Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 27
LOẠN LẠC KHÔNG YÊN
Thập từng cuồng vọng mà ích kỷ muốn giữ lại cho Tư sự hồn nhiên mình đã đánh mất, muốn Tư mãi trắng trong tốt đẹp như hoa hạnh tháng Ba, muốn Tư được hạnh phúc, muốn trao cho Tư mọi bình yên và hạnh phúc mà cô hằng khao khát nhưng vĩnh viễn không bao giờ có được, song hiện thực lại độc địa châm biếm suy nghĩ chủ quan của cô.
Tư đã đi rồi, đổi sang quần áo người Hồ ngồi trước ngựa Vu An đi mất. Thập đứng trên cánh đồng đã đóng băng xám trắng bên bờ Hoàng Hà nhìn hai người một ngựa khoác ráng tía sẫm buổi bình minh, biến mất phía cuối đất cùng trời.
Nơi Vu An muốn đưa Tư đi có âm mưu và lửa chiến tranh nhưng Tư không hề trăn trở, lao thẳng tới với số phận mình. Thập muốn ngăn bạn, nhưng không thể ngăn được, bởi đó là lựa chọn của Tư.
Thập từng cuồng vọng mà ích kỷ muốn giữ lại cho Tư sự hồn nhiên mình đã đánh mất, muốn Tư mãi trắng trong tốt đẹp như hoa hạnh tháng Ba, muốn Tư được hạnh phúc, muốn trao cho Tư mọi bình yên và hạnh phúc mà cô hằng khao khát nhưng vĩnh viễn không bao giờ có được, song hiện thực lại độc địa châm biếm suy nghĩ chủ quan của cô. Trên đời vốn chẳng ai sắp đặt được số mệnh của ai cả. Quen nhau mười sáu năm, Thập ngỡ mình đã đem đến cho Tư ánh trăng vằng vặc, nhưng Tư lại chỉ nhận được bóng đêm tăm tối, trùng trùng nguy hiểm và âm mưu. Giờ Thập mới thấy mình đã sai, mình chẳng làm đúng được gì. Thế nên lần này cô thuyết phục bản thân buông tay, buông số phận của Tư ra, để Tư tự chọn lấy con đường mình muốn đi, người mình muốn bầu bạn. Từ nay trở đi, kiếp người đằng đẵng, hai người chẳng còn nắm tay, chẳng còn sóng vai nhau nữa, nhưng Tư sẽ biết Thập vẫn luôn ở đó, không bao giờ rời xa.
Biệt cung suối nước nóng không còn chủ nhân trở nên trầm lặng mà vắng vẻ, đám cung tỳ hằng ngày dậy sớm làm xong mọi việc trong ngày sẽ khoác áo bông dày túm tụm quanh lò lửa, hoặc ngủ gà ngủ gật hoặc rôm rả buôn chuyện, chủ đề quanh đi quẩn lại vẫn là những người đàn ông muôn màu muôn vẻ có thể thay đổi số phận họ bên trong bức tường cao ngất của kinh thành. Thập không thích nghe họ chuyện gẫu nên chiều nào cũng dẫn Lê ra bờ sông ngồi.
Suối nước nóng của Trịnh bá rất hiệu quả với bệnh đau chân của Lê, trong vòng hai tháng, từ chỗ không thể đi lại, giờ y đã có thể bỏ gậy chống, một mình băng qua đồng băng. Anh trai cô kiên cường, can đảm hơn cô tưởng tượng nhiều, nhưng xương chân y yếu, lỡ thình lình vấp ngã sẽ gãy. Thế nên mỗi khi Lê khó nhọc bước lên thảm cỏ dày đặc những sương, Thập lại bất giác giữ chặt tay y. Cô ngỡ mình đang che chở cho y, cho tới một ngày cô đứng trước sông băng mênh mông gào khóc thất thanh, có người ở sau lưng lẳng lặng đỡ lấy tay cô, cô mới chợt nhận ra, vào lúc mình bơ vơ đau đớn nhất, chính Lê đã che chở cho cô, y mới là người nâng đỡ cô, để cô không gục ngã.
Qua tết, một trận mưa rào đã gột sạch tấm áo tuyết phủ khắp núi rừng, lớp băng dày trên sông cũng bắt đầu tan, có lúc lại gần còn nghe được tiếng nước chảy xiết dưới băng.
