Giống Rồng - Cập nhật - Nguyễn Khai Quốc

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Tình trạng sáng tác: Cập nhật | Tình trạng đăng: Cập nhật
Lịch đăng: 1 - 5 chương/tuần
Thể loại: Cổ đại, Hiện thực xã hội
Độ dài: 156 Hồi ~ 780 chương.
Giới hạn độ tuổi đọc: Không.
Cảnh báo về nội dung: Không.

GIỚI THIỆU
Dẫu là người con đất Việt nào đi chăng nữa, nòi giống chính là cái tự tôn dân tộc. Con Rồng cháu tiên chính là giống nòi của ta. Là một người dân đất Việt với mong muốn được lột tả hết sức chân thực cuộc sống của người Việt ta thời kỳ tiền độc lập - trước chiến tranh Đại Cổ Việt (Ngô Vương - Ngô Quyền) - Nam Hán. Tác giả Nguyễn Khai Quốc đã viết tác phẩm tiểu thuyết "Giống Rồng" kể về quá trình hình thành tư tưởng độc lập với phương Bắc sau hơn ba trăm năm bị đô hộ bởi Nhà Đường, hơn nghìn năm bắc thuộc. Với các tuyến nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc như: Dương Thanh, Đỗ Sĩ Giao, Đỗ Tồn Thành, Lý Do Độc, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền,...Lý Tượng Cổ, Bùi Thái, Cao Biền, Tăng Cổn, Hoằng Tháo... được tiểu thuyết hóa chín phần hư một phần thực, tiểu thuyết lịch sử Giống Rồng sẽ mang lại cho các bạn cái nhìn chân thực, sống động về thời kỳ được coi là sơ khai, bắt đầu những mầm mống về ý thức dân tộc, chủ quyền, độc lập. Nhìn vào đó chúng ta có thể chiêm nghiệm ra những gì cuộc sống ngày nay đang diễn ra. Tìm kiếm đâu đó sẽ là sự hiển diện của bản thân mỗi con người chúng ta trong tác phẩm. Đúng sai, sai đúng, trái phải ngược xuôi tất cả chỉ là quan điểm, cách nhìn từ mỗi người. Tác phẩm mang nội dung hàm chứa những vấn đề hết sức nhức nhối của xã hội loài người đó là phân chia giai cấp, nạn bóc lột, đút lót, hối lộ, cửa quyền,... Hy vọng sẽ mang lại làn gió mới cho làn sóng tiểu thuyết của Việt Nam.
Thơ đề: Bài ca Giống Rồng
Trùng trùng sóng vỗ nhẹ bờ đông
Điệp điệp non cao chí sĩ hùng
Ánh kiếm bóng thương nhăn mặt nước
Hương rừng vị biển chén cay nồng
Giang sơn gấm vóc ai nào khóc
Bỗng chốc cơ đồ hóa bỏ không
Lặng lẽ trông theo làn khói trắng
Ầm vang tiếng gọi giống Tiên Rồng
spacer.gif


spacer.gif
spacer.gif

Mục lục:
Hồi thứ nhất: Chương 1.1| Chương 1.2| Chương 1.3| Chương 1.4| Chương 1.5
Hồi thứ hai: Chương 2.1| Chương 2.2| Chương 2.3| Chương 2.4| Chương 2.5
Hồi thứ ba: Chương 3.1| Chương 3.2| Chương 3.3| Chương 3.4| Chương 3.5
Hồi thứ tư: Chương 4.1| Chương 4.2| Chương 4.3| Chương 4.4| Chương 4.5
Hồi thứ năm: Chương 5.1| Chương 5.2| Chương 5.3| Chương 5.4| Chương 5.5
Hồi thứ sáu: Chương 6.1| Chương 6.2| Chương 6.3| Chương 6.4| Chương 6.5
Hồi thứ bảy: Chương 7.1| Chương 7.2| Chương 7.3| Chương 7.4| Chương 7.5​
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.


Chương 1.1 Bạo ngược quan tham

Từ xưa đến nay chuyện cá chép hóa rồng chỉ có trong truyền thuyết, trâu ngựa chỉ làm con mồi cho hổ báo. Ấy vậy mà trong nhân gian nơi xứ nam trong mấy năm này, xảy ra bao điều kỳ lạ. Dân ở Đỗ Gia trang hương Yên Hưng, huyện Ninh Hải, Lục Châu, giáp sông Vân Cừ bắt được cá chép vàng, vảy rồng lấp lánh, đầu nhô sừng cao, nặng tới ba trăm cân. Nơi Ái Châu, có một con trâu rừng húc chết một đàn cọp chuyên săn gà, bắt dê dưới làng. Mọi người dân xứ Nam này đều kháo nhau rằng: “Cá chép hóa rồng, trâu xông giết cọp chẳng phải là điều hiếm có hay sao. Chỉ trong vòng hơn trăm ngày bao điều kỳ dị xảy ra nơi xứ này. Ắt có điềm báo cho vận thế thay đổi nơi xứ này.”

Trong những năm tàn tệ này của đế chế Đường, quan tham đông như kiến cỏ, kéo bè kéo cánh ra sức vơ vét của cải tiền bạc của triều đình và dân chúng. Hoạn quan đục nước béo cò, ra sức tạo ảnh hưởng lớn trong cấm cung, thao túng quyền lực, triều đình ngày càng bê trễ, mỗi lúc càng lâm nguy. Ngoài biên cương, các bộ tộc phía Bắc, phía tây đánh phá chiếm đất, một dải đất rộng lớn của nhà Đường chiến tranh đã trở thành một câu chuyện quá quen thuộc. Trong nước, các thế lực hùng cứ khắp nơi đứng dậy khởi nghĩa nổi lên như nấm, các tướng lĩnh thay nhau làm phản, lật đổ lẫn nhau, đánh chiếm đất đai, thành trì. Suốt dọc sông Trường Giang đến phía bắc dãy Ngũ Lĩnh, dân chúng lầm than trong khói lửa binh đao.

Vượt qua núi Ngũ Lĩnh về phía biển Nam Hải, dân chúng oán thán bởi sự hà khắc của quan chức đương thời. Nơi đây xưa thuộc đất người Việt Cổ đã từ nghìn năm trước, đến Đông Hán thì bị người Hoa Hạ từ phương Bắc tới xâm lăng chiếm làm đất của người Bắc. Đã qua đến gần một nghìn năm, người đất này không hề cam chịu sự cai trị của người phương Bắc và coi triều đình phương Bắc như một kẻ xâm lăng. Đời này qua đời khác, triều đình phương Bắc càng ngày coi mảnh đất phía nam dãy Ngũ Lĩnh như cái gai trong mắt, chấy giận trong chăn đã lâu ngày. Đến thời kỳ thịnh trị của Đường Triều, những kẻ tay sai của triều đình Trường An coi nơi đây chỉ là chỗ tạm lui để rồi tiến tới những tham vọng cao hơn, cũng không ít kẻ lún sâu vào việc vơ vét của cải của dân Nam với vô vàn những sản vật, dị thú, quái mộc… Sự chia rẽ ngày càng sâu sắc, các quan chức đô hộ ngày càng ra sức càn quét các cuộc nổi dậy theo cách tạn bạo nhất có thể. Dân càng đói, chúng sinh càng khổ sở dưới cảnh áp bức của người phương Bắc. Ấy thế nên bao nhiêu danh sĩ Trung Nguyên đã vượt Ngũ Lĩnh để trú chân nơi đất An Nam ấy rồi cũng phải thốt lên rằng:

“Trung Nguyên ai oán muôn phần
Đất Nam đá sỏi vạn lần xót thương”.

Người đến, rồi người lại đi bỏ lại đây là muôn ngàn căm phẫn, cái ý chí sục sôi suốt nghìn năm ấy lúc nào cũng hiện diện trong mỗi người dân đất ấy. Trong sóng gió chính trường Trung Nguyên, ấy cũng là lúc những hiền nhân miền xa xôi phía nam có thời cơ lập nghiệp.

Năm Đinh Dậu (817), quan đô hộ là Bùi Hành Lập sau khi vơ vét của cải, nhũng loạn lòng dân đất An Nam đã kịp thời chạy thoát về Trung Nguyên để lại cho viên quan đô hộ tiếp theo là Lý Tượng Cổ vốn dòng tông thất nhất Đường là sự phẫn nộ, và căm ghét viên quan đô hộ trong dân chúng An Nam. Tượng Cổ theo lối mòn của những viên quan đô hộ trước, cướp miếng ăn, cái mặc của người dân bằng những chính sách rất hà khắc, cống nộp nặng nề, sưu thuế vô lý. Được tiếng tham lam và với hão huyền vơ vét nhiều để có tiền cai “cúng” cho quan trên, ấy là cơ hội để mở ra con đường công danh sự nghiệp sáng lạng. Hành Lập ở đây hai năm thôi mà hắn còn tăng hai bậc phẩm quan, vậy nên Tượng Cổ chắc bẩm rằng chỉ cần hắn tăng thuế, tăng sưu lên vài lần, buộc dân An Nam phải nộp lên gấp đôi, gấp ba nhờ việc chiếm được một vùng đất rồng lớn giàu sản vật phía Nam giáp với Hoàn Vương là hắn cũng có thể mua được chức quan cao hơn hai bậc phẩm quan.

Làm quan đô hộ được hai năm, đến năm Kỷ Hợi (819), Tượng Cổ không những chẳng vơ vét được mà hắn lúc nào cũng bị hoảng loạn bởi dân chúng An Nam chống cự quyết liệt. Hắn không ngờ được rằng sự giận dữ của người Nam lại khiến các tướng sĩ của người phương Bắc do hắn mang theo khiếp hãi đến vậy. Bấy giờ Lâm Ấp rục rịch đánh chiếm châu Ái, châu Hoan, người Man Động từ tây bắc giáp với Nam Chiếu nổi dậy nhăm nhe đánh thẳng Tống Bình phủ. Tượng Cổ lòng nóng như lửa đốt, phía Triều Đình rất nhiều kẻ đã nhăm nhe đánh bật hắn ra khỏi đất An Nam do suốt dòng hai năm “hắn chẳng làm được tích sự gì."

Nghe trong nhân gian có chuyện kỳ lạ, hắn sai tên huyện lịnh tại Ninh Hải (Quảng Ninh) đến hương Yên Hưng để dò la. Tên huyện lịnh đến nơi yêu cầu tất cả mọi người dân tập trung tại bãi sông. Thấy trai tráng mọi người trong làng ai cũng đóng khố, phụ nữ chỉ có mảnh yếm sờn sờn, mặt mày nhem nhuốc lại thêm mùi tanh tanh của cá, hắn liền sai mấy tên lính cho hắn lên kiệu, nhìn qua màn, tay cầm vạt áo che mũi nói vọng ra:

- Thấy quan đến mà các ngươi sao lại chậm trễ? Không lẽ các ngươi muốn chết hay sao?

Một lão già làng đứng lên hàng trước, tay chống gậy, người cúi rạp xuống sát đất mà trả lời rằng:

- Bẩm quan! Chúng con dân chài lưới, quanh năm đò dọc thuyền ngang. Không quen lễ nghĩa phép tắc trên bờ. Mong quan thứ tội.

- Lão nói láo. Lão chừng ấy tuổi đời. Đâu phải không biết. Cái hương này có lần nào quan đến mà không phải đợi các ngươi. Các ngươi lại muốn phạt thêm nữa chăng? – Tên quan quát tháo từ trong rèm kiệu.

Cả đám dân chài cúi xuống, tay chắp phía trước lậy quan:

- Mong quan tha tội.

Ông cụ bước tiếp đến mà nói, giọng run run:

- Bẩm quan. Con dân chúng tôi trước giờ không dám thất lễ. Những lần quan và lính thu tô đến đây trước hay cả lần này nữa, chúng tôi quá nửa trên thuyền, trên bờ chỉ toàn những người già như lão đây, chậm chạp nên mong quan thứ tội. Mấy năm nay, cá nhỏ, lại không nhiều, chẳng thể nộp thuế tô đầy đủ cho quan trên. Giờ đây trong hương mỗi nhà cũng chỉ vài con cá khô…

Huyện lịnh cắt lời:

- Ta không cần biết. Hai mùa nước rồi, các ngươi còn thiếu ta cả thảy ba nghìn cân cá. Cá các ngươi nộp đem đi bán khắp Giao Châu này chẳng được là nhiêu. Quan trên luôn miệng trách móc ta. Các người nghĩ xem. Các huyện lân cận vùng Giao Châu này có cái nơi nào như cái huyện này không? Lần này, các ngươi không nộp đủ thì cả ta cùng các ngươi chẳng thể yên ổn được đâu.

Nói rồi hắn cho lính vào lục lọi từng chum vại, lưới chài từ trên bờ trên thuyền. Mọi người trong làng đứng dưới cái nắng oi của buổi trưa cuối hè. Ai cũng nhễ nhại mồ hôi, cúi gằm xuống đất. Bọn trẻ con thì núp dưới bóng của cha của anh để tránh cái nắng rát như đổ lửa ấy. Tên huyện lịnh ung dung trong rèm kiệu, chốc lát hắn lại chẹp chẹp miệng rồi lại thưởng thức một chén trà mà tên lính chuyển cho hắn. Hắn lẩm nhẩm: “Bọn mày định giấu nó à? Lần này mà có được nó ta dâng lên thứ sử chắc chắn được thưởng to rồi.” Hắn lại cười và gọi một tên lính đến mà hỏi:

- Các ngươi tìm thấy thì mang đến đây trước mặt bọn dân đen kia cho ta.

Tên lính chắp tay trước người, cúi gằm mặt vừa bước lui ra vừa gật đầu lia lịa, miệng liên tiếp nói “Dạ vâng. Dạ vâng. Dạ vâng”.

Có cụ già tiến lại gần kiệu, tên lính xua xua: “Ông lão chớ có lại gần!”

Huyện lịnh chóp chép miếng trầu:

- Lão có chuyện gì thì cứ nói! Nhưng hãy đứng ra xa một chút. Ta không quen mùi này của các người.

Giọng Lão khảng khái thưa:

- Bẩm quan. Quân lính của ngài không hiểu đang định tìm thứ gì? Cá chúng tôi treo, phơi chứ đâu có để chum vại. Mấy cái chum chứa nước mưa để ăn. Cớ sao lại đổ hết đi? Sắp tới trời hanh khô, trẻ con người gia lấy gì mà ăn mà uống? Mong quan xem xét.

Hắn lại chọp chẹp:

- Khá hay cho cho mấy cái vại của các người. Ta thích thì ta làm. Đang mùa mưa, nước ngập đầy sông lại còn già mồm. Chả nhẽ ta không biết thiên văn bằng ngươi.
Để ta xem, các ngươi có điều gì giấu giếm ta không?

Ông Lão phừng phừng đỏ mặt tiến lại gần kiệu hơn nữa thì bọn lính tráng xô vào cản. Ông Lão hẩy nhẹ một cái, cả đám ấy lăn đùng ra đất. Bọn trẻ con cười khúc khích, người lớn thì chỉ dám nhìn theo rồi, che miệng của mấy đứa trẻ lại kẻo lại bị quan trách phạt. Lão cúi thấp thưa với quan:

- Dạ bẩm. Lão không dám đắc tội với quan. Mà chỉ là xin thưa với quan rằng chúng tôi mùa này chẳng được mấy. Chỉ được vài con cá treo khô như hương lão trưởng đã thưa với quan. Còn tôi chỉ mong các quan nương tay, chúng tôi chỉ có mấy cái chum vại ấy là tài sản thôi. Tôi cũng xin quan trên một điều rằng, bọn trẻ con, phụ nữ người già, đứng nắng như thế này họ chẳng thể chịu nổi. Mong quan cho họ được lui.

- Lão nói nghe cũng có lý. Thôi được. Ta cho lệnh đám lính lục soát không để chum vỡ, lưới rách. Còn các ngươi lui về gốc cây đằng kia mà đứng. Không ai được về nhà. Kẻ nào về nhà mà ta bắt được phạt một trăm roi.

- Đội ơn quan.

Mọi người trong làng lưng cúi thấp, tay chắp trước người lại lui dần về phía gốc cây. Đám thanh niên làng lán lại đứng cúi mình trước kiệu quan.

Sau hai canh giờ lục soát, bọn quân lính tập hợp đầy đủ tại bãi sông báo với quan rằng:

- Bẩm quan. Trên thuyền, trong bờ chẳng có nổi một con cá to nào. Chỉ thấy cá riếc, cá rô cùng vài con tôm này thôi ạ.

Bọn lính vác một lưới cá nửa tươi nửa khô lẫn cùng với nhau xuống dưới mặt cát. Mọi người rì rầm: “Sao lại để cá thế kia? Cá khô tôi phơi mấy nắng rồi. Cá tươi phải để riêng chứ. Chẳng biết là cá của nhà nào nữa, rồi chúng ta chia thế nào! Cả chục cái lưới bị rách kia kìa…”

Tên huyện lịnh quát lớn:

- Tất cả các ngươi! Mau mau thành khẩn không thì đứng có trách ta là ác.

Có chàng thanh niên bước lên:

- Bẩm quan. Chúng tôi chỉ có những thứ này thôi. Quan trên thu thì chúng tôi biết ăn bằng gì? Phải không mọi người. – Anh này hỏi mọi người.

Dân làng chỉ xì xào chứ không ai dám nói to.

- Ái chà chà. Cái tên cứng đầu này. Nhà người có biết là ngươi đang nói chuyện với ai không? – Một tên lính dương giáo lên hăm dọa.

- Tôi cũng như anh, là con dân đất nam này. Anh cần cơm ăn áo mặc, chúng tôi cũng vậy. Trước đây, năm nào chúng tôi cũng nộp sưu thuế đầy đủ đâu có thiếu cân cá nào. Mấy năm nay sông ít cá tôm, còn chẳng đủ ăn. Chưa dám mong các quan trên cứu đói chỉ dám cúi xin cho hoãn lại vài mùa. Khi cá tôm nhiều trở lại, con dân chúng tôi lại nộp bù.

Tên quan huyện ngồi trong kiệu, ném miếng bã trầu ra, miệng gắt lên:

- Con dân điêu ngoa. Ta nghe nói, đêm rằm cách đây dăm ngày, dân làng các ngươi tổ chức hội họp linh đình, vui ca nhảy múa suốt tối. Ấy thế là đói kém hay sao?

Chàng thanh niên định tiến lên nhưng ông lão giọng sang sảng ngăn lại:

- Cháu hãy để ta. Chớ có vội vàng.

Lão bẩm với quan:

- Bẩm với Lý huyện, đêm hôm đó rằm tháng sáu, chúng tôi chỉ là mượn ánh trăng sáng rồi mọi người cùng nhau làm lễ cầu ngư mong mùa nước đầy cá tôm. Có kẻ thấy thế mà rèm pha với các ngài quả oan cho chúng tôi. Các ngài thấy đấy, khố rách chẳng có mà mặc, cá khô ròi bọ bâu đầy, chúng tiểu nhân lấy gì ra mà tiệc tùng được đây. Mong Lý huyện minh xét.

Tên quan hậm hực trong kiệu chưa biết nói gì thì có đám lính vác hai chum nặng, đám còn lại thì khiêng một chú cá lớn vảy vàng rực rỡ trong chiếc lưới đan bằng sợi đay dày. Nghe tiếng nhốn nháo, tên huyện quan ngồi dậy, vén rèm kiệu ra thì thấy ánh sáng lòa đôi mắt. Hắn hỏi:

- Cái gì thế hả?

Một tên lính chạy tới, rồi chỉ về phía đôi chum và con cá:

- Bẩm quan! Chúng tôi đi về phía tây nam của con sông chừng bốn dặm theo thuyền thì thấy ở đó có hai cái chum rượu lớn và một con cá đang bị nhốt ở dưới sông.

Tên huyện lịnh họ Lý bước tới, nhìn một lúc, con cá quẫy mạnh khiến vài tên lính bị ngã ra. Hắn hét lớn:

- Thứ gì đây?

Ông lão vừa nói bước ra:

- Thưa quan. Chúng tôi mới bắt được cá này. Nhưng nhìn dáng vẻ nó khác thường nên chúng tôi đang định làm lễ để thả về với sông mong điều tốt lành đến với dân làng.

