Giống Rồng - Cập nhật - Nguyễn Khai Quốc

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.


Chương 4.5 Gian tướng xảo binh

Thi Nguyên bước ra khỏi quán rồi quay lại quắc mắt, tay chủ quán sợ quá chạy vào trong, sai người dọn dẹp quán rồi đóng chặt cửa. Chủ quán quay vào hoạnh họe vị khách:

- Chẳng phải là ta thương ngươi không thì nhà ngươi đã đi đời nhà ma rồi. Đêm khuya thanh vắng, nhà ngươi ra phía sau chuồng ngựa làm gì.

- Ta đi qua chỗ đó để tiểu tiện. Nhà ngươi không nghe rõ hả.

- Chỗ ấy đâu phải chỗ để nhà ngươi tiểu tiện.

- Ta buồn quá không chịu nổi nên đành mới phải ra phía sau. Sợ va mặt phải bọn lính.

- Nhìn nhà ngươi cũng đường hoàng. Đâu đến nỗi mà phải sợ bọn chúng, rồi phải bỏng như thế kia. Ở đây có thuốc bỏng, nhà ngươi cần thì cứ gọi tên hầu bàn lấy cho ngươi. Ngày mai nhớ thanh toán thêm tiền cho vụ lộn xộn tối nay không thì đừng trách ta.

- Được. Cho nhà ngươi này.

Thinh ném hai nén bạc trắng vào đầu hắn rồi dùng cây gậy đầu xà quấn lấy cổ hắn. Thinh nói giọng khác khiến hắn ngỡ ngàng, cổ bị bóp chặt hắn không thể nói thành lời. Thinh dặn dò :

- Nhà ngươi cầm lấy bạc này thì im ngay cho ta. Tiền này là tiền nghỉ trọ và mua con ngựa phía sau. Nhớ lấy, nhà ngươi càng giãy giụa thì cái trên cổ ngươi càng quấn chặt.

Thinh vội vàng xoa thuốc bỏng lên mặt rồi lấy một mảng bì lợn từ phía bếp đắp lên. Chàng chạy ra phía sau dắt con ngựa đen chạy ra bờ sông gọi đò qua bờ bên kia sông. Chàng gặp hai người cùng làng thì dặn dò:

- Nếu quan binh có sang bên này dò hỏi thì các ngươi nhớ nói ta là người nhà của các ngươi, tên là Lưu Trình. Bằng không sẽ bị giết tất cả đó. Tên áp nha đó chính là Thi Nguyên, là tà đệ tử của Liêu Hữu tiên sinh ông nội ta. Hắn nay là tay sai cho giặc Thôi Kết, cho là Liêu gia ta đồng lõa với với họ Dương, đến trang bắt giết người vô tội. Nay ta vào trong La Thành dò la. Các ngươi khéo léo mà đối đáp, hay là trốn chạy đi, kẻo mang họa vào thân.

- Bọn ta tự lo liệu được. Thiếu gia cứ yên tâm. Người Liêu gia giúp đỡ cha con ta. Nay Liêu gia gặp nạn, bọn ta sao có thể đứng nhìn.

Đêm vắng ngày cuối tháng, trời đen như mực đổ, Đức Thinh chạy ngựa tới phía nam La thành, đến một cái gò đất cao nhìn về phía La Thành. Hai người đồng hương với Liêu gia ở lại quán trọ, có đám quan binh chèo thuyền sang cho bắt bớ người trong quán trọ.

Thi Nguyên mặt đằm đằm sát khí, tay cầm kiếm sáng loáng dưới ánh đèn đuốc. Nguyên cho lính ép cung lấy lời khai từng người. Thi Nguyên nói lớn gian trước của nhà trọ :

- Những kẻ nào là dân buôn bán thì bắt nộp năm lượng bạc, nộp hai phần hàng hóa lại để làm chứng thì mới được thả ra. Kẻ nào là người qua đường thì phải cho xem giấy thông hành từ địa phương cư trú đến. Kẻ nào không có giấy tờ thì đưa về nhà lao xét hỏi. Kẻ nào chống cự thì đánh cho năm mươi roi ngay tại chỗ. Các ngươi lục soát cho kỹ. Kẻ nào khả nghi chém ngay.

Nửa canh giờ sau, Đám lính giải đi bảy tám người không có tư trang và giấy tờ thông hành. Có hai người chống đối lại đám lính thì bị đánh cho tơi bời, chỉ biết nằm rạp ra sàn than khóc rồi bị lôi xềnh xệch đi. Có tên lính nói lại với Thi Nguyên rằng có hai người đến từ vùng Đỗ Động, không phải họ Liêu. Thi Nguyên cho gọi hai người đó lại gần. Nguyên mở lời :

- Các ngươi có người nhà nào tên là Thinh qua sông từ lúc xế chiều hay không?

- Bẩm quan. Bọn con không có quen người nào tên Thinh.

- Người Đỗ Động mà lại không biết người nào tên Thinh à. Để ta dùng kiếm này cho các ngươi biết.

- Bẩm quan. Chúng con chỉ nghe người ấy là cháu trai của Liêu Hữu tiên sinh. Ngày qua bị bắt giải cả trang đi.

- Vậy các ngươi lại nói là không biết. Có người bảo ta các người dẫn hắn đi trốn. Có phải chăng?

- Chúng tiểu nhân chỉ là đám dân nghèo, Nay tới Tống Bình được nhận vào phủ quan Liễu tá Đặng Khả để làm gia nô, nhận đất cày ruộng thôi.

- Ra là vậy. Cái lão gia Đặng Khả đó chẳng hiểu vì sao từ quan sư Hành Lập, Tượng Cổ và tên mãi võ Dương Thanh đều không xử tội lão. Nay lại được Thôi đại nhân tin dùng. Các ngươi có cái gì làm bằng cớ không?

- Dạ. Bọn tiểu nhân có khế bán thân đây ạ.

Thi Nguyên giật lấy hai mảnh giấy lụa, đưa lên ngọn lửa đuốc cháy rụi. Họ Thi cười một cách nham hiểm:

- Cho các ngươi xuống chầu Diêm Vương cùng với họ Đặng, để bán thân cho họ lão già ấy.

Nói rồi, hai người bị đám lính dùng gươm giáo đâm chém tơi tả, máu bắn tung tóe lên mặt đám dân buôn đang quỳ ở đó. Thi Nguyên gắt gỏng giọng đe dọa:

- Kẻ nào điêu ngoa sẽ xử như vậy đó. Còn tên nào không khai thật nữa chăng.

Đám khách trọ người nào người ấy sun soe đưa giấy tờ, hàng hóa, bạc vàng dâng tiến để tránh tại họa ập đến. Tên chủ quán trọ bên kia sông bị đám lính giải sang tới đây, cổ còn nguyên đầu xà quấn lấy. Thi Nguyên ngồi trên ghế, ngắm vuốt con dao găm, mắt diều hâu nhìn tên hai tên chủ quán:

- Ta nghe nói hai người này là họ hàng với Lưu Trình, đến Tống Bình này đi ở. Mà thấy trong người tên Lưu Trình có bạc nén đúc tại Liêu gia trang. Hai người các ngươi thông đồng với đám Liêu gia định qua mắt ta có phải chăng?

Tên chủ quán bị đầu xà quấn chặt cổ không nói được lên lời, ư ử trong họng vài tiếng kêu như chó sắp chết. Tên chủ quán trọ bên này ấp a ấp úng:

- Tiểu nhân không dám. Hai người này tới đây nghỉ trọ, nói ngày mai vào Tống Bình đi ở. Họ lại trả tiền trọ sòng phẳng, không hề có điều gì bất trắc, định bụng tiểu nhân nghĩ rằng hai người đó không có gì. Tiểu nhân không biết, mong đại nhân nương tay.

- Không biết thì không có tội. Nhưng nhà ngươi biết có biết có một tên đi cùng bọn chúng hay không?

- Tiểu nhân quả nhiên không hay rõ. Khi họ đến chỉ có hai người, họ nói cũng không chờ thêm người nào. Khi tối chỉ có một vị khách qua sông, ngồi cùng bàn với họ rồi lại đi. Người đó dáng vẻ lum khum, đôi chân không thấy khép. Sau đó tiểu nhân lại thấy người đó đi về phía nam. Tiểu nhân chỉ biết có vậy. Mong đại nhân soi xét.

Thi Nguyên chẹp miệng, lắc đầu đứng dậy bước ra khỏi quán trọ nhìn về phía nam có một con đò đang chống chếnh trên sông, liền cho người đuổi tới đó xem có phải là Liêu Thinh đang tìm cách chạy trốn. Có tên lính chạy tới hỏi Nguyên:

- Đám khách trọ cùng hai tên chủ quán kia, đại nhân có chủ kiến gì không?

Thinh đưa dao găm lên cổ lưa lưa. Tên lính nhanh nhảu chạy vào quán trọ sai đám lính dùng gươm giáo giết sạch. Trong chớp mắt hơn hai chục mạng người nằm lăn lóc dưới sàn lênh láng máu. Thi Nguyên quay lại cả giận:

- Kẻ nào giết người. Ai cho

Đám lính ấp úng nói:

- Là tên Hầu Bảo nói bọn tiểu nhân giết chúng.

Hầu Bảo mặt cúi gằm bước tới:

- Đại nhân ý không phải là giết chúng hay sao.

- Ta dùng dao gãi chỗ ngứa trên cổ, có con muỗi đốt ta chứ đâu có sai ngươi giết bọn chúng.

Nói rồi, Thi Nguyên thẳng chân đạp vào cằm Hầu Bảo. Bảo ngã ngửa ra phía sau, đôi hàm răng rơi ra năm sáu chiếc. Móm móm ngậm máu trong miệng, Hầu Bảo ôm chân Thi Nguyên:

- Mong đại nhân tha mạng. Đại nhân tha mạng.

- Được. Bọn bay giải nó về nhà lao để Thôi đại nhân xét tội.

Trong lúc đó, Đức Thinh trốn được vào La thành, đêm khuya sương giáng mà người trong thành chẳng thể ngủ yên. Đức Thinh đứng trên nóc nhà của Gia Hân lầu quán, chốn ăn chơi của đám quan lại Tống Bình. Thấy trong lầu người nâng, kẻ đỡ những lời mật ngọt khiến Thinh trướng tai. Thinh chọn cho mình một góc lầu phía bắc, nhìn xuống thấy đám lính chạy vào từng nhà tra hỏi. Cứ chốc chốc lại thấy có người bị lôi ra cửa nhà nhận những cú đánh trời giáng của đám lính.
Thinh ôm mặt mà giận trong lòng :

- Bọn ác bá. Đến người già chúng cũng chẳng tha.

Thinh chạy tới một gian nhà nhỏ ở góc phía đông nam La thành. Có ông lão lưng còng ho lụ khụ trong nhà. Thấy động ông lão soi đèn bước ra. Thinh luổn vào trong nhà, từ phía sau bịt miệng ông lão, lấy tay ra hiệu cho lão yên lặng. Thinh hỏi:

- Ở phía ngoài quân lính đang lùng sục những người ủng hộ Dương Thanh. Ông lão chớ có ra.

- Anh là ai. Sao lại lẻn vào nhà tôi. Anh có biết ba con trai ta làm sai nha trong phủ, con gái ta là con dâu của Đặng Liễu tá. Ta chỉ cần ho một tiếng là có lính vào đây mà bắt anh ngay.

- Lão đừng ho. Ta chỉ vào đây xin ở nhờ lão một đêm thôi.

- Ta với anh không quen không biết. Nhà anh bụng dạ thế nào ta chẳng hay. Sao có thể tin anh được.

- Lão ơi. Xin lão cứu mạng. Mặt mày ta biến dạng hai phần, còn một phần cũng vết chém đớn đau. Ta quỳ xuống xin lão cứu ta.

- Thôi được được. Anh hãy đứng lên. Thấy anh cũng không có vẻ gì là người xấu. Kể ta nghe chuyện thế nào.

Thinh kể lại chuyện cho Lão nghe. Lão giảng giải cho Thinh hiểu sự đời. Thinh lấy làm vui lắm, lại không có biết lấy gì báo đáp liền dập đầu vái lão ba cái.

Có tiếng lùng sục ngoài kia. Lão ra mở cửa. Thấy lính tráng, lão hỏi:

- Các anh có chuyện gì chăng?

- Tô Nguyên Hiền lão bá. Đêm khuya thanh vắng xin làm phiền lão bá.

Nói rồi, đám lính chạy xộc thẳng vào nhà. Không lời nói lại đi ra. Hiền lão bá đóng vội cửa, cho gọi Liêu Thinh ra mà dặn:

- Trong thành này không phải chỗ an toàn để nhà anh trú. Sớm ngày mai, ta đi câu cá, anh nằm trên xe rơm cùng ta ra bến Đen. Ở trong thành, từ trước khi Thôi Kết đến Tống Bình nắm binh, đêm nào bọn lính cũng đi lùng sục hỏi từng nhà. Người nào lạ mặt, không biết ám hiệu của chúng sẽ bị bọn chúng đánh cho đến chết. Như ở bên cạnh nhà tôi đây. Ba mẹ con bà ta đều bị đánh cho đến chết chỉ vì không biết trả lời bọn chúng thế nào. Chúng hỏi nhà các người thù ghét Dương Thanh hay yêu quý hắn. Nếu trả lời là yêu quý thì sẽ bị giết ngay. Nói là thù ghét cũng bị giết ngay.

- Lại có chuyện kỳ lạ vậy sao. Thù cũng giết, yêu cũng giết. Vậy ta phải nói thế nào.

- Là mật lệnh của Trọng Vũ, hắn muốn mượn danh Dương Thanh để giết người. Đám lính đi dò xét mặc áo lính của quân Tống Bình, lại cậm quân bài họ Dương. Nếu ai trả lời là yêu Dương Thanh thì đám lính sẽ cho là người đó có lòng khác mà không chạy theo phò giúp Dương tướng quân, ở đây nghe lời sai bảo của họ Quế. Giết. Nếu trả lời là ghét Dương Thanh thì bọn chúng lập tức giết ngay. Chúng nói là Dương tướng quân sai chúng đi hỏi để thử lòng đám dân Tống Bình. Thế nên, bọn chúng đã thực hiện được âm mưu cho đám dân Tống Bình ghét bỏ Dương tướng quân. Ấy vậy mà nhiều người bị họ Quế lừa bịp dốc hết của cải, công sức để tìm giết cha con Dương Thanh báo thù. Trong thành có ba ngàn hộ, hơn ngàn hộ đã bị đám lính đó bức cho chết từ trước khi Thôi Kết về nắm quyền, cho nên dân trong La thành thù ghét họ Dương kia lắm.

Đức Thinh nằm dài trên mái nhà nghĩ về những điều ông lão Tô Hiền nói. Chàng nghĩ về quá khứ, hiện tại và cả tương lai rồi thở dài :

- Thời thế thế thời, lòng người ngay thẳng, thẳng ngay sao mà lường hết cho được.

Những hạt sương vương trên khóe mi chàng, nặng từng giọt chảy vào vết những bỏng trên khuôn mặt phỏng rộp của chàng. Cái mệt dường như khiến cho chàng quên đi những đau đớn trên khuôn mặt chàng. Chàng ngủ ngon như chú mèo khoang đang nằm ngủ ở mái nhà bên cạnh, chốc chốc nó lại liểm vào bộ lông óng mượt của nó mặc cho phía dưới kia tiếng ồn ã la thét của đám lính, tiếng giáo gươm liểng xiểng xen lẫn tiếng người la ó đớn đau.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ năm:

Núi Long Tuyền, tướng người Hoa đuổi hổ.

Thành Bạch Hạc, Vương thứ sử cứu ưng .


Chương 5.1 Dũng khí kẻ nam, lòng tham người bắc

Từ khi Chí Liệt thua trận tại Luy Lâu, chàng chạy về đất Hiến chờ tiếp viện từ các châu phía nam hội quân cùng phản công lại quân triều đình. Chàng nghe tin tướng phụ đã rời Tống Bình từ trước khi Thôi Kết chiếm được, đến này vẫn không có tin tức, chẳng biết còn sống hay đã chết. Ngày đêm chàng thao binh luyện mã nung nấu quyết tâm đánh bại quân triều đình tại Tống Bình lấy lại uy chấn họ Dương cùng quân đội người nam.

