Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 28

TÂN GIÁNG GẶP NẠN

 

Chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi mà Triệu khanh từ trần, Tấn hầu hoăng thệ, Chu vương băng hà, trên trời sao tàn trăng khuyết, Tử Vi viên động, thiên hạ bất an. Loạn rồi, đã loạn từ lâu rồi. Kinh đô nước Tẩn trắng xóa tang tóc, lê dân không vào được, vậy mà Trần thế tử nước Tề lại dẫn họ nghênh ngang bước vào.

Đời người luôn có những thời khắc đặc biệt, một khi nó tới, chỉ nhìn thoáng qua, lòng cũng đủ nhận ra ngay là vui mừng hay buồn thảm. Thập đứng bên bờ sông Quái nhìn về phía thành Tân Giáng chìm trong nắng mới đằng xa, tường thành chạy dài vẫn nguy nga, cung điện cao ngất vẫn tráng lệ, nhưng nắng mai xuyên qua tầng mây dày chiếu xuống nó lại ánh lên một màu đỏ ối thê lương. Cô vốn không nên đặt chân đến thành trì này, nhưng cô đã đến, còn gặp được tình yêu của mình ở đó. Về sau cô hết lần này tới lần khác rời khỏi nó, rồi lại hết lần này tới lần khác bôn ba nghìn dặm quay về. Nó là vùng trời mà cô không sao vòng tránh khỏi, là điểm khởi đầu cho sinh mệnh của cô, có lẽ cũng sẽ là điểm cuối.

Mặt trời lên đến đỉnh đầu, cổng thành vẫn đóng im ỉm. Tân quân có lệnh: đóng cửa thành bảy ngày để tưởng niệm Kính vương vừa băng hà.

Chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi mà Triệu khanh từ trần, Tấn hầu hoăng thệ, Chu vương băng hà, trên trời sao tàn trăng khuyết, Tử Vi viên động, thiên hạ bất an. Loạn rồi, đã loạn từ lâu rồi. Kinh đô nước Tấn trắng xóa tang tóc, lê dân không vào được, vậy mà Trần thế tử nước Tề lại dẫn họ nghênh ngang bước vào.

Thành Tân Giáng lúc này lặng như tờ, chẳng khác một tòa thành chết, tất cả chém giết đã kết thúc trước bình minh. Bốn ngàn nô lệ muốn tấn công vào Tân Giáng thì chẳng khác gì đâm đầu vào chỗ chết, nhưng nếu có kẻ nửa đêm mở cổng thành cho họ vào thì giết mấy trăm lính trong phủ đang say ngủ, khống chế mấy phủ viện dễ như trở bàn tay.

Thập chẳng còn bụng dạ nào nghĩ xem mọi người trong thành đã đi đâu, cũng chẳng còn tâm trí nhìn kỹ những vết máu chạy dài dọc con phố khi thi thể bị kéo đi nữa, chỉ muốn tới một nơi, chỉ ước ao cơ thể nặng nề của mình đi nhanh được thêm một chút, thêm chút nữa. Nhưng sao con đường này cứ dài đằng đẵng, sao trái tim cô cứ đập mạnh thế này…

“Không được chạy!” Trần Nghịch chắn trước mặt Thập, “Em nôn nóng như thế chỉ làm tổn thương bản thân và đứa bé thôi, em đợi ở đây, ta tới phủ Triệu giúp em tìm người.”

“Đúng, chị sẽ đi với Trần Nghịch.” Tố chạy tới bên cạnh Trần Nghịch.

Trần Bàn nhìn ba người, vẻ bất lực, “Các người cuống lên cũng được ích gì? Đêm qua Hàm Đan quân đã vào thành, Triệu Vô Tuất nếu chết thì đã chết rồi, nếu chưa chết thì một kẻ sống dở chết dở như thế chẳng lẽ còn mọc cánh bay mất được à? cả gã Trương Mạnh Đàm cô muốn tìm nữa, đúng là giả chết thành nghiện mất rồi! Lần này nếu họ Trương kia chưa chết thật, ta phải cho người cắt đầu hắn mới được. Ta không tin hắn mất đầu rồi lại mọc ra được một cái mới!”

Trương Mạnh Đàm chưa chết ư? Thập kinh ngạc nhìn Tố.

Bị Trần Bàn vạch trần tâm sự, Tố cúi đầu căm hận đáp, “Khỏi phiền thế tử ra tay, nếu kẻ kia thực sự chưa chết, ta chỉ hỏi hắn một câu, hỏi xong sẽ tự tay giết hắn.”

“Cô định lừa ta hay lừa chính cô đấy?” Trần Bàn nhìn gương mặt kiên quyết của Tố, rầu rĩ thở dài.

“Tố Kỳ nói được làm được.”

“Tố à, ta không muốn thấy cô giày vò bản thân ra thế này đâu. Cô buồn rầu, ta cũng không vui vẻ được. Nếu Trương Mạnh Đàm ở Tân Giáng thật, cô cứ trói gô hắn lại đem đi. Về Lâm Truy, ta sẽ bẩm với tướng phụ rằng Tố Kỳ mà ông ấy xem trọng nhất đã chết, chết ở Tân Giáng, chôn ở Tân Giáng rồi. Từ nay về sau, cô và tộc Trần ta không còn liên quan, Trần Bàn ta với cô cũng chẳng bạn bè gì nữa. Chân trời góc bể, cô và hắn tự sinh tự diệt đi!”

“Thế tử…” Tố thảng thốt nhìn Trần Bàn.

Trần Bàn cười, “Đừng nhìn ta như thế, nhìn nữa ta khóc mất đấy.” Kẻ mồm mép tép nhảy như y miệng thì đùa mà giọng lại hơi nghèn nghẹn, nói xong, y không nhìn Tố nữa, quay sang bảo Trần Nghịch, “Đi thôi, chúng ta tới phủ Triệu tìm người.”

Từ đêm được Đạo Chích cứu khỏi phủ Triệu, Thập đã bao lần quay lại nơi này trong mơ, nhưng dù ở trong mơ, nó cũng không tiêu điều như thế này. Một mặt tường giáp phố đổ sập, đá vụn ngói vỡ ngổn ngang đầy đất, hai cánh cổng xưa kia đường bệ trang nghiêm cũng bị vật nặng xô vỡ, một cánh khép hờ, cánh kia bị gỡ ra gác chênh chếch trên thềm. Trần Bàn giẫm lên cánh cổng mà đi, nhưng được nửa đường lại lật đật lùi lại, vừa chửi thề vừa chùi lấy chùi để đế giày xuống đất.

“Sao thế?” Trần Nghịch hỏi.

“Xui xẻo quá, định giẫm lên cổng nhà Triệu Ưởng, nào ngờ giẫm phải toàn thịt người chết.” Trần Bàn tức tối giậm chân. Thập cúi đầu nhìn nền đất loang lổ vết máu trước cổng phủ, trái tim nặng trĩu chìm hẳn xuống.

“Vào đi!” Tố dìu Thập bước qua cổng phủ Triệu.

Triệu Bá Lỗ đã chết, Triệu Ưởng cũng chết, cả phủ Triệu vẫn giăng kín lụa trắng, tang tóc như một linh đường lớn. Thập chạy thẳng tới chỗ ở của Triệu Vô Tuất, dọc đường từng cành cây ngọn cỏ đều thân quen, nhưng những gương mặt trông thấy lại hoàn toàn xa lạ, có kẻ hành lễ với Trần Bần, có kẻ chào hỏi Tố, tất cả hoang đường vô lý như ảo cảnh.