- Chà chà. Mình thon, vây rộng, vảy rồng. Râu thưa, miệng lớn sừng trông dị thường. Quả nhiên quý hiếm. Thôi được rồi. Cá này để ta tâu với quan trên mang cá này đi cầu ngư cho cả vùng Giao Châu này. Nếu quan trên mà vui lòng thì tiền sưu, tô thuế vụ này ta sẽ xin miễn cho các ngươi. Nhưng phải nhớ nộp trả nợ những năm trước đấy.

Nói xong rồi. Hắn vội vàng cho quân đi rồi mượn một chiếc thuyền lớn sai chở đến Tống Bình. Hắn ung dung ngồi kiệu rồi bước lên thuyền. Hắn quay lại nhìn dân chài với ánh mắt kiêu ngạo, cười lớn và buông lời rằng:

- Các ngươi thừa hưởng hồng phúc Đường triều, nay có vật lạ đem cúng tiến ấy cũng là lẽ nên làm. Ta sẽ xin ân điển cho các ngươi.

Hương lão trưởng ngồi sụp xuống nhìn lên trời mà than rằng:

- Trời xanh có mắt! Chúng con dân đen cùng cũi, chẳng thể trả Long thần về với đại ngàn rộng lớn.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.


Chương 1.2 Trốn chạy

Trong lúc thuyền lớn lướt đi thật nhanh về Tống Bình, có một thuyền nhỏ đi ngược từ đông nam lên, dáng dấp một chàng thanh niên tráng kiện đang đẩy mái chèo nhanh thoăn thoắt ngược cửa Nam Triệu trở vào sông Thầy. Trăng đã treo cao trên lũy tre ven đê, tiếng mái chèo khua nước bì bõm chẳng thể xua tan đi không gian im ắng của sông nước xứ này. Tên quan huyện chễm chệ ngồi trên lọng đung đưa dưới ánh sương mờ ảo. Lát lát hắn lại xua xua đuổi muỗi, hắng giọng hắn liên tục hỏi đám lính: “Sắp tới chưa bay?”

Mấy tên lính gù gật bên mạn thuyền giật mình nói theo: “Sắp rồi, sáng rồi."

Chiếc lưới căng kéo con cá về sông Cái ngược dòng khiến mấy tên lính thay nhau đẩy mái chèo cũng thấm mệt. Có chút canh cá loãng trên cái niêu chưa hết canh ba đã sạch trơn. Một hai tên lính đi tuần vòng quanh thuyền như hai cái xác vô hồn kéo lê trong đêm trăng đôi mươi. Bỗng nhiên thuyền thấy lướt nhẹ đi, không còn cảm giác nặng trĩu nữa. Mấy tên lính xì xầm: “Chắc là con cá đã chịu bơi theo thuyền rồi.”

Thuyền lắc lư một cái thật mạnh khiến tên quan huyện lăn quay ra sàn. Bọn lính nhốn nháo: “Thuyền nghiêng, kẻo lật.” Góc phải mạn thuyền là đám lính bị trượt dồn vào chất đống, giáo mác lô xô đâm vào áo quần chúng khiến máu chảy đầm đề. Một lát sau thuyền lại yên, tên quan huyện chỉnh lại đầu tóc, xiêm y quát tháo:

- Các ngươi lái thuyền kiểu gì đấy?

Một tên lính lầm lũi từ giữa khoang thuyền đi lên, mặt lấm lét cho biết:

- Bẩm quan! Lưới rách, cá đã bơi mất.

Tên quan mặt đỏ như gấc, căm căm nhìn đám lính rồi ra sức quát tháo:

- Cha mẹ nhà chúng bay. Có con cá cũng không giữ được. Chúng bay có biết đầu của các ngươi cả trăm đứa cũng không đổi được nó không? Nó chính là rồng đất Việt đấy. Bọn bay có biết không?

Bọn lính tên nào tên ấy mặt mũi như gà vừa cắt tiết. Tên quan họ Lý lại tiếp tục than vãn:

“Ôi than ôi! Đi ngay, bơi nhanh. Ta không cần biết con cá bơi nhanh cỡ nào. Từ giờ đến giờ thìn ngày mai các ngươi không bắt được con cá thì ta giết sạch các ngươi.”
Bọn lính tráng vội vàng vơ lưới cụ nhốn nháo soi đuốc xuống mặt sông tìm cá. Một đám khác nhảy vội lên bờ khua xóm chài ven sông lùng sục cùng bọn chúng. Tên bổ đầu họ Mã thì thầm bên tai quan huyện: “Bẩm quan lớn! Lúc nghiêng thuyền, không biết Đại nhân có để ý không? Ta thấy dưới ánh trăng, mạn phải thuyền có một bóng người. Sải tay hắn dài cỡ chục tấc, chân thoăn thoát bì bõm xuôi theo dòng.”

- Có chuyện đó sao? Sao nhà ngươi không nói sớm? – Tên quan huyện sửng sốt.

- Bẩm đại nhân. Người nóng giận tôi chưa dám can. Nay thấy nguôi nên tôi mới bẩm. Tôi còn nhìn thấy rõ một vết tràm sau lưng hắn giống y hệt hình săm của đám dân Đỗ gia trang. Chắc chắn là bọn dân đen đó đã đến cướp báu vật ấy.
Tên quan hét lớn, tay hắn cầm cây giáo đâm mạnh vào mạn thuyền để xả nỗi giận dữ.

- Bay đâu! Quay lại Đỗ Gia Trang giết hết cho ta.

Tên bổ đầu cúi gằm mặt xuống, mặt tái mét, miệng lắp bắp:

- Bẩm… bẩm… bẩm! Có… có… cần giết, giết hết không, không ạ?

- Giết sạch cho ta! Lũ điêu dân láo toét. Lần này không tìm được cá ta sẽ giết sạch bọn bay.

Trời dần trở sáng, đám lính đi tìm chưa thấy có tin gì báo về với tên quan huyện. Hắn vật vờ trên chiếc lọng, thi thoảng lại giật mình miệng lẩm bẩm “Long Ngư, Long Ngư”. Mấy tên lính rệu rã chuẩn bị bữa sáng cho quan huyện cùng với chút nước ấm để hắn rửa mặt.

Hắn cáu gắt liên hổi: “Cha mẹ mày! Lão gia mà không thấy nó chúng mày sẽ phải chết! Phải chết, phải chết.”

Giờ đã quá Tỵ, hắn nhễ nhại dưới ánh nắng hè gay gắt. Không thấy tăm hơi từ đám lính uể oải trên sông. Tên quan họ Lý liền giục giã sai quay lại hương Yên Hưng.

Thuyền quan cập bờ, dân chúng nhìn tên quan họ Lý một cách e dè. Hắn giơ tay ra hiệu cho đám lính chặn hết mọi ngả đường. Tay hắn lăm le thanh gươm trên tay. Hắn chỉ trỏ, đám lính xông vào từng nhà kéo người già, phụ nữ, trẻ em tay chẳng có gì chỉ biết ú ớ rồi hét lên “Giết người! Giết người!” Trẻ con lon ton nhốn nháo chống cự yếu ớt trước sự sỗ sàng của đám lính tráng. Rồi trong chốc lát, cả làng chài đỏ máu, thây người chất đống chẳng còn chút sự sống. Xác gà, xác lợn, cá khô, tươi lẫn lộn đỏ lòm trong đầm máu. Chỉ còn vài cánh tay thoi thóp và giọng the thé yếu ớt cũng bị gươm giáo của bọn lính dập ngay.

Đám thanh niên làng nghe tin hốt hoảng chạy về, người cầm lưới kẻ cầm tay chèo vội vã cập bờ lao vào liều chết một phen với đám lính đằm đằm sát khí kia. Kẻ chém người giết, máu cũ chưa khô đã lại đậm thêm màu. Lính tráng sứt chán mẻ đầu, đám thanh niên làng thì rách tay, gãy chân. Chẳng còn ai lành lặn. Những tên lính quen tập trận giả nay thấy yếu ớt khi đương đầu với những thanh niên làng chài, lần lượt ngã quỵ rồi rủ nhau lên thuyền chạy trốn. Máu chảy thành dòng, một góc sông lênh láng. Tiếng í ới gọi nhau cũng dần tắt lịm trong cái nắng rát mùa hè. Chỉ trong nửa canh giờ thôi, những mái nhà cháy rụi, những xác người lô nhô lần lượt được kéo đi trong cơn đói mệt của những người còn lại trong làng.

Chàng thanh niên tóc búi củ hành, dáng người vạm vỡ, thân cao bảy thước, mình dày tựa chum, đôi chân thoăn thoắt, ánh mắt sáng ngời trên khuôn mặt vuông vức, mày rậm như hùm. Mặt lấm lét, tay đỏ máu tươi anh ta vừa đi vừa rưng rưng nước mắt, giọt lệ lăn giọt mồ hôi hòa làm nhạt dần những vết máu trên khuôn mặt:

- Thật là khốn nạn. Đám bạo tàn các ngươi sẽ phải chết. Thù này ắt báo. Nợ này ắt đòi. Con dân đất này vô cớ chịu đọa đày chỉ vì một con cá. Thật là tai họa.

Anh gầm vang một tiếng đổ về bãi lầy cửa sông. Tôm cá nhảy lên ùa về biển lớn. Cua cáy chạy lên bờ vì tiếng rền sóng dữ. Cả lảng chỉ còn lại tám người cùng hai chiếc thuyền nhỏ.

Sau hơn ba ngày vừa cúng tế, vừa trốn chạy. Ba đêm ròng tám người còn lại đào được hơn hai chục hố mả dọc dòng sông xuôi về Đông Hải. Họ chẳng dám hương hoa hay đắp nấm vì sợ lũ quan quân quay lại đào quật lên. Tang thương nhưng cực chẳng đã họ lại bàn:

- Giờ ta chẳng còn chốn dung thân, quan quân lùng sục chúng ta khắp Giao Châu này. Thôi thì hai thuyền này, mỗi hướng một ngả. Ta cùng với Sĩ Giao, Sĩ Hoàng, Đỗ Dụng ngược dòng về Giao Châu có chỗ người quen để tá túc chờ ngày tương hội. Còn Đỗ Trang, Đỗ Kiêm, Tồn Thành và Thủ Trừng xuôi theo Đông Hải đến Ái Châu nương nhờ chỗ Đỗ thứ sử Ái Châu.

Thuyền ngược về Tống Bình đi đến cửa sông Thầy thì bị đám cướp khét tiếng ở Giao Châu là Lục Bạch Hổ cướp phá, thuyền tan người bị bắt chẳng còn tin tức. Thấy vậy, Tồn Thành lấy làm buồn lắm. Đêm trăng xuống lại nhâm nhi ly rượu khóc than: “Trời đất điên đảo, lòng người đảo điên. Biết đến khi nào Đỗ Gia ta mới được ổn yên?”.

Vài tuần sau khi đến được Trường Châu, Tồn Thành và Thủ Trừng lại lạc mất Đỗ Trang, Đỗ Kiêm trong lần quan quân vơ vét thuế sưu nơi này. Chẳng là Trang và Kiêm kết giao với đám dân nghèo ngoài biển ở hương Giao Long (Giao Thủy Nam Định) chống phá bọn quan quân nên bị bắt mà không biết bị giam ở nhà lao nào. Hỏi dò thì Tồn Thành được biết đã bị đưa về nhà lao huyện Nhật Nam châu Ái. Hai cha con kiếm cá, tìm cơm ở Trường Châu một thời gian, thân cô thế cô lạc lõng giữa dòng. Con còn bé thơ nhọc nhằn kiểm sống chẳng phải kế hay mà cũng không thể có cơ hội thay đổi cuộc sống này. Tồn Thành nhớ lại lời của Đỗ Đại dặn trước khi chia ly. Tồn Thành tìm về Ái Châu nơi thứ sử châu Ái.

Xuôi về nam chừng hơn hai chục hải lý rồi về sâu trong đất liền hai trăm dặm đường, cuối cùng Tồn Thành cùng con trai cũng đến được Cửu Chân châu Ái. Rừng sâu nước hiểm khiến hai cha con không ít lần làm mồi cho thú hoang. Tồn Thành dặn dò Thủ Trừng rằng: “Hai cha con ta đi chuyến này, ta chỉ e điều xấu nhất xảy ra là một trong hai cha con ta mất mạng nơi cùng cốc này nhưng chúng ta đã tới được đây rồi, con hãy gắng lên, chỉ còn chút đường nữa thôi, chỉ một chút nữa thôi.”

Thủ Trừng mắt nhắm tịt trên vai cha. Tồn Thành chẳng thể cầm nước mắt cố gắng gọi con trai tỉnh dậy mà không thấy thưa. Từng bước chân nặng trĩu, một tay giữ lấy con trên lưng, một tay chống gậy qua khe suối nước lạnh toát mà rợn người ghê gớm. Đôi chân trơ khung xương khẳng khiu như những gióng tre ghép lại run lên bần bật khiến mảnh khố tàn tạ như sắp rụng rơi xuống mặt nước. Tồn Thành nhìn thấy một cây sung rừng quả chín đỏ rực cả gốc cây. Tồn Thành tiến tới, có tiếng vo vo quanh tai rồi trời đất như tối sầm lại, cả hai cha con ngã khuỵu dưới gốc cây mà không một lời thảng thiết.

Trời đã về tối sẫm, khung cảnh hoang vu của chốn rừng này càng khiến người ta thêm kinh hãi. Tiếng gầm rú của những con sói hoang, lạo xạo trong rừng là âm thanh từ bọn rắn chuông, rắn hổ. Đâu đó có tiếng gà rừng quang quác xé tan màn đêm. Giật mình, Tồn Thành tỉnh dậy trong mơ màng, người ê ẩm ngơ ngác nhìn xung quanh. Một sự im lặng đến sợ hãi. Chỉ có tiếng thở thoi thóp của đứa trẻ nằm bên. Dù cố gắng đứng dậy nhưng cơ thể như cả nghìn núi đè khiến Tồn Thành lại kéo đôi chân run rẩy kia xuống.

Tồn Thành tiến sát lại gần con trai mình thủ thỉ vào tai nó mà mắt lệ nhòa:

- Con trai à! Chúng ta được cứu rồi!

Nói rồi, có bóng người tiến lại gần. Đó là một thụ nữ tuổi chạc tứ tuần, dáng người thấp lùn, mặt rỗ chằng rỗ chịt. Chẳng có chút sợ hãi, Tồn Thành hỏi:

- Là bà đã cứu hai cha con ta?

Chẳng nói chẳng rằng, bà ta lấy chút nước ấm rót vào một cái chén và đặt trước mặt Tồn Thành là hai quả đào rừng. Tồn Thành nhận lấy và chưa khỏi tò mò:

- Bà là ai? Sao lại không nói gì với ta? Đây là đâu, ta muốn tìm đường về huyện thành huyện Cửu Chân.

Nói xong, bà ta vẫn không hề mở lời khiến Tồn Thành bắt đầu thấy hậm hực:

- Bà bị điếc hay bị câm vậy?

Bà ta vẫn cười, rồi có tiếng người đàn ông ầm ầm rền vang vào tai Tồn Thành:

- Bà ấy bị điếc từ nhỏ. Không thể nghe thấy nhà ngươi nói được gì đâu.

Tồn Thành, nhổm người dậy ngước mắt lên nhìn dưới ánh trăng hắt vào là người đàn ông thấp lùn, miệng lớn, râu rậm. Tay ông cầm một con dao quắm, chuôi dài chừng ba thước. Mặt dữ dằn như báo cọp, giọng lại rền vang bên tai:

- Hai cha con nhà ngươi người từ đâu đến mà lại đi qua lối này. Chốn này đâu phải chỗ để con người qua lại?

Tồn Thành thều thào:

- Thưa ông! Cha con tôi đây cũng bước cùng đường mới ra thế này. Kể ra thì dài lắm, thật cực chẳng đã đã tới nơi này bị ra thế này. Ta thì chẳng hấn hề gì chỉ tội cho con trai ta. Mong hai vị cứu lấy con ta.

Nói rồi, Tồn Thành khóc nấc lên.

- Trời yên bể lặng bỗng một ngày, cả nhà ta bị giết. Thật là căm phẫn lắm thay.
Ông lão hỏi:

- Vậy là cớ làm sao? Mời anh uống chén nước ấm này. Đây là nước cây đinh lăng. Xong rồi uống thêm chút nước cháo này. Cậu bé sẽ không sao đâu. Mấy vết sưng kia là do ong bò vẽ đốt. Lão có cây thuốc này đã cho cậu bé ấy uống rồi. Anh cứ yên tâm mà dưỡng sức.

- Cảm ơn ông nhiều lắm. Ta với ông không quen không biết, cớ sao lại cứu ta?

Ông lão cười lớn:

- Thấy chết không cứu ấy là tội lớn lắm. Vợ chồng ta quanh năm lên rừng chặt cây, hái lá. Thấy con sóc, con thỏ bị thương còn chẳng lỡ đem thịt mà còn đưa chúng về chăm chút. Lòng nào lại không thể cứu đồng loại.

Tồn Thành giọng run run:

- Thật là không gì có thể báo đáp. Nãy giờ trò chuyện mà chẳng hay tên ông lão và bà nhà đây?

Lão cười lớn, râu rung lên bần bật, vết chân chim hai khóe mắt hằn sâu:

- Lão đây họ xưa họ Nùng, ngày quan sứ Tống Bình về châu này, lão lấy họ Lý. Tên ta là Do Trị. Bà nhà ta là Lô Thị.

Tồn Thành nghe danh lấy làm thảng thốt:

- Sao ông lại đổi thành họ Lý?

Lão chẳng một chút đắn đo, lớn giọng khiến Tồn Thành giật mình:

- Ta ư? Nhà ngươi cứ nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Sau này rồi nhà ngươi rõ.

Uống xong chén nước cùng chút nước cháo. Tồn Thành thấy đầu nặng như vạn búa đập, chân tay bỗng cứng đờ rồi lịm đi.

Sáng sớm ngày hôm sau, tiếng trẻ con gọi lanh lảnh bên tai khiến Tồn Thành tỉnh giấc.

- Cha ơi. Cha ơi! Cha ơi. Cha tỉnh lại đi cha.

Nước mắt Thủ Trừng khiến khuôn mặt gầy gò của bé càng thêm nhem nhuốc. Thủ Trừng chẳng thể dứt hơi liên hồi gọi cha. Mặt nó lấm lét nhìn xung quanh rồi thét lên thật to, nó gục mặt vào vai cha rồi rúc rúc dụi để lau đi hai dòng đang đẫm nhòe trên khuôn mặt nó.

Cánh tay Tồn Thành nhẹ nhàng ôm lấy con trai rồi nhẹ nhàng nói:

- Con trai à! Chúng ta sống rồi!

Thủ Trừng vẫn nức nở gọi cha, Tồn Thành siết chặt lấy con, cảm từng tiếng thở và nước mắt của con trai. Trái tim Tồn Thành như đập dồn dập khiến chàng thở gấp gáp hơn. Anh chàng đứng bật dậy, ôm chặt lấy con, luôn miệng ghé vào tai Thủ Trừng: “Ơn trời cao, nhờ hồng phước của ông! Cha con ta được sống rồi!”
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.


Chương 1.3 Chí lớn tương phùng

Có tiếng mở cửa, ánh sáng le lói xiên qua kẽ lá rừng rọi thẳng vào chỗ cha con họ Đỗ kia đang nằm. Một chàng thanh niên cao lêu nghêu, đôi chân thẳng tắp như hai ống tre, dáng người mảnh khảnh, đầu búi củ hành nhô cao. Thủ Trừng nức nở trong lòng cha, miệng còn vương vài giọt nước khoe với cha:

- Cha ơi! Chú này, sáng cho con ăn cháo, còn có cả quả ngon lắm.

- Anh là…

- Tôi là Do Độc, làm bổ đầu huyện Cửu Chân. Ngày qua rẽ qua nhà thăm bố cái tôi thấy cha con anh bị ong đốt bên suối nên đã đưa anh về đây.

Tồn Thành nhìn lại một lượt từ trên xuống dưới anh ta, rồi ấp úng hỏi:

- Anh là, có phải là…

- Đúng rồi. Hai người đó là cha mẹ tôi. Cha tôi là thầy lang, người ta vẫn gọi là Lý Lang Mộc. Cũng thật may cho nhà anh và cậu bé.