Chàng sai người đến vùng đất Ba Lạt mời thầy lặn giỏi để dạy cho đám lính thủy, chọn ra sáu mươi người dũng mãnh, bơi lội thật giỏi đến năm cửa biển hòng diệt trừ đội thủy quân hàng đêm đi qua cửa đó tiếp viện quân lương cùng binh mã cho quân triều đình. Sau hơn một tuần lễ liên tục hơn bảy mươi chiếc thuyền gỗ nhỏ to của quân triều đình bị đánh đắm tại năm cửa sông. Biết bao nhiêu quân giới, lương thảo bị chìm dưới đáy sông khiến Trọng Vũ tức giận sai đô đốc hải quân Quỳnh Châu là La Sùng Quán rình bắt nhưng không bắt được ai. Chí Liệt lấy làm vui mừng, sai người thu chiến lợi phẩm về khao binh sĩ.

Đêm rằm tháng ba, mùa xuân thanh minh năm canh dần (820), Chí Liệt cùng Tồn Thành hội đủ hai vạn rưỡi binh mã, soạn sửa trâu ngựa gà đến bảy tạ, gạo nghìn đấu, hoa quả trăm cân dâng lễ tế thần hai bên bờ sông Nhị. Chí Liệt ra hịch kêu gọi quân sĩ nhất lòng hướng về Tống Bình giết quân triều đình lấy lại uy danh của quân sĩ người Nam. Giọng nói vang vang của Tồn Thành khiến sông nước rung chuyển, sóng nước dồn dập vỗ đôi bờ dòng Nhị :

" Hỡi ba quân tướng sĩ!

Xưa tổ tiên người nam ta lập đất này.

Bao năm vun bón, bấy tháng chắc tay cày

Mỗi năm mưa gió thuận hòa, cây cối tốt tươi ngày ngày đơm hoa kết trái.

Đất ngàn dặm chim bay cánh mỏi miết hoài chẳng hết.

Tổ Hùng Vương dẹp trừ Sơn Quỷ, Thủy Quái

Cháu con giữ đất, giữ sông, vững bờ Đông Hải chia làm hai ngả.

An Vương, Triệu Tổ hùng cứ đất này, gian khó chẳng quản ngại điều chi

Há sao chó ngựa rầy quấy muôn dân

Nghìn năm đói khổ, hận lắm thay,

Vạn ngày đau đớn, kẻ anh hùng này xót xa

Chó cọp phương bắc trơn trắng lụa là

Người Giao Chỉ lầm than, trũi tróc nước da bạc màu

Trưng nữ vương, Triệu Ẩu bà gương sáng mãi về sau

Lý Bôn anh dũng, Bố Cái uy danh vang tiếng, vàng nào sánh

Giặc Hán, giặc Ngô, xô bồ bọn triều đình họ Lý

Tham vét của muôn dân cá tôm, thóc lúa

Đẩy dân nam xuống vùng bùn đen nhão,

Bắt dân ta lên núi cao vời vợi đầy rẫy thú hoang, cây độc

Cống cho chúng nào là ngọc quý, đồi mồi, nhung hươu, vỏ hến sò, dị thảo, kỳ thạch…

Nào có biết, đói khổ của ta.

Đêm đông giá buốt xương đắp da.

Ngày hè nắng cháy, thơm tho hương vị xác thịt dân đen

Xót lắm thay. Đau đớn lắm thay.

Kẻ nam nhi nhẽ nào lại cúi đầu, khác chi loài cầm thú chó ngựa bò trâu.

Thanh thiên tướng quân nguyện theo lòng dân, ý muôn vạn người

Giết kẻ tham bạo, lật đổ hà khắc bạo tàn, biết bao anh mắt hả hê rạng ngời.

Người thẳng, kẻ gian ăn cơm đập bát, qua sông đốt thuyền

Mời cọp báo lấy thịt chúng dân

Ta đêm chẳng ngủ, tâm can phừng phừng một màu đỏ lửa

Ngày mở to mắt nhìn đám bạo ngược trà đạp mà đôi dòng lệ chẳng thể dừng.

Nghĩ đến trăm vạn người đất nam đang bị giày xéo, sống mũi còn cay nhức

Nay cùng các ngươi nguyện mang tài dốc sức

Lấy tâm đức mà diệt lũ chó, lũ lang sói báo bạo tàn

Thành tâm dâng lễ vật, hương hoa lên trời đất, thần sông Nhị Hà

Ba quân tướng sĩ đồng lòng. Quyết diệt sạch lũ Bắc phương thối nát. "

Lời nói Tồn Thành dội xuống lòng sông, tiếng hô vang ba quân như những ngọn sóng dữ dội, ầm ầm như thác đổ:

- Dẹp giặc họ Quế! Dẹp sạch lũ Bắc phương thối nát!

Ba ngày sau, đoàn quân tiến áp sát Tống Bình phủ. Quân tướng triều đình phương Bắc lo lắng vội vã điều binh từ các lộ Lục Châu, phía bắc huyện Chu Diên, đông Bình Nguyên đến phía bắc Tống Bình phủ hội quân với Thôi Kết, số binh lên đến năm vạn. Trọng Vũ cho gọi đô đốc thủy quân Quỳnh Châu La Sùng Quán tới Giao Châu để hội bàn. Họ La kiêu ngạo nói với Trọng Vũ :

- Đám dân man di Giao Chỉ là những kẻ nhát gan. Từ trước tới nay chỉ trông cậy vào những thủ lĩnh kém cỏi. Chúng chỉ biết chờ lúc quân đội triều đình nhất thời lỏng lẻo mà mưu cướp trị sở của quan quân triều đình. Nay ta binh hùng tướng mạnh đều hội đủ đất này. Với chỉ hai vạn rưỡi lính quèn đánh sao lại năm sáu vạn tinh binh, thủy quân một vạn tám nghìn lính của ta.

Trọng Vũ cho lời đó là phải, nhưng trong lòng đã nghĩ điều khác. Để đề phòng quân của Chí Liệt tập kích bất ngờ, hắn sai các tướng mạnh nhất trông giữ những nơi trọng điểm. Thủy quân triều đình được lệnh rút ra khỏi cửa biển lui về đất Quảng Châu, Quỳnh Châu, chỉ lại toàn lính bản bộ và kỵ mã. Sùng Quán buộc phải tuân lời mà không dám chống đối.

Thôi Kết giữ hai vạn quân ở phía bắc Cổ Loa thường bị đám người gần vùng Phong Châu cướp phá, hắn lấy làm tức giận. Đêm đến hắn cho người mai phục đám người hay đến cướp phá, bắt được ba bốn mươi người. Bọn ấy khai là người của họ Đỗ đóng tại đất của châu Long và châu Vũ Lặc phía đông nam Bình Nguyên châu.
Thôi Kết bắt tên dẫn đường cùng hai trăm lính đến chân núi Ngọc Bội, dân nơi này gọi là Yểm Nhĩ Sơn. Suốt dọc từ Yểm Nhĩ Sơn theo dòng sông Lệ Thủy ngược bắc đến núi Long Tuyền chưng ba bốn mươi dặm đường. Thi thoảng cứ qua hai nhịp kè sông lại có túp lều dựng bằng tre, phía trước là cửa rèm mây đan thô sơ. Phía trong có vài ba người mặt mũi nhem nhuốc, treo toàn ngư cụ trên tường.

Thôi Kết hỏi tên dẫn đường có biết những nhà này sao lại có ở đây, hắn ta không biết. Đi qua chục dặm đường thấy trong lòng bất an, Thôi Kết cho người dừng thuyền ghé vào một nhà mé phải dòng Lệ Thủy. Thấy có người lên ghé vào, hai người trong nhà lẻn ra phía sau có ý muốn chạy trốn bị bọn lính của Kết bắt được. Hai người mặt lấm lét lắp bắp. Thôi Kết mặt gian xảo cười :

- Có việc chi mà các ngươi sợ hãi đến vậy. Há chăng có điều khuất tất.

- Bẩm bẩm các quan. Tiểu nhân còn có mẹ già trẻ nhỏ trong nhà. Mong các ngài tha cho.

- Ta đâu có làm gì các ngươi mà lại xin ta. Người không mang tội sao lại xin tha.

- Dạ bẩm, bẩm…

- Sao nhà ngươi còn run sợ chưa nói.

- Bẩm quan lớn. Suốt mấy tháng nay ngày nào cũng có đám quân đến đây lùng sục từng nhà một. Nhà nào có thóc, có lúa, cá tôm đều bị đám quân lính đó vơ vét cả. Nhà bây giờ không còn thứ gì trong nhà.

Thôi Kết nhìn đám người trong nhà. Trẻ con ba đứa, một bà lão nhem nhuốc,thân gầy guộc, tóc hoa râm, da đen nhẹm. Mình trần, tay run run đang cầm chiếc bát mẻ, đôi đũa dài ngắn không đều gắp lên miếng tép cho đứa trẻ nhỏ nhất nhà. Được một miếng, đứa thứ lớn hơn mặt mũi lấm lét, vải không một mảnh che thân đôi mắt rưng rưng nhìn tay bà gắp cho đứa nhỏ. Đứa lớn nhất là cũng là con gái, tóc nó dài xõa xuống che đi bầu ngực mới nhú của đứa trẻ mới lớn, có manh vải rách quấn làm khố cũng chẳng thể giấu đi được phần thân dưới héo hon như cây hoa dại của nó. Thôi Kết nhìn chăm chú vào đứa lớn, không rời mắt khiến nó cảm thấy sợ hãi, quay ra phía sau nhà. Tiếng nài nỉ của cha đứa trẻ văng vẳng bên tai. Thôi Kết giật mình hỏi lại:

- Ra là nhà các ngươi đang dùng bữa. Thấy bọn ta ghé vào bờ có điều gì mà hoảng hốt.

- Là tiểu nhân nghĩ là quan quân lại đến.

- Bọn ta là lính triều đình. Trước giờ không làm những việc đó. Đặc biệt là với những hoàn cảnh như các ngươi.

- Dạ dạ. Tiểu nhân không có ý nói ngài.

- Thế bọn quân lính kia dáng vẻ thế nào. Nhiều hay ít người. Nhà ngươi có biết kẻ đứng đầu là ai hay không.

- Lính thấp, chân đeo rơm. Mặc áo giáp giấy, vũ khí ngắn dài đều có. Cỡ đến ba trăm người đi dọc sông cả ngày.

- Các ngươi vương vấn điều chi mà còn không bỏ nơi này.

- Bẩm quan. Chỉ là cực chẳng đã. Quanh năm quen nghề lưới chài, nghĩ chẳng thể làm được việc khác. Vả lại dân chài quen sông nước nên làm nhà gần sông cũng tiện bề thuyền bè đi.

- Các ngươi có thể lui vào qua chỗ đất cao kia dựng nhà. Trẻ con gần sông không nhẽ để bọn chúng rơi xuống sông mà chết đuối, rồi người già cả.

- Từ thời Cao Chính Bình đến giờ, đám thổ hào vùng này tác oai tác quái, chiếm hết đất phía cao. Chúng tiểu nhân mà vào đất đó dựng nhà thì bọn đó lại sai đến cả chục người đến đánh đập, phá bỏ. Còn những đất vũng, mé sông, mỗi nhà đắp lấy một kè đá mà nhận khoảng sông, lấy kè ấy làm ranh giới giữa các hộ.

- Đã đánh nhau với đám thổ hào giành đất hay chưa?

- Đã từng có. Khi đầu nhất chí đồng lòng, sau lại có kẻ hai lòng theo chúng mà đánh lại dân chài.

- Ta nhận đứa lớn nhà ngươi làm nghĩa nữ. Khi chiều gọi người đứng đầu vùng này đến đây ta có chuyện cần bàn.

- Bẩm. Vùng này đất không chủ. Thân ai biết nhà nấy. Gái lớn biết việc, xin đại nhân tha cho nó ở lại.

- Lời ta đã định. Nhà ngươi chớ có bàn thêm.

Kết lắc đầu bước ra. Sai lính lấy hai đấu gạo đổ vào hũ vỡ nát góc nhà. Tên lính to khỏe kéo gái lớn ra khỏi nhà. Ban đầu thấy nó giãy giụa, tên lính gồng mình lên hết sức để nhấc bổng cô bé ra phía ngoài. Bà lão nước mắt ướt hai gò má :

- Cháu cứ theo quan. Thoát khỏi cái đói này.

Mấy chị em cô bé nhìn nhau, đứa nhỏ còn lơ ngơ chưa biết chuyện gì xảy ra. Người cha dặn dò, vỗ về nó :

- Con hãy theo quan. Ngoan ngoãn đi.

Kết bước xuống thuyền lớn, sai đám lính dồn hết lên thuyền đó, để lại chiếc thuyền nhỏ hơn. Kết nói vọng vào bờ :

- Thuyền này được thợ giỏi xứ Quảng Châu làm bằng gỗ Sao, tốt lắm đó. Tặng nhà ngươi.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ năm:

Núi Long Tuyền, tướng người Hoa đuổi hổ.

Thành Bạch Hạc, Vương thứ sử cứu ưng.


Chương 5.2 Đuổi hổ, hổ cắn, đánh rắn, rắn bò

Đoạn đi hết dòng Lệ Thủy, tên dẫn đường nói với Thôi Kết rằng đi hết đoạn đường trên bờ nửa canh giờ là sẽ đến núi Long Tuyền. Trên ấy có động lớn, ngày trước có đôi cặp vợ chồng nên duyên ở động đó, từ bấy giờ người dân vùng này gọi là Động Hỷ. Núi cao ba trăm trượng, cây đá um tùm nhiều vô kể. Có dòng nước chảy quanh chân núi, từ lưng núi nhìn xuống phía nam mà thấy cảnh đẹp như tranh vẽ.

Thôi Kết cho đám lính dừng lại ở đó, sai tên dẫn đường vào nói với động chủ họ Đỗ là có quan quân triều đình đến bắt tội. Hắn chạy vào đến cửa hang thì có chục tên lâu la ra dò xét. Nhận ra người của mình, bọn chúng cho vào. Tên dẫn đường nói lại hết chuyện thì bị thủ lĩnh kêu người lôi ra treo cổ trước cửa hang.

Nghe tiếng ồn ào từ phía động, Thôi Kết ngước lên nhìn. Có một người chân thậm thụt bước ra từ phía động, quần áo lôi thôi, miệng rộng, mắt híp, dáng người mảnh khảnh cầm một cây đao mẻ bước ra quát lớn :

- Quan quân cái khỉ gió gì. Có giỏi lên đây đánh với tao một trận.

Đám lính cười khúc khích, Thôi Kết nói lớn :

- Cái loại nhái bén nhà ngươi lại đòi đánh với đấm. Chỉ e là nhái bén chưa kịp kêu đã bị bóp chết. Bọn lâu la chúng mày lấy cho hắn một cái gương để cho hắn soi, nhìn có khác chi thằng hầu phủ hay không.

Có tên lâu la đứng cạnh cầm gương giương lên. Tên thủ lĩnh quắc mắt nhìn khiến tên lâu la sợ hãi lui vào. Tên thủ lĩnh chạy vào nhìn xuống mặt nước tĩnh trong động, lấy tay bó gọn lại mái tóc, chỉnh lại quần áo. Y bước ra, giọng dõng dạc :

- Là ta đang ngủ có cái tên nhìn như chim quạ nhà ngươi đến đây hò hét. Nào giỏi thì lên đây đánh với ta.

Thôi Kết cho người xông lên, đánh nhau loạn xạ một lúc. Đám lâu la cùng tên thủ lĩnh thua chạy vào trong hang. Thôi Kết đuổi theo vào đến động. Động lớn, uy nghi có nhiều cột đá lớn như những cột trong các chùa phía bắc xứ Giao Châu. Tiếng vọng lớn từ phía hang khiến đám lính mất phương hướng, không nghe ra những lời nói của Thôi Kết và bọn chúng nói chuyện.

Thôi Kết cho người dò la thì tứ phía động đều có cửa lớn bằng đá như thể có vị tiên thần nào đã dựng lên kiến trúc trong động này. Thôi Kết thấy có bậc thang bước xuống lòng động sâu thăm thẳm hướng ra phía đông. Kết sai lính đốt đuốc để dò đường. Đuốc thắp lên, châm lửa vừa rời khỏi thì đuốc tắt. Lấy làm lạ, Kết tự tay mình thắp đuốc, cũng như những lần trước đuốc tắt ngay sau khi châm lửa vừa rời khỏi đầu đuốc.

