Giống Rồng - Cập nhật - Nguyễn Khai Quốc

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành


Chương 2.5 Đại sư phục thành

Chí Liệt tiến vào trong gian tự quan sát một hồi. Mái hiên ngói đất đã mục xanh, cây xà sơn mới nhưng chẳng giấu đi được mục nát bên trong. Mở cánh cửa lớn bằng gỗ đã bị thủng vài chỗ là một ngôi chùa nhỏ. Bước qua cổng tam quan là hồ sen lớn, bao quanh là lối đi dẫn vào một chùa năm gian chồng diêm, hai tầng, gỗ lim, gỗ gụ, gỗ táu tróc nửa lớn màu sơn.

Năm gian chùa và khuôn viên cảnh chùa ấy là theo kiểu nội công ngoại quốc thường chỉ có ở xứ Giao Châu này. Trước tiền đường về phía bên trái có một chiếc khánh đồng được đỡ bằng khung gỗ sơn đỏ còn mới, phía phải là chuông đồng cũ có khắc chữ “Nam Thiên Kiến Quốc Tự chung”.

Sĩ Giao, Chí Liệt hai người ngồi nghỉ dưới gốc đa lau đi những giọt mồ hôi, làn hương trầm phảng phất khiến hai người thiu thiu. Tiếng chuông chùa vang vang chẳng theo nhịp lối cùng lúc tiếng ngựa hý vang gốc cây thị nơi ngoài cổng chùa khiến hai người tỉnh giấc. Gã Quỷ cười hớn hở:

- Không ngờ chùa cũ mà lại có chuông âm thật hay.

Tiếng lớn vọng lại từ cửa chùa:

- Thiếu chủ, Sĩ Giao đấy à!

Tồn Thăng bỏ dùi chuông xuống chạy vội tới chỗ Đỗ Đại mà hỏi:

- Là sư huynh đã đi đâu?

Đỗ Đại ồn tồn nói:

- Khi ta cùng với Sĩ Giao vào ngôi Đại Tự bên phải ngôi chùa này đã bị lạc. Ta cố trốn chạy ra ngoài thì thấy phía sau sảnh chùa có đám người nói giọng Quỳnh châu đang bàn bạc chuyện gì đó. Sau đó thì ta ngất lịm. Tỉnh dậy thì đang nằm bên cạnh hai con ngựa nơi gốc thị đằng kia. Mọi người làm sao mà biết chỗ này?
Gã Quỷ, ngậm quả thị rồi chỉ về phía vị hòa thượng ban nãy. Hai vai gánh trĩu hai thùng nước đổ vào chum lớn gần bếp lửa. Gánh nước rồi vội vã đun nước, làm cơm chay. Đỗ Đại chạy tới diện kiến, thấy dáng hình tựa phật mà cúi người vái rằng:

- Chẳng hay là sư phụ đã cứu tôi tới đây.

Vị sư ấy mải miết từng hạt cơm trắng muốt, hòa nước cho đủ thanh mát rồi vội vàng đưa vào phía trong. Phía bên trong chùa, tượng lớn Phật tổ Bồ đề Đạt ma tay cầm một chiếc hài, bên trái là tượng phật mẫu Ma – ya, cùng bên phải là tượng Bồ tát quan âm ngự đầu rồng, tất cả đều sạch sẽ bụi trần.

Tọa thiền dưới đó là một vị tăng, dáng người mảnh khảnh, đôi ta lớn trĩu xuống hai bên cằm. Bốn người bước chân vào, tăng ấy chẳng hề nhúc nhích. Chẳng nói chẳng rằng, Lập Đức đặt bát cơm cùng chút rau thanh đạm rồi cúi người bước ra. Sĩ Giao cất lời hỏi:

- Bọn thí chủ chúng tôi bái kiến sư phụ.

Không một lời đáp lại, Tồn Thăng quát lớn:

- Này cái tên tăng nhân kia! Dám khinh thường bọn ta sao?

Đỗ Đại ôm lấy Thăng mà kéo ra ngoài. Lập Đức hòa thượng liền nói:

- Các vị thí chủ xin mời qua gian hữu, bần tăng sớm bày cơm chay các vị cùng dùng bữa.