Dáng đứng cao lớn, mặt mày khôi ngô như tranh vẽ khiến Tồn Thành không khỏi bỡ ngỡ. Duy chỉ có đôi mày rặm giống ông lang Lý kia, Tồn Thành thắc mắc:

- Lão lang Lý và bà Lô Thị kia trông thật khác.

Do Độc rút búi hành xõa tóc, rồi cười lớn:

- Quả nhiên, quả nhiên. Ta hiểu ý anh. Ta là con cha mẹ ta. Ấy vậy mà bao nhiêu kẻ rèm pha nói này nói kia khiến cha ta chẳng thể ở lại huyện thành chữa bệnh cứu dân. Mẹ ta bị câm điếc, ấy lại mang thêm cái tiếng ấy thật là tủi hổ mà.
Tồn Thành vẫn còn lấn cấn:

- Quả thực ta cũng không thể nhận ra.

Do Độc, ngồi xuống chiếc chõng còn vương đầy bụi rừng, giọng từ tốn với Tồn Thành:

- Cha ta Lang Mộc là người có y thuật uyên thâm. Ngày trước, Bố Cái đã từng mời cha ta làm lang trung quân khi mới mười bảy tuổi. Khi Phùng An bị diệt thì cha ta về trú lánh nơi huyện nghèo châu Ái này. Mẹ ta là người phụ nữ vùng Hoan di dân để tránh cái đói lũ năm ấy gặp cha ta. Vì lòng mến mộ mà bà nguyện ở lại với cha ta. Sinh ra ta mà cả cái thành Cửu ấy không tin ta là cốt nhục của cha ta. Lớn lên mỗi ngày ta một khác, từ cái khổ người cho đến khuôn mặt ấy nên cha ta phải đóng cửa tiệm thuốc về đây. Ngày ngày rong ruổi trên chiếc xe ngựa đi khắp Ái này bốc thuốc chữa bệnh cứu người, chẳng màng gì bổng tước, tiền tài.

Tồn Thành nghe như thông lỗ tai, mắt được rửa nước thần. Giọng thảng thốt:

- Vậy ra là… Quả nhiên phi phàm. Đêm qua, ta nghe giọng ông lão sang sảng thật chẳng giống kẻ phàm. Năm nay anh bao nhiêu tuổi rồi?

- Chẳng giấu gì anh. Sang tháng ba này mới tròn đôi mươi.

- Dáng dấp thư sinh nhưng đôi mắt phượng hoàng, mày báo cọp cũng thật lạ thường. Hai chục tuổi mà đã là bổ đầu huyện Cửu Chân này, chắc hẳn không phải tầm thường.

Do Độc cười lớn:

- Anh quá khen rồi. Huyện này, quan tước luân chuyển liên tục. Kể từ ngày Mã Tống làm quan sứ Giao Châu, dăm lần bảy lượt thay đổi quan sứ, ấy là bấy lần đổi thay bọn tay sai. Tên huyện lịnh ở đây cũng là tay sai của quan sứ Tượng Cổ. Trong vùng này duy chỉ có nhà ta họ Lý. Cũng là vì mang họ Lý, có chút nghệ công nên được gọi vào nha môn. Hai năm trước ta là lính, nay mới được cất nhắc làm bổ đầu…

Hai người hàn huyên từ sáng cho đến tận trưa. Do Độc lôi bình rượu quý dưới lòng đất từ sau bếp lên, rồi bắt lấy con gà mà nướng lên thơm lừng. Hai người ngồi với nhau, bày tỏ chí khí của mình ra khiến người kia hết thảy kinh ngạc. Tồn Thành hỏi:

- Do Độc tráng trí anh hùng. Bấy lâu ta đi tìm bấy lâu mới có người hay như vậy. Tại sao anh lại làm bổ đầu mà không phải là một tướng lĩnh trong quân?

- Nói ra thì chỉ sợ anh cười. Ta vốn không quen cầm gươm giáo, lại chẳng có cái uy của kẻ cầm quân. Chỉ thấy việc bất bình trong thiên hạ mà cứu giúp, làm bổ đầu cũng có thể thể hiện cái ý nguyện của mình vậy.

Tồn Thành rốc hũ rượu vào miệng, rồi cười một cái thật lớn:

- Cái chữ bất bình nghe thật hay. Nào chúng ta cùng hết hũ rượu này. Ta xưa còn nhỏ nghe chuyện Bố Cái mà thật ngưỡng mộ. Vì dân này, vì đất này làm trai tráng đâu thể cứ mãi cúi luồn dưới cái khinh rẻ của kẻ ngoại bang, người không cùng giống dòng. Chỉ vì cái phận nhỏ, làm chài dân thiện lương mà vác tội lớn với kẻ trên mà chưa thể làm gì được. Thật đáng tủi hổ.

Hai cha con họ Đỗ quá lâu rồi không được một bữa no chứ há chi đến rượu thịt ê chề như vậy. Ấy nên Thủ Trừng ăn uống no say lăn quay ra ngủ từ lúc nào chẳng hay. Tồn Thành trong cơn say ngẫu hứng:

“Tôi anh đôi đứa chẳng quen

Bão mưa nắng gió bao phen giữa rừng

Tôi anh qua vẫn người dưng

Đói no bạo bệnh cũng mừng cũng lo

Nay đây cơm nếp làm giò

Rượu thơm gà nướng ấy cho lễ thần

Mong được cứu nước giúp dân

Hai ta nguyện ước đôi thân chẳng rời!”

Do Độc vui khôn tả xiết:

- Tồn Thành thơ hay. Nay gặp được người chí cốt, sẵn có rượu thịt đây chi bằng chúng ta kết nghĩa anh em suốt đời này. Thân trai này đâu chỉ mãi cúi đầu.

Tồn Thành mừng rỡ, ôm lấy vai Do Độc:

- Được. Ta nay hăm sáu là anh. Do Độc trẻ hơn là em. Thủ Trừng con trai ta nay gọi em là chú. Không mong như Lưu – Quan – Trương, chỉ mong chí lớn toại lòng, giúp dân cứu nước. Ly này tế trời, tế đất. Cạn ly này anh em ta mãi mãi đồng lòng.

Nói xong, hai người cùng uống cạn chum rồi ném nó lên cao rơi xuống làm cái xoảng khiến trâu lợn nghe thấy mà kinh hãi, đất rung lên, cây cối quanh nhà lá rụng tả tơi. Hai người dùng dao khía lên vai hai chữ “Huynh đệ” rồi lấy máu ấy hòa với rượu cùng cạn hết.

Ngày rằm tháng ấy, Do Độc soạn bổn lễ gồm chín hộc gạo, chín con gà sống cùng chút vàng bạc tích góp được tiến cử Tồn Thành với huyện lịnh. Tên huyện lịnh họ Lý nhận Tồn Thành làm nha môn tướng. Do tính tình thẳng thắn mà lại dễ nóng giận, Tồn Thành không ít lần khiến tên huyện lịnh mất lòng nên Tồn Thành bị đám quan lại ở huyện Cửu Chân xa lánh. Ngày ngày người người qua lại chỗ Do Độc nhưng hễ đến cả tuần chỉ có vài tên lính đến báo tin qua nhà Tồn Thành.

Thấy điều không hay nên Tồn Thành bàn với Do Độc rằng:

- Này em trai. Chúng ta cứ như thế này ta e không được rồi. Em ở đây có quen có biết, mọi người còn hay qua. Còn ta thì ngày ngày luyện võ cho mấy trăm tên lính xong rồi lại về nhà, chẳng giao du được với ai. Như vậy có hơi hoài nhãng quá không?

Do Độc thương Tồn Thành lại nói:

- Anh à. Em đây cũng chẳng giấu gì. Ngày ngày kẻ qua, người lại qua chỗ em cũng chỉ toàn là những kẻ chẳng ra gì. Kẻ mở cửa hàng, người chốn tửu lầu, hạng cờ bạc, chủ nợ, đám quan lại cậy nhờ. Em còn trẻ, chẳng biết giải quyết sao. Huyện lịnh thì lại ỉ hết việc cho đám dưới chúng ta, chỉ ngồi một chỗ chờ đợi những kẻ ấy dâng biếu chút bạc hư. Nay anh có ý gì hay không?

Tồn Thành đắn đo:

- Ta vào đây cũng đã được ba tuần trăng rồi. Tên huyện lịnh này chẳng khác gì tên họ Lý ngày trước ở Yên Hưng, có ngày rồi ta cũng bị đè đầu mà chết như dân Đỗ Gia Trang. Chẳng thể như thế này mãi được em ạ. Hay là ngày mai chúng ta bái biệt song thân phụ mẫu rồi đến Nhật Nam tìm Đỗ Thứ sử để nương nhờ chờ thời cơ cứu dân giúp nước.

Do Độc chẳng lấy một nghi ngại, gật đầu đồng ý ngay. Sớm hôm sau, chẳng để lại một lời hai người rời khỏi nha môn huyện Cửu Chân đi về phía tây – huyện Nhật Nam để nương nhờ họ Đỗ. Thật không may, vừa đến nơi thì Đỗ Thứ sử đã bệnh nặng. Tồn Thành nhận là người con họ Đỗ đến thăm hỏi, bước vào phủ nơi Đỗ Thứ sử đương nằm chỉ thấy thoi thóp một người đang nằm trên giường, bên cạnh hông vạt áo kéo lên làm lộ ra hình xăm Long ngư. Chưa kịp nói lời nào thì tiếng khóc cất lên xe lòng từ giọng mấy người phụ nữ:

- Ông ơi! Xin đừng bỏ tôi đi! Cha ơi! Cha ơi!

Đâu đó từ phía cửa phủ vào là đám quan lại, vào phủ phục dưới trướng, giọng dứt lên từng cơn:

- Ối ơi là hỡi ơi. Đại nhân ơi! Đại nhân. Đại nhân ra đi bỏ lại đây Ái Châu dân khổ lầm than. Tấm gương soi sáng cho bọn quan chúng tôi. Người sao đã vội vàng đi như vậy?

Thấy vậy, Tồn Thành xin lui.

Cả thành Nhật Nam khi ấy tang thương, tấp nập toàn là xe ngựa phủ vải trắng. Do Độc và Tồn Thành phải nằm nghỉ nơi chuồng ngựa vì chẳng có lấy một quán trọ và nhà dân nào còn dư dả chỗ. Nào đám quan lại các huyện, nào là nha môn, tướng soái khắp Ái Châu này về tá túc để thăm viếng. Rồi cả những kẻ làm ăn, những chủ quán rượu, sòng bạc, thanh lâu nổi tiếng khắp Ái Châu này cũng đoàn đoàn xe xe liểng kiểng nào là rượu, là vàng bạc, vải trắng phủ đầy xếp hàng dài từ ba phía Cổng thành Nhật Nam.

Tồn Thành chỉ dám dâng nén nhang từ xa bái lạy viên Thứ sử xấu số kia. Tồn Thành bàn với Do Độc:

- Nay trời xanh đã ngả vàng nâu. Hai chúng ta tá túc lại vài ngày rồi chờ bái kiến tân Thứ sử vậy.

Hai người ngậm ngùi rồi bàn với nhau thì Thủ Trừng từ đâu chạy tới hát bài vè:

“Ve vẻ vè vè ve

Cái vè Châu Ái

Ái thê thì sái

Nam phái suy tàn

Cả thảy một bàn

Toàn là nữ nhân

Cái chết kệ gần

Nhường phần cho ai

Rể phần tướng soái

Bĩ cực nhân tài

Ghế để cho ai

Châu Ái ái châu.”

Nghe làm lạ, Tồn Thành bịt miệng cậu bé lại. Giọng nghiêm khắc:

- Con im lặng ngay. Con nghe được bài đó ở đâu?

- Dạ, đám trẻ con trong thành đứa nào cũng hát thế nên con hát theo thôi cha.

Do Độc nói với Tồn Thành:

- Ngày trước em có nghe nói Đỗ Thứ sử không có con trai. Các tướng soái, cận hầu đều là con rể và đám con cháu Thất trắc phu nhân Mã Thị. Mã Thị này có chút gọi là dữ dằn nhưng chẳng thể như Lã Hậu hay Võ Hậu. Phen này, sẽ có loạn lớn rồi.
Y lời Do Độc nói, một tháng sau khi Đỗ Thứ sử qua đời, các con rể của Đỗ thứ sử thi nhau bành trướng từ các phiên trấn thành trì của mình tranh giành đất đai. Ở Giao Châu khi ấy chẳng có chút động tĩnh nào để dẹp loạn ở Ái Châu. Tồn Thành nói với Do Độc:

- Quá tháng rồi. Ái Châu này đất nhỏ hẹp, thành trì không nhiều. Đất không chủ, các phiên trấn giành giật nhau từng chút đất. Trời chẳng thương nên ta mới em mới thế này. Ngày qua ta đi nghe ngóng thì đám quân Cửu Chân đang cát cứ ngay phía Đông thành Nhật Nam. Ở đó, quân lính ngày trước ta và em rèn vẫn là những người đó. Nay ta về liệu có được hay chăng?

Do Độc do dự:

- Thôi cực chẳng đã. Phen này gắng công lớn mà lập thân.

Nói xong, Do Độc tốc mã chạy ra ngoài thành chạy về phía Đông nơi quân Cửu Chân đang đóng dâng lên diệu kế chiếm lấy Nhật Nam. Con rể thứ hai của Đỗ Thứ sử là Đoàn Uyển cầm đầu cánh quân tiếp nhận ngay Do Độc và lệnh cho Tồn Thành trong ứng ngoài hợp chiếm lấy Nhật Nam.

Hai ngày sau, Tồn Thành và đám huynh đệ gây loạn trong thành. Trong lúc đang giải quyết Tồn Thành, nhân quan giữ thành không để ý Do Độc cùng năm trăm lính xông thẳng vào thành, bắt giết viên quan giữ thành. Lúc bấy giờ, đoàn quân của Đoàn Uyển từ phía sau khoảng năm nghìn tướng sĩ hừng hực chạy vào thành giết chết Mã Thị và hai người em rể. Đoàn Uyển tạm quyền nắm giữ toàn bộ Ái Châu. Các phiên trấn khác đều dâng thư hàng. Ái Châu được toàn vẹn về tay Uyển.

Bấy giờ, Tồn Thành và Do Độc được nắm quyền binh Nhật Nam và Cửu Chân. Tồn Thành bàn với Uyển: “Nay Ái Châu đã quy một mối. Chỉ là cái họa Giao Châu đang đợi ngài đó.”

Uyển nghĩ một hồi thì hỏi Thành: “Ý ngươi là quan sứ Tượng Cổ?”

Thành đáp: “Đúng rồi đấy.”

Uyển vẫn chưa thông thoáng đầu óc thì Thành tiếp lời:

“Đại nhân xem. Trước Đỗ Thứ sử lập công hiển hách nên được giao đất này. Phía Đỗ thứ sử đất Trường Châu, Dương thứ sử Hoan Châu, Vương thứ sử Phong Châu đều giành đất mà xưng nhưng đều được các quan sứ thừa nhận chỉ sau có một vài tuần, chậm trễ thì cũng chỉ một tháng. Bây giờ ngài giành đất này đã bấy lâu mà không được Tống Bình thừa nhận há chẳng phải là cái gai trong mắt ấy sao.”

Uyển tỏ ra lo lắng, rồi hỏi ý kiến Thành:

- Thế ngươi có mưu gì hay chăng?

- Mưu thì Thành tôi chẳng có, chỉ có kế hèn này xin đại nhân xem xét.

Uyển sốt sắng:

- Được. Nhà ngươi nói xem.

- Phía bắc Giao Châu, đất hiểm trở là đất người man, thượng nguồn dòng Cái, dòng Đà là đất người Nam Chiếu. Phía tây Tống Bình là khoảng đồng bằng mênh mông, qua sông Mã là đất của Ai Lao. Những đất ấy xưa nay không hề ưa các đời quan sứ. Nay Nam Chiếu hùng mạnh lấy đất Thục của vua Đường. Dân Man chiếm đến đất Quang, Chiêm châu Phong. Chi bằng ta sai sứ đến người người man thuyết phục họ cùng ta đánh Tống Bình, các Châu khác chỉ có Ái Châu ta là cận kệ Tống Bình nhất. Phía nam ta là đất Hoan, thứ sử nơi ấy cũng là dòng tông đất Nam ta. Ta thử viết thư thăm dò xem thế nào.

Uyển ưng lời Thành lắm liền cho người sai sứ đến đất Phong để khích dân man xuôi sông Đà, sông Cái về Tống Bình. Chuẩn bị quân lực được ba tháng thì quân man động đã chiếm toàn bộ Phong Châu, các cơ mi xung quanh Tống Bình và cả đất Đường Lâm cửa ngõ Tây Bắc Tống Bình. Các quân lính từ vùng Ái do Tồn Thành và Do Độc thống lĩnh đã chuẩn bị kỹ càng chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.


Chương 1.4 Nhiễu động Tống Bình
Lúc bấy giờ tại Tống Bình, trong lúc bộn bề, Tượng Cổ mới nhận ra là dưới trướng hắn còn có một vị tướng dũng mãnh người Việt họ Dương tên Thanh. Dương Thanh dòng dõi hào trưởng, từng là thứ sử Hoan Châu. Nhưng Tượng Cổ rất e ngại người này vì giữa Tượng Cổ và họ Dương vốn đã hiềm khích từ trước. Nay trong lúc gian nguy, hắn cũng chỉ còn trông chờ vào họ Dương.

Dương Thanh là tông thất chính dòng của họ Dương, nhiều đời làm thứ sử tại Hoan Châu. Sinh ra và lớn lên trong gia đình quyền cao chức trọng nhưng tính tình ông rộng rãi hào sảng lại kết giao với rất nhiều bạn bè ở khắp nơi, chẳng kể giàu nghèo. Chỉ cần nghe danh ông thì bọn tù trưởng man tộc, các tướng lĩnh, bổ đầu suốt dải đất từ Lâm Ấp đến tận Ái Châu đều kính nể. Tính tình họ Dương thẳng thắn và bộc trực nhưng rất nóng tính. Có lần có một huyện lệnh dâng biếu lễ vật, ông hỏi:

- Năm nay ta thấy dân ở huyện các ngươi thiếu đói vì hạn hán, há sao lại dâng nhiều lễ vật cho ta vậy?

Tên huyện lệnh này lẻo mép thưa rằng:

- Bẩm quan trên, quan cũng như phụ mẫu vậy. Con cái có hiếu dù có ăn khoai sắn cũng để phần cho cha mẹ miếng thịt ngon.

Nói chưa dứt lời, thứ sử họ Dương nổi đùng đùng kéo hắn ra đánh trăm trượng, rồi tước bỏ áo mũ cho hắn về quê và lập tức sai người bán hết chỗ lễ vật ấy mua gạo cứu đói cho dân. Làm thứ sử, họ Dương được lòng dân chúng và trong quân, ông cũng thể hiện được cái uy dũng của mình trong từng trận chiến.

Trong trận chiến với quân Lâm Ấp, Hoàn Vương dưới thời quan đô hộ Triệu Xương, một mình họ Dương xông thẳng xào huyệt của địch bắt sống dăm chục tướng, đứng trên núi Ngự phóng tiễn thiêu trụi cả một quân doanh, ông cùng quân Hoan Châu đánh đuổi cả chục vạn giặc chạy thẳng vào vùng đất của người Chăm phía nam dãy Bạch Mã. Những chiến công hiển hách ấy càng làm cho bọn triều đình phương Bắc càng thêm lo sợ. Dân chúng cả vùng Phúc Lộc, Diễn, Hoan ai nấy đều tuân theo luật pháp Dương thứ sử đề ra.