Nghì là do thiếu không khí nên Kết ném vũ khí xuống đất chạy bước lên cao hơn, lần này châm đuốc đã cháy. Nghĩ vui trong bụng, Kết lại bước xuống cầm cây thương lên, đuốc lại tắt. Thôi Kết ném thương xuống đất, lần này không bước lên nữa mà vẫn đứng tại chỗ châm đuốc thì đuốc cháy. Kết sai năm mươi tên lính cầm theo vũ khí ra khỏi động bao vây bốn phía núi. Kết cùng đám lính còn lại đi bộ bước theo bậc thang xuống phía dưới.

Đi lòng vòng một hồi thấy gươm giáo rơi dưới đất la liệt, Thôi Kết cười lớn:

- Phen này các ngươi xuống âm phủ mà cướp. Nghĩ là ta không biết dùng đuốc xuống dưới lòng động để bắt các ngươi à.

Có ánh sáng hắt vào, Thôi Kết giật mình. Tên đi đầu thò đầu ra cái lỗ lớn nhìn ra phía ngoài, quay lại nói vọng:

- Phía này có dòng nước chảy ra ngoài. Dưới đây là ao nước lớn.

Kết chạy ra, tự đấm vào lòng bàn tay. Sai người nhảy xuống dòng nước để thoát ra ngoài. Nhìn về phía đông có mấy chiếc thuyền đang khua mái vội vã. Kết ném đuốc xuống dòng nước bực tức :

- Không được để bọn chúng thoát.

Kết cho người quay lại lục tìm khắp động, thấy lương thảo, vũ khí, áo giáp quân lính triều đình, tôm cá đầy ắp, lại có bạc vàng chất thành hai đống cao ngang đầu người. Kết cho dắt một tên cướp bị bắt sống tới động hỏi :

- Các ngươi là cướp gì, thủ lĩnh là ai. Khai ra mau thì được tha tội chết.

- Bọn ta không phải là cướp. Bọn ta chỉ đi ăn trộm của cướp và giành giật của cải bất chính. Thủ lĩnh ta người đứng đầu bọn ta.

Kết dập đầu hắn xuống nền đá, tóm lấy tóc gặng hỏi :

- Còn cứng đầu ta cho ngươi đi theo tên bị treo cổ kia.

- Ta đã nói rồi. Bọn ta không phải là cướp, chỉ đi lấy trộm của kẻ cướp. Thủ lĩnh ta là người khi nãy, đứng đầu bọn ta.

- Ý ngươi là bọn ngươi chỉ đi ăn trộm của lũ cướp. Vậy lũ cướp đó là ai. Thủ lĩnh ngươi tên họ là gì. Ta thấy tên bị treo cổ kia nói là họ Đỗ.

- Quanh đây không có cướp. Mà phía gần Tống Bình mới có. Bọn ấy đóng trại phía bắc Cổ Loa, còn thủ lĩnh đám cướp là người ở trong phủ. Thủ lĩnh ta họ Đỗ, ta cũng chỉ biết có vậy. Chớ có hỏi ta thêm nữa.

- Tên này láo. Lôi ra chém chết.

Hắn cười lớn :

- Lũ cướp các ngươi. Đừng mong chuyện tốt đẹp đến với bọn ngươi.

Có tên lính chạy tới nói với Thôi Kết :

- Đám này là Lục Bạch Hổ. Đại nhân nhìn này. Trong đống quần áo lính mà chúng cất giấu trong động có lẫn cờ xí của Lục Bạch Hổ khét tiếng.

- Nghe nói cái tên Long Trạch trấn giữ Long Biên là một trong những thủ lĩnh của đám người đó.

- Tại hạ có nghe nói. Hắn từng là một trong sáu thủ lĩnh của Lục Bạch Hổ bị Dương Thanh bắt giết bốn tên. Còn hắn và một người nữa.

- Tại sao lại để hắn sống sót, một tên làm cướp lại được làm tướng giữ thành.

- Tại hạ nghe nói vương tử Đạo Cổ trước đây thu nạp hắn để mưu đoạt lại Tống Bình. Hắn có chỗ để dựa vào, lại uy dũng khác thường nên được Quế đại nhân tin dùng làm nội gián ở Tống Bình. Thân phận làm cướp của hắn chỉ có hòa thượng Giả Thường biết. Sau này khi đám người dưới trướng Dương Thanh diệt Lục Bạch Hổ, hắn mới lộ diện.

- Ta cứ hỏi dò tên Long Trạch đó, có thể hắn sẽ biết tên họ Đỗ này.

Thôi Kết cho quân lục tìm khắp núi và các khu lân cận, chẳng nghe ngóng được tin tức, bóng dáng của đoàn người đó. Có người nhìn thấy đám người trên núi đi về phía tây nam dắt theo đến vài chục ngựa trâu. Thôi Kết chán nản cho quân lui về phía Bắc Cổ Loa. Chỉ sai một vài tên đi dò la thêm tin tức từ phía quân đội họ Dương và đám người ngựa núi Long Tuyền đi về phía tây nam.

Trong quân Thôi Kết, có người tên Đinh Tráng người Võ An Châu, dáng người nhanh nhẹn, đôi chân mỗi bước sải đến năm trượng, mọi người vẫn gọi tên ấy là Sóc Bay, hiệu là Hỏa Cước Tốc. Nhận lệnh của Kết, Tráng chạy tức tốc suốt hai canh giờ theo dấu chân đám người chạy trốn. Chạy đến chỗ đất bằng nghe có tiếng gió vi vu thấy lạnh người. Thấy có quán nước giữa đường vắng vẻ, Tráng bước vào với ánh mắt tò mò. Thấy một cô thôn nữ tóc dài quá lưng. Áo yếm lưng trần khoe làn bánh mật mịn mà, bờ vai hững hờ như đang chờ ai đó lại gần mà nâng niu. Trong người hừng hực, nhìn xung quanh đồng không hoang vắng, trong nhà lại chẳng có ai, Tráng chạy vội vào phía trong, lấy tay xoa lên đôi vai tròng ghẹo cô ta:

- Em là tiên nữ chốn nào. Sao lại lạc đến chốn kỷ ho gò gáy này.

Cô gái bình tâm, tay thoăn thoắt đưa trà vào ấm. Tráng đoán tâm tình mà nhả lời ngọt ngào dụ dỗ:

- Vườn hồng xa vắng, em có thấu chăng trái tim ta đang loạn nhịp vì người đẹp trước mặt ta. Theo ta về Tống Bình, nàng sẽ chẳng phải lo gì cả. Nơi này hoang vắng, hổ cọp nào có biết thương em.

Hắn luồn tay xuông phía dưới em định ôm cô gái đột ngột có gã lùn tẹt, người mập dáng heo nái xồng xộc chạy đến kéo Tráng ra ngoài. Không một lời giải thích, dao mài sẵn còn treo trên giá, gã lùn khứa khứa vài nhát lên viên đá mài. Tráng hoảng hồn ngất lịm. Cô gái bước ra, lớn tiếng cười :

- Mồi ngon dễ nhử. Lũ đàn ông các người chỉ có chết vì dâm sắc.

- Đến phụ nữ mang thai mà hắn cũng dê. Lũ đầu voi đuôi chuột. Ăn thịt hắn chắc chẳng dậy mùi ngon.

Dáng người nhỏ nhắn, chân thậm thọt một người nữa bước ra. Ria mép con kiến vểnh lên, miệng ngậm lá tre đi một vòng xuôi, lại ngược một vòng ngược quanh người Tráng đang nằm trên bàn. Chàng lấy ngón út trái chọc vào lỗ mũi lấy ra một miếng bôi lên cửa miệng Tráng. Tráng tỉnh dậy, mơ màng, thấy miệng dính chút mềm liền ói thông thốc. Tráng khóc lóc van xin:

- Xin các gia gia tha mạng. Là con không biết phạm phải người trên. Xin gia gia tha mạng. Xin bà tha mạng cho. Tội con không biết buông lời chòng ghẹo, đắc tội với bà.

- Nhà ngươi cúi xuống ăn lại hết đông ngươi vừa nôn ra. Ăn xong ta sẽ tha mạng. Nếu không thì nhà ngươi sẽ giống con lợn đang treo trên bếp kia.

Tráng nhìn thấy trên giá bếp có ba cái xỏ lợn cùng hai dải thịt móc hàm. Cạnh đó là hai miếng thịt đùi to cỡ đùi trâu, da trắng mịn không lông. Tráng run rẩy cúi xuống dùng miệng liếm sạch đống vừa ói ra. Cô gái nhìn ra phía khác mà không dám chứng kiến cảnh tượng đó. Tên nhỏ người, chân thọt túm tóc Tráng, lại đưa tay vào mũi bôi lên miệng Tráng. Tráng sợ hãi, miệng run run:

- Xin gia gia tha tội. Con biết lỗi rồi.

Gã kia trợn mắt, tay cầm dao bầu dí vào mặt Tráng, gã hỏi:

- Mày có biết bọn này là ai không?

- Dạ dạ. Con không biết. Xin các ngài tha mạng.

- Đồ chó. Quân lính triều đình mà hèn nhát như con chó. Chó nó còn biết kêu gào cắn càn khi người khác động vào nó. Mày không thể bằng chó được.

- Dạ dạ. Con không bằng chó. Không bằng cầm thú. Mong gia gia tha tội.

- Liếm sạch thứ trên môi ngươi.

Tráng nhắm mắt, nhắm mũi liếm sạch cái thứ nhớp nháp phía ngoài môi. Phía dưới quần hắn đã ướt từ bao giờ. Tên béo lùn dáng lợn cười lớn:

- Thôi được. Ngoan ngoãn là tốt. Ngươi nằm lên, tự trói mình vào.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ năm:

Núi Long Tuyền, tướng người Hoa đuổi hổ.

Thành Bạch Hạc, Vương thứ sử cứu ưng.


Chương 5.3 Gặp lại cố nhân, Gã quỷ quặn lòng

Tráng ngơ ngác nhìn hai tên bặm trợn không sao nói lên lời. Tên kia ngước đầu ra hiệu Tráng làm theo lời gã béo. Người phụ nữ quay đầu lại gọi lớn:

- Anh Lục. Có quan quân đang tiến đến.

- Cứ như nãy hành sự. Còn tên kia lên bàn trói mình vào. Nghe lời Mai muội.

Không ngươi sẽ phải chết.

Hai người lại trốn ra phía sau gian lều, chui xuống một cái hố lớn, lấy cành lá khô phủ lên miệng hố. Cô gái bước vào đập vỡ ấm chuyên cùng bát nước, khứa miếng bát vỡ vào tay vừa chấm nước sôi. Cô gái xé toang yếm ngực, kéo váy đụm bốn bức lên cao quá gối ngã ngồi trong tư thế sợ hãi. Tiếng ngựa hý vang, cô gái nằm ngất ra sàn.

Có vị quan nhân mặt mũi khôi ngô, trán cao vuông vức, đầu đội mũ quan thứ sử, mặc áo lụa tím. Người này vai rộng sáu tấc, mình cao bảy thước, dáng người trang nghiêm, giọng nói nền nã ấm trầm bước vào lều nhỏ. Nhìn thấy cô gái dường nằm dưới sàn, nước nóng còn đương sôi khói nghi ngút trên mảnh vỡ của chuyên nước. Vị quan nhân giọng ân cần hỏi:

- Cô gái kia ơi. Sao cô lại nằm dưới đất.

Có tiếng nói từ phía sau:

- Có vẻ như cô ta vừa bị ngã. Máu còn vương trên tay.

- Này cô gái! Mau mau tỉnh lại.

Cô gái từ từ mở mắt ra, hoảng hốt cô gái co rúm người, tay vội kéo váy xuống qua chân, kéo lại vạt yếm. Cô gái la hét lớn:

- Lũ cướp ngày. Lũ cướp của, giết người. Trả chồng ta đây.

Vị quan nhân giọng ôn tồn:

- Cô gái hãy bình tĩnh. Ta là Phong châu thứ sử, đi qua đây thấy có quán nước nhỏ liền ghé lại. Cô gái chớ có sợ hãi. Hãy ngồi lên ghế, kể lại ta nghe. Có chuyện gì đã xảy ra.

- Không không. Lũ cướp, các ngươi hãy giết ta và con ta trong bụng đi. Ta không muốn ô uế chỗ này. Ta không muốn con ta phải chứng kiến cảnh này.

- Cô gái. Bình tĩnh nào. Ta là thứ sử Phong Châu. Kẻ nào đã đến đây. Người nhà cô đâu.

Thứ sử cởi chiếc áo choàng ra khoác lên người cô gái. Hơi ấm tình người khiến cô gái như bừng tỉnh, bình tĩnh lại cô gái lại trần tình:

- Vừa xong có đám quân lính ghé qua đây. Bọn chúng bắt trói chồng thiếp. Đập phá lều quán, lại định giở trò đồi bại với thiếp. Thiếp đang rót nước pha trà thì có tên ôm thiếp từ phía sau giở trò đồi bại. Thiếp bị bọn chúng đánh một đòn nằm ngất.

- Là lính như thế nào.

- Trông giống mấy người này.

Thứ sử nhìn xung quanh, đám lính cúi mặt không dám nhìn. Thứ sử lại hỏi :

- Chắc có kẻ gian đã mượn cớ chúng ta mà làm ra chuyện đó. Chồng cô bị chúng bắt đi rồi chăng.

- Dạ không. Chồng thiếp bị bắt trói ở chiếc bàn mạn phải lều quán.

Có tên lính nói vọng từ phía ngoài đó vào:

- Vương đại nhân. Có người bị bắt trói ngoài này.

Trấn an cô gái, thứ sử chạy ra phía ngoài thấy một người mặc lính phục ở phía ngoài. Thứ sử hỏi :

- Anh là chống cô ta. Anh là lính quân doanh nào.

Hỏa Cước Tốc còn chưa hết kinh tởm với những thứ anh vừa phải nuốt, ói vội ra ngoài. Chàng nói với thứ sử:

- Đại nhân! Đại nhân! Cứu ta.

- Có chuyện gì. Anh và vợ vừa bị đám người nào bắt trói đến mức kinh hãi như vậy

Tráng ói xong, thở không ra hơi. Anh hổn hển:

- Là ả ta. Ả ta.

Từ phía sau, cô gái chạy ra ôm lấy Tráng, khóc lóc thảm thiết:

- Chàng ơi. Thật may quá. Có vị Đại nhân này cứu giúp chúng ta kịp lúc. Không thì thiếp chẳng còn mặt mũi nào mà sống nữa.

Vương thứ sử còn mông lung chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra. Anh chàng lại hổn hển kể tiếp:

- Là ả ta cùng đồng bọn toan giết ta. Ta được lệnh từ Tống Bình đến đây để lần theo tung tích của bọn cướp. Chạy đến chỗ này thì gặp ả cùng hai tên cướp nữa bắt trói ta. Ả dựng chuyện để lừa gạt đại nhân. Cái bụng kia chỉ là cái thai giả.

Cô gái ngã xuống đau đớn, ôm lấy cột hiên mà than khóc:

- Đại nhân minh xét. Chồng con chắc hắn đã có người khác nên mới dựng chuyện hòng đuổi mẹ con thiếp đi. Nay lại không nhận cả vợ con thiếp nữa. Thiếp còn thiết sống làm gì nữa.

Đám lính giữ lại cô gái không để cô gái làm điều dại dột. Tên béo phía sau nhà núp dưới hố định bụng chạy lên, tay người nhỏ gầy giữ lại ra hiệu cho hắn im lặng quan sát, hãy tin tưởng cô gái đang diễn trò thật tốt.

Có tiếng vó ngựa hý vang. Giọng cười lớn sảng khoái:

- Vương Đại nhân. Hóa ra ngài ở chốn này. Nơi đồng không mông quạnh này lại có gái đẹp. Đại nhân cũng có cái thú vui thanh nhã đấy. Ta nghe lời tướng quân đi tìm ngài bấy lâu..

