng ra, đưa anh ấy sang Sở đoàn tụ với nàng rồi.”

“Không dễ thế đâu. Công Thâu Ninh nói chìa khóa này là một con hổ ‘mới’, chỉ cần một vằn trên lưng nó khác với con hổ năm xưa thì cửa đá trong lối đi ngầm sẽ sập xuống. Đến lúc đó nước tràn vào phòng ngầm, người bên trong lẫn bên ngoài đều chết cả. Khóa Âm Dương, ngăn cách âm dương. Hồng Vân nhi, không phải thiếp không tin Công Thâu Ninh, cũng không phải không muốn cứu Lê, chỉ là…”

“Nàng chỉ không muốn để ta mạo hiểm, dẫu chỉ là một phần vạn nàng cũng không dám.” Triệu Vô Tuất thở dài, kéo cô vào lòng.

Cô tựa vào ngực hắn, thì thầm, “Dù chỉ một phần vạn, lỡ mắc phải thì cũng không thể cứu vãn nổi.”

“Nàng muốn cứu anh, lại không muốn để ta đi. Chẳng lẽ nửa đêm nửa hôm nàng rúc vào đây nghiên cứu bí thuật thiết kế cạm bẫy là định mang cả con chúng mình đi cứu người? Đến lúc đó để Trí Dao bắt được hai mẹ con nàng rồi rủ lòng từ bi thả huynh trưởng nàng ra hả?”

“Dĩ nhiên không rồi.”

“Vậy ngoài ta ra, nàng còn định trông vào ai nữa?”

“… Không có ai hết.” Trong đầu cô hiện lên gương mặt âm trầm của Triệu Tắc, phải vội lắc đầu xua đi.

“Thế thì tốt, nàng để ta cầm bản vẽ này về nghiên cứu mấy hôm. Ta bảo đảm với nàng, nếu Lê còn sống, nhất định anh ấy sẽ được nghe nàng gọi một tiếng anh, nghe ta nói một tiếng cảm tạ.”

“Nhưng chìa khóa này…”

“Sao nàng mang thai lại đâm ra ngốc nghếch thế, ta phải vui mừng hay lo lắng đây? Đã có ‘hổ mới’ ắt có ‘hổ cũ’, nếu ta tìm được ‘hổ cũ’ đem tráo đổi chẳng phải xong rồi ư? Nàng chỉ cần cho ta biết lối vào phòng ngầm ở đâu, chìa khóa do ai giữ là được.”

“Thiếp không biết phòng ngầm ở đâu cả. Công Thâu Ninh nói tất cả cạm bẫy trong đó đều do mình thiết kế, song y cũng chẳng biết nó được xây dựng ở đâu.”

“Công Thâu Ninh cũng không biết ư? Thế câu ‘cửa đá sập xuống, nước dâng ngập phòng’ cũng là y bảo nàng à?”

“Ừm, sao thế, câu này có vấn đề gì?”

“Chỉ là suy đoán thôi.” Triệu Vô Tuất nheo mắt, cất cuộn da vào tay áo.

“Suy đoán thế nào?”

“Đã gọi là suy đoán thì chưa chắc đã đúng, lỡ ra không đúng sẽ để nàng mừng hụt. Nàng ngủ trước đi, ta ở đây với nàng.”

“Chàng không nói, thiếp làm sao ngủ nổi? Rốt cuộc thì phòng ngầm ở đâu? Chàng đưa bản vẽ ra đây để thiếp xem lại nào!”

“Ngủ đi! Tiểu Nha nhi mệt rồi đấy, nàng mau ngủ đi.” Triệu Vô Tuất ấn cô xuống giường, ép cô nhắm mắt lại, “Hạn là một đĩa đèn nhé, nàng nhắm mắt nghỉ ngơi một chốc đi, đừng nghĩ ngợi gì cả, khi nào dầu trong đĩa đèn này cháy hết, ta sẽ nói hết với nàng.”

“Nói phải giữ lời đấy nhé?” Thập mở mắt lén liếc đĩa đèn chẳng còn được bao nhiêu dầu.

“Giữ lời chứ.” Triệu Vô Tuất cười, nhẹ nhàng khép mi mắt cô lại.

Cửa đá… nước lũ… nước lũ… Thập nắm góc chăn, trong đầu lởn vởn những lời Công Thâu Ninh nói, nhưng chẳng hiểu sao càng nghĩ đầu óc càng mờ mịt, chẳng mấy chốc cô đã ngủ lịm đi.

Tới khi cô tỉnh dậy đã là sáng hôm sau, cô không còn ở trong kho sách, Triệu Vô Tuất chẳng thấy đâu, bản vẽ cũng biến mất. Thập cố vắt óc nhớ lại mọi chi tiết trên bản vẽ, nhưng trí nhớ xưa nay cô vẫn tự hào dường như đã rời bỏ cô, suốt một khắc, đầu cô trống không chẳng nghĩ được gì, chỉ có một âm thanh không ngừng rên xiết: “Đói! Đói! Đói! Đói!”

Trời ạ, mang thai đáng sợ ghê. Chẳng những nó đã biến đổi cơ thể cô theo một phương cách hoàn toàn lạ lẫm, mà còn muốn khống chế suy nghĩ của cô từng chút một. Tiểu Nha nhi à Tiểu Nha nhi, con sắp hại chết mẹ rồi đấy! Ngoài ăn ngủ ra, mẹ con mình còn rất nhiều việc quan trọng phải nhớ mà!

Báo cáo nội dung xấu