Dương thứ sử khéo khoan sức dân, nhiều lần dâng biểu quan đô hộ xin giảm nộp thuế, sưu do thiên tai, hán hạn. Ông thưa với các quan đô hộ rằng: “Vùng biên ải như Vũ Lộc, Diễn, Hoan đầu năm nắng hạn, cuối năm lũ lụt. Phía tây là Cao nguyên Ai Lao, phía nam là Hoàn Vương Lâm Ấp, phía đông lũ giặc biển Chà Và quấy nhiễu, dân chúng đói khát khắp nơi thấy mà thương mà tội. Vừa trải qua cuộc chiến đẫm máu, cây chưa mọc được lên do máu người còn vương, sức người còn chưa kịp hồi. Nay dâng biểu sớ kính quan trên thấu cho nỗi khổ dân tình, thư sức dân mà miễn thuế, sưu cho dân chúng các Châu Vũ Lộc, Diễn, Hoan trong vòng ba năm. Năm năm giảm sưu, giảm thuế, đến khi dân đã đủ ấm mặc, cơm đủ nuôi binh thì lúc ấy triều đình không cần nhắc nhở, là thứ sử Hoan Châu, ta cũng tự nguyện cống nộp cho triều đình đầy đủ.”

Cho đến đời quan đô hộ là Bùi Hành Lập, hắn thấy dị vật phong phú, sản vật phì nhiêu hắn liền bắt Dương thứ sử cống nộp nhưng ông đã nhiều lần từ chối. Không thể làm gì được, Bùi Hành Lập ấm ức trong lòng, dặn bọn quan lại ở Tống Bình rằng: “Sắp tới đây Lý Tượng Cổ là tông thất hoàng gia, các ngươi cố gắng giúp ông ta trị tên thứ sử châu Hoan ấy. Tiếng hoàng gia tông thất ấy mới có thể “dạy bảo” được người ấy. Ta đã lập sớ cho triều đình phong hắn làm thượng tướng thống lĩnh hai vạn binh Giao Châu này. Nhưng thực chất là chỉ để dụ hắn về Tống Bình để dễ bề kiểm soát. Ta nay về kinh nhận chức mới, các ngươi hãy cứ an tâm phò trợ Tượng Cổ, sau này rồi ta sẽ cất nhắc các ngươi.”

Ấy nhưng đến khi Tượng Cổ phụng mệnh đến Tống Bình, Dương Thanh năm lần từ chối yết kiến, hai năm không cống lấy một lạng thóc, hay một tấc vải nào. Tượng Cổ lại không nghe lời bọn Bùi Hành Lập, hắn sợ rằng Dương thứ sử có trong tay trọng binh thì càng khó có thể kiểm soát được ông ta. Nhưng rồi có tên huyện lịnh năm nào bị Dương Thanh đánh thị cáo vì tội đút lót quan trên đến chầu kiến Tượng Cổ mà thưa rằng:

- Bẩm lạy quan trên. Con trước đây huyện lịnh huyện Hoài Hoan, đang lúc mùa màng tốt tươi, dân chài kéo cá đầy ắp các thuyền, con quan bé cũng chỉ dám tuân mệnh vua nào có lòng khác. Thuế sưu con nộp đủ đầy, ấy vậy mà hắn kêu con là sao lại nộp ít vậy, dân no kềnh bụng, quân sĩ say sưa sức đâu mà đánh giặc làm ăn. Rồi hắn biển thủ quân lương, thuế sưu châu ấy, khiến quan các vị quan đô hộ trước đâu có thu được cắc nào đâu. Hắn kêu nuôi dân, dưỡng binh ấy nhưng mà ai mà hiểu được hắn ta làm gì.

Tượng Cổ quát tháo:

- Nhà ngươi nói láo. Ta còn lạ gì nhà ngươi. Bay đâu mang ra chém.

Nói rồi một đám áo khăn lếch thếch, trong áo lụa, ngoài quấn khăn kín đầu quỳ lậy bên ngoài phủ đô hộ mà lớn tiếng rằng:

- Mong quan lớn minh xét. Khai ân cho Thừa huyện lịnh.

Thấy láo nháo, bọn lính ra lôi tất cả bọn chúng vào phủ mà tra hỏi. Tượng Cổ hỏi:

- Các ngươi là ai, sao lại xin tha tội cho hắn?

Một tên lắp bắp, đầu gối lê tới gần:

- Bẩm quan đô hộ, bọn tội dân chúng con đây trước là quan huyện lịnh, hương trưởng vùng Hoan, Ái, từ khi họ Dương kia làm thứ sử, hắn kiêu ngạo ganh ghét tụi con nên hắn đuổi quan, cắt hết lương bổng. Bọn con phải khổ sở lắm mới ra được Tống Bình, chờ ngày quan lớn đến đây.

Có tên Liễu tá ghé tai Tượng Cổ thì thầm: “Bọn này xưa bị Bùi đại nhân xua đuổi, nhưng tiểu nhân thấy rằng, để trị được họ Dương ta cũng có thể dùng đến bọn này đại nhân ạ. Theo ngu ý của tiểu nhân, ta cứ phong cho bọn này làm giám quân ở Tống Bình nhưng không giao thực quyền cho bọn chúng. Rồi ta xin mệnh vua ban để dụ họ Dương về Tống Bình mà lợi dụng bọn này trừ khử hắn. Cứ kế ấy mà làm, tiểu nhân dám chắc họ Dương sẽ trong sự kiểm soát của ta.”

Tượng Cổ gật gù và nói với bọn đang quỳ dưới trướng rằng:

- Các ngươi quả nhiên vô tội, nghe các ngươi kể mà ta đã hiểu được họ Dương ấy. Thôi được, ta sẽ sớm phục quan cho các ngươi nhưng có điều họ Dương đang giữ đất ở những chỗ ấy, ta sẽ tạm thời thu nạp các người làm giám binh. Sau này tùy theo công lao mà được thăng chức, nhận lương hưởng.

Bọn quỳ lạy dưới trướng đồng quỳ gối xuống mà lạy:

- Đội ơn quan lớn.

Sau đêm ấy, Tượng Cổ cho người ngày đêm phi ngựa về Trường An dâng biểu xin thánh chỉ phong cho Dương thứ sử làm tướng Giao Châu. Vốn là dòng dõi tông thất nhà Đường nên chỉ trong vòng một tháng, họ Lý đã có được thánh chỉ trong tay và lập tức đi triệu hồi Dương Thanh về Tống Bình. Lý Tượng Cổ còn mang đoàn rước kiệu long trọng đến Hoan Châu, hắn cũng đích thân dẫn chỉ tới hòng thể hiện sự tôn trọng đối với Dương Thanh để Dương thứ sử mềm lòng.

Được tin báo, Dương Thanh mở cổng thành nghênh tiếp, hai bên là hai hàng lính nghiêm trang, cổng thành thênh thang chỉ có lính mang cờ thêu chữ Dương lớn đứng suốt dọc hai bên dài đến cả dặm đường. Họ Dương ra tiếp đón quan thứ sử và thánh chỉ cách cổng Bắc của thành mười dặm và có khoảng hai trăm lính áo vải, đầu quấn khăn đỏ theo sau. Dương Thanh dáng người to lớn, mình cao bảy thước năm tấc, mày quăn như mày rồng, đôi mắt tựa cọp uy nghi, tay cầm cây thương dài tám thước. Mỗi lần Dương thứ sử múa thương ánh bạc chói lòa, thương lao vun vút như tên bắn, uy lực vô cùng. Cây thương khắc dòng chữ nổi: “Nam thiên anh hùng tướng” đỏ rực, sau lưng mang cờ thêu dòng chữ nét tựa rồng cuốn: “Thanh thiên Dương tướng”.

Mỗi bước đi của thứ sử nặng tựa cột lim, rầm rầm như vạn lính đang cùng bước. Giọng nói vang vang sấm rền, thứ sử mang trên mình chiếc giáp bằng gỗ nghiến, đầu quấn khăn màu đỏ thẫm, cưỡi trên con huyết mã oai nghiêm dữ dằn khiến cho Tượng Cổ cảm thấy trong mình nóng ran, trời mùa xuân nhưng mồ hôi đẫm áo.

Tới cổng thành, Dương Thanh xuống ngựa, cả đoàn binh quỳ sụp xuống nghe thánh chỉ phong Dương Thanh làm An Nam đô hộ thượng tướng, nắm giữ hai vạn binh Giao Châu, Phong Châu, Phúc Lộc Châu, Trường Châu và được quyền dùng binh các châu Hoan, Ái, Vũ Lục. Dương Thanh cúi đầu nhận thánh ân. Dương Thanh liền lên ngựa và cầm thánh chỉ, cây thương vung lên ánh sáng chói lòa, khiến Tượng Cố và đám tùy tùng kinh hãi, đám lính hô vang:

- Nam thiên anh hùng tướng! Nam thiên anh hùng tướng!

Giọng Dương thanh uy vang, chiếc cung giương lên và một mũi tên trúng một con Đại bàng đang bay từ phương bắc về phía nam. Bọn chim chóc ở rừng cây phía xa nghe tiếng hô dũng mãnh của Dương Thanh mà cất cánh bay từng đàn, từng đàn, nháo nhác bay về phương Bắc.

Tượng Cổ hãi hùng, chỉ dám nhìn về phía rừng ấy qua rèm cửa xe mã trượng. Họ Dương mời Tượng Cổ ở lại vài hôm để rồi theo quan đô hộ về Tống Bình. Bấy giờ, một vị nho sĩ dưới trướng Dương Thanh bàn với Dương Thanh rằng:

- Chủ tướng rời Hoan Châu về Tống Bình e rằng điều không phải? Thứ nhất, quân sĩ Tống Bình là lính Bắc phương. Thứ hai, Hoan Châu không chủ dễ sinh loạn. Thứ ba, họ Lý này e là không có ý tốt với ta. Xin chủ tướng xoi xét.

Dương Thanh cười sảng khoái:

- Ngươi đúng là kẻ nho sĩ nhát gan. Nhà ngươi lo lắng quá rồi. Ta đường đường thứ sử một châu, nay lại có thánh lệnh, binh quyền. Sợ chi lũ đầu voi đuôi chuột. Nhà ngươi nói cũng có lý nhưng trong đầu ta đã có cách để xử trí chuyện này.

Nói xong, Dương Thanh đặt một quân cờ khiến vị nho sĩ ngỡ ngàng và vuốt râu cười lớn:

- Chủ tướng quả là cao cờ. Tại hạ chỉ cần một nước nữa là thắng nhưng chủ tướng chỉ cần một quân cờ ấy đã lật ngược ván cờ. Đại nhân quả là cao tay. Tiểu nho xin bái phục.

Một tháng sau, Dương Thanh mang thánh chỉ cùng con trai thứ Chí Trinh, đám tùy tùng dăm chục người trong gia đình, lũ gia nhân đến Tống Bình nhậm chức và để con trai lớn Dương Chí Liệt ở lại châu Hoan chờ lệnh. Đoàn người của Dương Thanh suốt dọc đường từ phủ thành Châu Hoan đến Giao Châu đều được dân ở những nơi đó đón tiếp nồng hậu. Chẳng thế mà Dương thứ sử cũng rất cởi mở đón nhận lòng thành của mọi người và hứa rằng sẽ giúp mọi người sẽ không bớt đi nỗi lo sưu thuế, gian tham. Đến trị sở Tống Bình, Dương Thanh lập tức chỉnh tề quân ngũ.

Dù là bọn lính phương Bắc nhưng cũng đã đồn trú rất lâu năm ở nơi này cho nên nhiều người đã lấy vợ Giao Châu, xác định bám lại đất của người Nam này. Nhờ thế, Dương tướng quân cũng sớm thu phục được lòng binh. Người xa thì cho về quê dăm ba tháng, người gần thì cho phục dịch tại gia trong lúc đương hòa chiến sự nhưng lúc nào quân doanh cũng ngăn nắp chỉnh tề. Nghe ngóng tình hình chuyển biến không được như ý muốn, Dương Thanh kết giao với đám quan lại và tướng sĩ trong thành trong thành khiến Tượng Cổ càng thêm chướng mắt với bọn quan lại ở Giao Châu, Tượng Cổ bắt đầu trở mặt.

Tháng hai mùa xuân năm Kỷ hợi (819), Tượng Cổ yêu cầu Dương Thanh hội đủ hai vạn rưỡi quân để trực chiến. Dương Thanh hồi đáp rằng: “Hiện nay, chiến sự hòa bình, suốt dọc Vũ Lục, Hoan, Ái dân tình yên ổn, bọn Cao Miên, Chà Và, Lâm Ấp không còn quấy nhiễu; khắp các châu cơ mi, các tù trưởng, hào trưởng đều một lòng hướng về Giao Châu nên bọn Nam Chiếu cũng chẳng lấn tới đất ta. Hiện tại tiểu tướng chỉ cần một vạn quân là đủ. Số còn lại cho về quê thăm nhà, làm nông để nuôi dưỡng sức quân. Há chẳng phải kế hay. Nửa năm nữa, binh đông, lương đủ sức quân dào dào như thác đổ, ấy thì sợ giặc nào.”

Bọn giám quân Giao Châu thì liên tục báo với Tượng Cổ rằng: “Dương Thanh đem lòng phản nên mới lấy lòng binh, rồi đuổi khéo bọn lính bắc về quê, còn lại là lính người nam không thì cũng lấy vợ nam, hắn xua đi ra khỏi Tống Bình để chiêu binh bãi mã cho hắn chờ thời cơ để phản. Lại thêm bọn Chí Liệt ở Hoan, Ái không thể xem thường được.”

Nhiều lần nghe lời rèm pha của bọn giám quân vốn ganh ghét họ Dương, cũng phần vì lo sợ Dương Thanh nắm binh quyền có thể làm loạn. Tượng Cổ lập tức thu binh quyền và chỉ cho Dương Thanh giữ chức mà không có thực quyền. Họ Lý còn bắt Dương Chí Liệt trở về Tống Bình và sai người đến làm thứ sử ở Hoan Châu. Họ Dương cũng không hề có phản ứng gì và ngày đêm thao luyện binh mã.

Tháng ba mùa xuân năm ấy, Dương Thanh đánh thắng quân Chà Và xâm lấn vùng biển Ái Châu, Hoan Châu. Ở Giao Châu, có người lại mách với Tượng Cổ rằng Dương Thanh cố tình đi dẹp giặc ở Ái Châu rồi ở luôn đó có ý định nuôi binh làm phản. Lại có kẻ rèm pha rằng, Dương Thanh để Chí Trinh nắm binh mã trong thành, Dương Thanh ở bên ngoài, trong ứng ngoài hợp để cướp lấy La Thành, lúc ấy quan đô hộ có là thánh thần cũng chẳng thể chở tay. Nghe vậy, Tượng Cổ ngày đêm cho lính bao vây phủ tướng quân, luôn kè kè bên Chí Trinh là một đám lính thân cận của Tượng Cổ, mọi hành động của Chí Trinh đều được những tên này bẩm báo lại với Lý đô hộ.

Tượng Cổ rút hết binh quyền họ Dương, rồi lại sai Dương Thanh đóng quân ở bãi Quần Thần phía nam La Thành, chỉ khi có việc hắn mới gọi Dương Thanh vào. Chí Trinh bấy giờ thấy căm phẫn lắm, anh nói với cha rằng: “Thưa cha. Họ Lý này càng ngày càng không coi chúng ta ra gì. Hắn nhiều lần bắt ép chúng ta làm theo hắn, rồi hắn còn đuổi chúng ta ra cái nơi này, trong tay thì chẳng có binh quyền.”
Dương Thanh không nói lời gì, và ông lại đi một nước cờ khiến cho Chí Trinh ngỡ ngàng, không kịp phản ứng và phải chịu thua. Dương Thanh bình thản mà đáp rằng: “Thời cơ sắp tới rồi con trai.”

Mùa hạ năm Kỷ Hợi (819), nước sông Cái lên cao, họ Dương sai lính đắp đê cao, đào sông dẫn đến các nơi đồng cạn, chăm lo việc dân tình vùng Giao Châu. Bọn Tượng Cổ thì chỉ lo vui chơi ăn uống linh đình trong thành. Buổi chúc thọ của Tượng Cổ, Dương Thanh và một viên Đô áp nha cáo ốm không đến dự buổi chúc thọ của y. Tượng Cổ lấy lòng căm giận lắm, bọn Liễu tá, giám quân lại bày cho kế rằng: “Đại nhân đích thân mang rượu ngon đến nhà hắn mà thăm ốm. Nhân đó rồi trừ khử hắn.”

Thấy thuận tai, Tượng Cổ lập tức cho người ban rượu cho Dương tướng quân, đêm ấy hắn còn đến tận phủ tướng họ Dương để thăm hỏi. Nửa đêm canh ba, hắn cho sục sạo cả La Thành, lính tráng hội đủ phủ tướng quân. Hắn bước vào phủ rồi hẹm giọng:

- Ta nghe nói Dương tướng quân bị ốm, nay đến thăm và tặng thuốc quý, rượu ngon cho tướng quân đây.

Dương Thanh đang luyện võ ở hậu viên vội vàng cởi bỏ mũ áo, giáo gươm về nằm trên giường giả bệnh. Dương thanh sai một tên hầu cận ra tiếp đón quan đô hộ. Tên này thưa với Tượng Cổ:

- Bẩm quan lớn. Tướng quân nhà chúng con ốm mệt suốt hai ngày nay. Hiện đang nằm trong giường, bệnh không thể ra ngoài đây đón tiếp. Mong quan lớn lượng thứ cho. Chủ nhân con cũng xin được mời quan lớn vào trong ấy.

Tượng Cổ lập tức cho người mang thuốc và rượu vào trong. Tượng Cổ gọi Dương Thanh vài lần nhưng không thấy thưa, hắn nghĩ rằng Dương Thanh ốm mệt nên không thể dậy được. Hắn tỉ tê: “Dương Thanh à, nhà ngươi mà có mệnh hệ gì thì An Nam này biết tính thế nào? Bọn Cao Miên, Nam Chiếu đang nhăm nhe, nhà ngươi hãy sớm lành bệnh mà lo cho bách tính An Nam.”

Dương Thanh không động tĩnh gì, Tượng Cổ ra hiệu lệnh để mang thuốc bổ và rượu ngon vào trong. Bỗng xuất hiện một cô gái tuổi ngoài đôi mươi xinh đẹp tựa cô tiên tay bưng chén thuốc đi qua họ Lý. Hắn ngẩn ngơ nhìn cô ấy, gương mặt thanh tao, lông mày lá liễu, hai mắt buồn, khuôn mặt thanh tú, lại thêm nước da trắng ngần e lệ trước họ Lý. Hắn cứ bần thần như lạc vào trong cõi mơ. Hắn giật mình khi Dương Thanh trở người quay mặt về phía Tưởng Cổ, mắt trợn trừng trừng. Tượng Cổ sợ hãi, ngã ra phía sau. Hắn lùi lại và chạy thẳng về phía cửa căn phòng. Một tên lính bất cẩn làm vỡ cái niêu gà tần, hắn sợ tái mét mặt. Tượng Cổ ra lệnh cho bọn lâu nhâu, giọng sợ hãi:

- Về phủ, về phủ ngay.

Dương Thanh, ngồi dậy cười lớn. Có tên gia nô đến bẩm báo:

- Bẩm ông. Cái niêu gà tần vừa rơi, con chó nhà ta ăn phải, chẳng may nó lăn ra sùi bọt mép rồi chết.

Dương Thanh sai người đổ hết những thứ ấy đi và mang hũ rượu ấy ban cho bọn giám quân. Lũ giám quân sợ hãi nghe thấy vậy kẻ thì liều mình uống, kẻ thì sợ hãi chạy trốn khỏi Giao Châu. Bấy giờ, bọn trẻ nhỏ ở Giao Châu hát vè rằng:

“Ve vẻ vè ve

Cái vè quan hớn

Quan thì rất lớn

Tướng thì ốm o

Có chút quà cho

Bụng no quà biếu

Tướng quân thì thiếu

Chẳng biếu thứ gì

Lại được dân di

Quan đi đến phủ

Dao găm thủ áo

Báo cáo sự tình

Bọn lính bưng rượu

Định liệu ra tay

Ai ngờ ngủ say

Trở tay trở gối

Mắt thì thô lố

Làm bố quan e

Ấy rồi ù té

Quan lớn tè quần.

Ve vẻ vè ve.”

Sau khi Tượng cổ rời khỏi phủ, Dương Thanh lập tức cho người mang bình rượu quý thưởng cho giám quân phía nam thành. Một lát sau có một tên lính quay lại phủ bẩm báo rằng:

- Bẩm Đại nhân, có hai tên giám quân sau khi uống rượu đã phun máu ra chết ngay tại chỗ. Hiện một đám giám quân khác thấy vậy đã bỏ trốn. Còn lại chỉ còn vài tên thôi ạ.