“Người đâu? Người ta bảo các ngươi canh giữ đâu rồi?” Còn chưa tới cổng khu nhà Triệu Vô Tuất đã nghe bên trong vang lên tiếng quát tháo như sấm của Vu An.

Trần Bàn nhíu mày, vượt lên trước Thập, cùng Tố lách vào cổng. “Ai bỏ trốn cơ?” Y vội hỏi.

“Trần thế tử đến sớm quá nhỉ?” Nghe giọng Trần Bàn, Vu An nén giận lạnh lùng quay lại.

Trần Bàn cũng chẳng buồn thi lễ với hắn, xăm xăm bước lên thềm, “Tướng phụ không yên tâm nên sai ta tới trước xem sao. Ai bỏ trốn thế? Không phải Triệu Vô Tuất chứ?”

“Triệu thế tử trốn mất rồi, tôi đã truyền lệnh lùng bắt toàn thành.” Ánh mắt Vu An vượt qua Trần Bàn dừng lại ở Thập, cô siết chặt nắm tay, hắn cũng nhíu mày.

“Hắn trốn thật rồi à, sao có chuyện như thế được? Chẳng phải ngươi nói hắn đã liệt giường mấy tháng, tay chân tàn phế cả rồi ư? Một kẻ tàn phế sao có thể trốn thoát ngay trước mũi các ngươi được? Trốn từ lúc nào? Không phải trốn ra khỏi thành rồi đấy chứ?” Trần Bàn đảo một vòng trong nhà, hiếm khi thấy y hoang mang như vậy.

Song Vu An không hề hoảng hốt, hắn lạnh băng như đống tuyết xanh sẫm lúc bình minh ngày đông. Thấy Thập bước từng bước đến dưới thềm, hắn nhìn xoáy vào mắt cô, nói với vẻ uy nghiêm đáng sợ, “Thế tử yên tâm, Triệu Vô Tuất không thoát nổi đâu.”

“Tốt nhất là không để thoát.” Trần Bàn liếc Thập, mặt cũng sa sầm.

“Trần thế tử, việc tộc Triệu tại hạ và Hàm Đan quân sẽ tự lo liệu, thế tử ở lại đây bất tiện lắm, mau đi đi là hơn. Bệ hạ đang cho đòi có việc gấp, tại hạ cáo từ trước!” Vu An chắp tay vái Trần Bàn rồi xoay người dẫn các hộ vệ bước xuống thềm.

Thập nhìn hắn chòng chọc, quên cả chớp mắt, nhưng hắn thờ ơ đi ngang qua, chẳng buồn nhìn cô.

“Chuyện này là sao hả?” Vu An đi rồi, Trần Bàn đột ngột gầm lên hỏi một kẻ hầu quỳ trong góc phòng.

Kẻ hầu nọ Thập thấy quen quen, hẳn là người xưa kia hầu hạ Triệu Ưởng, hắn lê tới mấy bước, cung kính thưa với Trần Bàn, “Bẩm thế tử, đêm qua người còn ở đây, á lữ tới định giết hắn, kiếm đã kề lên cổ nhưng Triệu thế tử vẫn bất động. Lúc tảng sáng, nghe bên ngoài chém giết náo loạn, đám thủ vệ sốt ruột ra ngoài ngó thử, nào ngờ quay đi quay lại người trên giường đã biến mất.”

“Rặt những hạng vứt đi! Triệu Vô Tuất liệt thật hay liệt giả, chúng nhìn không ra, ngươi cũng mù nốt à?”

“Nô tài đáng chết!” Kẻ nọ run bắn, phủ phục xuống đất.

Trần Bàn siết chặt nắm đấm đi đi lại lại trong phòng, lại xẵng giọng quát, “Ta hỏi ngươi, tông chủ, tông tử hai tộc Hàn, Ngụy đều bị quân nô lệ giết cả rồi chứ?”

“Bẩm thế tử, đã bắt lại cả rồi, nhưng chưa giết. Hàm Đan quân và á lữ nói phải đợi lệnh vua mới giết.”

“Đã đến nước này, hai kẻ đó còn muốn kính vua giữ lễ, danh chính ngôn thuận lập công phong khanh, ôi chao, vua vua tôi tôi, rốt cuộc là giữ lễ hay giữ cái tiếng hão đây?” Trần Bàn cười chế nhạo rồi bảo Trần Nghịch, “Trần gia, tình hình thay đổi rồi, chúng ta mau rời thành thôi!”

“Đợi đã!” Thấy Trần Bàn định đi, Tố chen lên trước mặt kẻ hầu ban nãy, gặng hỏi, “Trong những ngày ở bên Triệu Vô Tuất, ngươi có thấy một người tên Trương Mạnh Đàm tới tìm hắn không?”

Kẻ nọ lập cập ngước lên, “Bẩm Tố cô nương, Triệu Ưởng vừa qua đời, Triệu thế tử đã bị giam lỏng ở đây, chẳng có mấy người qua lại thăm nom, cũng không thấy kẻ nào tên Trương Mạnh Đàm cả.”

“Không thể nào, nếu hắn chưa chết chắc chắn sẽ tới tìm Triệu Vô Tuất. Ngươi nhớ kỹ lại xem. Trước khi Triệu Ưởng qua đời thì sao? Ngươi có nhác thấy kẻ nào vóc người cao gầy, mặt mày nho nhã, mu bàn tay phải có một vết bỏng lớn không?”

“Ờm…”

“Nói mau!” Tố bấu mạnh vào vai hắn.

Bị đau, hắn cuống quýt đáp, “Bẩm, bẩm Tố cô nương, trong lễ tang Triệu Ưởng, bên cạnh thái sử Mặc có một vu sĩ tay mang vết bỏng thật, kẻ nọ còn ở lại trong phủ mấy ngày, về sau chẳng biết đi đâu mất.”

“Chắc chắn là hắn. Hắn chưa chết, hắn vẫn còn sống.” Tố thẫn thờ buông gã hầu ra, mí mắt rung động, như muốn cười, lại như muốn khóc, khóe môi vừa chớm hé nụ cười đã bị nỗi buồn mênh mang che lấp, “Quả nhiên hắn lén đọc thư mật của ta, hắn là tên lường gạt, lừa ta lâu như thế…”

“Đau lòng vì tên bội bạc đó làm gì.” Trần Bàn đi đến nhẹ nhàng choàng vai Tố, mi mắt Tố khẽ chớp, hai hàng lệ lăn dài, Trần Bàn siết chặt vai Tố, dịu giọng dỗ dành, “Thôi mà, đừng buồn nữa, tìm được người rồi hỏi cho rõ ràng, nếu hắn quả thật vô tình thì cứ giao cho ta, khỏi cần cô bẩn tay. Trương Mạnh Đàm đã gặp được Triệu Vô Tuất thì nhất định Triệu Vô Tuất đã biết kế hoạch của Hàm Đan quân từ sớm rồi. Hai kẻ này muốn bỏ trốn, ắt sẽ liều chết chạy khỏi thành. Cô có mạo hiểm lục tung cả thành lên cũng vô ích, chi bằng cùng ta rời thành đi!”