Thập mượn kiếm của ám vệ khoét một cái hố trên mặt băng sát bờ sông, từ đó ngày nào cô cũng đi ra ngó xuống cái hố nọ. Trước khi đi cha cô hẳn đã dặn dò những người “bảo vệ” cô kỹ lưỡng, rằng cô là một kẻ xảo quyệt khó đối phó, vì vậy mỗi lần cô quay lưng đi, hai kẻ bám theo tò tò phía sau thể nào cũng sẽ ngó xuống hố săm soi, chỉ sợ cô ấp ủ âm mưu quỷ kế gì dưới đó.
Một người đàn bà bụng mang dạ chửa dẫn theo một dược nhân chỉ còn nửa cơ thể giữa đất khách quê người thì giở được quỷ kế gì? Dù họ có trốn khỏi biệt cung thì cũng chẳng thể sống sót rời khỏi Trịnh. Cô khoét cái hố đó chẳng qua là muốn nhìn mặt băng mỏng dần đi mà thôi. Hơn nửa năm nay, cô đã trải qua quá nhiều bất ngờ, quá nhiều phản bội và tuyệt vọng, chỉ có một điều cô lấy làm may mắn là tất cả đều xảy ra vào mùa đông, bởi mùa đông có dài tới đâu chăng nữa thì sau đó mùa xuân vẫn sẽ tới. Cô canh giữ hố băng ấy, ấp ủ hy vọng mong manh của mình bên trong, mong rằng Triệu Vô Tuất ở phương xa cũng như dòng sông đóng băng này, sẽ thức tỉnh khi mùa xuân đến.
Hồng Vân nhi à, ở chỗ thiếp sông băng đã tan rồi, còn bên chàng thì sao? Chàng có khỏe không?
Lê tìm được một chiếc lá phong đỏ ối trên cánh đồng đã rã băng, y tìm thêm hai tấm thẻ gỗ kẹp lấy lá phong, nâng niu tặng cô như báu vật. Y kể rằng trước kia mỗi độ cuối hè mẹ sẽ chọn lấy một bông dâm bụt đẹp nhất, kẹp vào thẻ gỗ rồi dùng dao khắc lên thẻ chuyện vui nhất trong năm đó. Lê không hiểu người Thập ngày nhớ đêm mong tên gì, cũng chẳng biết đuôi mày người ấy có một áng mây đỏ đậm như lá phong, vậy mà y lại tặng cho cô một phiến lá đỏ đã trải qua cả mùa đông giá băng lạnh lẽo. Từ hôm ấy, Thập không khóc nữa, cô cất lá đỏ vào nơi gần trái tim mình nhất, tưởng tượng hắn ở phương xa cũng như dòng Hoàng Hà cuộn chảy trước mặt cô, đang hối hả vùng ra khỏi vòng kiềm tỏa của băng tuyết.
“Chàng không thể chết được, tuyệt đối không thể.”
Gió Nam nổi lên, những hạt cỏ vùi sâu trong lòng đất suốt mùa đông cuối cùng cũng nảy mầm, mầm cỏ xanh nõn nhú lên tua tủa từ đống cỏ khô vàng úa, nhuốm một màu xanh non tơ lên khắp cánh đồng bát ngát. Hôm ấy Thập cùng Lê ra bờ sông đi dạo, hai người đang trò chuyện thì nghe đằng xa có kẻ gọi ơi ới, “Cô nương, cô nương mau về đi, Hàm Đan quân trở về rồi.”
Triệu Tắc đã trở về. Hội thề Lẫm Khâu kết thúc rồi ư?
Thập dẫn Lê hối hả về biệt cung, bên ngoài cung không thấy ngựa xe nghi trượng của Trịnh bá, dọc đường vào, trong cung vẫn yên ắng như thường.
“Hàm Đan quân về một mình à? Trịnh bá đâu? Hội thề Lẫm Khâu kết thúc rồi sao?” Thập kéo người của Triệu Tắc lại hỏi một chặp.
“Mời cô nương đi bên này.” Tay thị vệ nọ chỉ cúi đầu dẫn đường, không trả lời.
Bước vào sân rồi vào phòng, thấy Triệu Tắc chắp tay sau lưng đứng trước giường Lê, cô vái chào nhưng còn chưa vái xong thì một chén gốm đỏ đã bay vụt tới trước mặt, cô vung tay gạt ra, cái chén rơi xuống chiếu cỏ vỡ tan tành.