Vương thứ sử nghiêm nghị:

- Sằng bậy. Công chuyện ta đi ngang qua chỗ này. Chớ có nói điều không phải.
Hỏa Cước Tốc nhận ra người này. Anh ta lên tiếng nhận người quen:

- Có phải Dương Diện tướng quỷ.

- Anh là kẻ nào sao biết tên ta.

- Là Hộ sư quân tướng. Dưới trướng Thanh thiên Dương tướng. Chẳng phải là anh đã chết sau khi bị Long tướng quân truy sát.

- Cái tên mặt quỷ trạch trạch lươn lươn đó tài nghệ gì mà giết được ta. Nhà ngươi là ai.

- Tiểu nhân chỉ là lính tốt. Ngài chắc chẳng thể biết được.

- Ra là lính Tống Bình. Vậy ta phải chém ngươi vì cái tội phản phúc.

Dương Diên cầm dao lớn chém người hắn. Vương Thăng dùng kiếm cản lại. Mặt không thay đổi sắc thái ra hiệu cho Tồn Thăng lùi lại. Gã quỷ hậm hực bước lui ra, mắt liếc lại nhìn cô gái bụng mang dạ chửa còn đang nằm trên đất. Nét mặt nghiêng nghiêng xinh xắn khiến gã thấy trong người mình rạo rực, nhớ lại khi ở đất Tiên Du bắt cướp Lục Hổ. Vương Thăng Triều lệnh không cho gã được gây sự, gã đứng yên mà dạ chẳng yên.

Cô gái nhìn thấy dáng người cao lớn, mặt mày hung dữ, giọng nói như đã từng nghe, thảng thốt cô gái hét lớn :

- Có ma! Anh Lục ơi. Cha ơi! Có ma!

Vương Thứ sử ngạc nhiên hỏi:

- Cô vừa gọi tên ai. Ma nào?

Cô gái mặt nhăn nhó mếu máo, tay chỉ vào Gã Quỷ:

- Là hắn. Chính hắn.

- Đó là hầu tướng của ta. Sao cô lại gọi hắn là ma.

Gã Quỷ quay mặt lại nhìn cô gái. Có chút gì đó khiến Gã Quỷ mất phương hướng, trái tim gã loạn nhịp, chân tay bủn rủn, nghẹn đắng trong cổ họng. Dường như cái cảm xúc đã khiến gã quỷ mềm yếu như đứa trẻ gặp lại mẹ, muốn ôm lấy mẹ mà rúc ngay vào lòng. Gã buông dao rơi xuống đất, mặt vô hồn, miệng lắp bắp:

- Là nàng. Chính nàng rồi. Tiểu Mai.

- Ta không quen ngươi. Chồng ta đã chết rồi. Tại sao lại là ngươi.

- Chính là nàng rồi. Nàng còn nhớ buổi chiều hôm đó trên núi Lạn Kha. Cả đời này ta chưa từng với ai. Nên ta chẳng thể quên.

Đám lính không bảo với nhau mà cười. Có tiếng động từ phía sau lều quán. Hai tên lính chạy ra phía sau thì bị dao chém trúng chân ngã khuỵu xuống đất. Vương thứ sử ra lệnh bao vây.

Hai người đó buông vũ khí bước lên. Gã Quỷ hào hứng chạy ra phía sau nhà để xem hai kẻ đó là người nào. Mái tóc rũ rượi cùng áo quần lôi thôi, Gã Quỷ nhìn tên gày gò mà khiêu khích:

- Một tên thì như nhái bén, bồn thằng trông như ễnh ương.

Tên người nhỏ gầy cúi gằm mặt, đi qua chỗ Thăng đứng mà thưa với Vương thứ sử:

- Bẩm quan. Chúng tiểu nhân chỉ là những dân người hiền lành tốt bụng. Khi nãy có kẻ gian đến cướp phá. Chính tên mặc áo lính này là kẻ đã hăm dọa em Mai. Bọn tôi phải đứng trốn ở phía sau. Còn con bé không kịp trốn nên toan bị hắn dở trò. Thấy quan quân đến, hắn tự trói mình vào đó, giả như người bị hại. Có đại nhân tận mắt chứng kiến. Con bé là bị hắn ép buộc phải khai ra như vậy. Mong đại nhân minh xét.

Thứ sử đắn đo :

- Thôi được rồi. Nhìn các ngươi bộ dạng chẳng phải dạng tốt lành. Cho giải các ngươi tất cả về thành phủ. Đưa vào nhà lao chờ ngày phân giải.

Tồn Thành cản lại:

- Không được. Nàng ấy là của ta. Chớ có động đến nàng.

Cô gái khóc thút thít, ngồi xuống sàn đất, nước mắt đầm đìa:

- Đỗ Thăng chàng ơi. Chàng trên trời có linh thiêng thì tha tội cho thiếp. Phận thiếp quá trớ trêu. Chưa được một lần gặp chàng mà đã phải biệt ly. Giờ lại thành ra như thế này, thiếp còn thiết sống để làm chi nữa.

Tồn Thăng chạy tới đỡ nàng ta dậy, nàng ta hất mạnh cánh tay. Gã Quỷ ngã lăn ra đất. Gã đứng lên, xốc lại áo quần. Tên người nhỏ gầy, nhìn thấy vết xăm trên hông. Tay rút đòn gậy dựng cột nhà nhằm người Tồn Thăng mà đánh:

- Cái tên mắc dịch nhà ngươi.

Những đòn chí mạng đánh thẳng người gã Quỷ, hắn chẳng kịp chống đỡ, đau đớn hắn nằm cuộn tròn trên đất như đứa trẻ vừa bị cha dạy cho những đòn roi. Thăng Triều cho người giữ hắn lại. Hắn gào thét:

- Đồ khốn nạn. Kẻ vô ơn. Chính mày đã khiến tao phải ra như thế này. Chính sự ngu ngốc, trẻ con của mày mà khiến cả trăm người xóm chài Đỗ gia bị chết. Chính mày khiến anh em bọn tao phải đôn đáo chạy trốn khắp nơi. Kẻ sống người chết mà chẳng hay tin. Đến khi biết mày làm cướp núi Yên, tranh giành địa bàn với Lục Hổ, tao phải cản cấm đám lâu la giết mày. Mày lại xung quân triều đình chém giết huynh đề tao. Nay mày còn định làm cái điều hèn hạ là cướp vợ của người đã khuất hay sao. Một góa phụ mà mày cũng chẳng tha. Cái tên thú tính. Sao họ Đỗ ta lại có loại người như mày. Tao phải giết mày. Đồ máu lạnh vô ơn.

Tồn Thăng sựng người, nằm im, nhìn đăm đăm vào đôi mắt sáng rực đang tuôn ra hai dòng chảy trên khuôn mặt kham khổ. Hắn ậm ừ, không nói nên thành lời :

- Anh là…

Tên kia hất ngã đám lính, dùng sức lấy kiếm trên người Vương thứ sử chém thẳng xuống chẳng chút nương tình.

- Ta giết ngươi để trả thù cho Đỗ gia, giết ngươi để trả thù cho anh em ta. Giết ngươi để anh linh Đỗ Dụng ở trên được yên lòng. Tất cả là vì ngươi.

Ánh kiếm sáng lóa, không một âm thanh ngoài tiếng lạnh dựng sống gáy của thanh kiếm chém mạnh. Tiếng khóc nức nở, đôi mắt thẫn thờ, anh ngồi xuống thở hổn hển. Cô gái đập đầu thật mạnh vào cây cột. Máu chảy qua đuôi mắt rớt xuống cằm, cô gái nằm bất tỉnh. Thăng Triều cho người sơ cứu cô gái, đưa lên xe ngựa chạy thẳng về phía Phong Châu thành phủ. Dương Diện gã quỷ, nằm dưới đất, mở mắt khe khẽ, miệng nhoe nhoét một màu đỏ như nước bã trầu. Rút thanh gươm còn cắm đầu dưới đất, hắn gượng dậy, tay chống vào chuôi kiếm, đầu gối quỳ thấp, dập đầu ba cái, giọng nói méo xệch như bò rống:

- Anh Sĩ Hoàng. Tha lỗi cho thằng em ngu ngốc, khờ dại. Bao năm qua khiến các anh nằm gai nếm đắng ngậm cay. Ba vái này kính anh.

Hoàng mắt rưng rưng, xua đám lính bước ra ngoài, tự trói mình vào thừng. Nuốt cơn giận giữ vào trong, Sĩ Hoàng phục gối xuống đất, mặt hướng về phía Đông, chẳng nói lấy một lời. Anh nhắm mắt, đôi tay trói đưa lên ngực trái rồi chỉ cúi đầu. Bọn lính tráng đeo gông vào người anh, lấy xích mà trói chân anh lại. Anh từng bước chậm rãi theo đám lính ngồi trên lưng ngựa.

Thăng chạy theo, dùng vạt áo lau những giọt mồ hôi. Gã lúng túng quệt vết máu lên mặt Sĩ Hoàng. Gã Quỷ gạn lời hỏi han mà Sĩ Hoàng chặng cậy miệng nói lấy một lời. Gã Quỷ lấy làm tức tối, chạy lòng vòng gào thét, chốc chốc lại ra lệnh cho bọn lính dừng lại để cho Sĩ Hoàng bớt mệt. Đám lính dừng lại nhưng anh vẫn không chịu dừng, chỉ lầm lũi bước đi.

Đoạn qua sông tiến vào cửa thành Bạch Hạc, Tồn Thăng không được bước lên thuyền. Sĩ Hoàng bước vội lên thuyền. Thăng nhìn theo lòng nóng như lửa đốt. Gã Quỷ nói với một tên lính áp nha theo dõi rồi báo lại tin cho Gã. Khi đầu, tên áp nha không chịu, Thăng đút lót cho hắn một lượng bạc thì hắn nở nụ cười chịu ngay.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ năm:

Núi Long Tuyền, tướng người Hoa đuổi hổ.

Thành Bạch Hạc, Vương thứ sử cứu ưng .


Chương 5.4 Thứ sử thử lòng dạ chim ưng

Thăng về trại vết máu còn vương trên mặt, quần áo tả tơi như kẻ ăn mày. Dương Thanh hỏi :

- Ta sai nhà ngươi đi theo tìm gặp Thăng Triều, chẳng hay có gặp được mà người ngợm tả tơi như vậy.

- Bẩm tướng chủ. Họ Vương không cho ta qua sông vào thành. Cứ ở bên này có ngày quân triều đình đuổi đến thì chúng ta sẽ chết mất.

- Thật khó cho Vương thứ sử. Chỉ là tại ta khi trước không đối xử công minh mà khiến hắn thù ta đến vậy.

Triệu Cường ngắt lời:

- Khi ấy tướng quân không làm như vậy, liệu Thăng Triều có thể ổn yên tại đất Phong Châu được hay chăng. Chẳng là hắn có chút nghi ngại về, về…

- Sao nhà ngươi lại lắp bắp. Hắn có e ngại điều gì mà chẳng thể giúp ta. Không phải ta cho Do Độc nắm binh phòng Đông nên hắn mới nghi ngại hay sao.

Đặng Hoài cười khẩy:

- Nghe nói cha con Triệu Hoằng dẫn địch đánh thiếu chủ Chí Liệt. Trong quân ta lại có người là con trai của Hoằng. Chẳng phải họ Vương e ngại chính là điều ấy.
Dương Thanh cản lời:

- Nếu không phải Triệu Cường đưa Mă Tước đến thì có lẽ đầu ta đã bêu cửa La Thành rồi. Đâu có ở đây cùng các người. Trước khi bàn chuyện thì hãy nghĩ trước sau. Chớ có hàm hồ đặt điều.

Triệu Cường không mở miệng bàn thêm, anh bước ra phía sau. Lý Toàn từ ngoài trại đi vào, giọng nói hớn hở:

- Thăng Triều cho người đưa thư tới hỏi thăm Dương tướng quân. Ngài có biết người đó là ai chăng?

Dương Thanh nạt nộ:

- Là ai mà mặt mày nhà ngươi mếu máo.

Tồn Thăng cười lớn:

- Cái mặt của hắn khi cười có khác nào khi trẻ con mếu máo đâu. Là cái tên Tre Độc đó có phải không?

Dương Thanh cho gọi Do Độc. Thanh mừng rỡ, vội vàng ân cần hỏi chuyện:

- Là Do Độc. Tướng quân từ ngày đi giữ đất Lâm Tây, sắc mặt thật tốt hơn khi ở Tống Bình. Chẳng hay Vương thứ sử còn điều gì nghi kỵ mà chẳng cho chúng ta qua sông vào thành.

Do Độc cúi chào mọi người, chưa nói ngay câu chuyện mà Dương Thanh hỏi. Do Độc hỏi han hết tình hình của mọi người rồi mới đáp lời Dương Thanh:

- Là Thăng Triều đại nhân có ý muốn giúp ngài, nhưng không thể ra mặt nói trực tiếp. Nay ta một mình tới đây để báo cho ngài một việc.

Thấy Do Độc ấp úng, Dương Thanh nhìn xung quanh rồi cho đám cận hầu lui ra. Chàng trai trẻ cầm lấy tay vị tướng dạn dày sương gió trần mạc mà tỉ tê suốt nửa canh giờ. Dương Thanh cười khoái chí, sai người soạn sửa rượu thịt. Do Độc cáo việc xin lui về Phong Châu báo lại việc cho Thăng Triều.

Dương Thanh cất cử Đặng Hoài cùng Tồn Thăng đến Phong Châu diện kiến Vương Thăng Triều. Thiên thanh tướng sai đám người Triệu Cường, Lý Toàn, Mã Tước sắp xếp binh lính, lên núi chặt gỗ đóng lấy ba mươi chiếc thuyền lớn nhỏ, ngược dòng nước đến chân núi Tản Viên. Bờ phía tây chỗ sông ấy là đất Lâm Tây có quân của Do Độc.

Do Độc dẫn Tồn Thăng cùng Đặng Hoài đến phủ thành Phong Châu. Hai người phải đợi tại quán trọ phía đông nam thành hơn một ngày. Tồn Thăng đi dò la tìm tên áp nha khi trước để hỏi tin của Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng đang bị giam tại nhà lao phía Nam thành Bạch Hạc.

Đêm canh ba, Tồn Thăng một mình mặt mũi kín mít chạy ra cổng phía Đông, thấy có tên lính tách đoàn đi tiện ở gần quán trọ. Tồn Thăng lấy gậy lớn đánh ngất tên lính lấy đi quần áo cùng lệnh bài. Gã quỷ vào quán trọ xin lấy một phần rượu thịt đi về phía nam.

Đến cửa lao, tên nha môn bổ đầu thấy Thăng áo quần xộc xệch, mặt mũi luyến thoắng liền xét hỏi:

- Đang đêm nhà ngươi tới đây có việc gì. Trong đó có gì.

- Tiểu nhân là Man Thắng, có người nhà bị bắt giữ trong này. Đây chỉ là chút đồ ăn. Mong các anh cho vào thăm hỏi.

Tên bổ đầu cho người ra soát người cùng suất rượu thịt bên trong chiếc gầu nước. Bổ đầu hỏi gã quỷ:

- Tên ấy phạm tội gì. Có quan hệ gì với nhà ngươi.

- Là Sĩ Hoàng ạ. Người đó là anh em với tôi. Trước đây hắn là người tốt bụng nhưng nhà hắn bị cướp, sau này đói quá đi làm cướp nên bị bắt nhốt vào lao. Nghe tin hắn bị nhốt nên tới đây mang chút món ngon gọi là… Mong các anh dùng, tôi vào tay không để thăm hỏi anh ấy cũng được.

Tồn Thăng cười cười nhưng không thể giấu đi được cái bề ngoài đáng sợ của gã. Tên bổ đầu sờ vào miếng da dê trên mặt. Mùi hôi rình khó ngửi, tên bổ đầu xua tay cho gã Quỷ vào trong. Có tên sai nha đi theo, thấy tiếng bạc lóc xóc từ người Tồn Thăng bước ra, hắn chạy lại báo cho tên bổ đầu. Tên bổ đầu gọi Thăng quay lại.Thăng hỏi :

- Đại nhân có điều chi dặn dò.