“Phải, Mạnh Đàm đọc thư của ta xong nhất định sẽ dẫn Triệu Vô Tuất rời thành. Thập à, chúng ta ra khỏi thành đợi họ đi!” Tố giơ tay kéo Thập, thấy cô lùi lại thì ngạc nhiên hỏi, “Sao thế, em vui đến hồ đồ rồi à? Triệu Vô Tuất không có ở đây, hắn chưa chết, hắn bỏ trốn rồi. Chúng ta mau rời thành đi tìm họ thôi!”

“Trước giờ em vẫn không hiểu vì sao vỏn vẹn bốn ngàn nô lệ lại có thể khống chế cả thành Tân Giáng, vì sao cả ngàn hộ dân trong thành nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, giờ mới vỡ lẽ, Tấn hầu không hề bị ép buộc mà cũng tham gia vào việc này, muốn mượn tay cha em và Vu An giết chết tứ khanh, phải không?” Thập không trả lời Tố, chỉ nhìn chằm chằm Trần Bàn. Triệu Tắc để vuột mất Trịnh bá nhưng vẫn không thoái chí, hóa ra trong tay sẵn còn một Tấn hầu.

Trần Bàn liếc Tố, gật đầu, “Cô đoán không sai. Mấy năm trước, Tấn thái tử Tạc từng bí mật gửi thư cho Tề hầu và tướng phụ, xin họ xuất binh giúp diệt tứ khanh, nên cha cô không phải phản thần mà là công thần. Một khi thành công, ông ta sẽ vào triều phong khanh, cô sẽ là con gái dòng chính của chính khanh, cao quý khôn xiết.”

“Tứ khanh vộ tội, vô cớ tru diệt, lấy đâu ra công trạng?”

“Trả lại triều chính cho Tấn hầu, công danh ắt có Tấn hầu ban thưởng.”

“Ha ha ha…” Nghe Trần Bàn nói, Thập bất giác phá lên cười, “Trần thế tử nói buồn cười thật đấy. Anh tưởng tôi là trẻ con ba tuổi đấy à? Nếu cha tôi và Vu An có công thì công lao của họ cũng không phải tru diệt tứ khanh mà là mượn binh lực tộc Trần các người quét sạch bốn ngàn nô lệ tràn vào thành ‘cướp bóc đốt phá, tàn hại khanh tộc’ đúng không? Kẻ dưới lấn người trên, kẻ hèn giết người sang là bất kính lớn. Tấn hầu sẽ không đời nào làm trái lễ mà ban tự do cho những nô lệ ấy. Đạo Chích và cánh quân nô lệ của ông ta là thanh kiếm sát nhân của các người, thay các người giết tứ khanh xong, lại trở thành đá lót đường cho các người. Xương cốt bốn ngàn người chồng lên, đủ để các người leo lên tận trời, đủ để tôi cao quý khôn xiết.”

“Tướng phụ nói không sai, đàn bà thông minh quá quả nhiên không hay ho gì.” Mặt Trần Bàn thoắt chốc lạnh tanh.

Thấy vậy Tố vội bước lên khuyên nhủ, “Thập à, em theo bọn chị rời khỏi thành đi! Muốn thành việc lớn ắt phải hy sinh, em phải hiểu đạo lý này chứ.”

“Không, em không hiểu, nô lệ cũng là người, họ liều chết vào thành là muốn được tự do chứ không phải hy sinh.”

“Họ chết cũng là để trả lại triều chính cho quân chủ thôi.”

“Đường đường quân chủ mà nói lời không giữ lời, trong khi hạng giặc cướp lại coi lời hứa tựa ngàn vàng, ai sang ai hèn, hôm nay rốt cuộc tôi cũng thấy rõ rồi.” Nhớ lại lời Đạo Chích nói trong khe núi hôm ấy, Thập bật cười chế nhạo.

“Em à, giờ là lúc nói mấy lời lảm nhảm ấy sao? Nếu em muốn ở lại cứu đám nô lệ kia thì sớm muộn cũng mất mạng. Em chết là quyết định của em, đừng liên lụy đến đứa bé trong bụng. Mạnh Đàm chưa chết, Triệu Vô Tuất giờ chắc chắn cũng đã chạy khỏi thành tìm cứu viện, lẽ nào em muốn ở lại trong thành này, bị tường thành và lửa chiến tranh ngăn cách, không gặp được hắn ư?”

“Những lời chị nói em đều hiểu cả, nhưng em không thế giương mắt nhìn Đạo Chích và các anh em của ông ta chết được. Tiểu Nha nhi sẽ hiểu cho em, Vô Tuất cũng sẽ hiểu cho em. Em sẽ không chết, cũng không để thành Tân Giáng thây chất thành núi đâu.” Tố chôn giấu những lương thiện và ấm áp của mình sâu trong xương tủy, không dễ để lộ cho người khác thấy nên trước kia Thập sợ hãi, đề phòng, hãm hại Tố, vậy mà giờ lại cảm động khôn xiết trước tấm lòng chân thành ấy.

“Ngu xuẩn, ngay khi xông vào thành, đám nô lệ ấy đã là người chết rồi, cô không cứu nổi chúng đâu.” Trần Bàn lạnh lùng lên tiếng.

“Tôi chưa thử, sao biết không làm được?”

“Ôi, Thập cô nương à, Trần Bàn ta bình sinh rất hiếm khi bái phục kẻ khác, cô là một trong số ít những người ta bội phục đấy. Tiếc rằng cô thông minh mẫn tiệp thật, nhưng không nhìn thấu mệnh trời. Đi ngược ý trời, khó mà có kết quả tốt được.”

‘“Phượng hoàng bay đôi, tiếng hót vang xa, con cháu về sau, hiển hách cửa nhà. Cháu chắt năm đời, làm tới chính khanh. Đến đời thứ tám, nắm trọn quyền hành.’ Tộc Trần nắm được mệnh trời, nhưng thế gian có muôn vạn nẻo đường, anh có chắc con đường các người đang đi là đúng không? Nếu đi nhầm vào lối rẽ, sẽ vĩnh viễn không bao giờ tới được đích đến đâu.”

“Cô…” Trần Bàn cứng họng.

Thập cười nhạt tiếp, “Trần thế tử rất quan tâm tới việc sống chết của tông chủ, tông tử hai tộc Hàn, Ngụy. Vậy sao anh không hỏi tộc Trí? Trí Dao thân là chính khanh, sự sống chết của hắn chẳng phải còn quan trọng hơn ư? Hay Trần thế tử đã sớm biết tình hình Trí Dao rồi?” Thập nhìn chằm chằm Trần Bàn không chớp mắt, hy vọng y có thể phân trần, cũng hy vọng suy đoán đáng sợ trong lòng mình là sai.

Trần Bàn nhìn cô, lặng thinh hồi lâu rồi bảo Trần Nghịch, “Trần gia, để cô ta ở lại, chúng ta đi.”

“Thập!” Tố cuống lên, càng kéo Thập mạnh hơn.

Thập thầm thở dài, giơ tay ôm Tố, Tố cũng ôm chặt cô, “Em à…”

“Chị đừng hỏi gì cả, sau khi rời thành, chị nhớ tách khỏi Trần Bàn, đi thật xa, Trương tiên sinh sẽ tìm thấy chị thôi.” Cô rỉ tai Tố.