“Kìa cha?” Lê la lên.
Triệu Tắc mặt nhuốm bụi đường cố nén lửa giận bừng bừng, trợn mắt nhìn Thập, “Rốt cuộc ngươi đã làm gì hả?”
“Tôi chẳng làm gì cả.” Thập cụp mắt nhìn xuống mấy mảnh gốm vỡ vương vãi.
“Nói láo! Rõ ràng Trịnh bá đã tới Lẫm Khâu, sao bỗng dưng lại lật lọng trước mặt chư hầu? Là ngươi, nhất định là ngươi, ngươi là con gái ta mà sao cứ nhất mực chống đối ta vậy?” Triệu Tắc như một con thú bị dồn vào đường cùng, sa sầm mặt đi đi lại lại, thấy cô lầm lì cúi gằm mặt, ông thình lình vung tay hất đổ ngọn đèn hình cây trong phòng.
Lê giật thót mình, vội dang tay ra che chắn cho Thập.
Chân đèn đè đổ giá gỗ bên cửa sổ, thẻ tre, tráp sơn rơi đầy sàn. Dầu đèn hắt vào song cửa, từng dòng đen đen vàng vàng ngoằn ngoèo chảy dọc theo khung cửa sổ và vách tường. Triệu Tắc mặt tái xanh, cúi đầu nhìn cả căn phòng ngổn ngang.
Thập đã đập tan kế hoạch ông ta trù tính nhiều năm, giờ nhất định ông ta đang hận cô thấu xương.
“Cha à, xảy ra chuyện gì thế?” Lê bước đến, nắm lấy cánh tay Triệu Tắc. Thấy Lê đã bỏ gậy chống, tự đi lại được, Triệu Tắc nhếch môi cười, nhưng nụ cười đầy thê lương chua chát, “Con ngoan à, cha không còn thời gian nữa rồi, cha đợi suốt hai mươi năm, nếu bỏ qua lần này thì thực sự không còn cơ hội nữa. Cha không thể cứ thế này mà đi gặp ông nội con, càng không thể cứ thế này mà đi gặp mẹ con, con có hiểu không?”
“Cha…” Lê không hiểu ý Triệu Tắc, chỉ nắm tay ông chặt hơn, Triệu Tắc vỗ nhẹ lên cánh tay Lê, gắng nặn ra một nụ cười an ủi, “Không sợ, đường này không đi được thì cha con ta đổi sang đường khác, thế nào cũng có cách. Lê à, mai cha lại phải sang Tấn một chuyến, con ở đây trông nom em, đến tháng Bảy dâm bụt nở, cha sẽ dẫn con về Hàm Đan, về nhà chúng ta nhé.”
“Ông định sang Tấn sao? ông một mình sang Tấn làm gì, định đâm đầu vào chỗ chết à?” Cô không muốn Triệu Tắc đánh Tấn, nhưng cũng không muốn ông chết.
“Chết ư?” Triệu Tắc nhìn cô, cười chế nhạo, “Cái chết với ta là khát vọng xa vời, tứ khanh chưa diệt, ta mặt mũi đâu mà chết?”
“Diệt tứ khanh? ông điên rồi! ông tưởng mình là Hàm Đan quân thật đấy à? Không có binh mã tộc Phạm và tộc Trung Hàng, ông chẳng là gì cả. Ông chỉ là một quân cờ của Trần Hằng, chỉ có một thân một mình, lấy gì đòi diệt tứ khanh? Giờ ông tới Tân Giáng là đâm đầu vào chỗ chết đấy!” Ý tưởng điên rồ của Triệu Tắc khiến Thập vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ.
“Có lẽ vậy.” Triệu Tắc nắm tay kéo Lê ra ngoài, nhưng Thập chặn lại, “Việc trên đời âm dương giao hòa, họa phúc kề nhau, Trịnh bá thoái thác trước trận có thể không phải việc xấu, mà là việc tốt. Ông lùi lại một bước, buông tay đi, quên vườn dâm bụt ngoài thành Hàm Đan đi, chúng ta tìm nơi khác trồng lại cho mẹ cả biển hoa là được! Bà ấy sẽ không trách ông đâu, trước nay bà ấy chưa bao giờ oán trách ông cả…”
“Buông tay ư? Ngươi cho rằng ta thua chắc hả? Phúc họa của ta không cần ngươi lo, tránh ra!” Triệu Tắc trừng trừng nhìn cô.