Cơm bày lên, hai niêu cơm rời cùng mẹt rau luộc mềm. Tồn Thăng gắt gỏng:

- Cơm này chúng ta ăn làm sao! Sáng giờ chẳng có gì ăn. Vào chùa thì đánh đấm với bọn tăng nhân ăn thịt uống rượu mệt gần chết. Rượu đâu mang ra đây cho ta.
Sĩ Giao can Gã Quỷ lại:

- Dương Diện đệ hãy trật tự. Chốn xuất gia không được ăn nói bừa bãi.

Chí Liệt quan sát vị tăng tọa thiền kia vẫn chẳng nhúc nhích. Lập Đức nhỏ nhẹ, chắp tay trước ngực mà nói:

- Nam mô a di đà phật! Thí chủ bỏ xá cho. Tăng chúng tôi lấy tu tâm làm đầu, chay tịnh ấy là điều chẳng thể khác được. Nếu vị tướng quân này mong cầu rượu thịt thì thật ngại tăng tôi không thể giúp được.

Lời nói phật rót tai khiến Dương Diện mềm lòng mà ăn lấy cho hết một niêu cơm trắng. Cùng bữa, Chí Liệt hỏi Lập Đức:

- Sư ấy là ai sao mà đến lạ. Chẳng nói chẳng rằng.

- Sư lấy thiền tịnh tu tâm nên gọi là thiền sư. Tính tình Sư điềm đạm ít nói, nhưng thông minh, sáng suốt ấy thế mà gọi là Vô Ngôn Thông. Từ ngày sư về đây chỉ có ngồi một chỗ mà thiền, chẳng nói lấy một lời.

- Cơm nước thì ai chăm?

- Là bần tăng.

- Ngài ấy có nói gì với Lập Đức sư phụ hay chăng?

- Từ khi ngài ấy về đây cũng đã hai mùa xuân hạ mà chưa được nghe.

Sĩ Giao lại hỏi:

- Có nghe tiếng thiền sư mà nay được hạnh ngộ. Ấy sao dân chúng ngoài kia kêu rằng thiền sư giảng đạo, lũ tăng nhân kéo tới nườm nượp? Thật là có điều gì không phải?

- Chùa lớn bên này là Đại Đường Nam tự. Ba năm trước quan sứ cho dựng lên, cạnh Kiến Sơ tự này. Ban đầu ta được mời sang tự ấy mà tu cùng với những tăng từ Quỳnh Châu tới. Sau này ta thấy kẻ ra người vào tự toàn là những bậc quan nhân, quân tướng. Ta e điều không hay nên đã cùng tiểu đệ tử tọa thiền nơi gốc thị kia hướng về Tiên Du Sơn ngày ngày đọc kinh.

Nói tới đây, có vị tiểu hòa thượng khi nãy xuất hiện. Tiểu hòa thượng này nghiêm trang hành lễ mà bái Ngôn Thông, Lập Đức cùng bốn người.

Đỗ Đại thảng thốt:

- Là vị tiểu sư phụ này chẳng?

- Bẩm quan đúng thế. Đây là đệ tử của tôi tên là Phong. Sáng này có thất lễ với các vị quan nhân mong các vị bỏ quá cho.

Dương Diện ăn xong niêu cơm trắng, chỉnh lại miếng da dê trên mặt mà nói:

- Cái tên tiểu tử này, sáng nay đánh với ta lại còn khống chế cả thiếu chủ. Tội ngươi đáng phạt trăm roi.

Tiểu hòa thượng lém lỉnh nói:

- Là thí chủ mặt quỷ kia gây sự trước.

Chí Liệt cười lớn nói:

- Vị tiểu sư phụ này nghệ công thật chẳng dám chê. Lập Đức sư phụ vừa có nói đến việc tu tại gốc thị ấy, ngày ngày lấy đọc kinh mà tu hành. Chẳng hay sao lại không vào ngôi chùa nhỏ này?

Tiểu sư phụ nhanh nhảu đáp:

- Đất này là của vị hương hào họ Nguyễn. Trước ở núi Tiên Du đã mến mộ đức hạnh của sư phụ từ lâu, nay lại thấy người tu nơi gốc thị ấy mà lấy tâm tình để mời sư phụ ta dựng chùa tính từ gốc thị trở về Tây nam chừng hai trăm trượng. Thoạt đầu, sư phụ ta không dám nhận. Đêm ấy nằm cạnh sư phụ dưới gốc thị lại hiện lên thần nhân mách rằng: “Theo ý của họ Nguyễn, chẳng mấy năm sẽ được điều lành lớn.” Sau ấy nghe lời thần nhân, sư phụ mới đồng ý với vị hương hào ấy. Họ Nguyễn ấy dỡ nhà lập chùa tỏ lòng, lại cho người đắp tượng, đúc chuông…

Lập Đức từ tốn nói:

- Tâm tức là Phật. Đệ tử chớ khoe khoang.