Tố kinh ngạc ngước nhìn Thập, cô bóp chặt tay Tố, cười nói, “Cảm ơn chị. Chị mau đi đi, Trương tiên sinh đang đợi chị đấy!”

“Đi thôi!” Trần Bàn kéo Tố ra ngoài, đi được mấy bước lại ngoái đầu giục Trần Nghịch. Triệu Vô Tuất trốn mất, Trần Bàn còn sốt ruột hơn hết thảy.

Trần Nghịch đứng ì ra tại chỗ, nghe Trần Bàn gọi, gã lại sải bước đi về phía Thập, “Ta ở lại cùng em đi tìm Đạo Chích.”

“Đại ca…” Ánh mắt Trần Nghịch hằn sâu đau đớn, Thập biết lúc này gã đang nghĩ gì, nên vừa cảm động vừa xót xa. Quân tử và trộm cướp, hai con người vốn khác nhau trời vực, vậy mà trước tình nghĩa sinh tử lại giống nhau đến lạ lùng.

“Trần Nghịch, đi hay ở vốn không phải ngươi tự quyết được, ngươi chớ có quên lời thề của mình.” Trần Bàn giận dữ quát.

Gương mặt Trần Nghịch thoắt chốc tái hẳn. Có những người coi lời thề như một sợi xích khóa chặt lấy trái tim, một khi xích bị kéo căng, sẽ đau đến mức không thể tự chủ.

“Đại ca, em không sao đâu.” Thập cười, cởi miếng ngọc bích đeo trên cổ đặt vào tay Trần Nghịch, “Trận Ngải Lăng, em còn nhỏ quá, không phá hỏng được việc lớn của tướng gia nhà anh. Giờ em đã có kế hay, quyết không để Đạo Chích phải trơ mắt nhìn các anh em của ông ấy chết đi. Mấy năm nay đại ca đã săn sóc em rất nhiều, miếng ngọc này em đeo trên mình nhiều năm, xin gửi chỗ đại ca, ngày sau gặp ở đầm Vân Mộng, đại ca trao lại nó cho em để đổi lấy rượu uống nhé.”

“Em…” Trần Nghịch cúi đầu siết chặt con cáo nhỏ chạy nhảy giữa mây lành, nắm lấy miếng ngọc trong lòng bàn tay, “Trần Nghịch thực thẹn với chữ ‘Nghĩa’, nhờ em thay ta tạ tội với Liễu Hạ huynh.”

“Được.”

“Còn nữa… xưa nay ta không nhận hậu lễ, miếng ngọc này em nhớ phải tới lấy lại đấy.”

“Vâng.” Thập gật đầu cười.

Lúc Tư tìm thấy Thập, cô đang ngồi một mình trong vườn mộc lan phủ Triệu. Nắng xuân ấm áp, gió mát hây hẩy, mộc lan trắng muốt như ngọc nở hết cây này sang cây khác trước mặt cô, có bông nở bung, có bông mới chớm hé, từng đóa từng đóa rung rinh trên cành cây đen thẫm. Triệu Ưởng thích mộc lan nên trong vườn trồng đầy thứ cây này. Năm xưa cô lần đầu tới phủ Triệu, Triệu Vô Tuất đã nói muốn dẫn cô tới đây ngắm mộc lan. Về sau, cô và hắn đã đến đây mấy lần, nhưng cô chưa bao giờ ngắm tới mức cay sè hai mắt như thế này.

Cô đã nói dối Trần Nghịch, cô là người, không phải thần linh, trước cục diện hỗn loạn ngày nay, cô vốn chẳng có kế sách gì cả.

Đây vốn là một cuộc tàn sát được trù tính đã lâu, mọi người đều ôm lòng tin tất thắng và quyết tâm liều chết bước ra chiến trường. Đối với họ, được mất, sinh tử chỉ cách nhau một đường tơ, ai nấy đều căng thẳng tột độ, một mảy may sai lệch so với kế hoạch cũng có thể khiến họ kinh hoảng luống cuống, sau đó muốn kháng cự lại theo bản năng. Vu An không muốn thừa nhận Triệu Vô Tuất đã trốn thoát, Đạo Chích không muốn tin Tấn hầu đã lừa gạt mình, cha cô có lẽ càng không thể tin nổi rằng tộc Trần mà ông ta một lòng tin tưởng vào khoảnh khắc mấu chốt cuối cùng lại hợp tác với tộc Trí, phản bội ông ta, lợi dụng ông ta, hy sinh ông ta. Sự thật tàn nhẫn rõ ràng đã phơi bày trước mắt mỗi người, song chẳng một ai chịu tin cả. Cô còn biết làm gì đây? Cô chỉ có thể ngồi đây ngắm cảnh xuân tươi đẹp, đợi bi kịch lần lượt diễn ra.

“Thập à, mình vừa thấy ông chú tóc hung ở cổng, chú ấy vội vã đi đâu thế?” Tư hỏi.

“Ông ta vào cung gặp bệ hạ.”

“Chú ấy gặp bệ hạ làm gì?” Tư tò mò ngồi xuống cạnh cô.

“Không biết nữa.” Thập ngắm mộc lan trắng đến lóa mắt trong sân, lòng mờ mịt. Những lời cần nói cô đã nói với Đạo Chích cả rồi, y nghe được bao nhiêu, hiểu được bao nhiêu, cô không rõ. Tấn hầu Cơ Tạc từng vẽ ra cho y một giấc mộng đẹp, trong mơ Cơ Tạc sẽ luận công ban thưởng cho tất cả nô lệ vào thành, đốt khế ước bán thân, phát giấy thông hành, lập hộ tịch, để họ từ những nô lệ bỏ trốn trở thành người tự do vô tội. Giờ quân nô lệ đã vào thành, nếu Cơ Tạc không thể thực hiện lời hứa, Đạo Chích sẽ dẫn người rời khỏi Tân Giáng hay nổi giận giết vua, làm cho ngọc đá đều nát, cô không biết được. Vu An và Triệu Tắc hay được âm mưu của tộc Trần và tộc Trí sẽ phản ứng ra sao, cô cũng không thể lường trước. Cô chỉ hy vọng tất cả bọn họ có thể tạm thời buông xuống dục vọng và cừu hận trong lòng, kịp rời bỏ tòa thành Tân Giáng đã bị cái chết bủa vây này trước khi quân đội tộc Trần và Trí Dao vây thành.

“Thập à, Triệu Vô Tuất không còn ở đây, sao cậu vẫn ở lại?” Thấy Thập ngồi ngẩn người ra, Tư nâng mặt bạn, ép cô xoay về phía mình.

Thập nhìn vào mắt bạn, hỏi ngược lại, “Vậy sao cậu không rời thành? Trước khi dẫn quân nô lệ vào thành, hẳn Vu An đã dặn cậu phải dẫn Đổng Thạch rời thành tránh họa, sao cậu không nghe lời hắn? Ở đây nguy hiểm lắm, hắn không bảo cậu à?” Hôm nay Tư mặc chiếc áo đơn bằng lụa xanh ngọc thêu oanh vàng, nẹp áo đỏ thêu chìm những hoa văn mây cuốn, quấn quýt lấy nhau. Giữa cục diện nguy khốn thế này Tư lại ăn vận lộng lẫy như vậy, khiến Thập đâm lo.