Thập đương đờ ra thì Lê đã quỳ sụp xuống đất.
“Anh!”
“Cha, cha đưa con cùng tới Tân Giáng đi!” Lê nén đau quỳ dưới đất, ngẩng đầu nhìn Triệu Tắc.
“Con nói vớ vẩn gì thế?” Triệu Tắc giơ tay đỡ Lê đứng lên, nhưng không sao đỡ nổi, “Lê con…”
“Xin cha thành toàn!” Lê dập đầu sát đất.
“Bậy bạ!” Triệu Tắc ngồi thụp xuống ôm lấy đầu Lê, “Con ngoan của ta, không phải ta không muốn dẫn con theo, nhưng lời em con nói có một câu đúng đấy, thành Tân Giáng nguy hiểm lắm, con không thể theo ta đâm đầu vào chỗ chết được.”
“Con không sợ chết, cha dẫn con đi đi, đừng bỏ con lại đây.” Lê ngẩng đầu, mắt đã đỏ hoe.
“Đừng trẻ con thế. Con ở đây chăm em đợi ta, lần này ta không thua nữa đâu. Đến tháng Bảy, ta sẽ về đón hai đứa, quyết không nuốt lời!”
“Không, cha đừng bắt con đợi nữa. Con đã đợi một lần rồi, không muốn đợi lần nữa đâu. Hai mươi năm rồi, con đợi quá lâu rồi, con không sợ chết chỉ sợ chờ đợi, con…” Lê níu tay Triệu Tắc, nước mắt lã chã như suối, Triệu Tắc sững người, Lê chợt gục đầu khóc nức lên.
“Ta sai rồi, thôi được, để ta đưa con theo, lần này ta đi đâu cũng dẫn con theo.” Triệu Tắc nâng gương mặt đẫm lệ của Lê lên, ôm chặt lấy y.
Cảnh tượng trước mắt khiến lòng Thập tê tái. Cô ngăn Tề đánh Tấn là đúng hay sai? Thập ôm ngực, qua lần áo, qua hai mảnh gỗ, nắm chặt lấy mảnh lá đỏ nằm ở chỗ trái tim.
Xe ngựa lọc cọc đưa họ rời biệt cung Trịnh bá, Thập ngồi trên xe, ôm chặt cái bụng gồ lên, chỉ e xe tròng trành khiến Tiểu Nha nhi chưa hiểu việc đời trong bụng mình sẽ tò mò mà đòi ra sớm.
Trịnh bá không đồng ý đánh Tấn, hội thề Lẫm Khâu giải tán trong bực bõ, Tề không có cớ thì cũng không thể đánh Tấn, lúc này Triệu Tắc một mình về Tấn làm gì? Dù ở Tân Giáng còn có Vu An, nhưng hai người họ có thể làm gì được cả nước Tấn lớn mạnh như thế cơ chứ? Cô không phải kẻ điên rồ nên không cách nào tưởng tượng ra được hai người đàn ông phát điên vì thù hận ấy sẽ đưa ra quyết định khủng khiếp nhường nào.
Suốt cả chặng đường, Triệu Tắc chẳng nói với cô câu nào. Thế nên khi trông thấy Đạo Chích tóc hung hung và hàng lều trại trải dài vô tận trong khe núi giao giới với Tấn, Thập mới bàng hoàng.
Vô Tà từng gọi nơi này là “thung Mê”, vách núi dựng đứng, thác nước đổ dài như dải lụa bạc, cảnh tượng Vô Tà cùng Tư nô đùa tập kiếm với Đạo Chích vẫn rành rành trong đầu cô như mới hôm qua. Vậy mà giờ đây bãi cỏ xanh như tấm thảm chẳng thấy đâu nữa, thay vào đó là những lều trại trắng xám san sát và những người đàn ông áo quần lếch thếch, tay cầm đao kiếm.
“Này, kéo ta đi đâu thế?” Triệu Tắc vừa quay lưng, Thập đã kéo tuột Đạo Chích đi. Giày cỏ của Đạo Chích đứt mất dây buộc, y đành lê giày lẹp xẹp theo sau cô.