Dương Thanh tức tốc đến phía nam thành, Dương Thanh quát lớn:

- Kẻ nào đã cho độc vào rượu này?

Nói xong Dương Thanh đập vỡ tan hũ rượu mà khóc lớn: “Ơi các vong linh huynh đệ, thật là tội nghiệp cho các ngươi. Ta thề ta sẽ trả thù cho các ngươi!”

Bọn giám quân, lính tráng lùi ra xa, rượu từ hũ vỡ chảy đến đâu, mặt đất sùi lên những bọt trắng, một chốc đám có xanh đã thành đám cỏ đen úa. Dương Thanh sai người chôn cất chu đáo hai tên giám quân. Dương Thanh rút gươm nói lớn:

- Ta sẽ báo thù cho các huynh đệ. Các người trung thành với ta nghĩa là trung thành với đất An Nam, với triều đình thì sẽ chẳng sợ thiếu cơm ăn, áo mặc. Gia đình các người cũng chẳng sợ bị kẻ nào hăm dọa.

Bọn giám quân co rúm người rồi vội quỳ sạp người xuống mà sợ hãi:

- Chúng tôi xin… xin một lòng theo… theo … theo tướng quân.

Dương Thanh hét lớn:

- Bắt hết những kẻ đã chạy trốn cho ta. Người sống thì phải thấy người, kẻ chết thì phải thấy đầu.

Xong rồi thanh gươm cắm lặm xuống đất. Có tên giám quân sợ quá mà tiện ngay trong quần, tên thì xỉu ngay tại chỗ. Dương Thanh lên ngựa cười lớn rồi vượt sông chạy thẳng về phía thành Luy Lâu, phía đông trị sở Tống Bình.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.


Chương 1.5 Hạnh ngộ hùng tâm

Trong đêm khuya vắng lặng chẳng lấy một bóng người, Dương Thanh dắt ngựa đứng trên gò đất cao nhìn xa xăm có thứ ánh sáng lập lòe bờ phía đông sông Cái, giọng hát nỉ non:

“Người về tôi chẳng có ai.

Đây tôi chỉ có bờ vai anh hùng.

Đêm khuya lạnh lẽo sang sông

Gặp người quân tử bóng hồng trao duyên

Người ơi hễ có lên thuyền

Trao tôi thanh kiếm rồi quên chiến trường…”

Vị tướng đang đắm chìm trong câu hát nghiêng đưa theo mái chèo thì bỗng có tiếng gọi da diết từ phía lòng sông:

- Này vị tướng quân kia ơi. Trời canh ba sao còn đứng đấy! Kẻ anh hùng lo chi việc cơm áo. Sẽ có người giúp tướng chủ vượt nan. Xuống đây nghe một tiếng đàn, hễ sông có động thì bàn việc quân.

Dương Thanh quăng ánh mắt xuống làn nước còn đang nuốt ánh trăng khuya, huyết mã hý cao một tiếng rồi chạy thẳng về phía sông sâu. Dương Thanh ngại ngần bước tới bến sông. Ngựa huyết mã nhảy chồm lên đứng cạnh mạn thuyền nhìn Dương Thanh như ý muốn tướng chủ lên cùng. Có một lão râu tóc lơ thơ nhưng chẳng lấy một sợi bạc, người lùn chừng năm thước, tay bắp cuộn, chân vững trãi như hai cột đình, mình rùa đội chiếc nón lá xạm màu vì nắng, tay nắm chắc mái chèo tựa người tướng quân cầm mác trên tay, giọng sang sảng:

- Vị tướng quân này muốn sang sông nhưng sao còn chưa chịu lên thuyền?

- Phải, nhưng sao lão biết ta muốn sang sông?

- Bọn chúng tôi quanh năm sông nước chở những chuyển đò, có chi mà không hiểu người khách. Ngựa của ngài chính là dẫn đường, chủ có muốn đi thì ngựa ắt mới đi.

Dương Thanh cho là phải rồi trò chuyện với ông lão mà ngủ quên lúc nào chẳng hay. Có tiếng vó ngựa huỳnh huỵch nền nã trong tai, Dương Thanh tỉnh dậy, người vị tướng ê mỏi, toàn thân ướt sũng mồ hôi, huyết mã vẫn đứng nhởn nhơ gặm chút cỏ non còn đang vương chút sương đêm. Rồi có tiếng người chạy lại bụi tre phía bến sông. Bóng đen núp yên lặng, Dương Thanh ra hiệu cho huyết mã im lặng, vị tướng tiến từng bước nhẹ ra bờ sông rồi vòng qua bụi tre. Bọn lính tráng lùng sục khắp bến đò, ông lái đò ban nãy lúc canh hai đưa họ Dương sang sông cũng không còn ở đó, chỉ còn hai tên phu gầy còm đang ăn bữa đêm với hai củ khoai nướng nhem nhuốc. Hai tên phu ậm ư ậm ừ, mấy tên lính gắt lớn:

- Các ngươi có khai không thì bảo! Hoặc là các ngươi sẽ phải chết.

Một tên phu quỳ xuống van lài:

- Mong các Đại nhân tha cho hai anh em chúng con. Từ canh hai đến giờ bọn con chưa chở được chuyến đò nào cũng không thấy người nào gọi đò cả.

- Vậy dấu vó ngựa đây là sao hả? Các ngươi còn định chối?

Tên nha dịch rút kiếm ra khỏi bao định chém thì bóng đen núp sau bụi tre vội vàng chạy ra xô hắn. Dưới anh đuốc, chàng trai dáng người mảnh khảnh như cành trúc, khuôn mặt khôi ngô thanh nhã tựa thần tiên, mắt sáng như sao trời, sống mũi thẳng như cây dừa xứ Hoàn Vương. Dương Thanh bỗng thấy có một quầng sáng quanh anh ta từ dưới sông lên nhưng thượng tướng quân vẫn không nhúc nhích chân. Áo quần xộc xệch ướt át, tóc xõa ngang lưng, chàng trai nhìn bọn sai nha với ánh mắt giận dữ:

- Hai người đó không có tội gì. Các ngươi hãy để họ yên.

Thượng tướng quân chăm chú nhìn anh ta từ trực diện, gương mặt thanh tú khiến Dương Thanh có cảm giác đã quen từ rất lâu. Hai tên lính tiến đến gần, trói chàng thanh niên bằng thừng đay. Chàng thanh niên cố gắng cựa nhưng không thể thay đổi được tình hình. Hai tên phu lái đò hớt hải lên đò đi sang hữu ngạn sông Cái mà không dám ngoảnh lại nhìn lấy một lần. Dương Thanh thấy một bóng đen dưới mặt nước từ từ đi lên che khuất ánh đèn trên chiếc thuyền nan. Dương Thanh giật mình, huyết mã hý vang. Hai tên lính quay lại lùng sục, giương đuốc về phía Dương Thanh. Dương Thanh cười lớn:

- Hai ngươi đang đêm khuya khoắt sao lại sang đây? Nhìn các ngươi thì chắc chắn là lính Tống Bình phủ. Các ngươi định đảo ngũ hay sao?

Hai tên lính hất mặt lên ngông nghênh:

- Nhà ngươi nói đúng. Nhưng chỉ đúng một nửa. Bọn ta tuân mệnh Lý Đại nhân đi bắt người chứ không đảo ngũ. Nhà ngươi cũng mang áo quân Tống Bình, áo giáp kia ngươi có từ đâu. Không lẽ…

Dương Thanh chẳng cười lớn:

- Các ngươi truy bắt ai?

- Bắt ai thì liên quan gì đến nhà ngươi?

Thượng tướng huýt sáo, huyết mã lao tới khiến hai tên lính ngã ngửa. Rồi bỗng nhiên bóng đen xuất hiện, nhanh như cắt, thượng tướng cùng hai tên lính bị hạ gục. Huyết mã hý liên hồi kêu thảm thiết trong đêm.

Tờ mờ sáng, Dương Thanh tỉnh giấc nhìn xung quanh trong ê ẩm. Dương tướng nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp bị gãy mất một chân, xung quanh là vách đất, mái tranh. Thượng tướng nhìn một lượt khắp nhà có ở một cây mái chèo dựng góc nhà, một chiếc nón quai thao xậm xì vì mưa nắng treo trên bức tường đất loang lổ. Có manh lưới rách còn ướt sũng nước sông, vẩn đục và tanh tanh mùi cá. Dương Thanh bước ra ngoài, ngẩng đầu lên thì mặt trời đã quá ngọn tre. Huyết mã đứng nhâm nhi đám cỏ non đầu hạ, mặt như khoái chí nhìn Dương tướng. Thấy đằng sau nhà có tiếng âm ư, Dương Thanh chạy ra phía sau. “Hóa ra là hai tên lính hôm qua! Nhưng sao ta lại ở đây, không bị trói như hai tên này?” Dương tướng lẩm nhẩm trong miệng.

- Dương thứ sử đã tỉnh rổi đấy à? – Giọng cười sảng khoái vang lên từ phía bờ sông.

- Hóa ra là lão! Đêm qua lão đưa ta qua sông phải không?

Ông lão chân cột đình, tướng người vạm vỡ phi phàm, mang trên vai chiếc thuyển nan đã chở họ Dương đêm qua. Ông lão đặt chiếc thuyền xuống rồi trả lời giọng sang sảng:

- Chính lão! Đêm qua tướng quân trúng gió nên ta và hai con ta đã đưa tướng quân vào đây. Chắc tướng quân vẫn còn nhận ra người này?

Chàng tra khôi ngô tuấn tú bước ra, trên vai còn đương vắt lưới, ánh bạc sáng lấp lóe sau lưng. Anh chàng chắp tay, quỳ gối chào Dương Thanh:

- Đa tạ tướng quân đã ra tay cứu giúp. Tiểu nhân nghe danh tướng quân đã lâu, nay mới hạnh ngộ! Thật là may mắn.

- Nhà ngươi là… - Dương Thanh ngập ngừng hỏi.

Lão ngư khảng khái nói:

- Bẩm thứ sử! Người này là Sĩ Giao vốn thuộc dòng dõi Đỗ gia ở Ái Châu, tổ nghiệp ở đất Bắc nhưng đã về Ái Châu từng làm thứ sử. Đời trước có Đỗ Anh Sách từng làm đến chức Phó đô hộ, nhập viện phán án tại trị sở Tống Bình đời đô hộ sứ Triệu Xương và Trương Chu. Sau này họ Bùi hống hách nên đã lui về xứ Trường Châu. Chỉ còn vài người ở lại Tống Bình làm các chức nhỏ.

- Bẩm tướng quân! Tôi nghe nói ngài cũng chẳng ưa tên họ Lý, buổi chúc thọ ngày qua ngài cũng không đến nhưng cái uy của ngài khiến hắn chẳng thể làm gì. Tôi họng thấp cổ bé nên mới thành ra nông nỗi này.

Dương Thanh cắt lời:

- Nhà ngươi có phải là tên Đô áp nha trong phủ?

- Dạ đúng. Từ ngày họ Bùi đến Tống Bình, Đỗ gia người thì về quê, kẻ thì đi khai hoang các cơ mi. Chỉ còn tôi ở lại. Kỳ thi hương cũng đạt Tú tài nhưng hắn chẳng màng đến chỉ giao cho cái chức Đô áp nha. Tôi đây võ tuy có luyện nhưng chẳng thể như văn. Tôi đây mới về huyện Ninh Hải, Lục châu sinh sống như một ngư dân. Xung quanh Tống Bình này, mấy châu cơ mi thì toàn những kẻ bợ đỡ, nịnh nọt hắn làm thứ sử, huyện lịnh. Sau khi Đỗ Gia trang bị viên huyện lịnh Ninh Hải thảm sát, tôi trở lại Tống Bình thì hắn ban cho gia đình tôi trăm mẫu ruộng phía nam Luy Lâu nhưng nửa năm hạn hán không nộp được chút sưu nào thì bọn cướp đến quấy phá, đám làm thuê cùng vì thế mà đói chẳng làm nữa. Hắn thì tết tổ chức tiệc đãi, tháng giêng lễ cầu, tháng ba mừng thọ, tháng tư đầy tháng cháu… Lần nào tôi cũng phải chạy vạy hết nơi này nơi khác để mua quà lễ cho hắn. Tướng quân ở ngoài xa không biết chứ. Đến giờ tôi còn chưa trả được hết những món nợ trước. Cũng chẳng còn mặt mũi nào mà đi vay mua lễ vật đến ăn tiệc của hắn. Ấy nên tôi mới phải chạy trốn đến đây. Cả đêm hắn cho người lùng sục tôi. May mà chạy đến bãi sông có Lão Đỗ Đại đây không tôi cũng chỉ còn nước chết trong tay hắn.

- Nhìn tướng mạo các ngươi chẳng phải kẻ thường. Nay ta thấy người Nam ta nơi nào cũng oán thán, nghèo đói, còn bọn quan lại các châu, huyện thì ra công ra sức vét vơ, đút lót quan trên để chạy chức quyền. Từ lâu ta đã muốn trừ khử bọn này. Nay Lý Tượng Cổ lại càng thêm hung bạo. Hắn cậy trên có lọng lớn, giả làm nghiêm trị kẻ dưới khiến dân Nam lầm than khổ cực. Ta được về Tống Bình, đi đánh giặc ở suốt dọc Lục Châu, Trường Châu, Ái Châu, đâu đâu dân cùng than khóc cực cùng. Nay giặc ngoài đã yên, triều đình phương Bắc đang loạn, ta đã kết giao với trí sĩ người Nam ở khắp các Châu chờ ngày giành lại quyền tự chủ tại đất này. Ta thấy các ngươi cũng chẳng phải người thường lại ghét lũ tham ác phương Bắc. Chẳng biết Các người có chí hướng giống ta, cùng ta mưu nghiệp lớn hay chăng?

Lão Đỗ nói:

- Lão xưa nay chỉ biết lênh đênh sông nước, quăng chèo bắt lưới nào đâu có biết chuyện binh gia.

Dương Thanh cười sảng khoái:

- Lão dũng mãnh hơn người, hạ gục ta chỉ một đòn đánh. Không thể khinh thường. Nếu Lão ưng thuận thì ta phong Lão làm Bộ binh bản tướng, cầm năm ngàn quân bộ binh trị sở, chờ ngày lật đổ người Bắc phương.

- Lão ngư cảm ơn thịnh tình của tướng quân. Nếu đã như vậy, ta xin phò trợ tướng quân nhưng khoan hãy cho ta làm tướng. Để cho ta lập công khi ấy rồi mới ban sau cũng không muộn. Ta cũng xin tướng quân thu nạp Sĩ Giao, chắc chắn Sĩ Giao sẽ không làm tướng quân thất vọng.

Sĩ Giao quỳ xuống bái lạy:

- Sĩ Giao xin dốc lòng vì tướng quân. Ta có chút này làm quà xin giao lại cho tướng quân.

Sĩ giao cởi chiếc áo đang mặc trên người. Chiếc áo cũ khiến Dương Thanh không khỏi ngạc nhiên:

- Nhà ngươi là có ý gì?

- Bẩm tướng quân. Chu Diên cách đây không xa, chừng trăm dặm đường. Ngày trước tướng quân từng đánh quân Chà Và. Đây cũng là vùng đất hiểm yếu, ngày trước quân Quỳnh Châu vào đó mà đánh bại được Phùng An thiếu chủ. Tại hạ có người anh em là hào trưởng đất ấy, tập hợp được trên ba nghìn anh em chỉ chờ ngày khởi nghĩa. Núi Tiên Du, trăm mẫu ruộng ta đã cho huynh đệ khai khẩn, nay cũng được nghìn người, tất cả xin nghe tướng quân điều động. Vùng Hoan Ái, trọng yếu nhưng là đất của tướng quân nên thêm phần an tâm. Bọn Phong Châu, Man Hoàng tham của đút lót nên cũng dễ bề cầm cự. Đây là bản đồ An Nam và kế sách để trị lũ cướp người Bắc.

Dương Thanh lấy làm mừng lắm nên đã ở lại với hai người họ Đỗ kia cho đến quá chiều. Bữa cơm cá rượu nhạt khiến cho sĩ khí Dương Thanh lên cao, nổi hứng đọc bài thơ:

“Nam vương xưng tại đất này

Kẻ ngư chài lưới, cuốc cày nhà nông

Đào núi rồi lại ngăn sông

Bao năm vun đắp bao công gieo trồng

Lĩnh Nam mảnh đất con rồng

Biển Đông bát ngát một dòng cháu tiên

Thục Vương xưa ấn chủ quyền

Bà Trưng Bà Triệu đất liền máu xương

Lý Tổ lừng lẫy muôn phương

An Nam Bố Cái Đại vương anh hùng

Bao phen lửa đạn nghìn trùng

Dân ăn cát sỏi nộp từng đồng sưu

Phận ai ăn chõ uống niêu

Canh ba thức giấc trai điều biên xa

Trẻ con cùng với đàn bà

Vạn cân thóc thuế, lụa là hiến dâng

Than ôi cái túng cái bần

Bao phen cam chịu bấy lần khổ đau

Nghìn năm mưa nắng giãi dầu

Cá ai lưỡi thẳng mắc câu không mồi.

Đêm ấy, Dương Thanh cùng hai người đến bãi Quần Thần khấn vái trời đất, bọn lính tráng được khao đãi rượu thịt no nê. Dương Thanh dắt hai người ra bờ sông cùng tắm để gột bỏ những muộn phiền. Lão ngư họ Đỗ khua chèo, Sĩ Giao cao hứng thổi bài quan họ, giọng thanh thanh trong trẻo, Dương Thị thấy vậy liền hát cùng Sĩ Giao. Chỉ vài ngày sau, biết tâm tình của Sĩ Giao và con gái, Dương Thanh gả con gái Dương Thị cho Sĩ Giao.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Tên truyện: Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành


Chương 2.1 Giết quan sứ, phục gia thù gặp cố nhân
Về họ Lý, Tượng Cổ trở về phủ và sai lính tìm hiểu về cô gái khiến hắn ngẩn ngơ khi ở phủ tướng đêm ấy tại Dương tướng phủ. Ngày đêm hắn thẩn thơ, làm văn làm thơ về cô gái ấy, chỉ ước một lần được gặp mặt. Rồi có kẻ mách rằng: “Muốn gặp lại nàng tiên ấy, chỉ cần đến phủ quân sư của Dương Thanh.”

Hắn lập tức rước kiệu lớn, trống kèn khua vang khắp La Thành đến nhà họ Đỗ. Hắn biết nàng là con gái nhỏ Dương tướng, vợ của Sĩ Giao, quân sư hầu cận của họ Dương cũng là tay Áp nha lần trước đắc tội với y. Hắn liền trơ trẽn sai lính đến phủ rước nàng về, Sĩ Giao biết vậy lấy làm hậm hức lắm. Sĩ Giao sai người thế thân cho vợ mình rồi đưa về phủ đô hộ. Họ Lý hồi hộp rồi chăm chút tiếp đón giai nhân. Linh cảm cho hắn thấy có điều gì đấy không đúng như những gì hắn mường tượng ở trong đầu. Hắn cho lính đến bắt cả nhà Đỗ Sĩ Giao rồi ép Dương Thị phải chiều chuộng hắn.

Được tin, Dương Thanh nổi cơn giận, mang quân lính vào thành định hỏi tội họ Lý. Họ Lý sai người thả Đỗ Sĩ Giao, rồi hắn cười nhạt rằng: “Dương tướng quân khỏi lo, chỉ là chút hiểu nhầm giữa ta và Đỗ Tiên sinh.”

Sĩ Giao bẩm báo lại với Dương Thanh tất cả sự việc. Dương Thanh sai người cho gia đình Sĩ Giao trở về Ái Châu. Tại đây, Sĩ Giao gặp lại được Tồn Thành và Thủ Trừng.

Từ bấy giờ, Lý đô hộ lại càng sợ Dương Thanh hơn khiến hắn tâm thần bất an, lúc nào hắn cũng mơ mơ màng màng việc giữ được Dương Thị nhưng hắn lại giật mình nghĩ đến Dương Thanh. Hắn lao vào gái gú, hoan lạc để quên đi sầu não, buồn phiền. Việc Giao Châu thì họ Lý giao hết quan dưới, hầu cận.