Hắn chỉ tay vào túi bạc gã quỷ đeo bên người. Thăng lại hỏi:

- Cái này ạ. Túi này ạ. Chỉ là…

- Thì nhà ngươi cứ để đó. Ta sợ khi ngươi mang vào hễ có chuyện gì, ngươi đánh mất, lại đổ cho bọn ta lấy của ngươi, khi đó ai chịu trách nhiệm được cho nhà ngươi.

Tồn Thăng ngoan ngoãn nghe lời hắn, vội lấy túi đặt lên bàn. Tên bổ đầu cho hai tên sai nha đưa Gã Quỷ vào phía trong.

Thăng chậm rãi bước vào trong mặc cho hai tên sai nha liên tục giục giã gã quỷ nhanh chân hơn, anh đảo mắt hai bên như mong tìm kiếm điều gì đó. Tiếng tra tấn thé tai, âm thanh xích xiềng rợn người không thể khiến Gã Quỷ run sợ, anh chàng vẫn cố tìm kiếm điều gì đó mà ngay bản thân anh cũng chẳng biết. Những khuôn mặt dữ dằn, những ánh mắt thèm khát nhìn chằm chằm vào những bước chân chậm rãi, dáng đi khoan thai của anh. Có kẻ mặt gớm ghiếc hơn cả Gã Quỷ tiến sát song cửa, cầm mảnh bát vỡ cào xé dưới đất, gầm gào quát mắng. Chẳng một lời anh chàng tiếp tục thong thả bước đi, cổ quay tứ phía trông ngóng người nào đó xuất hiện.

Tên sai nha mở một cánh cửa được chằng chịt bởi vài cuộn xích lớn, chấn song to như cột nhà. Tay giữ chặt dây xích, đóng vội cánh cửa, tay sai nha nhắc nhở :

- Kẻ nhà anh cần gặp ngồi đây. Nơi này toàn là kẻ hung dữ, tội phạm nguy hiểm. Cẩn thận một chút thì vẫn hơn.

Phía bên trong, ngồi yên một chỗ, Sĩ Hoàng mặt quay vào phía bức vách hắt bóng chàng trên đó. Tay sai nha liên tục nhắc Gã Quỷ nói chuyện thật nhanh tránh điều nguy hiểm xảy đến. Tên còn lại cầm roi vút vào mặt kẻ dữ dằn ở gian đối diện, tiếng gào thét mắng chửi om xòm. Gã Quỷ hỏi nhỏ:

- Anh viết gì trên vách.

Sĩ Hoàng vẫn chẳng mở miệng nói một lời. Gã Quỷ xà vào lòng, năn nỉ như đứa trẻ lên ba nũng nịu cha. Sĩ Hoàng gạt anh sang một bên. Tay Hoàng chạm vào khuôn mặt thô ráp, từng giọt mồ hôi vụng rơi len vào những kẽ hở trên da của gã quỷ trong cái ngột ngạt của nhà tù. Mùa xuân tháng ba, tiết trời vào nồm, mảnh rơm ướt nhẹp, Hoàng nhặt lên một lá rơm vờn qua khuôn mặt của anh, lại khẽ hẩy nhẹ Thăng ra ngoài. Thăng nằng nặc nói:

- Anh Hoàng. Khi còn bé, anh thường hay bênh em bởi cái tội em ngốc nghếch, dại dột. Em chỉ muốn được như cái ngày thơ bé, bên con nước, anh chỉ em cách nói dối anh Thành để cha mẹ chẳng những không đánh em mà còn cầm roi đánh anh ấy. Anh chỉ em lừa đám trẻ con trong xóm chài để lấy được giỏ cá, tôm đầy thật đầy. Mà em ngốc nghếch khiến anh bao lần bị người lớn cho no đòn roi. Ôi những khờ dại mà em chẳng thể quên. Bấy nhiêu lâu anh đã ở đâu.

Sĩ Hoàng vờ như không nghe thấy những lời Thăng nói. Hoàng khẽ lẩm nhẩm những chữ viết trên tường:

"Ba xuân ngắn đoạn trường
Năm tháng cũ còn vương
Mặt quỷ đeo dương diện
Miệng cọp ngoác ễnh ương"

Tồn Thăng lơ mơ những lời Hoàng lẩm nhẩm, chàng ôm chặt lấy chân Sĩ Hoàng mà khóc:

- Anh Hoàng. Tha lỗi cho người em chẳng lớn này. Bao nhiêu giãi bày chỉ mong anh hãy nói với em một lời.

Hoàng túm lấy mái tóc vụn gãy của Thăng, dập đầu Thăng xuống dưới đất. Thuận tay, Hoàng lấy bát đập vào đầu Thăng, bát vỡ vụn. Tên sai nha giật mình nói vọng vào :

- Này tên kia. Chớ có làm điều dại dột. Nếu muốn chết thì để ta đâm cho một kiếm.

Sĩ Hoàng nhìn tay sai nha với ánh mắt hùm cọp, tay sai nha mặt kênh kiệu quay đi, miệng liên tục nhở Tồn Thăng đến lần hơn mấy mươi lần "Nói mau mau, mỗi thời khắc một tắc vàng".

Thăng ôm đầu, máu chảy từ tay Hoàng rơi lăn qua gò má rơi xuống miệng Thăng. Thăng nhấm nhấm đầu lưỡi, bật dậy mở bàn tay đang nắm chặt những mảnh vỡ của Hoàng mà nhiếc mắng:

- Cớ sao anh lại ra như vậy.

- Máu tao đấy. Mày uống đi. Kẻ khát máu kia. Tao không có kẻ anh em như mày.

Thăng giận dữ, đạp gãy song cửa. Đám lính nha môn chạy vào phía trong đao kiếm đủ đầy, xích dây sẵn sàng. Gã Quỷ thu mình, mặt lầm lũi bước ra:

- Xin thứ lỗi. Chỉ vì ta hơi quá chén nên mới ra như vậy. Chăm sóc tốt cho người anh em của ta. Túi bạc đó xin tặng cả cho các anh.

Sĩ Hoàng, lấy tay thoa lên cỏ ướt, từng giọt hồng hằn lên bức vách. Hai chữ Dương Diện đỏ rực, từng giọt chảy xuống chân tường thẫm ướt. Chàng nằm thiếp đi, người chàng ướt sũng mà chàng chẳng hay. Bọn lính nha chẳng dám lại chỗ chàng ngồi, chỉ dám dựng cả đống đá lớn che đi chỗ song cửa vừa gãy. Ánh sáng mập mờ từ cây đèn đang cháy những giọt dầu cuối chốc chốc lại lóe lên rồi phụt tắt. Tiếng gà gáy gọi sáng vang đó đây khắp thành phủ.

Từ tờ mờ sương sớm, Thăng Triều cho gọi hai người do Dương Thanh sai đến. Do Độc dẫn đường, trên đường đi chàng dặn dò Đặng Hoài:

- Vương thứ sử là người hiểu biết rộng, mọi chuyện thật khó mà qua mắt được, thường ngày không ưa việc xu nịnh, xúi bẩy. Xin anh lựa lời mà nói.

Đặng Hoài cẩn thận bước vào trong phủ điện. Có chút lạ lẫm, Đặng Hoài gặng hỏi Do Độc:

- Ta từng nghe xứ Phong Châu rừng vàng, suối bạc, chim muông thú dữ không gì không có. Phủ thứ sử lại chỉ sơ sài một mảnh vải thổ cẩm khoác lên chiếc ghế chẳng phải khắc chạm đến độ tinh xảo điêu luyện. Quả là có chút lạ thường.

- Nói ra xin anh chớ nói quê mùa. Thứ sứ thường ngày giản dị, thích đi thăm thú dân bản miền ngược, thường vỗ về những người mọi rợ các châu cơ mi mà không bắt cống nạp dị thú, kỳ thảo, sản vật quý hiếm trong dân gian. Những thứ các anh thấy ở đây đều rất tầm thường, nhưng đừng vì thế mà đánh giá thứ sử Vương là kẻ tầm thường. Cái phi thường thường không có vẻ bề ngoài khác thường, mà chỉ là bên trong cái có vẻ ngoài tầm thường luôn có nhiều những thứ tạo nên bao điều phi thường.

- Anh nói chuyện như thông lỗ tai, làm cho trí tuệ ta cảm thấy thật không bằng. Mới ở tuổi anh mà có thể khiến Dương tướng quân nể trọng, Vương thứ sử tin cậy. Quả nhiên hiếm có, hiếm có.

Tồn Thăng cười cợt nhả :

- Thường thường, thường. Thông thường thì ta thấy những cái gì thường thường đều rất bình thường, những thứ bình thường thì chỉ là những thứ thường thường mà thôi. Nói ra thật là đau đầu. Ta chỉ thích dùng cái này, cơ bắp và uy lực. Kẻ nào có thể chống lại được ta?

Có giọng nói hưởng ứng lời Gã Quỷ từ phía cửa điện bước vào :

- Quả nhiên sức khỏe vô địch. Ba ngày trước, ta thấy một kẻ sức khỏe vô địch nằm cù queo cho kẻ khác dùng gậy đánh liên hồi mà đứng dậy như chưa hề gì. Đêm qua lại nghe có kẻ mất cả hai chục lượng bạc chỉ để nhận một chiếc bát vỡ đập vào đầu. Có phải danh tiếng Dương Diện hộ sư quân tướng.

Phong thái ung dung, Thăng Triều từ tốn bước vào. Tồn Thăng cười sảng khoái:

- Ra là ngài, Thăng Triều đại nhân. Đã chờ ngài bấy lâu.

Đặng Hoài cúi mình chào họ Vương :

- Nghe danh thứ sử đã lâu. Nay được hạnh ngộ. Quả nhiên khí chất thật đáng để người khác ngưỡng mộ.

- Vị này là…

Do Độc chen lời giới thiệu:

- Vị này là Đặng Hoài, con trai thứ ba của Liễu tá Đặng Khả. Người dữ dằn mang miếng da dê này chính là Dương Diện hộ sư tướng quân gã quỷ Đỗ Tồn Thăng.

- Là Đặng Hoài, danh sĩ lẫy lừng khắp Tống Bình đó sao. Thật không hổ danh, tướng mạo hiền hòa mà lại mang cái uy nghi của kẻ sĩ. Nghe danh Đặng Hoài ngày trước trên điện luận tội đám quan lại cướp bóc của dân, kể tội đám nịnh hót khiến Tượng Cổ phải nghẹn ứ họng. Lại thêm cha ngài là Liễu tá Đăng Khả nổi tiếng trọng nghĩa khí, ưa người tài, từng lời nói ra rắn rỏi như ngàn mũi tên bắn, tiếng vang tựa cả chục chuông rền lan tỏa khắp đất Giao Châu này. Hương nào sánh được tiếng thơm đó, ánh hào quang nào chiếu rọi nổi. Gặp đây thật là vinh hạnh, vinh hạnh. Không thể tiếp đón hậu tình, mong Đặng Hoài huynh đệ thứ lỗi.

- Vương thứ sử mượn lời gió mà lay động rừng cây muôn thú, lại nghe ngài sáng suốt anh minh, thường không nghe chuyện thiên hạ rèm pha. Kẻ ba tấc lưỡi nào đáng bậc tráng kiệt. Người đời dè bỉu cho là kẻ uốn lưỡi bẻ đao. Vương thứ sử chớ nghe.

- Tống Bình phủ phồn hoa đô hội, kẻ tài không thiếu, tâm đức cũng nhiều. Cha con họ Đặng đã khiến bao đấng anh hào đất ấy phải cúi mặt khuất phục. Đăng Hoài đến đất Phong này phải chăng có điều chi dạy bảo. Thăng Triều xin rỏng tai nghe.

- Kẻ nam nhi nào đâu muốn thấy chuyện bất bình ngồi yên. Những lời trách kẻ sĩ hùng chỉ là chút lời mọn như dạy đám con trẻ. Đâu phải điều gì khiến đất trời chuyển rung, thiên hạ vẫy vùng. Làm người ai cũng có tôn chỉ của riêng mỗi người, tôn thờ một hình mẫu trong tâm trí. Đấng nam nhi không thể đứng ngoảnh mặt với chúng dân, với đồng loại, nhất là khi cảnh đói khổ bủa vây, khói lửa binh đao còn chưa dứt. Dương tướng quân vì dân nam, vì đất tổ tông người nam ta mà dấy binh dẹp lũ ác bá. Tâm theo hướng ấy, chủ tướng lúc gian nguy há lại ngồi yên xứ phồn hoa mà hưởng lạc.

- Nghe nói đạo binh mã sáu bảy vạn của triều đình đã chiếm hết một dải đất từ Ung Châu về đến miền xuôi sông Nhị.

- Túc hạ thật chưa thể hiểu ngay. Tống Bình Dương tướng quân đã định bình. Chẳng phải vì những kẻ ăn lộc mâm bạc lại nghiếc nhìn mâm son thì đâu nên nỗi.

- Phải chăng khi trước cùng Thiên thanh tướng, những kẻ ấy có điều gì bất bình, chưa thỏa đáng mà ra như vậy.

- Tâm dạ mỗi người một khác, ta không dám mạn bàn. Chỉ là con người không ưa hoặc đơn giản chỉ là lòng đố kỵ.Thăng Triều khi xưa có điều chi chưa hài lòng tướng chủ?

- Cùng là thứ sử một vùng, Dương Thanh nắm xứ Hoan Diễn, ta mang đất Phong Châu, Lâm Tây nào đâu có lòng khác. Khi đoạt Tống Bình, ngài ấy còn cho ta một hảo tướng như Do Độc. Thật như là chúa sơn lâm được tiếp viện thêm hổ dữ. Đất Phong Châu ta lương chẳng thể như châu Ái, đất rộng chẳng bằng Trường Châu, dân cư thưa thớt, núi cao, vực sâu. Chẳng hay ý Dương tướng quân thế nào.

Đặng Hoài nghiêng mình kính cẩn:

- Trước nghe danh tiếng Thăng Triều nổi tiếng anh minh, khảng khái, trọng nghĩa khí. Chủ tôi nay đường cùng binh mỏng, lương ít. Mấy nghìn huynh đệ suốt mấy mươi năm chinh chiến cùng nhau từ thời đánh đuổi Hoàn Vương Lâm Ấp, đánh giặc Chà Và, dẹp ác bá nghĩ đến mà chẳng thể dứt ra được. Không mong ngày chiếm lại đất Hoan, Diễn, Mộng Giao Châu đành nhường cho kẻ hùng tâm tráng trí như Thăng Triều. Chủ tướng tôi nguyện mang đám binh tốt theo tập quán Phong châu, vỡ đất hoang cấy cày, dẫn con nước vào thung lũng mà lập xóm làng cũng như là thỏa chí người đứng đầu cả nghìn anh em vậy.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ năm:

Núi Long Tuyền, tướng người Hoa đuổi hổ.

Thành Bạch Hạc, Vương thứ sử cứu ưng .


Chương 5.5 Thứ sử khéo đuổi sủng tướng giúp ưng
Thăng Triều nghe lời Đặng Hoài bàn mà tâm can bấn rấn. Họ Vương thấy trong người không khỏe, liền sai Do Độc dẫn vào sảnh phía sau. Đặng Hoài và Tồn Thăng cúi chào lui về quán trọ. Thăng hỏi:

- Chẳng hay ý của người ta thế nào mà lại lui về.

- Sắc mặt của Thăng Triều thật đáng để người khác phải kinh nể. Ta nói nhà ngươi cũng chẳng hiểu nổi.

Hoài vội vã lên ngựa, hướng nam vượt sông về chân núi Tản. Tồn Thăng quay về quán trọ, miệng còn lẩm bẩm:

- Chẳng hay còn chuyện của anh ta. Ta chưa kịp hỏi. Chắc ta phải quay lại hỏi cho ra nhẽ mới được.

Được nửa đường về, Tồn Thăng quyết định quay lại phủ họ Vương. Nghe tiếng vó ngựa, Do Độc vội vàng chạy ra phía ngoài, dắt ngựa tạt vào một hẻm nhỏ. Do Độc thì thầm với Tồn Thăng:

- Canh ba đêm nay, anh quay lại chỗ này. Việc của anh em sẽ lo liệu. Bây giờ anh hãy cứ trở về quán trọ nghỉ ngơi. Đúng hẹn quay lại đây.

Tiếng từ trong phủ vọng ra :

- Phòng Đông đô úy.