Nơi này đông người lắm tai mắt, Thập muốn tìm chỗ nào đó vắng vẻ để hỏi chuyện Đạo Chích, nhưng đi mãi vẫn thấy người qua kẻ lại xung quanh, cô nhìn những lều trại trải dài tít tắp, cảm thấy hoang đường đến cực điểm.
“Này, có phải ta làm ngươi to bụng đâu, ngươi kéo ta làm gì? Có gì thì nói, đừng đi loanh quanh mãi!” Đạo Chích xoay tay giữ Thập lại, ép cô dừng bước.
Thấy y đã bước một chân vào miệng vực mà vẫn nhơn nhơn như không, Thập giận điên người, “Tôi hỏi ông, những người ở đây là thế nào? ông đem bọn họ ra trao đổi gì với Triệu Tắc? Năm xưa ông nói muốn làm việc lớn, chẳng lẽ việc lớn ông muốn làm là dẫn một đám người đến Tân Giáng tìm cái chết à?”
Cô quát một chặp, làm cả bãi đất vốn đang ồn ào chợt lặng phắc. Dăm kẻ lảng vảng gần đó dừng chân, mười mấy cái đầu đen nhánh nhất loạt từ những căn lều trại hai bên ló ra, tò mò nhìn Thập và Đạo Chích.
Đạo Chích xòe tay ra với Thập, cô chau mày, xoay người toan đi.
Đột nhiên, Đạo Chích gân cổ lớn tiếng hỏi đám người đang xúm xít xung quanh, “Các anh em, bảo cho cô ả bụng chửa này biết, có phải các người theo Liễu Hạ Chích ta tới Tân Giáng chịu chết không?”
“Không!” Cả đám cười ran hô vang.
“Nghe thấy chưa, họ đâu có cùng ta đi tìm chết.” Đạo Chích vỗ nhẹ lưng cô rồi vác kiếm lắc lư đi về phía thác nước.
“Ông đừng có đi! Họ rốt cuộc là ai vậy? Trộm cướp à?” Thập vội đuổi theo.
“Ta mới là trộm cướp, họ không phải.” Đạo Chích cười, vò đầu một thiếu niên đứng ven đường.
“Nếu họ không phải trộm cướp, sao ông phải giấu họ ở đây? Cha tôi muốn giết tứ khanh báo thù, Tề lại không thể xuất binh nên ông ta mới tìm đến ông. Ông ta hứa hẹn với ông cái gì? Ông ta hứa hẹn gì ông cũng đừng tin, ông ta lợi dụng ông đấy.”
“Ta có điều ta muốn, y cũng có điều y muốn, không thể nói là ai lợi dụng ai được.”
“Ông ta muốn giết người trả thù, còn ông muốn gì?”
“Ta muốn tự do.”
“Đạo Chích ông còn thiếu tự do à? ông muốn đi thì đi, muốn đến thì đến, vừa mắt cô ả nào thì bắt đi, chơi chán lại vứt người ta bên đường giữa đêm hôm, ông còn muốn tự do thế nào nữa hả?” Cô đúng là mang thai không to bụng chỉ lớn lối, mấy câu của Đạo Chích làm cô giận đến tức cả ngực.
“Không phải tự do cho ta, mà cho bọn họ.” Đạo Chích dừng chân nhìn đám người đang đi lại xung quanh.
Bọn họ ư?
“Những người này đều là nô lệ à?” Cô ngạc nhiên hỏi.
“Cửu Nguyên, Hoắc Thái sơn, Hạ Dương, Khúc Lương, Ti Nhĩ sơn… bốn ngàn nô lệ bỏ trốn từ khắp nơi trên đất Tấn đều ở trong khe núi này.”
“Nô lệ bỏ trốn! Trời ạ, sao ông lại làm ra chuyện này! Không được chủ nhân cho phép, không có giấy thông hành của ty dân, họ bỏ trốn thì dễ, nhưng nếu bị bắt sẽ phải tội chết đấy!”
“Chủ nhân cái rắm! Trời đất sinh ra vạn vật, dựa vào đâu mà chia sang hèn? Huyết thống à? cầm kiếm rạch một đường mà xem, vua chúa hay nô lệ, máu nào chẳng màu đỏ? Sinh ra trong nhà quý khanh thì một bãi cứt chó cũng chẳng lo cơm áo. Trong khi các nô lệ cực nhọc ngày đêm, trồng ra lương thực thì không được ăn, gặp lúc thiên tai còn bị buộc thừng đem đi thiêu, hiến tế cho thần linh thờ ơ vô tình nào đó. Trước giờ chưa một ai nghĩ đến sự bất công ấy à?”