Trở lại tình hình Giao Châu lúc ấy, Lý đô hộ bắt bọn Man Hoàng dọc sông Đà, sông Cái phải cống nộp nào là sừng ngà, da cọp, sơn hào biết bao nhiêu là là thứ. Bọn tù trưởng các châu cơ mi ở Hoàng Man động ngày càng căm ghét họ Lý kia, lại bị bọn Nam chiếu mua chuộc nên lúc nào cũng nhăm nhe có ý đồ xấu. Tượng Cổ càng thêm lo lắng. Nhiều lần triệu hồi Dương Thanh về La Thành nhưng ông không tuân. Tượng Cổ mới sai lính gửi cho Dương Thanh một lá thư rằng:

“Tượng Cổ ta trước sinh ra quyền cao chức trọng, bị bon quan tham nhiễu loạn triều đình khiến ta mất chức quan, triều đình lừa lọc đuổi ta về An Nam này. Ta chỉ mong có người hiểu ta nhưng xem ra chỉ có mình Dương Thanh hiểu. Ta cũng chỉ vì bách tính mà hành xử thôi. Cũng là vì bọn quan dưới nhiễu nhách dân lành, chia rẽ mọi người. Cả ta và Dương tướng quân cũng bị cuốn vào ấy. Nay ta khẩn thiết mời tướng quân vì bách tính An Nam, và cũng vì danh dự người Nam, vì hai chữ nghĩa dũng của Tướng quân mà trấn áp bọn Man Hoàng cứu nhân dân bách tính Giao Châu. Xin tướng quân rộng lòng xoi xét tâm can.”

Dương Thanh đọc xong lá thư mà cười lớn: “Đúng là bọn tiểu nhân, phen này ta thề sẽ diệt được bọn ngươi.”

Tên lính đưa thư nghe được liền chạy về phủ đô hộ báo với Tượng Cổ khiến hắn mừng lắm. Đêm ấy, bọn Man Hoàng áp sát phong Châu và huyện Thái Bình, Tượng Cổ mở rộng cổng thành phía nam để quân Dương Thanh vào thành chuẩn bị nghênh địch. Hắn chắc bẩm rằng có uy vũ của Dương tướng quân nên phần thắng thuộc về mình, hắn cho mời tiệc rượu ca hát để mừng công. Bất ngờ cả trăm tên lính bao vây phủ đô hộ, một tiếng ngựa hí vang trời làm hắn giật mình. Một vị tướng quân trên lưng con huyết mã, mặt đầy uy nghiêm oai dũng bước vào cửa phủ. Tượng Cổ dang rộng tay, chạy vội về phía Dương tướng mà khua tay múa mép:

- Dương tướng quân đã đến rồi. Có Dương tướng quân ở đây, Giao Châu không lo bị phá rồi. Tiệc này ta mở để khao tướng sĩ. Xin mời Dương tướng quân xuống ngựa nâng ly, và mời mọi người chúc Dương tướng quân thắng trận trở về.
Dương Thanh quắc mắt nhìn họ Lý và đám quan lại, một mũi tên bắn ra, Tượng Cổ nằm sấp dưới sàn máu lênh láng. Bọn vũ nữ hoảng loạn chạy ra ngoài phủ, riêng đám quan lại dưới trướng, Dương Thanh cho lính vào giết gọn từng tên. Bọn hầu cần, gia nhân, lính tráng chống cự quyết liệt nhưng không sao cưỡng lại sức mạnh của đoàn quân người nam của Dương Thanh. Biết tin xấu xảy đến với quan đô hộ, bọn lính từ các huyện Long Biên, Chu Diên lập tức kéo về La Thành nhưng bị Chí Liệt chặn đánh tan tác bên bờ Đông sông Cái. Lính tráng thì hàng, tướng sĩ thì tẩu thoát về phương Bắc.

Khi đó, tại châu Ái, bọn Đoàn Uyển, Tồn Thành, Do Độc thấy Giao Châu có biến lớn lại biết được người anh em Sĩ Giao đang ở Ái Châu. Tồn Thành cho gọi Sĩ Giao đến Nhật Nam.

Sĩ Giao mừng rỡ gặp lại Tồn Thành sau gần ba năm xa cách, biết bao là chuyện. Tồn Thành bày tỏ sự mến mộ với Thiên thanh tướng và mong muốn được cùng Sĩ Giao về Tống Bình để cùng góp sức cứu dân. Sĩ Giao vui lắm, lại nói: “Mưu tầm mưu, kế tầm kế, ngày diệt trừ họ Lý báo thù cho Đỗ Gia trang đã gần đến rồi.”

Dương Thanh gửi cho Sĩ Giao một lá thư mật hẹn ngày hội quân tại Tống Bình. Ngay trong đêm Dương Thanh giết chết viên quan sứ tại Tống Bình, Sĩ Giao cùng với Tồn Thành dẫn hơn tám trăm lính và hai chục thuyền lớn đi dọc bờ biển từ Ái Châu đến cửa Ba Lạt ngược dòng sông cái vào đất Chu Diên đánh thẳng vào cửa ngõ đất Hiến, lại cho thuyền xuôi dòng Luộc sang đất huyện Ninh Hải, châu Lục ra sức đánh giết bọn quan quân chống cự quyết liệt tại đó. Đám lính nghe danh tiếng Dương Thanh mà ra hàng hết loạt. Viên quan họ Lý năm nào chạy trốn đến Hải Môn thì bị Do Độc truy sát mang thủ cấp về tế tại bãi sông cửa Nam Triệu.

Tròn ba năm, kể từ ngày định mệnh ấy, Sĩ Giao cùng Tồn Thành trở lại mảnh đất năm nào những người dân xứ chài ấy còn í ới gọi nhau từ sớm đi bắt cá tôm. Bọn trẻ chạy lon ton dưới những dàn lưới còn nguyên mùi cá. Những khoảnh khắc ấy cứ ùa về trong những câu chuyện của con người đã ăn trực nằm chờ nơi này, chờ ngày thay đổi đất Giao Châu này. Chỉ còn lại đây những nấm mồ xanh mướt cỏ, những căn nhà trống toác còn vương lại trên đó là cát sông và những dấu vết sương gió của thời gian.

Hai người đang uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc của ngày hè tháng sáu thì có một tên lính vội vàng chạy đến báo với Sĩ Giao:

- Bẩm Đỗ tướng quân. Ngoài kia có một gã hung tợn, tóc rối bù xù đang đòi vào doanh trại để gặp tướng quân. Chúng tôi hỏi thì hắn ta gào thét lên rồi cứ đi thẳng vào. Hắn khỏe quá, chúng tôi không thể cản lại hắn được.

Tồn Thành sửng sốt:

- Ở đâu? Người ở đâu đến?

Chẳng nói chẳng rằng, Sĩ Giao lên ngựa và chạy ra phía cổng doanh trại. Dưới lập lòe ánh lửa trại, Sĩ Giao thấy một gã to lớn, tay bắp cuồn cuộn tựa mây, đôi chân sưng sững như chân voi nham nhở những bùn đen còn dính lại đang khô dần. Chiếc khố ướt sũng vẫn còn vương vẩn cá tôm. Mặt hắn có vết bớp lớn chiếm trọn nửa khuôn mặt bên phải. Một mắt hắn hằn nguyên vết chém của đao kiếm. Sĩ Giao có chút e dè:

- Nhà ngươi là ai? Là người hay quỷ?

Hắn gầm gào lên một cách hung dữ như quỷ Sa tăng trong truyền thuyết, tay hắn cầm cây gậy bằng gỗ nghiến gồng mình bẻ nó gãy tan tành khiến mọi người khiếp sợ. Tồn Thành cầm cây thương trên tay một tên lính xông thắng tới chỗ hắn. Cây thương lao vun vút rẽ khói, bụi cát mờ mịt mà gã hung dữ kia vừa dập tung lên.

Hắn lại gào lên một tiếng “Giết” thật lớn rồi đạp tung cây thương của Tồn Thành, cây thương gãy làm tư. Do Độc bấy giờ cưỡi ngựa từ phía cổng quân doanh đến cầm kiếm chém thẳng vào người hắn. Lưỡi kiếm sáng loáng lia một cái thật ngọt qua khuôn mặt đầy thẹo của gã khiến mái tóc xõa xượi của hắn cụt lủn, máu trên khuôn mặt hắn chảy ra thành dòng. Tồn Thành cầm hai mảnh gãy của chiếc thương vừa gãy, giọng giận dữ hỏi gã:

- Nhà ngươi có phải là…

Sĩ Giao đưa ánh đuốc lại gần khuôn mặt hắn. Từng giọt máu lẫn giọt mồ hôi nóng rừng chảy từ mắt trái của hắn xuống cuốn trôi đi những bụi bùn còn vương. Khuôn mặt hắn dần hiện ra khiến Sĩ Giao giật mình, thốt lên:

- Tồn Thăng!

Hắn lại gầm gào, hét lớn:

- Giết!

Tồn Thành lúc này, ném đôi chuôi thương xuống dưới đất tiến lại gần. Thành hạ giọng:

- Ngươi là Tồn, Tồn…

Máu chảy trên khuôn mặt hắn lẫn bụi cát khiến con mắt còn lại của hắn giật giật lên. Gã xông thẳng vào đám lính, vác từng người lên rồi ném thẳng vào lều trại. Bọn lính tráng thấy thế đều lùi ra cả. Chỉ có Sĩ Giao tiến lại gần, ân cần hỏi han hắn. Hắn liền nhe răng dữ dằn như để đe dọa Sĩ Giao. Sĩ Giao quẳng bộ giáp xuống rồi xé tan chiếc áo đang mặc trên người. Hắn sững người lại, mắt chằm chằm nhìn vào hông phải của Sĩ Giao.

- Là em rồi. Tồn Thăng ơi. Đúng là em rồi. –Sĩ Giao nấc lên trong nghẹn ngào.
Gã mặt thẹo bỗng sụp xuống, mắt hắn nhắm nghiền. Tồn Thành liền hét lớn lên:

- Các ngươi còn không dìu quân sư cùng em ta vào doanh trại.

Do Độc thu kiếm lại, hỏi Tồn Thành:

- Người ta vừa chém là em của các anh?

Có tiếng xe ngựa từ phía doanh trại phía tây đến, tiếng lanh lảnh của đứa trẻ:

- Cha ơi! Trừng con sáng nay thấy chú Thăng ở bãi sông cùng với cá có sừng.
Trên xe ngựa bước xuống là Thủ Trừng và Dương Thị cùng đám người tùy tùng. Đám lính và Sĩ Giao đương dìu Thăng vào trong chỉ ngoái đầu ra nhìn qua rồi nhanh chóng lấy nước lau rửa người cho Tồn Thăng.

Tồn Thành ôm lấy Trừng sốt sắng chạy vào trong trướng. Tồn Thành gầm gào:

- Các người mau mau ninh cho ta một niêu gà tần và một niêu canh cá.

Nói rồi, Do Độc tiến vào. Với y thuật của con trai Lý Lang Mộc, tuy có chút gượng gạo nhưng Độc đã gột sạch vết thương và bó lại cho Thăng. Độc quấn lấy một miếng da dê đắp thuốc lá trên khuôn mặt của Thăng. Chỉ trong vòng ba ngày, vết thương đã liền, chỉ có con mắt bên trái nay đã khép hẳn một nửa bên ngoài cạnh thái dương.

Độc nói với Thành rằng: “Vết thương của Thăng khá sâu, lại thêm những vết thương ngày trước khiến khuôn mặt của Thăng chẳng thể trở lại bình thường được. Em là người khiến anh ta ra như thế này. Tội này xin các anh cứ trách phạt.”
Thành cười lớn sáng khoái:

- Cũng may là Do Độc kiếm thuật quả là đáng nể phục nên bọn ta mới nhận ra được Thăng. Nếu chẳng phải vì nhát kiếm ấy, mái tóc vẫn che đi khuôn mặt ấy thì ta đã giết chết em ta hay sao. Ta trách em làm sao đây?

Do Độc lại nói:

- Nếu các anh không trách phạt em thì em xin bằng mọi giá sẽ chữa khỏi cho Tồn Thăng. Thăng là em của anh Tồn Thành thì cũng có nghĩa là anh của Do Độc em.

Chỉ đúng một ngày sau, Lý Lang Mộc đã có mặt tại doanh trại. Sĩ Giao bấy giờ mừng lắm. Vội vội vàng vàng, Sĩ Giao bái kiến Lý tiên sinh. Lý Lang Mộc chẳng ngồi nghỉ ngơi, chưa một ly trà đã khẩn trương xem dò vết thương của Tồn Thăng. Xem dò vết thương một lượt, Lý Lang thở phào nhẹ nhõm:

- Thật may mắn cho người anh em này. Anh ta chỉ là sức quá kiệt mà như thế này thôi. Hãy cứ tiếp tục vắt nước cháo và cho anh ta uống canh. Chỉ ngày mai là anh ta tỉnh dậy. Thuốc đắp mặt cũng chỉ giờ dậu ngày mai là tháo ra được.

Y lời Lão Lý nói, sáng sớm ngày hôm sau Tồn Thăng tỉnh lại. Do Độc liền sai bọn lính đi kéo cá dưới sông lên, mua rượu trong dân, đãi khao cả đoàn quân.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành


Chương 2.2 Đỗ gia đoàn tụ

Khói lửa bập bùng, mùi cá nướng thơm lừng quyện với gạo nếp không thể xua đi được hương nồng dịu của những hũ rượu. Cả đoàn quân ăn uống no say suốt từ giờ thìn đến tận khi gà lên chuồng. Trong hơi men, Sĩ Giao lớn tiếng với cả đoàn quân:

- Nhờ phúc của Thiên thanh Dương tướng Dương Thanh. Trước là trả được mối thù mà bọn bạo tàn đã reo với dân Nam ta, sau ấy là con dân hương Yên Hưng cũng đã được toại lòng.

Nói đến đây, Tồn Thăng bỗng nhiên khóc lớn như một đứa trẻ. Tiếng khóc của gã to đến nỗi lũ mèo hoang đang rình rập chờ cá thừa thi nhau chạy toán loạn, kêu la thảm thiết. Tiếng đàn mèo hoàn kêu hòa với tiếng khóc ấy khiến mọi người không ai là không kinh hãi. Tồn Thành hắng giọng:

- Nam tử hán dũng mãnh như em cớ sao khóc như đàn bà con trẻ vậy?

Thăng mếu máo khiến khuôn mặt đầy những nếp gãy do đao kiếm trở nên khó nhìn hơn bao giờ. Chút máu đỏ tươi lại rỉ ra từ vết thương còn chưa lành nhoe nhoét trên gò má trái khiến mặt hắn càng thêm kinh sợ. Thủ Trừng thét lớn:

- Chú quỷ Thăng. Con quỷ khóc nhè.

Mọi người cùng cười lên trong tiếng nói ngây thơ của đứa trẻ lên mười khiến Thăng mặt nóng phừng phừng. Thăng lắng lại, mặt gầm gừ như thú dữ chuẩn bị săn mồi. Con mắt phải sâu hoắm trong hốc mắt thâm xì nhìn xung quanh. Đám lính đang ngặt nghẹo cười nhìn Thăng mà nín bặt. Chẳng kẻ nào dám cười nữa. Sĩ Giao ân cần hỏi:

- Tại sao em khóc?

Thăng như lạc mất giọng trong cơn nấc:

- Tại ta. Tất cả là do em.

Thành ngạc nhiên hỏi em mình:

- Em làm sao? Mọi người bị tên quan huyện họ Lý kia sát hại. Đâu có liên quan gì đến em. Bao năm qua em ở đâu?

Nói đến đây, Tồn Thăng nghẹn ngào trong nước mắt kể lại…

"…Một ngày hè cách đây, Thăng cùng đám thanh niên Đỗ Gia trang bắt được Long ngư. Các cụ già trong làng cho ấy là điềm lành liền làm lễ cúng tế thả cá về với đại ngàn. Sức mạnh của Thăng có thể khiến núi đổ biển trào một mình kéo cả con cá lớn ấy vào bờ. Hai ngày sau, tên Lý huyện lệnh đám quan quân đến vây làng hòng tìm Long ngư. Hắn phá phách làng xóm cho lục lọi khắp nơi. Rồi hắn còn định mang cá về Tống Bình dâng cho giặc Tượng Cổ. Thăng xua thuyền nhỏ bám theo định xông lên thuyền giết chết tên Lý huyện trong lúc hắn ngủ trên thuyền.

Chẳng may, Long ngư quẫy mạnh quá khiến cả đám lính tỉnh giấc. Em vội vàng bơi xuôi dòng về cửa Nam Triệu. Mấy ngày hôm sau quay lại làng thì tất cả già trẻ gái trai đã bị giết sạch. Thăng ta lấy làm căm phẫn lắm. Thăng nghĩ là do mình gây lên. Ấy nên mỗi mạng người, Thăng vạch lên cơ thể mình một nhát dao để tưởng nhớ. Trên cơ thể Thăng cả trăm vết cứa khắp từ khuôn mặt đến đầu ngón chân.

Sau đó, Thăng về huyện thành Ninh Hải tìm cách báo thù mà thân cô thế cô chẳng làm được gì. Cứ hễ ngày rằm, mùng một hắn đi chùa là Thăng ta lại tìm cách tiếp cận hắn nhưng hắn luôn hết sức cảnh giác. Sau khi giết chết cả xóm chài hương Đỗ, hắn cũng có đến vài nơi nữa và cũng vì lý do ấy mà giết thêm cả mấy chục mạng người nữa. Khi ấy, Thăng ta mới kết giao những người chung kẻ thù tìm kế báo thù. Tháng bảy năm trước, Thăng ta cùng đám anh em đột nhập vào huyện thành Ninh Hải hòng giết hắn. Số trời không cho hắn chết. Khi chúng ta vào đến phủ của hắn thì có tiện nữ nhà ấy cùng nhân tình hí húi đằng sau bếp làm rơi vỡ cái chum rượu quý của hắn treo ở đó.

Thấy có động, cả đám lính xông thẳng vào thấy anh em ta trong phủ liền ra tay. Mấy anh em của ta bị bọn gia nhân lính tráng giết sạch cùng đôi tiện nhân kia. Một mình ta liều chết xông vào thì hắn đã tẩu thoát từ lúc nào. Thăng lại chạy về núi Yên gần Hải Môn quan làm cướp. Suốt dọc từ Hải Môn trấn về đến Luy Lâu – địa bàn của Lục Bạch Hổ là địa bàn của Thăng ta. Đám cường hào quanh đây cùng bọn dân buôn từ Ngũ Lĩnh xuôi nam nghe tiếng ta mà khiếp hãi muôn lần . Còn tên Lý huyện kia từ bấy sợ hãi, hắn đóng kín cửa phủ, canh phòng nghiêm ngặt cả ngày lẫn đêm. Tháng trước, anh em ta lại bao vây phủ thành, nếu không phải có sự giúp đỡ của đám lính Tống Bình thì ta đã giết chết được hắn rồi…"

Sĩ Giao khi ấy lại hỏi:

- Chúng ta phải mất một tuần sau mới thoát khỏi cửa Nam Triệu ra Đông Hải, sao không có gặp em?

Thăng vẫn còn đương dở câu chuyện:

- Là em đi lang thang không dám trở về. Mà nếu không phải là cái tên Chí Liệt thì ta đã giết chết sạch bọn chúng rồi.

Mọi người thảng thốt, Tồn Thành hỏi:

- Ý em là sao? Là Thiếu Dương tướng quân giúp đỡ hắn sao?

Tồn Thăng khảng khái:

- Là cái tên nhóc Chí Liệt ấy. Hắn đánh với em hai trăm hiệp không phân thắng bại. Nhân lúc ấy, cái tên phó tướng của hắn tập kích trại của em trên núi Yên. Anh em mất nơi đồn trú, nay tan tác mỗi người một nơi. Ta chạy được đến đây thì bị cái tên Tre Độc kia chém rách nửa mặt. Nhìn ta như thế này chưa đủ thảm hại hay sao?

Cả đám anh em cười phá theo lời của Thăng, Do Độc cười khẩy:

- Đại ca thứ lỗi. Em tên là Do Độc, chứ không phải Tre Độc.