Do Độc chạy vội vào phủ, Thăng Triều ngồi nghiêm nghị hỏi Do Độc:

- Khi trước ta nghe nói, nhà ngươi cùng Tồn Thành lập công lớn nhưng lại bị họ Dương kia để mặc cho Triệu Hoằng sàm tấu.

- Bẩm đại nhân. Là khi ấy, việc Tống Bình còn ngổn ngang. Cũng may có Sĩ Giao quân sư bẩm báo lại mà Do Độc được cất quân tới đây phò giúp đại nhân.

- Dương Thanh chẳng phải kẻ tâm can chim sẻ, dã tâm người này chẳng phải tầm thường. Ta chỉ e một điều..

- Nếu ngài lo sợ Dương tướng quân há chăng chỉ là dạng bạo tàn nhu nhược như Tượng Cổ. Lời thật lòng khó nghe mong đại nhân bớt giận.

- Trí lớn của Phương Hoàng thật không thể khinh suất. Nhà ngươi thấy đất dân Man Hoàng thế nào.

- Đất người Man mấy năm trước có lòng u uất với đám quan lại Tống Bình, sau khi Dương tướng quân dẹp bỏ đám quan lại đó, dân chúng xứ đó lấy làm hả hê. Nhưng đất Man Hoàng thường bị người Nam Chiếu nhòm ngó. Hai năm nay Bùi Hành Lập mang quân năm lần bảy lượt đều bị khuất phục. Đất chẳng có nổi lấy sự sống, núi cao hiểm trở, sông suối dòng chảy cuồng xiết, vách đá cheo leo, bệnh dịch triền miên. Lẽ nào…

- Ta hỏi là ý ngươi thế nào. Ta sẽ chuẩn y mà truyền lời đó đến Dương Thanh.
Thăng Triều bước vào phía trong. Lý Do Độc quay trở ra lấy giấy bút mà hiện ý lên giấy. Anh sai người đến phía nam, vượt sông sang chân núi Tản Viên báo lại cho Dương Thanh.

Dương Thanh nhận được thư của Do Độc, mừng rỡ nhận thư. Giở thư ra, Dương Thanh liền đặt ngay xuống bàn. Đăng Hoài ngồi kế bên nhặt thư lên đọc. Hoài thấy Dương Thanh ra phía ngoài trại hướng bờ sông phía tây ánh mắt trĩu nặng u hoài, Đặng hỏi:

- Liệu rằng đây có phải chủ ý của Thăng Triều muốn ta lui về phía Man Hoàng Động.

Họ Dương chỉ thở dài. Đặng Hoài tiếp tục bàn:

- Đất Man Hoàng đất eo hẹp, hiểm trở, dân chúng thưa thớt, quanh năm bệnh dịch triền miên. Phía Tây Bắc là quân Nam Chiếu luôn nhăm nhe hòng mở đường về chiếm Tống Bình. Ta ở đất ấy nào khác chi mang thân làm tấm khiên cho đám quân triều đình Tống Bình. Lại thêm đám tàn quân của họ Bùi nào có thể để chúng ta yên.

- Trước để ổn định tinh thần quân sĩ, sau là kế nuôi binh. Các ngươi cứ thực hiện theo lời ta đã bàn ngày hôm xưa. Đặng Hoài viết cho ta một bức thư cho Thăng Triều, xin tiếp viện thêm khí giới và quân lương cùng hai chục thuyền quân để ta ngược dòng Đà Giang về Man Động lập lũy ấp. Sau này khi binh đủ, sức quân mạnh hơn sẽ hoàn trả lương thảo, khí giới cho Bạch Hạc.

Đặng Hoài vội vàng lấy nghiên bút mà thảo ra những lời Dương Thanh đã dặn dò. Lời Đặng Hoài mềm mỏng lại đanh thép, luận cớ chẳng thể chối từ. Thăng Triều như cởi bớt được những nghi ngại, liền sai tiếp lương, tặng quân giới cho Dương Thanh. Do Độc huy động hơn ba chục thuyền lớn cùng hai trăm tay chèo khỏe mạnh trợ giúp Dương Thanh vượt dòng Đà Giang.

Bóng tối phủ khắp vùng Tản Viên, Hoài cất cử hai người vượt sông dắt theo hai ngựa khỏe, đến cửa phía nam thành Bạch Hạc đứng chờ ở đó. Ánh lửa lập lòe, có người vỗ vai khiến hai tên đó giật mình. Dáng người vạm vỡ, khuôn mặt đeo mặt nạ da dê khiến hai tên lính nhận ra ngay. Hai tên đó liền nghe theo lời Gã Quỷ, vội vàng cùng chàng đưa một người cưỡi ngựa vượt sông.

Tiếng quân lính sục sạo từ trong thành chạy ra, đám lính gác thành bàn bạc xôn xao. Đám sai nha hỏi mấy tên lính canh:

- Các ngươi có một kẻ vạm vỡ cao lớn, trông như quỷ dữ. Một kẻ tàn tạ, miệng ngoác như cóc nhái đi ra ngoài thành hay chăng.

Đám lính canh lắc đầu không biết, tên bổ đầu dẫn mấy tên sai nha chia làm hai đạo hướng đông nam và tây nam mà tìm người. Do Độc phi ngựa dừng trước cổng thành, dặn dò đám lính canh:

- Hễ thấy Kiều Chung Đạt đại nhân đến dò xét, các ngươi cứ thành thật trả lời. Chớ có ấp úng kẻo đầu lìa khỏi cổ. Rõ chưa.

Do Độc chạy về phía phủ thành, dắt ngựa vào hậu viên. Ánh đèn trong Vương phủ còn hắt bóng, Do Độc ghé qua thấy Thăng Triều còn đang thức. Nghe tiếng bước chân, Thăng Triều hỏi Lý:

- Việc phát lương, khí giới cho quân Dương Thanh làm đến đâu rồi.

- Bẩm đại nhân. Ba chục thuyền lớn, hai nghìn thạch lương cùng khí giới cho hai nghìn quân đã đầy đủ mang đến cho Dương tướng quân.

- Có điều chi khiến ngươi chưa thỏa đáng không.

- Dạ bẩm. Giúp Dương tướng quân là Phong Châu bớt đi nhiều hơn những mối lo, cũng là điều đáng nên mừng.

- Tại sao?

- Quân triều đình ở Tống Bình còn đang bị chống cự quyết liệt bởi đám quân của họ Dương tại các châu quận phía nam. Dương tướng quân nghi ngờ những kẻ đó có lòng phản trắc nên cũng không dám tin dùng. Nay bí mật tới đất Phong Châu, hòng nương nhờ chúng ta. Chúng ta vừa có chặn tuyến phía tây bắc, một mặt chúng ta hòa hảo với đám quan quân triều đình. Vẹn cả đôi đường.

- Có khi nào có người biết Dương Thanh ở chỗ ta.

- Người của Dương Thanh sẽ không để chuyện đó xảy ra được. Đám quan cận hầu còn chẳng hay, huống chi những kẻ khác. Dương Thanh không ra mặt, lại dùng đám hầu cận những kẻ xưa nay ngoài người ở Tống Bình thì không ai hay biết những kẻ ấy.

- Đám người Triệu Cường, Đặng Hoài, Đỗ Tồn Thăng, chẳng phải tiếng tăm khắp vùng hay sao.

- Những người đó tiếng vang nhưng dân chúng ngoài phủ Tống Bình thì nào ai biết mặt. Giờ đây những người đó càng phải tự biết giấu đi thân phận của mình tránh sự rèm pha. Ngày mai, mạt tướng sẽ đến bảy động người man mà truyền lại ý của Đại nhân. Xin đại nhân hãy cứ yên tâm.

- Có Do Độc hiểu được tâm ý ta. Nào có điều gì có thể mừng hơn. Khuya rồi, nhà ngươi hãy lui về nghỉ ngơi.

Do Độc bước lui ra, dắt ngựa thẳng hướng tây nam dưới ánh trăng lấp sau mây mờ. Tiếng cửa phủ cọt kẹt đóng lại, Thăng Triều buông rèm nằm chống tay cầm sách đọc. Tiếng gõ cửa khiến Thăng Triều tỉnh cơn buồn ngủ. Thăng Triều chỉnh chang lại áo quần, ngồi cầm sách tựa lưng gối tre, từ tốn hỏi:

- Chung Đạt, đếm khuya nhà ngươi còn chưa ngủ?

- Bẩm đại nhân. Toán bổ đầu báo tên Lục Hổ bị nhốt tại Nhà lao phía nam được thả ra. Phải chăng là ý lệnh của đại nhân.

- Kẻ nào to gan dám giả truyền lệnh ta cho thả hắn. Gọi Toán Hoa Tài đến đây ngay.

Hoa Tài nhận lệnh vội vàng chạy đến, quỳ sụp dưới điện. Chung Đạt hỏi lại Tài:

- Toán Bổ đầu kể lại chuyện khi tối cho Vương Đại nhân nghe.

- Lúc tối canh ba, Lý tướng quân cầm theo lệnh bài ra ý dụ của Thứ sử Đại nhân cho dẫn giải tên cướp Lục Hổ đày đến Man Hoàng động.

- Lý tướng quân khi ấy đi hướng nào.

- Là… là phía Đông.

Thăng Triều ném cuốn sách đang cầm trên tay xuống mặt đất quát tháo Hoa Tài:

- Nhà ngươi là bổ đầu mà trí óc như giống lợn. Đất Man Hoàng ở phía tây, há chăng Lý Do Độc lại dẫn hắn đi về hướng Đông. Phải chăng các người cùng một ruộc bầy mưu lừa ta. Nhà ngươi thấy Do Độc đi cùng mấy người về phía đó.

- Dạ. Có hai tên lính, đi đến đoạn gần quán trọ phía đông thành có thêm một người cao lớn, mặt mũi kín mít đứng ở góc phố phía đông. Sau đó thì Chung Hội đại nhân đi đến cửa nhà lao hỏi han thì tiểu nhân không còn để ý được nữa.

- Cho nhà ngươi lui ra. Sáng mai viết cáo trình cho ta. Phạt nhà ngươi hai mươi trượng, xung khố hai chục hộc gạo, nộp cho quân lương năm lượng bạc. Tạm thời treo chức bổ đầu của ngươi trong mười ngày cho đến khi sự việc được giải quyết.

Hoa Tài hậm hực đi ra. Do Độc được gọi đến đứng ngoài chỉ trực tiếng mở cửa mà bước vào. Chung Đạt thì thầm nhỏ to với Thăng Triều. Họ Vương hỏi Độc:

- Nhà ngươi lớn mật. Dám giả ý dụ ta thả tội phạm triều đình. Ta tin tưởng nhà ngươi hết mực. Nhà ngươi lại lợi dụng lòng tin của ta mà tự ý làm điều có hại cho chúng dân. Nhà ngươi còn lời nào giải thích hay chăng.

- Mạt tướng không dám. Mong đại nhân minh xét. Chớ nghe lời sàm tấu.

- Ý ngươi là ta vu khống cho ngươi.

- Tiểu nhân không có ý đó. Chỉ là có chút hiểu nhầm. Tại hạ nghe lệnh đại nhân tuyển mộ thêm lính tráng đi đất Man Hoàng tăng viện. Tại hạ xét thấy số tù nhân cũng có thể chiêu mộ để xung quân.

- Nhà ngươi biết tên Lục Hổ họ Đỗ đó phạm tội gì mà không tra xét phân minh? Làm ra điều tày trời.

- Tại hạ đã đọc qua án tội của hắn, chỉ hắn là tên cướp không ghi gì thêm. Án có ghi hắn là người mạnh khỏe, có võ lực nên tại hạ cho xung quân.

- Ngươi gây ra tội lớn rồi, Do Độc à. Y là tội phạm triều đình, trước bị Dương Thanh lùng sục bắt giết, sau đi cướp phá quân triều đình ở Cổ Loa. Nay nhà ngươi lại cho hắn xung quân của ta. Khác chi ta phủi vào mặt đám quan Tống Bình.

- Long Trạch cũng là cướp, là huynh đệ của hắn, cũng được Trọng Vũ tin dùng. Theo ngu ý tại hạ, cứ để kẻ này dưới trướng quân ta. Sau này ắt có lúc dùng đến hắn.

- Nhà ngươi. Thật là… Bay đâu. Tước bỏ mũ áo Lý Do Độc, giáng làm tham quân. Nhà ngươi nhận đám lính mới tuyển mộ về phía tây đất Lâm Tây, đến xứ Man Hoàng đóng tại đó, nếu có bất trắc thì nhà ngươi đừng mong thoát tội chết. Từ nay trở đi, không có lệnh điều động của ta thì chớ có vác mặt về thành Bạch Hạc.

Chung Đạt nói với Thăng Triều:

- Do Độc là ngựa bất kham, nghĩa khí ngời ngời, dũng mãnh uy vang nhưng hắn ưa những lời dụ ngọt. Đại nhân xin bớt cơn giận mà nghĩ lại.

- Ý ta đã quyết. Chẳng phải nhà ngươi thường ngày vẫn không ưa hắn hay sao. Đã tàn canh, ngươi còn không mau về phủ.

Do Độc cởi bỏ mũ giáp, ném thanh gươm xuống đất, hiên ngang bước đi. Vương Thăng Triều mặt thất thần nhìn theo bóng dáng chàng. Tiếng ngựa xa dần phía tây nam. Mưa phùn giăng lối phủ trắng màn đêm, tiếng mõ báo canh cũng lanh lảnh vang lên bốn hồi. Có ánh lửa bập bùng rồi phụt tắt phía nam, Thăng Triều thở dài rồi nhậm một tách trà, tay run run đổ cả ấm chuyên xuống sàn. Vị thứ sử ngã xuống, mắt nhắm nghiền mặc cho ngoài kia gió mưa cào xé.

Tiếng vó ngựa xé tan màn đêm ẩm ướt, có chiếc đò cạnh bến sông, Do Độc ngậm chiếc lá huýt vang. Có người trên đò dạt sát bờ nơi Do Dộc đứng chờ. Tiếng người ầm ầm như thác đổ vọng lại:

- Người anh em Do Độc. Đêm mưa phùn gió bấc lạnh, sao anh lại không manh giáp đứng bên sông.

- Là anh sao, Lão Quỷ. Anh còn chưa đưa anh Sĩ Hoàng hội kiến Dương tướng quân.

Gã Quỷ cười, giọng dí dủm:

- Dương Thanh đã cùng đám người kia bàn bạc xong chuyện từ khi nãy. Dương Thanh sai ta ở lại đón em. Đến đất Man Hoàng, chúng ta lại được bên nhau, dưỡng kế nuôi binh chờ ngày gây dựng nghiệp lớn.

Gã Quỷ đẩy nhanh mái chèo, bì bõm lênh đênh giữa dòng. Có đốm lửa sáng le lói xa xa phía tây. Do Độc giữ chắc tay chống, đò lướt nhanh lội ngược dòng lũ đầu mùa. Chốc chốc lại có chú cá nhỏ lấp lánh tung mình ngược nước nhảy trúng khoang đò. Ánh sáng buổi bình minh hắt xuống mặt sông, bóng người lái đò hiện lên lấp ló như bức họa kỳ ảo giữa muôn trùng núi sông kì vỹ xứ Lâm Tây.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ sáu:

Thành Đại La, Lý Nguyên Gia lo ốm.

Đất Đằng Châu, Tồn Thành đấu anh tài.


Chương 6.1 Kẻ bất tài học làm đô hộ sứ
Năm tân sửu, cuối tháng năm, mưa rào suốt tháng, nước sông miền tây bắc lên cao dữ dội đổ về đất đồng bằng đông nam. Đám quân lính triều đình viễn chinh đóng tại đất Châu Nam Tà, huyện Bình Đạo bị nước lũ cuốn trôi chết vô số. Thành huyện Long Biên bị ngập nước, xác gà, xác lợn nổi lềnh phềnh, bốc mùi hôi thối khắp ngóc ngách trong thành. Trọng Vũ gọi đám tả hữu đến trị sở mà bàn. Viên đô ngu hầu An Nam Vương Thừa Biện mách kế phá vỡ đập nước dưới hạ lưu sông Nhị, sông Thiên Đức để giãn nước thượng lưu cùng là kế ngăn cản đám quân lính của Dương Chí Liệt đang đóng tại đất Chu Diên.