“Ông đang nói tới thành doãn Cửu Nguyên nhỉ?” Năm xưa cả vùng Cửu Nguyên mạ chết khô hết, thành doãn bèn cho tế sống rất nhiều nô lệ, cứ ba ngày hiến tế một lần, mỗi lần thiêu chết mấy chục nô lệ. Về sau các nô lệ nổi loạn bỏ trốn, Triệu Ưởng còn trách tội thành doãn Cửu Nguyên. Ty dân nước Tấn từng cho người lùng bắt những nô lệ này trên cả nước, nhưng không tìm thấy tung tích. Hóa ra là Đạo Chích đã cứu họ. “Cửu Nguyên nổi loạn vào năm thứ ba mươi mốt thời Định công, nô lệ ở Hoắc Thái sơn bỏ trốn vào năm thứ ba mươi tư thời Định công, cả Hạ Dương, Khúc Lương nữa, ông bỏ ra bảy năm xây dựng nên cánh quân nô lệ này, định làm gì vậy?”
“Ta đã nói rồi mà, ta muốn đem lại tự do cho họ.” Đạo Chích lạnh lùng.
“Tự do của họ chỉ quân chủ mới có thể ban cho thôi!”
“Vậy thì ta ép hắn ban!” Đạo Chích đá văng một con thằn lằn núi chắn đường, phẩy tay áo bỏ đi.
Thập ôm bụng đuổi theo, nhưng Đạo Chích chẳng buồn để ý tới cô, thoắt chốc đã mất dạng.
Nuôi dưỡng, huấn luyện một đội quân nô lệ bốn ngàn người cần rất nhiều tiền bạc, một mình Đạo Chích không thể làm nổi. Sau khi Trịnh bá nuốt lời, Triệu Tắc đã đi thẳng tới đây, chứng tỏ ông ta đã chuẩn bị phương án dự phòng nếu hội thề Lẫm Khâu thất bại. Trịnh bá là thượng sách, còn cánh quân nô lệ này là hạ sách của ông ta. Ông ta và đám người Tề đứng sau nhất định đã nhúng tay vào việc lập nên cánh quân này ngay từ đầu. Cửu Nguyên, Hoắc Thái sơn, Hạ Dương, Khúc Lương… Thập nhẩm lại các địa danh Đạo Chích nói, một tia sáng chợt lóe lên trong óc.
Mật hàm quẻ Khảm! Bức mật hàm Minh Di tuồn cho cô!
Những địa danh và con số lạ lùng trên mật hàm chính là số lượng nô lệ bỏ trốn ở các nơi và số tiền sử dụng để nuôi quân. Thông qua mật hàm, Khảm chủ muốn báo với họ rằng, người Tề đang lén lút nuôi một cánh quân ở Tấn!
Minh Di nghi ngờ Thiên Xu có kẻ phản bội nên đã dặn Thập không được kể chuyện mật hàm với bất kỳ ai ở Thiên Xu. Về sau Triệu Ưởng cũng vì thế mà xử tử Ngũ Âm. Nhưng giờ cô đã biết, còn một kẻ khác tham gia vào việc giết Khảm chủ, mà Ngũ Âm cũng chỉ chết thay hắn thôi.
“Thập à, ta chỉ mong sau này em không hối hận.”
Cô hối hận rồi, hối hận vì mình không nhận ra dã tâm lang sói của hắn, lại dâng cả Thiên Xu vào tay hắn.
Thiên Xu là con mắt của tộc Triệu, con mắt của Triệu Vô Tuất, vậy mà cô lại để kẻ khác chọc mù mắt Triệu Vô Tuất, khiến hắn trở thành cá nằm trên thớt mặc cho người ta xà xẻo. Sao cô lại không nghĩ ra nhỉ? Khi Tấn Dương động đất, sao những tên áo đen muốn đốt kho lương lại nắm rõ bố cục trong thành như lòng bàn tay? Đám giặc cướp trên Hầu Đầu sơn hành tung bí ẩn, rõ ràng là quân đội đã được huấn luyện. Triệu Tắc và Vu An từ lâu đã âm thầm dệt nên một tấm lưới khổng lồ, mà kẻ bị vây trong lưới là cô lại chẳng mảy may nhận ra.