Lại kể rằng Đại Đường Nam tự kế bên ấy bọn tăng lữ vốn không phải người Nam, đến đây lấy tiếng là Đại thiền sư, ngày ngày giảng kinh pháp, lễ bái triền miên làm hao tâm tốn lực của bọn dân chúng Giao Châu ấy. Vị tăng nhân mặt đẹp tựa thần tiên, mặc áo cà sa khi sáng dẫn Đỗ Đại cùng Sĩ giao vào Đại tự hiệu là Giả Thường, nhận mình là Đại tăng, cũng là đệ tử Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải, có pháp lực hô mưa hoán vũ, lại truyền bá kinh phật, nhận cả trăm người làm đệ tử. Hai vị tăng kia hung dữ kia vốn cùng thiền sư Vô Ngôn Thông về Kiến Sơ này mà bị bọn chúng dụ dỗ sang tự ấy mà làm điều sằng bậy, tham tục rượu thịt. Lại được biết bọn ấy là tay sai của viên sứ Tượng Cổ nên Chí Liệt bàn với Sĩ Giao:

- Nơi này nhiều ẩn tình. Không thể xem thường được. Ta phải sớm về báo cho Tướng phụ biết.

Đoạn rồi, Chí Liệt bái biệt ba người rồi cùng mười người tùy tùng về La Thành báo tin cho Dương Thanh. Ba người ở lại chùa Kiến Sơ đợi quân tiếp viện lên núi Tiên Du truy quét bọn cướp Lục Hổ.

Mấy ngày ở lại chùa, không khí tĩnh lặng trầm mặc khiến ba người ấy như bỏ hết đi những phiền muộn, gột bỏ đi những bụi bặm chiến trường sau thời gian chiến đấu vừa qua. Vị Tăng kia không nói gì mà chỉ ngày ngày ngồi quay mặt vào bức tường thiền. Sĩ Giao lại thấy sư Lập Đức ngày ngày chăm chút cho vị thiền sư ấy chẳng có lấy một thiếu xót. Sớm gánh nước tưới rau, cùng đệ tử ra sông giặt giũ áo cà sa, chiếu nệm. Trưa lại cơm trắng cùng rau hai niêu mang cho thiền sư. Chiều tới gánh nước từ kênh đun lên mời thiền sư tắm. Tối đến ngồi thiền cạnh sư rồi nâng giấc cho Tăng ấy.

Đêm cuối ba người tại tự, bỗng nhiên có ngôi sao sáng rực phía nam, lửa dưới bếp cháy phừng phừng. Sĩ Giao thấy vị tiểu hòa thượng đang lúi húi dập lửa thì Lập Đức lấy vạt áo mà dập lửa liên hồi lại ôm lấy vị tiểu hòa thượng mà chạy ra. Chẳng mấy chốc vạt áo cháy lẹm đến vai. Tiểu sư vẫn lấy nước mà dập. Mắt lệ rưng rưng, miệng vẫn liên hồi nhẩm rằng:

- Nam mô a di đà.

Tiểu hòa thượng kia khóc nấc lên, dập đầu liên tục xuống nền đất:

- Là tại đệ tử bất cần. Trông nồi nước mà đề tử lại ngủ quên mất.

Lập Đức cháy mất vạt áo cà sa cũ, nhìn gian bếp ấy cháy mà lệ ròng ôm lấy đệ tử:

- Đệ tử chẳng có lỗi gì cả. Là ta phước mỏng chỉ là muốn chăm chút cho Thiền sư ấy mà lại ra như thế. Thật là đáng thương cho đệ tử của ta.

Nói rồi, từ gian tự bước ra, vị Tăng kia bước tới, khoác lên Lập Đức áo cà sa. Dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt thanh tú, nước da ngăm ngăm khắc khổ, gò má hóp vào, đôi mày bạc trắng rủ xuống hai bên đuôi mắt, râu bạc tựa tiên, giọng nói thanh điện, Tăng ấy nói, nước mắt chảy ra:

- Bấy nay, ta thật cảm kích với tấm chân thành của ngươi. Nay nhận ngươi làm đệ tử, truyền tâm giáo cho ngươi. Gọi ngươi là Cảm Thành. Áo cà sa này, sư tổ Hoài Hải tặng ta. Nay ta tặng cho ngươi.