Tháng sáu, ngày mồng hai, nước triều đã rút, Trọng Vũ sai quân lính dọc đê sông Nhị đất Chu Diên phá vỡ đê sông. Chẳng hay tin báo từ trước, dân chúng Chu Diên các dọc vùng con nước sông Nhị mất nhà cửa, bò trâu, ruồng lúa, của cải rất nhiều. Phía Đông là đất trấn Hải Môn, đất cây trồng cây vải úng rể hết loạt, đám dân cũng bỏ đất đó đi sơ lánh thật đến cả nghìn hộ.

Phía nam An Nam trị sở Tống Bình, dọc theo đôi bờ sông Nhị hai bên đất đai bẳng phẳng, ao chuông vũng hồ nhiều vô kể. Từ khi quân lính Trọng Vũ chiếm giữ trị sở An Nam, người dân quanh vùng đất phía nam bỏ đất ấy mà đi. Bạt ngàn ruộng lúa nay trở thành những đầm nước mênh mông.

Huyện lệnh Tống Bình là Từ Hãn Xương dâng biểu xin khất thuế ba vụ liên tiếp. Quân lính vì thế cũng bị thuyên giảm đi đến phân nửa. Những người còn lại trong quân cũng ngày đói bữa no, gia đình tha phương khắp chốn.

Tháng sáu, ngày rằm, nước thượng du bớt hung dữ, quân lính của Trọng Vũ bị quân của Chí Liệt đánh bại, thành Liên Thụ huyện Nam Định bị thất thủ. Đám lính bỏ chạy đến năm nghìn. Long Trạch giữ đất Long Biên cầu viện binh lương từ họ Quế. Thôi Kết bàn quân lương hai vụ rồi các huyện nộp chưa được một phần, hai phần xin khất. Các châu quận phía nam bị chia cắt, quân tiếp tế bị Bùi Hành Lập cho phát đi chậm trễ, khiến kho lương ngày càng cạn kiệt. Quế ra ý lệnh vượt sông Nhị cấp cho Long Trạch hai nghìn đấu gạo. Lệnh cho hai ngày sau chiếm lại đất huyện Nam Định, cướp lương thảo quân Dương.

Quân lương vừa qua nửa sông Nhị có đám cướp mặt mày hung tợn chèo thuyền nhỏ ra giữa sông chặn cướp. Đám quân chở lương nhảy xuống sông bỏ lại thuyền hết loạt. Đám cướp nhảy lên thuyền chở lương chọc ra thì thấy toàn là cỏ héo cùng đất mềm. Có báo động từ phía sông, Vương Thừa Biện giăng thuyền lớn bắt sạch lũ cướp. Chỉ có một chiếc thuyền nhỏ thoăn thoắt chạy xuôi dòng thoát được.
Một đội thuyền khác chất đầy bao tải lớn nhỏ chồng chất được Thôi Kết cùng hai tên Giả Không, Giả Thanh hộ tống cập bờ an toàn. Long Trạch lấy làm mừng, kêu gọi sĩ khí quân lính. Lính thủ thành được cấp một phần lương, lính tiên phong được cấp một phần cùng nửa suất.

Được ăn uống no đủ sau nhiều ngày lương thiếu, Long Trạch dẫn tám nghìn quân áp sát thành Liên Thụ liên tục hò reo, trống chiêng, quát mắng. Tướng giữ thành quân Sĩ Giao là Trần Hoằng nghênh chiến, đánh được chục hiệp thì bị Long Trạch chém đứt đôi người. Đám lính trong thành hoảng hồn bỏ thành mà chạy.

Tồn Thành nghe tin Liên Thụ bị thúc thủ, mang viện quân hòng đòi lại thành trì thì bị đám quân của Thôi Kết vượt sông, kéo hết loạt lính thủ thành Long Biên đánh úp từ phía sau. Tồn Thành cho rút quân, đốt sạch kho lương tiền tiêu huyện Nam Định. Long Trạch giận dữ không trở về Long Biên mà cho quân đóng tại thành Liên Thụ, cho quân lính vào núi săn bắt, sai phụ nữ trong thành vào rừng hái quả. Thú dữ đất xung quanh bị bỏ đói từ lâu thấy người lên núi, vào rừng nhảy ra ăn thịt đến mấy chục mạng người. Long Trạch đành phải dày mặt xin tiếp lương thảo từ Tống Bình.

Quế Trọng Vũ nghe tin mặt mày tím tái quát tháo đám cận hầu :

- Cả vùng đồng bằng rộng lớn mà các ngươi không tìm nổi mấy nghìn thạch lương hay sao.

Thôi Kết bẩm lại:

- Thiên tai quái ác, đám dân cũng sợ hãi bỏ trốn hết loạt. Chi bằng ngài cho gọi tiếp viện từ triều đình.

Trọng Vũ nghĩ hồi lâu, Thừa Biện thêm lời:

- Bùi Hành Lập đóng quân tại đất Ung Châu được triều đình vun vén để dẹp đám Man Hoàng, nay hắn được lệnh giữ chặt Ung Châu, quân lính chưa dùng đến, quân lương lại đầy ắp. Ý của Thôi Kết tướng quân đại nhân có thể xem xét.

Ngày sau, Trọng Vũ cho người xin cầu viện từ phía quân triều đình. Hành Lập nhận được thư cười hả hê. Lập trả lời Trọng Vũ lương thảo còn thiếu, quân lính mấy vạn không thể đủ dùng trong nửa tháng, phải xin ý dụ từ triều đình.

Họ Bùi sai người xin ý dụ triều đình, trong bản tấu có kể tội Trọng Vũ chậm chạp tiến quân, hạ trại vùng quan ải quá lâu khiến quân tình rơi vào thế nguy cấp. Đường Mục Tông Lý Hằng ra chỉ cho gọi Quế Trọng Vũ cùng Thôi Kết về đất Ung Châu.

Thôi Kết nhận ý chỉ dẫn hai vạn binh mã cùng khí giới rút về Ung Châu. Bùi Hành Lập sai Kết trấn thủ Ung Châu, hễ có chuyện binh biến mà không xử trí hạnh thông thì còn nước đầu lìa khỏi cổ.

Hành Lập dẫn binh đi đến Trấn Hải Môn thì mắc phải bệnh lạ, người sưng mọng nhiều bọc nước. Mặt mũi lốm đốm như tổ ong, đám hầu cận gọi lang vùng đó đến ai cũng lắc đầu nhận tội xin chịu. Lúc hấp hối, nằm trên đống lá cây rừng, ngửi thấy mùi táo thơm hắn sai người hái lấy một quả. Phế tướng Hạ Hầu Biện Tư quát lính:

- Đại nhân sắp không qua khỏi, ăn sao được thứ đấy. Còn không toan nghĩ hậu sự.

Một tuần sau, họ Bùi chết. Gia quyến đưa xác về giữa đường bị đám lính tay sai của Trọng Vũ dẫn đến hố nước sâu hoang vắng, đàn bà bị cưỡng hiếp đánh đập cho đến chết. Chúng ra tay chém giết ba mươi mấy mạng người. Xác rữa nhiều bọ trùng thì mới có người phát hiện ra, đem lấp hố đấy đi.

Lúc bấy giờ triều đình Trường An phong phó đô hộ Thôi Kết làm Kinh lược sứ Ung Châu, nắm quyền châu Ung. Trọng Vũ viết tấu sớ gửi triều đình, kể hết công tội Bùi Hành Lập cùng đám quân Ung Châu. Mục Tông đọc bản tấu sớ mà cả giận lệnh bắt hết gia quyến Hành Lập xử tội chết, lại cho Trọng Vũ điều quân đội Giao Châu thu về sát đất Ung Châu đề phòng người man đất Vân Nam mưu đồ nhăm nhe đất Ung Châu.

Thôi Kết nắm đất Ung Châu mà lòng nóng như lửa đốt, quân đội vừa kinh qua trân đánh mệt mỏi với người Man, người nam Chiếu vẫn còn lỏng lẻo. Với trọng trách tái lập quyền hành của Đường triều với lũ man di đất đó, Thôi Kết cho bắt bớ trong dân chúng nhiều người khi trước gây loạn ở Ung Châu. Đám dân thấy vậy mà rời bỏ đất Ung Châu đi đến phân nửa. Bọn quan lại thấy Kết là kẻ không biết trước sau, ai lấy đều không phục. Đám cận hầu của Kết khuyên Kết bỏ quyền binh Ung Châu mà dâng tấu đề bạt Trọng Vũ. Biết được tâm ý của đám quan lại đất Ung Châu, Kết đành cho gia quyến chạy về Ích Châu, thân ở lại đất Ung nắm quyền binh được hai tháng.

Trọng Vũ liên hồi thắng các trận đánh lớn vùng giáp ranh giữa An Nam và Nam Chiếu. Đám quân lính các châu quận phía nam nhiều lần đánh phá Tống Bình đều bị đám tay sai của Trọng Vũ đứng đầu viên đô ngu hầu Vương Thừa Biện đánh bại. Sau nhiều lần bị thất bại trong các cuộc tấn công vào đất bị người Nam Chiếu chiếm, Thôi Kết được quân Nam Chiếu gửi thư chiêu hàng, rồi phao tin khắp đất Ung. Thôi Kết thấy tình thế nguy bách đành phải dâng sớ với triều đình nhường lại binh quyền đất Ung cho Quế Trọng Vũ. Triều đình nghe lời Kết mà thuận ý phong Quế Trọng Vũ làm Kinh lược sứ Ung Châu. Ung Châu từ bấy bớt loạn.

Thôi Kết lại được Trọng Vũ tin cậy làm phó sứ cho Vũ, Thừa Biện được dâng sớ phong làm đô hộ sứ đất An Nam. Chỉ trong vòng ba tháng, Thừa Biện bị đám võ tướng trị sở Tống Bình khinh kỵ cho là kẻ nho sĩ kém hèn nhiều lần chống lệnh không tuân, bèn dâng sớ tâu với triều đình cho người khác lên thay. Trong lúc đám võ quan Tống Bình còn đang tranh giành những lợi ích cá nhân, triều đình cất cử một người họ Lý tên là Nguyên Hỷ làm An Nam đô hộ sứ.

Nguyên Hỷ trước theo Điền Bố nổi loạn, sau Bố bị bắt giết. Hỷ được người họ hàng Phùng Cát là cận thần của Mục Tông nhận làm giám quân, nhờ bắt giết được tướng của phản quân Lý Nguyện mà được triều đình phong chức. Bọn người của Trương Bình Thúc biết được Nguyên Hỷ ngày trước theo giặc mà tấu với Mục Tông. Mục Tông nể mặt Lý Phùng Cát mà không giáng chức Hỷ. Phùng Cát nghe tin An Nam đô hộ sứ là họ hàng với Vương Thừa Tông tên là Biện không được lòng dân xứ nam mà xin với Vua cho Nguyên Hỷ về đất ấy.

Vừa mới nhậm chức, Nguyên Hỷ thấy La Thành ba phía là sông nước chỉ có phía nam lại là đất bằng phẳng nhìn về châu thổ đang bị người nam nắm giữ liền sai người chuyển lỵ sở về thành Long Biên. Long Trạch bấy giờ giữ đất Long Biên không thuận ý Hỷ, cho quân lính đóng ở ngoài thành. Nguyên Hỷ thấy vậy cho gọi Trạch đến hỏi:

- Nhà ngươi cớ chi mà lại cho lính đóng quân phía ngoài thành. Phải chăng có ý phản nghịch.

Trạch mặt rắn mặt đáp:

- Trước giờ các quan đô hộ đều lấy La Thành làm trị sở. Há chăng ngài là lũ chuột mà phải sợ đám người nam. Ta mang lính ra ngoài là trước là để trị sở rộng rãi, sau là để cho ngài thấy lũ giặc người nam đó chẳng kinh hãi như ngài nghĩ.

Hỷ không nghe, lệnh cho quân lính vào thành. Ngoài thành chỉ có hai nghìn lính do Long Trạch nắm giữ. Trong ba đêm, đám lính người nam họ Dương, họ Đỗ tập kích từ phía nam đều bị Long Trạch chặn đánh mà không hao tổn một binh mã. Bấy giờ Hỷ mới chịu trở về La Thành.

Trở về La Thành, Lý Nguyên Gia liền sai đám võ tướng Giả Thường, Giả Thanh, Giả Không mang lính ra phía nam thành đóng quân chặn dọc theo dòng sông nhỏ. Giả Thường bàn với Hỷ:

- Huyện lệnh Tống Bình Từ Hãn Xương nắm đám lính chinh chiến mấy năm nay với đám người phía nam đồng bằng. Chi bằng tăng thêm binh lương để Hãn Xương đánh giặc giải quyết dứt điểm mối lo trong lòng đại nhân. Cũng nhân đây ngài ra hiệu triệu các châu phía nam hội quân về Giao Châu đánh giặc để xem lòng dạ bọn chúng thế nào. Kẻ nào không tuân dùng võ lực mà uy trấn. Từ Trọng Vũ, Thôi Kết, Thừa Biện đều nhát như thỏ đế mà không dám thi hành điều đó khiến đám người đó càng thêm kiêu ngạo, không coi đô hộ sứ ra gì.

Nguyên Hỷ nghĩ rằng Long Trạch hữu dũng giết giặc dễ như trở bàn tay nhưng trong lòng không yên. E sợ đám người Tống Bình làm loạn như thời Tượng Cổ, họ Lý liền điều động binh mã từ các huyện Thái Bình, Bình Đạo, Châu Nam Tà, Vũ Lục Châu, đóng quân trải dọc từ hữu ngạn sông Nhị đoạn tiếp giáp với Ngọc Đường trang đến đất phía nam thành Đỗ Động. Phía tả ngạn sông Hồng, Nguyên Hỷ điều động Long Trạch làm tiên phong tướng, sai Binh mã sứ bấy giờ là Triệu Cam, con trai của Triệu Hoằng làm đốc quân đánh vào các đồn ấp của nghĩa quân người nam phía đông sông Nhị.

Tin tức báo về quân Dương Đỗ phía nam Tống Bình liên tiếp đánh phá trại quân, thành ấp khiến họ Lý càng thêm lo lắng.

Nguyên Hỷ gọi đám cận hầu đến bàn việc, mỗi người một ý càng làm cho Hỷ bấn loạn. Hỷ tiếp tục gọi các tướng từ các châu Ung, Lục Châu, Bình Nguyên mang quân lính, lương thảo tiếp tế cho phía nam. Hơn một tháng trời, Hỷ hao tổn sinh khí, đêm nằm không yên giấc, ngày gù gà gù gật, chỉ nghe tiếng quân lính bộ hành phía ngoài thành cũng đủ khiến cho Hỷ giật mình. Cứ mỗi lần như vậy, Hỷ lại lấy tay sờ tai, sờ trán, giữ chắc chiếc mũ còn đội trên đầu mà thầm bụng "Đầu ta còn chưa rơi". Đêm xuống, Hỷ cho hơn năm mươi lính thay nhau canh gác nghiêm ngặt phía ngoài phủ đô hộ đề phòng biến sự.

Có tin quân báo từ các đất huyện Nam Định, Chu Diên, Vũ Bình thắng trận trước nghĩa quân người nam, Hỷ lại vội vàng cho mang vàng bạc, lương thảo tặng ngay cho đám tướng sĩ để khích lòng quân sĩ. Khi thua trận, Hỷ chỉ sai người cho gọi các tướng về phủ vỗ về, an ủi. Viên Liễu tá họ Chu thấy vậy liền can :

- Đô hộ sứ chớ có như vậy. Tướng sĩ ngoài chiến trường phải thể hiện được cái uy của kẻ làm chủ tướng, không vì một trận thắng mà kiêu, bại một trận nản lòng. Nếu quân sĩ thắng trận ngài cho đám quân sĩ nhiều vàng bạc của cải. Sau này khi quân khố, kho lương sút giảm, không có thưởng cho bọn ấy khiến chúng tự kiêu cho là thưởng phạt không phân minh, lòng không muốn đánh tiếp ấy là điều họa thứ nhất. Mà khi thua trận ngài không những không xử theo quân pháp nghiêm minh, lại bao che cho bọn ấy, đó là cái kỵ lớn của kẻ cầm quân, là điều họa thứ hai. Đám tướng sĩ khi thắng thì thưởng, thua trận không bị nghiêm trị, những kẻ làm tướng ngoài xa thấy đó mà lơ là cảnh giác, đánh thắng được vài trận lại bỏ bê trách nhiệm khi chúng cảm thấy đã no đủ. Sau này ngựa quen đường cũ ắt gây họa lớn. Mong đại nhân minh xét.