Đêm ấy cú mèo trong khe núi kêu thâu canh, tiếng bước chân nặng nề nhộn nhạo bên ngoài như giẫm đạp lên cõi lòng cô.
Vô Tuất, Vu An, Đạo Chích, nô lệ, Triệu Tắc, tộc Trần, tứ khanh, Tấn hầu… Cô gạt bỏ tạp niệm, nhắm mắt lại, cố thắp lên từng ngọn đèn trong lòng, có ngọn xa xôi, có ngọn gần bên, có những ngọn lấy ánh sáng quấn vào nhau trong bóng tối. Ngọn đèn nào yếu nhất, ngọn đèn nào dính líu đến nhiều ngọn khác nhất, dập tắt ngọn nào thì có thể xóa cờ chơi lại? Trong thế giới đan xen những bóng cùng đèn, Thập trầm ngâm suy nghĩ.
Chẳng biết bao lâu sau, một tiếng nói xa xăm chợt vọng vào tai cô, “Thập, em đang nghĩ tới ta à? Hiện giờ chắc hẳn em đang nghĩ tới ta, bởi em hận ta, đúng không? Ta… cũng hận em. Hôm ấy ở ngoại ô Khúc Phụ, lẽ ra em nên đi cùng ta, em đã cứu ta bao bận, sao ta xin em cứu ta thêm một lần cuối, em lại không chịu?” Trong bóng tối, một đôi tay lạnh ngắt nhẹ nhàng đặt lên má cô, cô run rẩy nhưng không dám mở mắt ra, chủ nhân bàn tay ấy cầm lấy tay cô áp lên mặt mình, “Tình cờ gặp gỡ, thỏa lòng ước mong. Lòng ta từ lâu đã khắc lên kiếm của em, nhưng em chẳng hề trông thấy. Ta biết em không muốn đi cùng ta, vậy thì thế này, chúng ta cứ căm ghét nhau, tỷ thí với nhau đi, xem cuối cùng ai sẽ sống sót, ai nhớ được ai…”
Lòng bàn tay cô chợt nhẹ hẫng, hơi thở lành lạnh cũng tan biến, một lúc lâu sau cô mới mở mắt ra, tim vẫn đập thình thịch.
Trời sáng rồi, là mơ ư?
Mấy tia nắng vàng nhạt rọi qua khe lều vào trong, sẻ núi đập cánh líu ríu kêu bên ngoài, Thập nhắm mắt lại hít một hơi dài, trở dậy khoác áo bước ra.
Người đi núi vắng, cả hẻm núi trống không chỉ còn độc một mái lều sau lưng cô. Sau một đêm, những lều trại xám trắng lúp xúp chạy dài cùng cả đám người qua lại như mắc cửi trong khe núi đều đã biến mất. Núi xanh, cỏ rậm, hoa rộ, những người mới gặp hôm qua cứ như chưa từng xuất hiện, chỉ mình cô như một người khách lạ từ trên trời rơi xuống, sửng sốt nhìn vách núi sừng sững hoang liêu, không phân biệt nổi đây là mộng hay thực nữa.
“Anh… anh ơi…” Triệu Tắc đi, dẫn cả Lê theo rồi sao?!
Thập định thần lại cuống cuồng gọi, nhưng chỉ nghe thấy từng tràng tiếng vọng, tiếng sau gấp gáp hơn tiếng trước.
“Anh!! Đạo Chích!!!”
“Ấy…” Trong bụi rậm um tùm cạnh vách đá vang lên một tiếng động khẽ.
Thập dừng chân, cả kinh hỏi, “Ai ở đó vậy?”
“Ta đây! Ôi chao, ta chui vào xó xỉnh gì thế này!” Một kẻ vận áo dài lụa tía, đeo ngọc đội mũ lồm cồm bò ra từ giữa đám lá dương xỉ, y lom khom quỳ dưới đất, xâu ngọc đeo thắt lưng bị móc vào dây leo, gỡ mãi không ra, vậy mà vẫn không quên ngóc lên cười toe toét với cô.
“Sao anh lại ở đây?” Thấy Trần Bàn xuất hiện, Thập sửng sốt như gặp ma. Sao Trần Bàn không ở thành Lâm Truy lại chạy đến chỗ hoang vu hẻo lánh này làm gì?