Tư buông tay ra, cười buồn thảm, “Chàng chỉ nói đúng một câu ‘thành phong khanh, thua vong mạng’, ngoài ra chẳng nói gì hết. Thập à, có phải mình ngu ngốc lắm không? Chắc chàng thấy mình ngu ngốc nên chẳng chịu nói gì với mình cả. Có khi Dương còn giỏi giang hơn mình, ít ra cô ta còn giúp đỡ được chàng, hiểu được lời chàng nói.”

“Không phải Vu An không chịu nói với cậu, mà hắn ta biết việc hắn muốn làm, cậu nhất định sẽ không chịu giúp.”

“Mình chẳng giúp gì được chàng cả, còn gây họa lớn cho chàng…” Tư chưa nói hết câu, cặp mắt hạnh đã ầng ậng nước.

“Sao cơ?”

“Mình đã đánh cắp lệnh bài của phu quân, thả Triệu Vô Tuất và Trương tiên sinh đi, mình không muốn cậu đau khổ, cũng không muốn Tiểu Nha nhi vừa chào đời đã mồ côi cha. Có phải mình gây họa lớn rồi không? Phu quân và chú tóc đỏ vội vã vào cung gặp bệ hạ như vậy, có phải vì mình đã gây ra họa lớn không?”

“Cậu cứu Hồng Vân nhi ư? Chàng trốn khỏi thành thật rồi à? Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu nhé!” Thập mừng rỡ khôn xiết, ôm chầm lấy Tư, nhưng Tư lại dựa vào vai cô khóc nấc lên. Cô vội buông Tư ra, vừa lau nước mắt cho bạn vừa an ủi, “Đừng khóc, không phải cậu gây họa đâu, bên ngoài xảy ra vài chuyện, nhưng không liên quan gì tới cậu, cũng chẳng liên quan gì tới Vô Tuất cả. Cậu giúp Vô Tuất trốn khỏi thành, có lẽ lại tốt cho Vu An ấy chứ.”

“Thật không?”

“Thật mà.”

“Phu quân sẽ không chết, đúng không?” Tư ngân ngấn nước mắt nhìn Thập hỏi.

“Tư à, mạng của Vu An trước giờ vẫn luôn nằm trong tay hắn ta. Muốn sống, hắn có thể dẫn cậu và Đổng Thạch đi bất cứ lúc nào; nhưng nếu hắn muốn chết, mình xin cậu đừng đi theo hắn.” Thập nắm chặt tay Tư, cô quá hiểu bạn mình, chính vì hiểu nên tuy lúc này Tư đang ngồi ngay bên cạnh, cô vẫn sợ kinh khủng.

“Không, chàng sẽ không chết đâu, chàng sẽ bình an trở về.” Tư không nhận lời Thập, chỉ cúi đầu nhìn chiếc vòng ngọc xanh đeo trên thắt lưng. “Vòng” đồng âm với “về”, Tư đang đợi Vu An về nhà. Nhưng Vu An giờ đây liệu có biết khó mà quay về không?

“Tư à, nghe mình nói này…”

“Thập, cậu cứu phu quân mình được không?” Tư chợt nắm chặt tay Thập, nắm rất chặt, móng tay bấu cả vào lòng bàn tay Thập, song Tư hoàn toàn không nhận ra, “Mình biết những việc chàng làm là sai, chàng không nên giết nhiều người như thế, cũng không nên ôm khư khư thù hận quá khứ. Nhưng trong lòng chàng rất đau khổ, bao năm nay chàng chẳng có ngày nào thực sự vui vẻ cả. Cậu hiểu chàng mà, chàng không phải người xấu đâu, chừng nào chuyện hôm nay qua đi, cậu để mình ở bên săn sóc chàng, rồi một ngày kia chàng sẽ buông bỏ được.”

“Tư à, không phải mình muốn Vu An chết, cũng không phải Vô Tuất và Trương tiên sinh muốn hắn ta chết. Chuyện hôm nay nhất thời mình không thể giải thích rõ cho cậu được, nhưng mình bảo đảm với cậu, Vu An sẽ không chết, chúng ta sẽ không ai chết cả. Để mình nghĩ cách, cậu chờ mình nhé, được không?”

“Được, mình cùng cậu nghĩ, nhất định cậu sẽ có cách mà.” Tư buông tay Thập ra, ngả người tựa đầu vào vai bạn, “Hai bọn mình cùng tìm cách nhé.”

“Ừm.” Dưới tàng hoa rộ, Tư tựa đầu vào vai, bao năm tháng thoắt chốc trôi qua trước mắt Thập như nước chảy. Trong khoảnh sân nhỏ ở Tần, Tư búi tóc trái đào cũng thường ngồi cùng cô nghĩ cách như thế, chẳng nói năng gì, chỉ lặng lẽ ở bên lâu thật lâu. Lúc ấy lẫn bây giờ, điều Thập cần nhất thực ra cũng chỉ là một cái tựa đầu đầy tin tưởng như vậy mà thôi.

Chim ưng ăn thịt bói cá, bói cá ăn cá, cá lại ăn phù du. Các khanh tộc bị tấn công phủ viện là phù du, quân nô lệ của Đạo Chích là con cá nhỏ sa vào vực sâu, Vu An và Triệu Tắc tự cho mình là bói cá giành được phần thắng, đâu biết kẻ địch đáng sợ thực sự đang giương vuốt sắc vồ xuống họ. Sau một đêm huyết chiến, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc. Trong thành Tân Giáng không có kẻ thắng, hết thảy đều là con mồi trong mắt chim ưng, kể cả Tấn hầu.

Muốn chống lại giặc ngoài, phải trên dưới đồng lòng mới thắng được. Nhưng người trong thành này kẻ nào kẻ nấy đều có mưu mô tính toán riêng, Thập muốn cứu họ, song chẳng một ai chịu nghe cô cả. Cô phải làm sao mới có thể thuyết phục họ tin rằng Trí Dao và tộc Trần đang ấp ủ âm mưu khác, phải làm sao mới ép được họ nghe mình đây?

Phải rồi, Đạo Chích, vẫn là Đạo Chích!

“Tư này, cậu mau vào cung giúp mình tìm Vu An và Đạo Chích, đừng để họ đánh nhau trong cung. Nếu Đạo Chích lên cơn định làm khùng làm điên thì cậu bảo ông ta rằng, thứ ông ta muốn bệ hạ không cho được, mình sẽ cho.”

“Chú ấy muốn gì?”

“Thứ quý giá nhất trên đời. Cậu đừng hỏi nữa, mau đi đi, tai họa không chờ người, kiếm của Vu An và Đạo Chích cũng chẳng đợi ai đâu.” Thập kéo Tư đứng dậy.

“Được rồi, để mình đi. Còn cậu?”

“Mình tới phủ thái sử một chuyến, lát nữa sẽ đi tìm cậu.”

“Vậy cậu cầm lấy cái này đi.” Tư xách bọc vải nãy giờ vẫn đặt bên cạnh đưa cho cô.

“Gì thế này?”

“Các thứ của cậu phu quân lấy từ nhà họ Triệu về đấy. Phục Linh Sách, kiếm, ngọc bội nhạn, còn cả… À, mình còn làm cho cậu một đôi giày mới đây. Giờ bụng cậu to rồi, chân chắc cũng phù to, giày cũ đi kích lắm rồi hả?” Tư vừa nói vừa mở bọc lấy ra một đôi giày thêu mới tinh đặt xuống chân cô, “Cậu xỏ thử xem có vừa không. Tay nghề thêu của mình bao lâu nay chẳng khá lên gì hết, cậu đừng chê xấu nhé.”