Hỷ nghe lọt tai, sai người giữ lại vàng bạc, lương thực, sau này cứ mỗi tháng xét công tội mà ban thưởng. Sau ba tháng, nửa năm thì họp lại đám quân tướng để bình phẩm công lao, sau đó mới đưa ra những chủ trương, chiến lược mới cho phù hợp với thực tiễn quân tình.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ sáu:

Thành Đại La, Lý Nguyên Gia lo ốm.

Đất Đằng Châu, Tồn Thành đấu anh tài.

Chương 6.2 Đỗ đô úy gặp nạn
Bớt lo lắng với đám sĩ tướng Tống Bình, mối lo của Hỷ lại dồn về các châu quận phía nam, vùng đất phía tây Tống Bình. Nguyên Hỷ cho người gửi thư lệnh thứ sử các châu Trường, Ái viện quân từ phía nam, các đạo quân từ các châu phía tây.

Thứ sử Trường Châu Đỗ Cảnh Tung nhận được tin báo liền dâng tám nghìn binh mã cùng hai mươi chiến thuyền điều đến cửa Đại An hô hào, lại cho người của Nguyên Hỷ tận mắt trông thấy uy dũng quân sĩ Trường Châu. Tên tay sai họ Liễu trở về báo cho Nguyên Hỷ, Nguyên Hỷ lấy làm mừng liền phong thêm đất Võ An châu cho Bính.

Thứ sử Võ An châu là Trần Hưng nghe vậy điều năm nghìn quân ra cửa Ba Lạt hướng thẳng Trường Châu toan đánh người em họ Đỗ Cảnh Tung. Bấy giờ có người nói với Nguyên Hỷ, Hỷ lệnh cho Hưng trở về đất Gia Viễn đánh úp nghĩa quân người nam từ phía sau, phong thêm đất Chu Diên, Yên Hưng, Lục Châu. Bấy giờ Hưng mới yên.

Đoàn Uyển nắm Ái Châu nhận lệnh hiệu triệu của họ Lý, lòng dạ lo lắng vội gọi các quan đến bàn. Lê Khoan bấy giờ là huyện lệnh huyện An Thuận chạy ngựa đến phủ thành bàn với Uyển:

- Tồn Thành hai năm nay nắm binh lính ngoài xa, không chịu nghe lệnh thứ sử. Nay lại biết hắn cùng Chí Liệt đánh Giao Châu mãi không thể thắng. Nay Tống Bình có lời hiệu triệu thứ sử các châu xem ra là để thử lòng vậy. Nếu ta tiếp tục để Tồn Thành nắm binh bên ngoài như vậy, Đỗ Cảnh Tung đã thuận theo ý Nguyên Hỷ mà soạn binh mã e rằng Ái Châu sẽ nguy mất. Lại thêm các Châu Hoan, Ái, Phúc Lộc, đất Hoành Sơn sau khi Dương Thanh mất Giao Châu không lúc nào không loạn. Chi bằng triệu hồi binh mã, một mặt để tỏ lòng với Nguyên Gia, mặt khác là để tránh hậu họa từ Tồn Thành.

- Nhà ngươi biết rõ lòng dạ của Đỗ tướng quân rồi. Hắn sao có thể bỏ tên Sĩ Giao mà đi cho được. Nhà ngươi có kế gì hay chăng.

- Chẳng phải gia quyến hắn còn ở Ái Châu hay sao.

- Ý nhà ngươi là…

- Chính vậy. Thà để dao trong bếp còn hơn là treo phía ngoài cho kẻ khác kè vào cổ ta.

Lúc bấy giờ, ở đất Hiến, Đỗ Tồn Thành cùng Chí Liệt nhiều lần đánh quân triều đình ở Tống Bình, thắng thua nhiều vô kể. Sĩ Giao bàn với hai người:

- Phủ đô hộ từ lúc tướng chủ bị kẻ dưới hãm hại đến giờ cũng đã ba lần thay sứ. Chúng ta kinh qua hết nạn đói, lũ lụt, dịch cúm, dịch tả… cũng hơn hai mùa giá rét. Bấy lâu khiến dân tình đói khổ, lầm than. Nay có viên đô hộ mới, muốn thử lòng đám châu mục, thứ sử mà sai bọn người đó điều binh để dẹp sạch cái gai trong mắt Tống Bình. Đất châu thổ nhỏ hẹp, lại không có thành trì kiên cố. Đám người Hoan Diễn theo ta nay cũng bỏ chúng ta chạy về đất phía nam mưu lợi cá nhân. Bốn phía nay đã theo lệnh của quân Triều đình, không những không giúp chúng ta mà có kẻ đã bắt đầu tấn công lại. Nay có ý xin thiếu chủ rút quân về phía tây. Ta sẽ dọc theo dòng sông Đáy chiếm đất huyện Vũ Bình, đoạt thành Đỗ Động, còn hơn một vạn quân đóng trại từ đấy về đến núi Tản Viên.

Chí Liệt như bừng tỉnh trong cơ mê muội:

- Quả là cao kiến. Dạo gần đây ta có nghe nói đất huyện Vũ Bình đám người Liêu Gia Trang quay lại đất đó tìm giết tên tướng giữ thành là Thi Nguyên để báo thù.

Tồn Thành cũng hưởng ứng:

- Đúng vậy. Chúng ta không có nhiều thành trì kiên cố, dẫu có muôn vạn quân thì cũng rất dễ bị tổn thương. Chỉ có điều đất châu thổ phì nhiêu, ta bỏ đất ấy đi thì cũng hơi uổng phí vậy.

Sĩ Giao cắt lời:

- Tồn Thành chớ lo nghĩ. Đất châu thổ đã mấy mùa nước lên dân chúng cũng đã di tản. Dấu chân ngựa của đám quân triều đình đi đến đâu là đất đó chẳng lấy một bóng người. Phía nam Tống Bình, đất bỏ hoang đã lâu. Lại thêm đất Vũ Bình tiếp giáp đất Phong Châu, Đường Lâm cùng các châu cơ mi lớn nhỏ vốn chẳng ràng buộc nhiều bởi chính quyền Tống Bình. Thành trì dọc theo Đà Giang xuôi đến đất Phong châu đều dễ thủ khó công. Phía đông đất đó là khoảng đất màu mỡ mà đám quan lại Tống Bình thường không hay để ý đến. Ta mang nhân nghĩa tới đất ấy, ắt sẽ được lợi nhiều hơn là hại vậy.

Nhìn vẻ mặt Tồn Thành còn phân vân, Chí Liệt vỗ vai chắc nịch:

- Nếu Tồn Thành còn e ngại về đám binh lính Ái Châu của chú thì sau khi lấy được Đỗ Động chú hãy mang hết lính Ái Châu giao lại cho Đoàn Uyển. Đất Ái Châu trước là do họ Đỗ nắm quyền, Uyển kia bất trung, bất nghĩa, bất hiếu trắng trợn mà cướp. Há lẽ người họ Đỗ như chú lại chịu nhục về dưới trướng hắn.

Sĩ Giao nhìn vẻ mặt Tồn Thành tỏ ra giận dữ, liền kéo tay Tồn Thành ra phía ngoài. Sĩ Giao lôi từng ngón tay đang còn nắm chặt chuôi kiếm. Hơi ấm từ bàn tay Sĩ Giao khiến vẻ mặt Tồn Thành bớt nhăn nhó. Bấy giờ Sĩ Giao mới ghé tai:

- Kẻ sĩ hùng chớ có vì nóng giận mà hỏng hết mọi chuyện. Biết nhẫn nhục mới là người hay. Chú hãy nghe ta làm theo như ý chí chú mách bảo.

Đêm đó, Tồn Thành tự mình cầm hai nghìn quân Ái Châu tập kích quân triều đình đóng tại phía tây bắc huyện Chu Diên, đốt trại lính quân Đường. Tướng quân Đường là Triệu Cam đón quân của Tồn Thành từ phía bờ sông đánh tan, lính Ái Châu chết hơn một nghìn người. Chạy đến đầm Dạ Trạch, có thần miếu Tồn Thành chạy tới đó mà ẩn mình. Triệu Cam thúc quân mã đuổi theo đến bờ sông Nhị thấy có đôi vợ chồng mặt mày khôi ngô, giọng nói thuần khiết. Cam hỏi:

- Giặc đánh quân ta có chạy qua đây. Hai người có trông thấy chúng hay chăng?

Người vợ đáp lời:

- Tướng quân hãy đi về phía đông, nếu thấy con nước, kẻ địch ắt ở chỗ đó. Cứ rong trống lên thì kẻ địch tự chạy ra. Tướng quân cho quân cởi bỏ mũ giáp, lấy hai mươi lính dùng lá cây chuối mặc lên người khi đó địch tự nộp mạng mình dâng cho tướng quân.

Cam theo lời người con gái kia nói. Đi về phía đông cách sông Nhị chừng năm chục thước, có tên lính thụt người xuống hố sâu. Bọn lính kêu la om sòm. Một tay đốc mã chạy đến bẩm lại với Cam:

- Đúng như lời ả ta nói. Phía này có con nước.

Triệu Cam bước lần từng bước dò dẫm. Hắn lấy kiếm khua khua đám bèo tấm, có con cá vảy sáng rực nổi lên. Cho là điềm lành, hắn ngoái lại nhìn hai vợ chồng còn đang đứng ở gần miếu cạnh sông. Cô vợ gật đầu ra ám hiệu cho Triệu. Cam xuống ngựa tay chạm vào chú cả, một luồng sáng phát ra từ phía bàn tay khiến Triệu Cam co giật. Phó tướng của Cam là Lã Thầm liền lấy dao ngắn đâm chết cá, ném xuống đầm nước, đám bèo bỗng nhiên tản ra, dòng nước trong vắt, đầm đìa mưa phùn trên mặt. Lã Thầm cho lính khua trống thì đám bèo lại dày trở lại, có bóng người cùng ánh sáng le lói hắt ra từ phía bên bờ đông của đầm.

Đầm nước rộng mênh mông, không biết cách nào để qua bờ đó cho nhanh. Lã Thầm bàn với Cam cho quân chặt chuối lấy mũi giáo đóng thành bè. Trong hai khắc, cả chục chiếc bè được đóng xong. Phía bên kia bóng người bên đó vẫn luẩn quẩn dường như không tìm thấy lối ra. Triệu Cam tiếp tục cho người đánh chiêng trống uỳnh oang. Những bẹ lá chuối được cắt thành những trang phục kỳ quái quấn lên người đám lính triều đình. Cam sai hai mươi lính mặc cùng nhảy lên bè vội vã chống chèo qua bên kia đầm nước.

Tới nơi, có một kẻ đứng bên bờ nhảy ra. Đám lính kinh hãi, người đó liền trầm mình xuống đầm nước. Chỉ trong chốc lát các bè chuối tự tách nhau ra. Bọn lính cố gắng dùng sức để ghép lại những cây chuối mà không sao giữ được. Trời bỗng nhiên gió lớn, ánh đèn từ phía bờ đông phụt tắt. Ánh lửa từ những cây đuốc lớn của quân Tống Bình xô vào nhau ngã tùm tùm xuống đầm. Triệu Cam lệnh cho đám quân quay trở lại. Sau nửa canh giờ, Cam dạt được vào bờ. Hắn rút kiếm hòng lùng hai vợ chồng kia. Đến cạnh miếu, soi lên cửa miếu có đề chữ “Đền Hóa” lại có bia khắc chữ cổ. Có tên lính biết chữ ấy đọc cho Cam:

“Hùng Vương đời thứ mười tám, Đức Thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa, Hồng Vân Công chúa hóa tại đầm Nhất Dạ. Công đức muôn đời kể xiết.”
Có tiếng vọng vang vang như tiếng chuông lớn phát ra từ phía khuôn hồ trước miếu. Lã Thầm hô hoán đám quân:

- Là thần nhân họ Chử cùng nhị vị phu nhân giáng thế. Đã đắc tội. Mau mau mà chạy.

Triệu Cam cùng Lã Thầm hộc tốc chạy về đất Long Biên bỏ mặc đám lính toán loạn chạy khắp phía. Trời tờ mờ sáng, đám quân Tống Bình không một bóng, chỉ còn lại giáp áo cùng vũ khí ngổn ngang.

Bầu trời vần vũ, mây đen kéo đến ùn ùn như những cột khói đốt nương. Gió lốc nổi lên khiến đổ rạp cây cối xung quanh. Chỉ chừng nửa canh giờ, trận mưa lốc tàn ngay. Có ông lão đi qua đầm, nhìn vào miếu gọi vọng vào:

- Có cao nhân nào trong miếu. Sao còn ẩn nấp chưa ra.

Tồn Thành mặt mũi cay nhèm, tay còn dụi mắt bước ra. Nhìn xung quanh rũ rượi thảm thê, chàng liền cất tiếng hỏi han:

- Không hay bão tố khi nào mà cây cối ngã đổ.

- Vị tướng quân mặt vuông, trán rộng, mày cọp mắt trâu. Nhìn khí phách quả thật dị thường. Vừa xong có cơn lốc quét qua mà ngài không hề hay biết hay sao.

- Đêm qua khi tới miếu này, thân xác mệt mỏi, tay chân rụng rời chỉ lo mạng sống chẳng vẹn toàn. Sáng nay tỉnh dậy người nặng như cõng núi, mắt nhắm chặt như đổ keo, tai ù ù như sấm rền bên cạnh. Chẳng hay gió lốc, bão mưa.

Từ phía sau ông lão có đám người áo quần rách rưới, tay cầm mảnh gãy giáo thương lầm lũi hướng về chỗ Thành. Đầu óc chàng còn đang choáng váng, chưa nhận hết chuyện đang diễn ra. Có một tên chạy đến, mặt mày nhem nhuốc, tay đầm đìa máu đỏ, nước mắt lưng tròng:

- Tướng quân. Anh em đã chết phân nửa. Số còn lại chỉ còn hơn một nghìn đã lui về doanh trại. Đêm qua tướng quân dẫn chúng tôi chạy tới đây thì mất dấu. Sáng nghe người làng kể lại có đám binh mã chạy đến đây. Nghĩ rằng tướng quân không qua khỏi. Gặp tướng quân ở đây, đám chúng tôi thật thấy mừng.

- Cả nghìn anh em chết mà mừng nỗi chi. Các ngươi không bị đám quân Tống Bình đuổi giết hay sao.

- Bẩm tướng quân. Khi qua đoạn đầm này. Không hiểu sao đám người ngựa đó lại quay đầu không đuổi nữa. Thế nên chúng tôi mới quay lại tìm ngài.

Lão ông chống gậy, tay vuốt râu cằm cười lớn:

- Chẳng phải hồng phúc từ Đức Thánh Chử hay sao. Vị tướng quân hãy quay lại.

Tồn Thành quay lại thấy phía trước mặt là tường miếu uy nghi, cổ kính. Có bức tường cao hai thước được đôn từ dấu tích thành cũ. Phía trước miếu có lầu chuông lớn khắc họa tiết chim hạc, người cổ xưa sinh hoạt hàng ngày. Giữa lầu chuông và sân miếu là hồ bán nguyệt, nước xanh biếc soi bóng những tán lớn bủa quanh. Ba tòa điện tuy nhỏ nhắn mà khí chất vượng sung tỏa ra bốn phương khiến chàng không khỏi bỡ ngỡ.

Chàng hỏi ông lão, lão ông chỉ nhắc khéo đấy là cung điện của thần nhân. Phía trong là tượng cá chép lớn, cùng pho tượng cao lớn đầu mang nón, tay chống gậy độ thế nhân gian. Đỗ Tồn Thành sai người vào làng mua trầu cau cùng hoa quả dâng nên miếu nén nhang thơm. Khói nhang nghi ngút bay lên, có hình chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng hai cô gái xinh đẹp, mỗi người một vẻ hiện lên. Tồn Thành gọi người làng vào hỏi thì làn khói tan mất.
 
Bên trên