Lập Đức lấy làm vui mừng, vội cùng đệ tử bái ba lạy để tỏ lòng tôn kính. Sư dắt tay Lập Đức vào mà bàn rằng:

“Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sư tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, vì truyền pháp này. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ tổ, vẫn dòng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rõ chỗ đắc pháp. Nay niềm tin đã thuần thục, thì y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.

Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mã Tổ Đạo Nhất, Mã Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này có nhiều người hâm mộ Đại thừa, vì thế mà đến phương Nam để tìm thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyên đã sẵn. Nghe ta nói kệ:

Các nơi đồn đại

Dối tự huyên truyền

Rằng Thủy Tổ ta

Gốc từ Tây Thiên.

Truyền pháp Nhãn tạng

Gọi đó là Thiền

Một hoa năm cánh

Hạt giống liên miên.

Thầm hợp lời mật

Muôn ngàn có duyên

Đều gọi tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên cõi này

Cõi này Tây Thiên

Xưa nay nhật nguyệt

Xưa nay sơn xuyên.

Chạm đến thành trệ

Phật tổ thành oan

Sai đó hào ly

Mất đó trăm ngàn.

Ngươi khéo quán sát

Chớ lừa cháu con

Ngay như hỏi ta

Ta vốn không lời.

Chư phương hạo hạo

Vọng tự huyên truyền

Vị ngô thủy tổ

Thân tự Tây thiên.

Truyền pháp nhãn tạng

Mục vị chi thiền

Nhất hoa ngũ diệp

Chủng tử miên miên.

Tiềm phù mật ngữ

Thiên vạn hữu duyên

Hàm vị tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên thử độ

Thử độ Tây Thiên

Cổ kim nhật nguyệt

Cổ kim sơn xuyên.

Xúc đồ thành trệ

Phật tổ thành oan

Sai chi hào ly

Thất chi bách thiên.

Nhữ thiện quán sát

Mạc trám nhi tôn

Trực nhiêu vấn ngã

Ngã bổn vô ngôn.”

Nghe xong bài kệ, Cảm Thành liền lãnh ngộ. Sĩ Giao lấy đó làm điều đáng mừng, liền sai người tu sửa ngôi chùa để Tăng Sư cùng ngồi nói về kinh đạo.

Sớm hôm sau, Sĩ Giao cùng Đỗ Đại, Tồn Thăng lên ngựa hướng Tiên Du mà tiến, để lại chùa ba chục lính tráng khỏe mạnh để sửa lại chùa.

Lời bàn:

Xưa ta nghe chuyện tiên thần

Long Ngư xuất hiện chúng dân nương nhờ

Ấy rồi tai họa bất ngờ

Con dân đỏ máu lững lờ nước trôi

Sứ quan nhấp nhổm đứng ngồi

Xứ biên nổi loạn, bề tôi hận lòng.

Người sông đục, kẻ nước trong

Bao năm oán hận thầm mong có ngày

Cờ ai đang phất trao tay

Vượt sông thành trống, người ngay kẻ hèn

Quyết tâm sống mái một phen

Rửa oan quê cũ được khen anh hùng

Ấy còn giặc cướp bên sông

Quá sơn gặp tự tấm lòng thanh tao

Tâm người rộng lớn biết bao

Sớm trưa, chiều tối chẳng nao núng lòng.

Đêm thanh gió thổi nhà không.

Lửa kia thiêu đốt vàng ròng chẳng phai.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.


Chương 3.1 Ảo mộng chân tình
Đang lúc đi diệt bọn cướp Lục Bạch Hổ, Dương thiếu chủ quay trở về La Thành khiến Thiên thanh Dương tương không khỏi ngạc nhiên. Dương thiện tướng bẩm báo sự việc tại Đại Đường Nam tự cho cha nghe. Dương Thanh tỏ vẻ không hài lòng. Lại sai người giả làm tăng lữ về chùa ấy để theo dõi thêm tình hình ở chùa ấy. Chí Liệt cầm thêm hai trăm lính nữa hướng núi Tiên Du tăng viện cho Sĩ Giao, mưu diệt sạch lũ cướp khét tiếng vùng ấy.