Tồn Thăng mặt hậm hực:

- Ta không biết. Ta thấy mọi người gọi ngươi là Độc, mà người có khác chi cây tre đâu. Ta gọi Tre Độc là không đúng à. Thôi, đừng có cười ta nữa. Mấy ngày nay ta chưa được ăn gì rồi.

Sĩ Giao cười lớn một tiếng:

- Người anh em. Ăn cho nhiều vào. Bao năm vất vả rồi.

Do Độc thấy Thăng đương ngấu nghiến cái tỏi gà thì lại châm chọc:

- Mấy ngày nay, anh ta chẳng ăn suốt đấy sao. Nào là cháo gà, cháo cá, canh gà tần… Mà người cứ ngủ mê ngủ mệt để cho anh em ta đút mỏi tay đấy sao.

Thăng quay ra, hất cằm nói:

- Nhà ngươi gây ra thì nhà ngươi phải cho ta ăn chứ. May là ta còn chưa cho ngươi một bài học đấy. Còn con mắt của ta. Trước ta còn nhìn thấy mờ mờ, nay chẳng còn thấy cái gì nữa. Chẳng phải là do nhà ngươi đấy sao.

Lão Lang Lý cười hiền nói với Thăng:

- Vị huynh đệ này không biết đấy. Cũng may là con ngươi ấy bị hỏng, con trai ta đã gắp nó ra. Chứ không biết chừng vài ngày nữa là nó đến độ hoại tử rồi nhà ngươi có đi gặp cha anh rồi.

Cầm hũ rượu lên uống ực một hơi cái thật dài, Thăng sang sảng nói phả hơi rượu vào mặt Lão Lý Lang:

- Thì đấy là máu thịt của cha mẹ ta cho ta. Ta ăn vào thì có phải tốt hơn không?

Tồn Thành dứt cười, nghiêm nghị nói với Thăng:

- Em ăn đi. Dừng tại đây được rồi. Ta hỏi, kẻ nào khiến mắt em ra như vậy?

Gã ngồm ngoàm miềng thịt gà trong miệng, môi còn bóng nhẫy trả lời:

- Anh Thành thật không để ý gì cả! Em vừa nói rồi, khi em đếm từng người Đỗ gia trang bị giết. Còn một người nữa là anh là em chưa đếm, lúc ấy cả người em chằng chịt vết chém rồi. Chẳng còn chỗ nào nữa, em mới nghĩ là còn cái mắt nữa thôi. Thì em rạch được một nửa rồi em mới nhớ ra còn có cả thằng cu Trừng nhà anh nữa. Em lại nghĩ lại là thôi, mắt còn để dò đường mà đi.

- Thế nên chú mới rạch có một nửa con mắt thôi đúng không? Thế sao không rạch hết con mắt ấy đi? Một mắt cũng nhìn thấy được mọi thứ mà.

Tồn Thăng uống thêm ngụm rượu nữa rồi thở ra một cái thật dài:

- À… Là em nhớ ngày trước ông nội kể cho em chuyện Hạ Hầu Đôn nước Ngụy thời Tam Quốc, em cũng định moi ra ăn nhưng mà thấy ăn đi thì thật uổng nên em thôi, để nó nhìn thấy mờ mờ cũng được. Ai ngờ.

Tồn Thành muốn cười nhưng không thể cười được, từ đâu nước mắt nam nhi lại ứa ra. Tồn Thành sụt sịt vội vàng lấy vạt áo gạt đi. Giọng còn nghẹn ngào:

- Nay anh em ta ở đây hội ngộ cứ như thể Tam Anh đoàn viên năm nào. Nay có Lão Lý, Sĩ Giao ở đây. Tôi với Do Độc cùng em trai ta Tồn Thăng lấy hũ rượu cùng xôi, thịt gà, cá nướng trước dâng lên trời, sau xin cúi vái đất mẹ, mặt hướng về Tống Bình, lưng dựa biển Đông xin thề “Ba anh em chúng ta, ngày tháng vẹn toàn đời này anh em chẳng rời. Sinh ly tử biệt quyết không hai lòng.”

Nói rồi, Do Độc cùng Tồn Thăng cùng cầm hũ rượu lên khấn vái trời đất. Mặt hướng Tây Nam mà vái nguyện giữ nguyên lời thề cho đến bạc mái đầu, trở về nơi đất mẹ. Sĩ Giao cùng Lão Lý Lang cùng đứng dậy, mắt ngước trời nam bỗng thấy năm ngôi sao sáng lên rực rỡ đứng cạnh mặt trăng to tròn. Sĩ Giao cười mãn nguyện nói: “Ngay cả trời đất cũng nhận ra được sự hạnh ngộ này. Quả là đại hỷ, đại hỷ.”

Đêm ấy, mọi người ăn uống say sưa đến tận canh ba. Có tin quân báo, Sĩ Giao loạng choạng tỉnh dậy bước ra ngoài trướng nhận quân lệnh.

Tiếng vó ngựa dần xa phía Tây, Sĩ Giao bước ra ngoài trời nhìn thấy Tồn Thăng vẫn còn đang đứng ngay ngắn, tay cầm chiếc thương dài uy nghi đứng đó. Thấy Sĩ Giao đi ra, Thăng cúi chào. Sĩ Giao đỡ lấy người Thăng lên rồi hỏi:

- Đêm khuya sao em không đi ngủ.

Tồn Thăng cúi gằm mặt, hai tay trước ngực vắt chéo mà nói:

- Bẩm anh. Thăng em trước ngỗ ngược khiến mọi người trong làng bị liên lụy, sau lại bị tên huyện quan tham lam tàn sát. Chẳng nghĩ là các anh còn đây, em tìm đến rượu để nguôi sầu, nuôi mộng báo thù. Đêm nào cũng trằn trọc chẳng thể ngủ được nên mới lấy dao ra rạch mình.

Sĩ Giao vỗ vai, rồi lấy áo choàng mình khoác lên cho Tồn Thăng:

- Em mặc áo này vào, ngày mai ta sẽ cho lính may cho em một bộ quần áo để diện kiến chủ công, chứ không thể đóng khố như thế này mãi được. Trên cao ông trời có mắt đã cho anh em ta đoàn tụ. Lại diệt được giặc nước, thù nhà. Em còn điều gì trăn trở mà chưa thể ngủ được?

Tồn Thăng giọng lại sang sảng:

- Bẩm Đỗ tướng quân. Nay anh đã là quan sĩ, cánh tay đắc lực của Thiên thanh tướng. Uy vọng khắp vùng Giao Châu này rồi. Anh cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Em thấy đám lính canh đã mệt mỏi bấy lâu. Em bảo bọn chúng đi ngủ. Em sẽ đứng đây canh giấc ngủ cho anh cùng mọi người. Em cũng nóng lòng gặp lại tên tiểu tử Chí Liệt để đánh với hắt một trận hả hê.

Sĩ Giao nở một nụ cười hiền từ, nhẹ nhàng dặn dò Tồn Thăng:

- Thăng này. Ngày mai diện kiến chủ công. Ta thấy một điều thế này. Em cho là phải thì nghe. Tính tình em các anh em đây thì có thể hiểu. Nhưng khi gặp chủ công và thiếu chủ thì…

Tồn Thăng nhanh nhảu:

- Cái đó Thăng em hiểu chứ. Ngày mai em sẽ quấn khăn kẻo khiến chủ tướng cùng mọi người kinh hãi.

Sĩ Giao gỡ miếng da dê trên khuôn mặt Thăng xuống. Sĩ Giao nhăn mắt rồi lại đeo lại cho Thăng. Sĩ Giao nói:

- Em hãy cứ mang miếng da dê này nhé. Ta đã nghĩ ra cho em một cái tên. Đó là Dương Diện. Dương là đồng âm với họ của chủ tướng, diện là khuôn mặt. Em đeo miếng da dê này để cho người đối diện bớt kinh hãi, Dương Diện ấy cũng là biệt hiệu cho em vậy. Sau này, được phong tướng soái thì em sẽ là Dương Diện tướng quân Đỗ Tồn Thăng.

Nghe được phong hiệu, Thăng mừng hớn hở. Chạy khắp doanh trại hò hét ầm ĩ. Sĩ Giao ra hiệu cho hắn ngược trở lại và giữ im lặng trong quân doanh. Sĩ Giao cầm tay Thăng rồi dắt vào trong lều trại. Hai người hồi tưởng những chuyện đã qua. Đến hồi Sĩ Giao kể đến chuyện hai người Tồn Thành và Do Độc gặp nhau thì gã đã lăn quay ra ngủ, ngáy khì khì từ lâu.

Sĩ Giao phe phẩy chiếc quạt lông xua bớt đi cái oi nóng của mùa hè và cười khẽ. Sĩ giao ngồi viết thêm vài trang báo cáo quân tình để khi mặt trời lên hồi báo với Dương Thanh.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành


Chương 2.3 Tìm cướp gặp thầy tu

Về phía Dương Thanh, sau khi Dương Thanh chiếm được La Thành, đánh đuổi bọn quan triều đình phương Bắc chèn ép dân An Nam, Dân chúng Giao Châu và sáu châu quận ở An Nam lấy làm hả hê lắm. Bọn Man Hoàng kinh hãi mà rút sâu về núi rừng phía Tây Bắc Giao Châu, bọn Nam Chiếu cùng lập tức rút quân khỏi các châu cơ mi xung quanh Phong Châu. Bọn lính người bắc, kẻ đảo ngũ chạy trốn, kẻ tự vẫn đến cả nghìn người.

Các viên quan từ cấp thứ sử xuống đến hương trưởng, hào trưởng ai nấy đều quy hàng họ Dương, tôn Dương Thanh là chủ tướng đứng đầu vùng đất Lĩnh Nam. Nhưng bên cạnh đó, không ít kẻ vẫn còn chưa tâm phục họ Dương, bên ngoài thì thừa nhận nhưng trong lòng không phục. Một số kẻ thì rút về các châu cơ mi để né tránh sự kiểm soát của họ Dương.

Nghe tin thắng trận từ khắp mọi nơi từ trấn Hải Môn đến các vùng lân cận Ái Châu, Giao Châu, Phong Châu. Dương Thanh lập tức cho gọi các tướng sĩ về La Thành để phong thưởng theo công trạng của từng người.

Lựa được ngày đẹp, Dương Thanh cho mở tiệc mừng công tại La Thành. Đám quan lại, tướng sĩ ai nấy mặt mày mừng rỡ. Kẻ chở rượu quý, người dâng thóc gạo trâu ngựa đổ dồn về Tống Bình. Sĩ Giao mất đến nửa ngày đọc công trạng của từng người, kẻ công lớn làm tướng đứng đầu, ban phát ruộng đất. Người bắt giữ, chém được giặc ít cũng được thưởng mười nén bạc, cùng với đó là đất ruộng quanh Giao Châu, Phong Châu, Võ An châu, Trường Châu phì nhiêu.

Tan tiệc, Sĩ Giao thấy Tồn Thành và Do Độc có vẻ không vui, liền hỏi:

- Tại sao các em lại buồn như vậy.

Do Độc toan nói thì Tồn Thành cản lại, cúi gằm mặt nhận giấy lãnh ân điển bước đi. Đi được một đoạn thì cả hai lên ngựa chạy về phía Đông rồi mờ dần theo bụi đường.

Đêm ấy, Sĩ Giao tìm được hai người ở thành Luy Lâu đang uống rượu tại một quán khách nhỏ đơn sơ. Sĩ Giao ngồi xuống cạnh Do Độc, cầm ly rượu lên tu ực một cái thật đã rồi hỏi:

- Các em cớ sao lại như thế?

Chén rượu đầu môi, Tồn Thành quay mặt đi giọng phừng phừng:

- Sĩ Giao nói với tụi em là theo Thiên Thanh tướng ắt sẽ lập được công danh. Sĩ Giao giờ là quân sư của Dương tướng lại tước Giao Châu thứ sử. Bọn em đây truy sát địch quá Hải Môn quan. Mọi công lao lớn nhỏ đều được Uyển kia nhận hết. Có anh chứng kiến đấy. Bọn em vẫn nguyên chức cũ, đất không tăng thêm một mảnh. Há là kẻ vô danh tiểu tốt còn được lãnh thưởng. Nghe xong công trạng mà chẳng thấy được vui, chạy tới đây kiếm tửu giải sầu.

- Các đệ chớ hiểu lầm chủ tướng. Người làm chủ tướng, bao việc còn bộn bề phải lo. Bản công trạng lệnh ấy ban đầu ta viết để trình tướng chủ nhưng sau đó lại giao cho Triệu Hoằng xét lại. Bọn Đoàn Uyển châu Ái, Đỗ Anh Toàn, Đỗ Cảnh Tung Trường Châu, Trần Phiến An Vũ châu đút lót cho hắn. Triệu Hoằng vốn kẻ tham đút lót nên đã sửa công lao của mấy tên kia. Nhiều chỗ ta đọc thấy chưa xuôi nhưng trước mặt chủ tướng ta chẳng thể nói sai. Các đệ cũng đừng lấy thế làm buồn phiền. Việc này ta sẽ báo cho chủ tướng.

Do Độc và Tồn Thành nghe vậy cũng mừng. Tồn Thành sau được Dương Thanh điều làm An Nam đô úy, lãnh toàn bộ quân đội Ái Châu chỉ dưới quyền Đoàn Uyển. Do Độc được phong Phong Đông đô úy, lãnh binh tại Phong Châu dưới quyền chỉ huy của thứ sử châu ấy là Vương Thăng Triều.
Ba ngày sau, Tồn Thành cùng con trai cầm tám trăm lính về Châu Ái. Do Độc cùng cha nhận hai nghìn quân về tới Phong Châu đóng quân tại Lâm Tây. Sĩ Giao được Dương Thanh phong hiệu Bá Nam quân sư, quân quyền chỉ dưới họ Dương. Gã Quỷ Dương Diện ở lại làm An Nam hộ sư lang tướng, ngày ngày ở cạnh Sĩ Giao. Còn Lão Đỗ Đại sau khi đánh thắng người man ở vùng Lâm Tây được phong làm Chu Diên huyện úy, đất trăm mẫu tả ngạn sông Cái. Đỗ Trang, Đỗ Kiêm được ra khỏi nhà lao Nhật Nam làm giám quân dưới quyền Tồn Thành.

Lại nói Sĩ Hoàng em trai Sĩ Giao cùng người hương Yên Hưng là Đỗ Dụng bị bọn Lục Bạch Hổ bắt cách đây đã ba năm mà không hay tung tích. Sĩ Giao xin Dương Thanh hai trăm lính cùng bọn Đỗ Đại, Tồn Thăng, Chí Liệt hướng đi từ La Thành đến Luy Lâu khoảng ba chục dặm đường là núi Tiên Du. Cánh núi phía bắc ấy chính là chỗ mà bọn cướp ấy đóng ở đó.

Đêm tháng tám ngày mồng ba, mấy người lán lại thành Luy Lâu. Mờ sáng nghe thấy tiếng tấp nập ngoài thành, Sĩ Giao tỉnh dậy hé cửa nhìn ra ngoài thì thấy dân chúng trong thành người người quần áo tươm tất, trẻ con được dìu dắt cùng người lớn nô nức đi ra cổng phía Tây thành Luy Lâu. Không thấy Dương Diện quỷ ở trong nhà trọ, Sĩ Giao toan đi tìm.

Sĩ Giao khẽ mở cửa phía sau thấy vết chân lớn và bức tường đất còn nguyên dấu người trèo qua. Sĩ Giao vội mở cửa thì thấy Tồn Thăng đang đánh lộn với hai chàng trai trẻ. Sĩ Giao hỏi:

- Đêm khuya sao em lại đi đánh lộn với người ta?

- Quân sư huynh. Hai tên này nhân lúc mọi người tấp nập ngoài này đã lẻn vào phòng trọ định trộm cắp bị em bắt được muốn chạy trốn thì em bắt được.

Hai tên kia thanh niên trai tráng nhưng không thể nhúc nhích dưới tay của “gã Quỷ”, chỉ lắp bắp xin tha mạng.

Sĩ Giao hỏi:

- Nguyên cớ sao trai tráng lại đi trộm cắp của người ta?

Tên trẻ tuổi hơn quỳ gối xuống vái sống hai người:

- Xin các quan nhân tha mạng. Chúng con có mắt mà không thấy núi cao. Mấy tháng nay đánh nhau liên miên. Nhà bọn con nuôi mẹ già trẻ con cả thảy mười mấy miệng ăn mà giờ chỉ còn có hai hộc gạo. Chỉ tại cái tên này xui mà con chót dại. Thương tình con mong các vị tha mạng.

Sĩ Giao mắng té tát:

- Các người không cần phải kể lể. Vừa rồi thắng trận, Dương tướng chẳng phải đã mở kho thóc, phát lương cho dân nghèo sao. Ban nãy, không phải là em ta thì các ngươi chẳng phải là đã được vớ hĩnh rồi sao. Các ngươi tội gì thì sẽ được quan huyện xét xử.

Giọng Sĩ Giao lại nghiêm nghị hỏi:

- Ta hỏi các ngươi. Trong thành có chuyện gì mà giữa đêm lại tấp nập đến vậy?
Tên mặt già hơn sợ hãi quá, nói thủ thỉ trong miệng mà không phát ra tiếng khiến gã Quỷ giận giữ, rồi nhấc bổng hắn lên:

- Lại còn không nói hả?

Hắn nài niết Tồn Thăng tha mạng. Tên trẻ hơn lại nói:

- Bẩm các quan gia. Tháng rồi, chỉ sau khi Dương tướng quân làm chủ Đại La. Ngoài thành Luy Lâu về phía Tây Nam có một vị viên ngoại họ Nguyễn dựng một ngôi chùa có mời thầy tu từ Hòa An tự là đệ tử Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải ghé. Từ bấy, môn khách từ khách hẳn đông lên và dân chúng thì đến ấy nghe giảng đạo ngày càng đông. Ngày hôm nay, các vị sư sãi chùa ấy làm lễ mừng phật quy tự, ấy nên dân chúng dậy từ buổi sớm sắm lễ đến ấy mà tỏ lòng thành.

- Thế nên các ngươi mới có ý định “xin” chút lộc phật có phải chăng?

Sĩ Giao sai Thăng trói hai người này vào cột nhà bằng thừng trão để sớm mai giải hai người ấy lên huyện phủ. Sáng ngày sau, Chí Liệt cùng Dương Diện Quỷ đưa hai tên trộm kia trình báo quan huyện. Đỗ Đại cùng Sĩ Giao ra khỏi thành từ sớm hướng về hương Phù Đổng.

Suốt dọc đường đi, hai người họ gặp trai tráng, phụ nữ, người già trẻ con nối đuôi nhau dài đến cả vài dặm đường. Có người nhận ra hai người thì cúi chào:

- Hai vị Đỗ tướng quân cũng đi bái phật đấy à?

Sĩ Giao ôn tồn đáp lễ lại mọi người:

- Chỉ là bọn ta có chút công chuyện đi ngang qua, không biết là ngày tháng này tại đây lễ hội gì mà lại đông như vậy?

- Hai vị tướng quân thật là không biết hay sao? Hương Phù Đổng có vị cao tăng từ Trung Nguyên về đây tu hành. Hạnh pháp tinh thông nổi danh khắp vùng này. Nay lại mở lễ phật quy tự nên dân chúng tôi đến để tỏ lòng hành.

Sĩ Giao và Đỗ Đại bái biệt dòng người, thúc ngựa đi tách về phía đông hướng thẳng núi Tiên Du rồi rẽ tắt qua một con kênh đào. Đỗ Đại quan sát con kênh nước khá lớn e dè nói:

- Sĩ Giao này. Nay đầu tháng tám, nước sông lớn khiến kênh nước ngập đồng. Ngựa này khó mà qua được con nước.

Sĩ Giao nhìn về đám đông bên kia dòng kênh trong bụi đất rồi thở dài:

- Chắc có lẽ phải quay lại Luy Lâu để đi lại thôi.

Tiếng ngựa hý vang, có một viên đá ném trúng đầu Đỗ Đại. Đỗ Đại thất kinh quát lớn:

- Là kẻ nào đánh nén.