“Có kẻ không yên tâm về cô, khăng khăng đuổi theo tìm cô chứ sao, làm ta mệt chết đi được.” Trần Bàn gỡ được xâu ngọc, phủi tay áo dính đầy lá rụng cành khô rồi ngồi phịch xuống đất, “Cô nương của ta ơi, sao cô không ngoan ngoãn ở Trịnh, theo tới đây làm gì? Phen này hay rồi, bị cha cô bỏ lại rồi hả! Không sao, để ta ngồi nghỉ lấy sức một lát rồi dẫn cô đi tìm một chỗ sạch sẽ trú chân, sinh con xong lại cùng ta về Lâm Truy.”
“Ai bảo tôi muốn đến Lâm Truy? Tôi muốn về Tân Giáng!” Trông thấy con đường mòn trong trí nhớ ngay sau lưng Trần Bàn, Thập cất bước đi ngay.
“Cô đợi đã, đợi đã.” Trần Bàn nhao tới ôm lấy chân cô.
“Anh bỏ ra đi!” Cô giãy ra, song y quay về phía cánh rừng sau lưng gọi ơi ới, “Trần gia! Tố! Các người mau lên chứ!”
“Em gái!” Bóng cây lay động, Trần Nghịch áo nâu đáp ngay xuống bên cạnh Thập.
“Em út nỗi gì, người ta tìm được anh trai rồi, ngươi bám lấy làm chi?” Trần Bàn lườm Trần Nghịch, bò dậy.
Trần Nghịch chẳng buồn đếm xỉa đến y, chỉ nhíu mày hỏi Thập, “Em không sao chứ? Sao Hàm Đan quân lại bỏ em một mình ở đây?”
“Ông ấy và Đạo Chích định đánh úp thành Tân Giáng ban đêm, sợ em chọc gậy bánh xe nên bỏ em lại. Đại ca dẫn em đến Tân Giáng đi! Hôm nay bất luận thế nào em cũng phải trở về!” Thập níu chặt tay áo Trần Nghịch như kẻ chết đuối vớ được cọc.
“Tân Giáng sắp dấy binh đao rồi, em có chắc mình muốn về không?”
“Chắc chứ.”
“Không được! Cô ấy vác cái bụng vượt mặt kia đến Tân Giáng góp vui nỗi gì? Triệu Vô Tuất bị trọng thương ở phủ Trí, giờ đang ngắc ngoải, ai đến cũng đừng hòng cứu nổi. Lê có Hàm Đan quân săn sóc, càng không cần cô ấy nhọc lòng. Cái thai trong bụng cô ấy chẳng biết bao giờ chào đời, mau đi theo chúng ta mới phải. Tố à, mau khuyên cô ấy đi, chúng ta lặn lội đường xa tới cứu cô ấy, cô ấy không cảm ơn thì chớ, còn đòi đi Tân Giáng đâm đầu vào chỗ chết nữa.” Trần Bàn vội quay ra kéo Tố.
Chẳng đợi Tố lên tiếng, Thập đã nắm lấy tay chị ta trước, “Chị à, em không thể theo mọi người đi Lâm Truy được, em muốn về Tân Giáng cứu người!”
“Em có khỏe không? Đứa bé có khỏe không?” Tố nhìn Thập từ trên xuống dưới một lượt, thấy cô gật đầu mới thở phào, “Em yên tâm, chúng ta không đi Lâm Truy mà đi Tân Giáng, đi ngay bây giờ.”
“Kìa Tố?” Trần Bàn kinh ngạc tái mặt, Thập cũng bàng hoàng không nói nên lời. Tố muốn đi Tân Giáng ư, chị ta muốn tới đó làm gì?
“Thất lễ rồi.” Trần Nghịch cúi xuống bế xốc cô lên.
“Đi thôi.” Tố giục.
“Này, hai người thông đồng với nhau chơi khăm ta đấy à?” Trần Bàn trợn tròn mắt nhìn Trần Nghịch, gã quay ngoắt đi, y lại tru tréo, “Các ngươi không nói sớm để ta đợi dưới chân núi quách cho rồi. Vừa leo bở hơi tai mới lên được, lại phải leo xuống… Đợi đã Tố, đi thì đi, đâm đầu vào chỗ chết có gì khó!”