“Vừa lắm.”

“Còn chưa xỏ mà!”

“Nhìn đã thấy vừa rồi.” Thập cởi giày, xỏ bàn chân đỏ tấy phù thũng vào chiếc giày mới, cười mà thấy mũi cay cay, “Vừa như in.”

“Thế thì tốt. Mình đi đây, cậu lẻn ra cửa sau ấy, gần phủ thái sử hơn, đi đường cẩn thận nhé.”

“Cậu đợi đã.” Thập lục trong bọc lấy thanh kiếm Vu An tặng ra. Lần này, dưới ánh nắng chói mắt, cuối cùng Thập cũng trông thấy hai chữ “Giải Cấu” nhỏ xíu khắc chìm giữa những hoa văn quả trám chi chít trên thân kiếm. Tình cờ gặp gỡ, thỏa lòng ước mong*. Nhưng năm xưa người phát hiện ra hắn giữa tuyết lớn là Tư, không phải Thập; bao năm nay ở bên cạnh hắn, dốc lòng yêu hắn cũng là Tư, không phải Thập. Hắn là chàng áo xanh của Tư, là người thương của Tư, tấm lòng hắn không phải Thập không muốn thấy, mà là không thể thấy.

Thập tra lại kiếm vào vỏ đưa cho Tư, “Cầm đi, đây là kiếm của cậu, không phải của mình.”

“Sao lại là của mình?” Tư cầm kiếm, ngơ ngác hỏi.

“Bên ngoài nguy hiểm, cậu cầm lấy phòng thân, mau đi đi!” Thập đẩy Tư rồi xoay người sải bước đi.

Hai hàng quân nô lệ lăm lăm trường kiếm đứng ngay trước cổng phủ thái sử, thấy Thập từ xa đi lại, họ nhất tề rút kiếm ra.

“Dừng lại! Ả to gan này ở đâu tới đây thế?” Một gã trai trên dưới hai mươi tóc xõa ngang vai rối bù cầm kiếm chắn trước mặt cô, “Bệ hạ đã lệnh cho các ngươi ở yên trong nhà không được ra ngoài, chồng ngươi không bảo ngươi à? Ra ngoài là bay đầu đấy, ngươi không sợ chết hả? Mau cút đi!”

“Này anh, thái sử có trong phủ không?” Thập đi vượt qua hắn, ngó vào cổng.

“Đừng hỏi lung tung nữa, đi đi!” Hắn đẩy Thập, cô lách người tránh được, đi thẳng vào trong, hắn xoay người kéo giật áo cô, quát lớn, “Này, ngươi không vào được đâu!”

“Tôi nhất định phải vào, nếu tôi không vào được thì các anh mất mạng đấy.”

“Nói bậy bạ gì thế!” Hắn hùng hổ trừng cô rồi gọi với về phía đám người đang túm tụm trên thềm hóng hớt, “Lấy thừng ra đây, trói con ả này lại đã!”

“Ông ơi, hình như cháu từng gặp chị ấy, đứa bé trong bụng kia…” Một cậu trai chừng mười ba mười bốn tuổi kiễng chân rỉ tai ông già bên cạnh mấy chữ. ông già trợn tròn mắt quan sát Thập một hồi rồi quát cả đám thu kiếm lại. Mọi người ngờ vực nhìn ông lão, song ông ta lại chạy xuống thềm kéo gã trai chắn trước mặt Thập ra, vồn vã chào hỏi cô, “Hóa ra là đại tẩu đến, thái sử công ở trong kia, có biết đường không, để lão dẫn vào nhé.”

“Đại ca lấy vợ bao giờ thế?” Mọi người từ nghi hoặc đổi sang kinh ngạc, xôn xao bàn tán.

“Sắp đẻ cả con rồi, còn không phải vợ đại ca à?”

“Suỵt!! Chị ấy ngượng rồi kìa.”

“Chào đại tẩu.”

“Chào đại tẩu.”

Thập bước lên thềm, đám đàn ông từ mười hai mười ba đến bốn năm mươi tuổi đều cười hỉ hả xúm lấy gọi cô là đại tẩu, thấy họ như vậy, dù lòng như lửa đốt, cô vẫn nhoẻn miệng cười, thầm nhủ: yên tâm, tôi sẽ không để mọi người chết oan đâu, càng không cho phép bất cứ ai giẫm đạp xương cốt các người mà leo lên.

Bước vào cổng, cô thấy phủ thái sử vẫn yên tĩnh hệt như mọi khi. Không có ngói vỡ đá vụn, không có quân nô lệ lảng vảng khắp nơi, mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, trong sân hoa nở thành khóm, suối chảy róc rách, cát trắng ven đường lấp lánh sáng lên dưới nắng, ông lão dẫn đường không thông thuộc đường đi lối lại lắm, mấy lần suýt rẽ nhầm, Thập đi sau phải khéo léo nhắc nhở, ông ta mới dẫn cô tới được chỗ Sử Mặc.

Sử Mặc ưa sạch sẽ, thềm đá trước nhà cũng trải chiếu cỏ. Quân nô lệ vây phủ một đêm nhưng lúc này trên nền chiếu vẫn không có một dấu chân dính bùn. Đạo Chích không tin thần linh, song quân nô lệ vẫn có phần úy kỵ kẻ có thể thông thần như Sử Mặc.

Ông lão đưa Thập tới bên ngoài khu nhà rồi đi. Thập đẩy cửa bước vào, bên trong lặng phắc, lư đồng vẫn để đốt hương giờ lạnh ngắt đặt cạnh chân bàn, gáo trên bàn khô khốc, phơi ra cả con cá đồng nhỏ dưới đáy. Vừa qua giờ cơm trưa, bên ngoài đang nắng chói chang, nhưng ánh nắng lóa mắt xuyên qua khe cửa sổ khép chặt, chiếu vào đến trong nhà thì đã dịu hẳn, chỉ còn lờ mờ, nhàn nhạt, quạnh quẽ, cả căn nhà trước mắt cô dường như vẫn dừng lại ở buổi hoàng hôn mùa đông nào đó.

Sử Mặc không ở nhà trước, cũng không có trong phòng ngủ, cô tìm khắp lượt không thấy, đành đi sang chái Tây, đó là nơi Sử Mặc soạn sử cất sách.

Chái Tây không có cửa, rèm trúc buông sát đất, sau rèm thấp thoáng bóng một người ngồi nghiêm ngắn.

Thập giơ tay vén rèm lên, tất trắng muốt, áo vu sĩ trắng tinh, tóc dài bạc phơ, Sử Mặc toàn thân trắng toát ngồi sau bàn. Thấy cô tới, ông ngước lên nhìn, trong tay còn cầm một con dao găm màu vàng ngả xanh.

“Sư phụ đang đợi ai à?” Thập bước vào, cúi xuống nhặt bao dao rơi cạnh bàn lên. Bao dao làm bằng lõi gỗ mộc lan, con dao này là quà sinh nhật Triệu Ưởng dâng tặng Sử Mặc năm kia.