Có giọng cười lớn từ dưới con kênh. Sĩ Giao nhăn mặt quan sát. Thì ra là một vị tiểu hòa thượng. Khuôn mặt nhỏ nhắn, da trắng, mặt trái xoan mình nhỏ khoác chiếc áo gụ còn thùng thình, tay trước ngực cúi chào:

- Hai vị quan nhân xin thứ lỗi. Là do tiểu tăng không nhìn rõ lầm hai vị là giặc cướp Lục hổ nên đã thất kính.

Đỗ Đại quát lớn:

- Cái tên Tiểu tử nhà ngươi.

Sĩ Giao gạt lại, nói lớn:

- Này vị tiểu sư phụ. Sao lại không ở trong tự lại ra ngoài chống bè trên sông?
Vị tiểu hòa thượng cười lớn, đôi mắt như nhắm lại:

- Là sư phụ sai ta ra đây trồng rau trông cướp. Hai vị quan nhân đến đất này có việc gì? Nếu đi xem phật thì đi từ Luy Lâu sang mới có cây cầu nhỏ để đi. Quanh đây kênh lớn bao quanh, chẳng có đường mà đi đâu.

- Tiểu sư phụ cho chúng tôi nhờ bè qua con nước để vào chùa xem phật được chăng? Chúng tôi đi từ Tiên Du xuống, không biết đường mong tiểu sư phụ châm chước cho hai chúng tôi.

- Hai vị ơi. Xem phật thì phải tự tâm, băng qua gian khó để tỏ lòng chứ sao lại đi đường tắt, cậy nhờ người khác. Tăng tôi không thể giúp gì được cho hai vị rồi.
Nói rồi, Đỗ Đại quát lớn:

- Tiểu tử kia. Đứng lại. Chớ có khua môi múa mép.

Dòng nước trôi nhanh, tiểu hòa thượng ngoảnh đầu quay đi, thoắt cái đã biến mất sau lùm cây bên kia dòng kênh. Đỗ Đại cởi bỏ hộ giáp, lấy thừng ngựa bện lấy áo quần buộc chặt lấy con dao nhỏ quẳng trúng bè đang đậu bên kia dòng. Rồi nhẹ nhàng kéo sang bờ này mời Sĩ Giao lên bè. Ngựa bước lên, chòng chành mảng bè, Sĩ Giao nói:

- Để ta xuống ngựa sang trước. Rồi anh quay lại dắt từng con ngựa sang đó.

- Cái tên tiểu tự ấy thật ngốc. Đã không cho người ta đi thì mang bè lên bờ mà cất đi. Đây lại còn chẳng neo chặt ở bờ.

Hai người vừa đặt chân sang bờ kia thì lại là tiếng cười ban nãy. Đỗ Đại trông sang bờ thì thấy vị tiểu hòa thượng đang ngồi trên ngựa, giọng lanh lảnh nói vọng sang:

- Hai vị mượn bè của ta mà không hỏi, vậy hai người hãy cho ta mượn ngựa.
Nói rồi, hai con ngựa chạy thẳng về Đông. Sĩ Giao nói với Đỗ Đại:

- Ta cứ qua đây được rồi thì vào xem tình hình thế nào rồi hãy quay lại tìm tiểu sư phụ ấy.

Đỗ Đại ấm ức trong lòng nhưng vẫn chịu theo Sĩ Giao đi bộ chừng ba trăm thước thì gặp có hai vị hòa thượng mình trần đang gánh nước tưới rau. Đỗ Đại nói nhỏ với Sĩ Giao:

- Sĩ Giao đệ. Hai người bọn họ thật không bình thường. Một người trông thật dữ dằn như báo cọp. Một người nhìn mắt liên hồi chớp đảo như phường trộm cắp.
Sĩ Giao tiến lại gần thì một người làm rơi thùng nước, giương cây đòn lên đánh thẳng vào ngực Sĩ Giao. Đỗ Đại thân thủ nhanh nhẹn đỡ lấy Sĩ Giao, tay khum nắm đấm hòng ra tay thì người còn lại mặt hoằm hoằm nhìn vào Đỗ Đại. Sĩ Giao tự đỡ mình dậy, cản Đỗ Đại đứng ra phía trước.

- Hai vị hòa thượng đây chắc có chút hiểu lầm rồi.

Vị hòa thượng râu ria xồm xoàm, mắt cọp bước lên, tay vẫn giữ chắc chiếc đòn, giọng nặng trĩu tiếng Quỳnh châu:

- Hai ngươi là người bất chính. Trước giờ kẻ đi vào đất này mà không qua cầu Đông không phường cướp trộm thì là dân dị mọi chạy trốn.

Sĩ Giao đưa quân bài ra thì hai gã hòa thượng này nhìn nhau rồi không ai bảo ai thu gậy lại rồi tận tình đưa hai người họ Đỗ vào chùa.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành


Chương 2.4 Hạnh duyên kỳ ngộ

Hai anh em họ Đỗ đi được chừng trăm bước tiến vào ngôi chùa thì đột ngột hai người quay lại dùng đòn nhằm chân Sĩ Giao và Đỗ Đại mà đánh. Đỗ Đại né được, còn Sĩ Giao may có thanh kiếm ngang hông nên đỡ được chiêu hiểm của hai vị tăng nhân.

Đỗ Đại lại lớn tiếng hỏi:

- Hai ta không thù không oán cớ sao lại đánh. Bọn ta đây có công chuyện nên mới ghé qua. Hai ngươi còn đụng thủ thì đừng trách ta.

Sĩ Giao ôn tồn:

- Ta là người của Dương tướng chủ. Nay đến đây có công chuyện cớ sao hai người lại ngăn cản ta.

- Đừng có già mồm. Hai ngươi đừng hòng qua mắt được bọn ta. Trước giờ chỉ có lệnh bài của quan thống sứ, các huyện phủ. Chứ chưa nghe quân bài Dương tướng. Mà nếu có thì các ngươi cũng có thể là giả.

Giọng nói khó nghe, Lão Đại hỏi lại:

- Các ngươi là tăng ni từ đâu đến đây dám hỗn xược với cả Sĩ Giao quân sư.

Sĩ Giao lại nói:

- Anh Đại không cần phải nói vậy. Hai vị chắc cũng biết. Thống lĩnh Tống Bình giờ là Dương Thanh tướng chủ. Tại hạ là Đỗ Sĩ Giao, hầu tướng dưới chủ công. Nay nghe danh đại sư đến đây trước là để tỏ lòng ngưỡng mộ, sau là muốn được tận thỉnh Giáo Phật của Đại sư để thông tuệ, sáng nhãn.

Nói xong, hai vị hòa thượng vẫn không tin lời, một mực đổ cho hai người họ Đỗ là phường cướp trộm dùng côn thuật nhằm thẳng hai người mà ra sức đánh. Sĩ Giao chỉ né đỡ mà không đụng dao kiếm sợ tổn hại nơi tôn nghiêm thanh tịnh. Đỗ Đại ra sức chống trả lại hai vị đó.

Đánh được gần trăm hiệp, hai người đó không khuất phục được Đỗ Đại. Nhân lúc Đại không để ý đến, vị tăng nhân mắt bé, miệng ếch đột ngột tung gậy đánh mạnh một đòn nhằm vai phải Sĩ Giao. Đỗ Đại rút gươm chặt gãy đôi cây gậy khiến hắn kinh hãi lùi lại ba bước. Đoạn Đỗ Đại giương gươm lên thì có vị tăng nhân bước ra mang trên mình áo cà sa vàng, mặt tròn đẹp như hoa toát lên vẻ từ bi, da trắng như tuyết, mắt sáng rạng rỡ, đôi tai lớn chảy xuống hai bên cằm. Sĩ Giao ngỡ Phật tổ mà chắp tay vái:

- Phật Tổ anh linh. Nam mô a di đà.

Vị ấy nói với giọng Quỳnh Châu:

- Bần tăng có thể giúp gì được hai vị quan nhân hay chăng?

Sĩ Giao cùng Tồn Thành thành kính đáp lễ với vị tăng nhân. Tồn Thành nói:

- Hai anh em từ phía mạn Tiên Du đến, nghe rằng có vị cao tăng tại chùa, qua đây trông thấy cảnh chùa tôn nghiêm lại muốn ghé thăm để bày tỏ sự mến mộ.

Vị Cao Tăng hiền từ đáp lời:

- Hai vị hẳn không phải là người xứ này. Đức Phật từ bi mở rộng tấm lòng đón nhận hai vị. Chăng hay hai vị tên họ thế nào?

- Ta tên Giao người châu Ái, đây là Đỗ Đại người Yên Hưng, huyện Ninh Hải, Lục Châu. Nghe có vị cao tăng tại chùa nay lại có lễ Phật quy tự nên hai chúng ta đến thăm bày tỏ tấm lòng thành. Có chút lễ mọn mang theo cùng ngựa nhưng qua sông bị một thiếu niên gạt ta lấy đi mất rồi.

- Hai vị có lòng thành hướng tâm tới phật đâu cần phải lễ lạc cao dày. Hai vị đệ tử của ta đây có gì thất kính mong hai vị lượng thứ.

Nói rồi, vị hòa thượng ấy dáng người thong thả bước vào chùa. Đỗ Đại nói với Sĩ Giao:

- Này em trai. Ta thấy có gì đó không ổn. Mong em cẩn thận.

Hai người đi theo ba vị tăng nhân bước vào chùa bằng cửa phía Bắc, đi qua hai gian tự phía sau và khu hậu viên hoàn toàn được dựng bằng đá hoa cương. Mùi thanh sắc của đá mới mài khiến Sĩ Giao thấy gai người. Bước vào phía trong là cả thảy chín chín tám mốt gian chùa được dựng bằng gỗ lim, gỗ sến với kiến trúc kỳ quái.

Đi được một nửa số gian thì Sĩ Giao và Đỗ Đại không thấy ba vị hòa thượng kia nữa. Đi qua gian thứ năm mươi chín thì Sĩ Giao lạc mất Đỗ Đại. Còn Đỗ Đại thấy mình như mất phương hướng tìm cách đi ra ngoài. Bước ra khỏi khuôn viên ngôi chùa. Đại thấy có tiếng người nhí nháu phía hậu điện thì tiến tới dò la. Một cú trời giáng khiến Đỗ Đại ngất lịm. Còn Sĩ Giao biến mất trong mênh mang của gần trăm gian tự nơi đây.

Phía cửa nam, dòng người nườm nượp đổ về ngày một đông hơn. Kẻ đội lễ trên đầu, người bê ngang hông đặt lên trước điện rồi khấn vái. Chí Liệt và Tồn Thăng chen lấn mãi rồi cùng vào được trong tự. Chí Liệt nói với Thăng:

- Anh quỷ này. Chúng ta đã đến đây cũng đã hơn hai canh giờ rồi mà vẫn chưa thấy hai sư huynh đến. Trời nóng nực như thế này mà mọi người chen nhau vào đây thất là ngột ngạt quá. Chùa lớn, nước sơn vẫn còn mới, đá gạch này không phải là loại ở đất Giao Châu này dễ kiếm.

Gã Quỷ nói lớn:

- Chắc ở đây nhiều nhà sư lắm. Ta không thích bọn đầu trọc ấy. Suốt ngày lẩm nhẩm trong mồm cái gì gọi là kinh phật. Lại không được uống rượu ăn thịt. Sống thể thì sống làm gì. Phải không?

Chí Liệt chỉ cười rồi phát hiện ra có hai vị tăng nhân mặt hung dữ đang lúi húi ở phía tả viên. Chí Liệt ra hiệu để gã Quỷ đi theo hai người đó. Đi qua ao sen nhỏ và một chiếc cửa lớn, hai tên này mở gói bọc mà hai tên ấy vừa gói ghém mang tới đây. Nào là gà, thịt xôi nếp, sẵn đấy là hai vò rượu nếp thơm lừng. Gã Quỷ nhảy xổ ra quát tháo:

- Hai tên trộm cướp nhà ngươi. Dám giả danh hòa thượng để lấy cắp đồ lễ hả?
Dứt lời, Chí Liệt không kịp cản gã quỷ, Thăng xông thẳng vào chỗ hai kẻ ấy dùng gậy đập vỡ chum rượu. Chí Liệt nói:

- Chỗ thanh tịnh chớ có gây ồn ào, lão Quỷ.

Hai tên kia mặt mũi hung tợn, tay lấy vội hai cây đòn nhăm nhe toan đánh gã Quỷ. Gã Quỷ gầm gào, nhìn thấy thịt rượu lại nhỏ nước miếng. Hai tên kia cười lớn:

- Các người mới là kẻ ăn cướp. Hà cớ gì lại đi theo bọn ta đến đây. Bằng cách nào mà các ngươi lẻn được vào đây?

Chí Liệt khảng khái:

- Ta thấy hai ngươi khả nghi mới đi theo tới đây. Các ngươi là hòa thượng mà lại ăn thịt uống rượu?

- Liên can gì các ngươi. Có giỏi thì la lớn lên. Ở đây không ai nghe thấy gì đâu.
Hai tên hòa thượng cười lớn khiến Gã Quỷ nóng mặt dùng sức xông thẳng vào hai người đó. Gã quỷ lấy mảnh chum vỡ còn vương chút rượu đưa lên miệng uống một hơi vẫn còn thòm thèm. Hai tên kia song côn đánh thẳng vào người Gã Quỷ. Gã Quỷ quay lại lao thẳng về phía gã tăng nhân mắt bé, miệng ếch dùng hết sức cánh tay mà nhằm vào bụng hắn khiến hắn không thể trở tay kịp thổ huyết tại chỗ. Tên kia thấy thế ra sức dùng đòn đánh vào vai và gáy gã quỷ. Chí Liệt dùng gươm đỡ nhưng không thể cản lại sức mạnh của đòn võ dị của hắn. Gã quỷ mặc cho hắn vụt vào người, tay xé phanh con gà mà ăn. Miệng chưa lau khô, như thêm sức mạnh, Gã Quỷ dùng sức tay phá tan cây đòn làm tư khiến tên kia lùi lại vài bước.

Có vị tiểu hòa thượng chạy ra luôn miệng “Nam mô ai di đà phật” thoăn thoắt ra đòn rồi khóa trái khiến Chí Liệt không kịp trở tay. Gã Quỷ quát tháo:

- Tiểu tử ngươi từ đâu đến. Thả Thiện tướng em trai ta mau.

Tiểu hòa thượng nhanh nhảu nói:

- Lại là hai người nữa. Giọng nói không khác hai kẻ kia. Các ngươi là đồng bọn của nhau có phải không?

Tăng nhân mặt hổ bảo nói giận dữ:

- Chính y. Hai tên này và hai tên lúc sáng cùng một ruộc. Tiểu sư huynh nhìn hông phải của gã đeo mặt lạ đó thì thấy. Hình săm Long ngư.

- Các ngươi đến đây có ý đồ xấu gì?

- Tiểu tử kia. Mau thả thiếu chủ ra. Không thì đừng trách ta.

Nói rồi, Gã Quỷ nhấc bổng chiếc bàn đá lên mà quẳng về phía tiểu hòa thượng. Tiểu hòa thượng né vội rồi chạy nhanh về phía hậu viên. Chí Liệt cản lại bước chạy của Gã Quỷ rồi trói hai tên hòa thượng kia lại. Dò hỏi thì biết được Sĩ Giao và Đỗ Đại đã bị hai tên hòa thượng kia lừa vào trong chùa mà bị lạc. Lại biết được ngôi chùa lớn này là của Lý Tượng Cổ dựng lên. Trước khi Tượng Cổ bị chết thì có một nhà sư họ Trịnh đã tới đây.

Hai người tiến sau vào phía trong chùa, mở từng cánh cửa thấy chùa uy nghiêm lộng lẫy khiến cho cả hai tâm trí như đảo lộn. Càng tiến sâu vào trong chùa, những tượng đồng, tượng gỗ nối nối nhau, hương khói nghi ngút ngập tràn khắp các gian thờ. Như lạc vào cõi mơ, Thăng thét lớn lên một tiếng thì có tiếng kiếm rút nhanh khỏi bao vun vút trong làn khói mờ ảo. Ánh kiếm hắt lên khuôn mặt thư sinh, Chí Liệt vội thu kiếm lại, kiếm vô tình chạm vào vai người ấy. Thăng gào lớn:

- Quân sư đại ca.

Sĩ Giao kéo hai người ra khỏi gian thờ lộng lẫy vừa rồi chạy vào một gian lạnh ngắt, không khí ngột ngạt toàn bụi ẩm mốc. Gã Quỷ lớn tiếng hỏi:

- Lão Đỗ Đại đâu? Sao lại chỉ có mình huynh ở đây?

Sĩ Giao nhỏ nhẹ hiệu cho Gã Quỷ nói nhỏ lại, trần tình:

- Ta đã đi hết khắp các gian chùa mà chẳng thấy lối ra, gian nào cũng y gian nào chỉ có chỗ này là thật khác. E là có kẻ ý xấu đã đưa ta vào bẫy này. Bây giờ thiếu chủ cùng ta đi men theo các cánh phía tả, Thăng em hãy bám sát theo bọn ta đánh dấu những cánh cửa đã đi qua, quan sát phía sau xem có động tĩnh gì hay không.

Nói rồi từ phía sau có cánh tay vỗ vai Chí Liệt, ánh lửa bỗng bùng lên. Có vị hòa thượng mặt dài, miệng rộng, cánh mày lá liễu co sát với nhau như một đường thẳng, mũi thẳng như cây tre, hai tai trĩu xuống như hai quả lựu hai bên. Sĩ Giao không khỏi giật mình hỏi:

- Nhà ngươi là ai? Sao lại ở đây.

- Bần Tăng họ Thị, hiệu đạo là Lập Đức. Các vị hãy đi theo bần tăng ắt tìm được lối ra.

Ba người e dè đi theo vị hòa thượng ấy, từng lớp cửa được mở ra khe khẽ. Đến cánh cửa gian cuối cùng, ánh sáng chiếu vào khiến khuôn mặt của Gã Quỷ hiện ra ngày một rõ hơn. Vị hòa thượng kia hỏi:

- Các ngươi là ai tại sao lại tới đây? Nhìn người này tướng chẳng khác chi giặc cướp.

Thăng cau mày, khuôn mặt gã lại hằn lên những hình thù xấu xí, giọng oang oang:

- Cái tên hòa thượng kia. Các ngươi mới chính là cướp. Biết bao nhiêu lễ vật người dân đến lễ, các ngươi không đi phát lộc cho chúng sinh mà đổ tiền dựng chùa lớn, đúc tượng to, ngày ngày khói hương nghi ngút lại còn ăn vụng chốn cửa chùa. E là bọn tăng ni các ngươi…

Sĩ Giao cản lời:

- Tồn Thăng chớ nói xằng.

Ánh nắng chiếu qua khe cửa rọi thẳng vào tấm lưng vị hòa thượng, vết chỉ sờn như muốn vạch tấm lưng ấy ra. Vai áo vị hòa thượng được vá với miếng vải màu nâu gụ. Đôi chân trần bước qua nền đất lạnh lẽo rồi bước ra ngoài hiên nắng rực đang phơi toàn là cây khô đã héo cong từ bao giờ. Chiếc áo cà sa đã bạc màu đập vào mắt Sĩ Giao, Sĩ Giao trộm nghĩ “Chùa lớn, lộc nhiều há lại kiệm như vậy?”

Trời đã giữa trưa, ba người cảm thấy đói lả, ánh mắt mệt mỏi Sĩ Giao hỏi:

- Nắng như thiêu đốt. Sư phụ không đi giày cho khỏi bỏng chân.

- Niệm phật kinh qua. Đặng đó xá gì.

Sĩ Giao lại hỏi:

- Sao sư biết chúng tôi ở đó mà dẫn chúng tôi tới đây.

- Thiên duyên ấy thôi. Các vị ngồi tạm đây chừng mấy khắc nữa ăn bữa cơm chay cùng với bần tăng.

Nói rồi vị tăng ấy nhanh nhẹn bước đi. Bóng đa phủ xuống xua bớt cái nắng nóng. Hai người cởi hộ giáp, nhặt lá ấy mà phe phẩy. Bỗng chốc lại có cơn gió nhẹ phớt qua nhẹ đi cái oi bức ấy.
 
Bên trên