Sử Mặc nhìn Thập chằm chằm, nét mặt nghiêm trang, không có vẻ căng thẳng sợ hãi mà như trách móc sao cô lại tới đây. “Cha ngươi sai ngươi tới ra tay hộ à?” Ông hỏi.

“Không.” Cô cầm lấy con dao trong tay Sử Mặc tra vào bao rồi đẩy trả lại ông, “Ông ấy hận sư phụ hơn Triệu Ưởng nhiều, đời nào chịu nhường cơ hội chờ đợi suốt hai mươi năm nay cho đệ tử chứ? Không phải vội, còn chưa để thái sử công tận mắt chứng kiến ông ấy giết sạch tứ khanh, giành lại Hàm Đan, ông ấy chưa cho sư phụ chết đâu.”

“Được, đã vậy thì ta cứ thong thả đợi hắn.” Sử Mặc cầm dao lên, cất lại vào ngực áo.

“Hôm nay sư phụ định bói quẻ ư?” Thập mở chiếc hộp dài sơn đỏ vẽ tinh đồ trên bàn, bốc ra một nắm cỏ thi úa vàng.

“Lâu rồi không gieo quẻ, đang định gieo một quẻ cho cha ngươi. Ngươi đã đến đây, chi bằng ngồi xuống cùng ta tính xem rốt cuộc cha ngươi thắng hay thua nhé?”

“Khỏi cần tính nữa, ông ấy không thể thắng được.”

“Hắn mê muội điên cuồng, ngươi lại nhìn thấu triệt hơn hẳn.” Sử Mặc mừng ra mặt. Nếu Triệu Tắc thắng chắc chắn sẽ giết ông, còn nếu thua cũng sẽ giết ông trước, ông đang cận kề cái chết, vậy mà vẫn bình thản như không.

“Sư phụ có biết lần này quân nô lệ nửa đêm đánh úp Tân Giáng không phải là chủ ý của Đạo Chích, cũng không phải do cha đệ tử và Đổng Thư xui khiến, mà là bệ hạ muốn mượn tiếng đám nô lệ nổi loạn để giết tứ khanh, lấy lại quân quyền không?”

“Bệ hạ cao ngạo nóng nảy, không biết tiến lui, đi bước này thực nguy hiểm quá.”

“Trí Dao xưa nay vẫn ngang ngược vô lễ, có lẽ Cơ Tạc sợ ngày sau gã sẽ noi theo Tề tướng giết vua đoạt quyền nên định ra tay trước. Tiếc rằng tộc Trí đã thông đồng với tộc Trần nước Tề từ lâu, đêm qua Đổng Thư chỉ bắt được Hàn Hổ, Ngụy Câu, để Trí Dao trốn mất rồi.”

“Ngươi bảo Trí Dao câu kết với Trần Hằng ư? Lời này từ đâu mà ra vậy?” Sử Mặc bàng hoàng hỏi.

“Sư phụ có biết lời đồn trước khi tổ tiên tộc Trần nước Tề là công tử Hoàn đến Tề, từng được Chu thái sử bói cho một quẻ ‘quan chi phủ’ không?”

“Nói tiếp đi.”

Trần Nghịch và Tố sang Tấn tìm Thập, nhưng Trần Bàn thì không. Trần Bàn và Trí Dao đã qua lại với nhau từ lâu, năm xưa Trí Dao lập thế tử, Trần Bàn còn đích thân đưa lễ lớn tới phủ Trí chúc mừng. Vừa rồi Triệu Vô Tuất bỏ trốn, vậy mà Trần Bàn mới vào thành lại chỉ quan tâm tới sự sống chết của tông chủ hai nhà Hàn, Ngụy, chẳng hỏi gì tới Trí Dao, làm Thập sinh nghi, về sau hỏi Đạo Chích mới biết quả thật Trí Dao không có trong thành, ngay thế tử Trí Nhan cũng chẳng biết đi đâu.

Đạo Chích muốn làm một việc chưa từng có tiền lệ là biến các nô lệ thành người tự do. Trần Hằng và Trí Dao bừng bừng dã tâm e rằng cũng muốn làm một việc thiên hạ chưa ai từng làm. Vũ vương lập nên nhà Chu, phân phong chư hầu, suốt hơn năm trăm năm, tước vị của chư hầu là cha truyền con nối, không có ngoại lệ. Nhưng khoảng trăm năm trở lại đây, lễ nhạc suy bại, công tộc yếu thế, khanh tộc nắm quyền, tộc Trần được một quẻ “quan chi phủ” không còn nhẫn nại nổi nữa.

“Ý ngươi nói tộc Trần nước Tề muốn soán ngôi công tộc, nhưng sợ bị chư hầu thiên hạ vây đánh nên muốn thử nghiệm lên Trí Dao trước ư?”

“Tấn và Tề đều là nước lớn, quân nô lệ giết chết tam khanh thì Trí Dao có thể một mình nắm quyền. Tộc Trí khao khát trường sinh là mong một ngày có thể thay thế công tộc, nuốt trọn nước Tấn. Giờ Tân Giáng gặp nạn, nếu Trí Dao lấy tiếng dẹp loạn dẫn quân vào thành thì bốn ngàn nô lệ chắc chắn phải chết, cha đệ tử và Đổng Thư chắc chắn phải chết, cả Tấn hầu cũng khó mà tránh khỏi. Xong xuôi Trí Dao chỉ cần đổ tất cả tội vạ cho cánh quân nô lệ nổi loạn rồi ra lệnh giết một mẻ những ‘phản thần’ cấu kết với tộc Đổng, tộc Hàm Đan, thế là chẳng ai dám hó hé nhắc tới trận hỗn loạn này nữa. Năm nay Trí Dao mới ngót ba mươi, nếu gã bá chiếm nước Tấn hai mươi năm…”

“Không cần hai mươi năm, chỉ trong mười năm, Trí Dao ắt sẽ ép Chu vương phong gã làm quân chủ.” Sử Mặc nhíu đôi mày dài, vẻ mặt căng thẳng hẳn.

“Nếu Chu vương thực sự khuất phục trước uy quyền tộc Trí mà phong Trí Dao làm quân chủ thì nước Tề nhất định sẽ rơi vào tay tộc Trần. Tấn và Tề là nước lớn, thấy khanh tộc nước lớn hạ bệ được công tộc, nước nhỏ ắt sẽ noi theo. Tới chừng đó, thiên hạ sẽ vĩnh viễn không có ngày nào yên ổn. Đệ tử biết những lời này nghe hết sức hoang đường, cũng hy vọng đây chỉ là suy đoán hoang đường của đệ tử. Nhưng ngoài ra đệ tử thực sự không nghĩ ra nổi lý do nào khác khiến tộc Trần vứt bỏ cha đệ tử mà chuyển sang giúp tộc Trí nắm trọn quyền lớn nước Tấn.”

“Đổi cũ thay mới, kẻ mạnh nuốt kẻ yếu là xu thế thiên hạ rồi. Song tộc Trí không có đức, không thể làm quân chủ.”

“Cầu xin sư phụ giúp đỡ.” Thập cúi đầu toan hành lễ, Sử Mặc vội đứng dậy đỡ lấy cô.

“Sư phụ…” Cô nhìn ông lão trước mặt đầy mong đợi, giờ đây ông là hy vọng duy nhất của cô.

Sử Mặc nhìn vào mắt cô, khàn giọng nói, “Ta biết lòng ngươi căm hận, nhưng cũng biết lòng ngươi vẫn có cả đại ái. Đến nước này ngươi vẫn gọi ta một tiếng sư phụ, ta vui lắm, ngươi thử nói xem, con cá nằm trên thớt như ta đây còn giúp gì được ngươi nào?”

Cô hận Sử Mặc, hận ông hủy hoại gia đình mình, hủy hoại cha mẹ mình, nhưng bấy nhiêu năm nay ông đã dạy cô rằng, yêu hận của một con người chẳng là gì trước mấy nghìn mấy vạn sinh linh cả.

“Đêm qua Vô Tuất đã trốn khỏi thành, hai vị á khanh Hàn Hổ, Ngụy Câu cũng vẫn còn sống. Quân của Trí Dao chắc chưa kéo tới ngay được đâu, nếu giờ cánh quân nô lệ rút khỏi thành, không còn kẻ thế tội, dù Trí Dao có quay về cũng không dám ra tay với ba tộc kia. Có lẽ trận loạn lạc này sẽ được dẹp yên.”

“Trước khi tới đây ngươi chưa khuyên Đạo Chích à?”

“Thưa, khuyên rồi, nhưng Đạo Chích đòi bệ hạ phải xá tội cho đám nô lệ bỏ trốn, ban cho họ tự do mới chịu rời thành.”

“Ngươi đi theo ta.”

Sử Mặc chống gậy rời chái Tây, bước xuống thềm, dẫn cô đi tới nhà kho ở phía sau, lấy chìa khóa ra mở cửa, bê một rương gỗ nâu trông hết sức bình thường từ giá gỗ cạnh cửa xuống giao cho cô, “Thứ ngươi cần đều ở cả trong này.”

“Chỉ một rương này thôi ư? Trong thành Tân Giáng có bốn ngàn nô lệ bỏ trốn, chỉ riêng giấy thông hành cho họ đi qua trạm gác ở cửa ải, một rương này đã không chứa nổi rồi.”

“Nô lệ bỏ trốn muốn trở thành người tự do, quan trọng nhất là có thành trì để ở, có ruộng đất để cày, có hộ tịch để tra. Nhưng theo ta biết mấy năm nay, ty dân không hề mở sổ mới để biên hộ tịch cho những nô lệ này. Dù Đạo Chích ép bệ hạ thì cùng lắm cũng chỉ lấy được một lệnh ân xá có thể hủy bỏ bất cứ lúc nào mà thôi.”

“Vậy phải làm sao?”

“Ruộng đất có thể ban sau, hộ tịch có thể làm lại, Đạo Chích cứ dẫn người về đất tộc Triệu ở miền Bắc lánh nạn trước đã.”

“Ý sư phụ là… để Doãn Đạc tiếp nhận họ?” Nhắc tới đất đai tộc Triệu ở phương Bắc, Thập nghĩ ngay tới Tấn Dương. Nếu là Doãn Đạc, y nhất định sẽ nghĩ cách tìm cho những nô lệ này một con đường sống.

Sử Mặc gật đầu, “Chính là Tấn Dương. Chỉ e Doãn Đạc còn có kinh nghiệm làm giả hộ tịch hơn ty dân nhiều, về phần sắp xếp cho họ thế nào, mấy năm trước y đã làm rất tốt đấy thôi.”

Đúng thế, năm xưa trước khi tế trời ở ngoại ô Tân Giáng, Doãn Đạc từng lấy cớ tu sửa Tấn Dương nài Triệu Ưởng xin Định công hơn một trăm nô lệ tuổi ngoại tứ tuần, những nô lệ này có người đến từ Hoắc Thái sơn, có người đến từ Cửu Nguyên, người lại từ Khúc Lương, trong số họ có lẽ còn có người thân của quân nô lệ nữa.

“Sư phụ, trong này là giấy thông hành để đi qua ải ư?”

Sử Mặc nhìn rương gỗ mộc mạc trong lòng Thập đáp, “Đây vốn là giấy thông hành tộc Triệu dùng để vận chuyển lương thảo qua lại giữa Tân Giáng và Thái Cốc, một lần có thể cho trăm người qua, còn về phần làm sao để che giấu tai mắt kẻ khác đưa bốn ngàn người vào Tấn Dương, làm sao để Trí Dao không thấy họ thì phải trông vào các ngươi rồi. Chuyện này không có cách nào vẹn toàn đâu, chỉ có kế quyền biến thôi, ngươi mang rương này đi tìm Đạo Chích đi!”

“Vâng, tạ ơn sư phụ!”

Cô ôm chặt rương gỗ trong lòng như ôm đốm lửa leo lét cuối cùng giữa bóng tối mênh mông, nhưng đúng lúc này, bên tai cô chợt vang lên tiếng trống. Tiếng trống trầm trầm, vẳng đến tai cô thì chỉ còn loáng thoáng. Nhưng khi tiếng trống thứ hai, thứ ba, thứ tư như sấm dậy đổ ập xuống cô, cô trông thấy vẻ mặt bất lực và xót thương của Sử Mặc.

Ấy là trống trận, trống trận trên lầu cổng thành. Trống gióng liên hồi, tiếng sau cao hơn tiếng trước. Khi Thập và Sử Mặc ra khỏi phủ thái sử thì quân nô lệ trước cổng đã náo loạn, đổ xô xuống thềm đứng dàn ra trên phố, sợ hãi nhìn về phía chiếc trống lớn không ngừng gióng lên trên lầu cổng thành đằng xa.

“Ngươi lên lầu cổng thành xem đi, có lẽ không phải Trí Dao, mà là Vô Tuất.”

Vô Tuất… Thập nhìn về phía lầu cổng thành cuối con phố dài lô nhô toàn những đầu người, Sử Mặc bèn giơ tay ôm lấy rương gỗ trong lòng cô.

“Sư phụ?” Cô ngạc nhiên nhìn Sử Mặc.

“Ngươi lên lầu cổng thành đi, ta thay ngươi đi gặp Đạo Chích.”

“Không được! Đạo Chích đang ở trong cung, cha đệ tử cũng ở đó, nếu ông ấy gặp sư phụ… Không được!” Cô giơ tay giật lấy rương nhưng Sử Mặc trừng mắt nhìn cô, nghiêm nghị đáp, “Ta không bảo ngươi đi gặp Hồng Vân nhi phu quân ngươi, mà bảo ngươi đi gặp Triệu Vô Tuất tông chủ tộc Triệu. Sau khi gặp hắn, ngươi và hắn phải làm gì để cứu đám nô lệ trong thành này, tốt nhất ngươi hãy nghĩ ngay từ bây giờ đi.”

“Nhưng nếu kẻ tới không phải Vô Tuất mà là Trí Dao thì sao?”

“Vậy thì nói cho các binh sĩ trên lầu cổng thành biết họ phải làm gì.” Sử Mặc chăm chú nhìn một toán nô lệ đang hoảng loạn luống cuống trên phố.

“Nhưng sư phụ…”

“Vạn vật trên đời đều có sinh tử, lỡ gặp phải thì cũng chỉ là thuận theo mệnh trời mà thôi, ta và ngươi không cần chấp nê.” Nói rồi Sử Mặc áo trắng tóc bạc bước lên cỗ xe ngựa mới được đánh tới, chạy thẳng về phía cung Tấn.

 

 

Báo cáo nội dung xấu