Cầm lính đi qua Đại tự ấy, Chí Liệt không ghé lại nữa mà truyền lệnh cho hai trăm lính hợp quân với Sĩ Giao, hơn trăm quân lính của Si Giao trú tại thành Luy Lâu, được lệnh cho đóng quân tại chân núi phía nam Tiên Du. Quân không mang theo cờ xí, không dựng trại mà ở núp dưới những gốc cây, tảng đá lớn mong đánh nhanh bọn cướp. Ngày hôm sau, đám lính người ôm bụng, kẻ ôm ngực đau đớn suốt cả ngày. Chí Liệt mới hỏi Sĩ Giao:

- Không hay nơi này khí hâu thế nào mà quân sĩ lại biểu hiện như thế?

Sĩ Giao đáp rằng:

- Núi này vốn là núi thiêng, hay ta đi dò hỏi cho ra lẽ.

Nói rồi, Sĩ Giao sai Tồn Thăng cùng mười tên lính đi quanh núi, gặp một nhà dân cùng một ngôi chùa đã cũ. Sĩ Giao lại nhớ rằng vị hòa thượng Lập Đức tại Kiến Sơ tự có nhắc đến ngôi chùa này. Đêm ấy, Sĩ Giao sai năm tên lính soạn sửa trái cây, xôi nếp cùng với đó là nhang thơm cả thảy là chín nén, lại thêm đăng sáng. Chí Liệt kêu đám lính tráng kiện di dời các pho tượng ra mà lau rửa, sau ấy đặt lại uy nghiêm chỗ cũ. Đám Đỗ Đại, Tồn Thăng vào rừng gần đó chặt được chín cây gỗ lim cùng bảy cây gỗ táu mang về dựng lại cột chùa. Đến gần sáng thì đám lính tráng cũng tu sửa xong mái chùa thì tự dưng đám lính không còn thấy đau bụng tức ngực nữa. Chỉ riêng Sĩ Giao thấy trong người mệt lả, thiếp đi dưới gốc cây si trước cổng chùa.

Sĩ Giao thấy người nhẹ như bay, nhún chân một cái đã lên đến trên đỉnh núi. Áo của Bá Nam quân sư bị mắc tại đám thông. Chàng gỡ một hồi thì chân chạm xuống mặt đất. Đang bước chân đi, quân sư thấy muôn vàn thú đá chạy quanh núi. Chàng lại ra hiệu cho đám thú ấy biết sự có mặt của chàng. Chúng chạy từ Nam ngược Bắc dường như không hề biết sự có mặt ấy của chàng rồi tan vào mây trên đỉnh núi.

Lấy làm lạ, Sĩ Giao bèn bước thêm vài bước nữa thì thấy một khung cảnh chốn tiên thần. Đi qua cổng dựng bằng trúc, chàng thấy ao rồng, tường thạch. Sân ấy có phiến đá nứt gãy lớp lớp những đường kẻ như bàn cờ. Chàng bay vút vào trong thì thấy hai ông lão râu tóc bạc phơ đang đánh cờ. Chàng lại nhìn thấy một anh tiều cầm búa gác gốc thông đứng nhìn hai ông lão đánh cờ. Một lát sau cây búa mục lúc nào chẳng hay, hai lão tiên ấy biến thành khói cuộn vào mây bay lên trời để lại bàn thạch hai chữ Lạn Kha. Chàng tiều phu ban nãy cũng biến mất vào rừng sâu hun hút.

Sĩ Giao tiến tới bàn thạch, lấy tay chạm vào. Thạch trơn nhẵn bóng, chàng vuốt ve phiến đá ấy, nhắm mắt hình dung tựa chạm vào bồng lai. Chàng mở mắt ra thì có nàng tiên đang nằm trên ấy, trên người chẳng một mảnh lụa. Chàng vội vàng rụt tay lại thì cánh tay của nàng tiên ấy kéo lại, Sĩ Giao gục mặt vào phiến đá lúng túng cởi chiếc áo trên người mình mà khoác lên cho nàng ấy.

Từ phía xa bỗng có đám con gái từ chân núi đi lên nói cười khúc khích, chàng nhìn ra phía ấy. Có cô thôn nữ tuổi chạc tuần trăng cất giọng trong trẻo mà ghẹo chàng:

- Chàng ơi! Tiên nữ giáng trần.

Tay run đờ đẫn như đần như ngu.

Tới đây tiết mới sang thu.

Thạch bàn vững chãi, đánh đu hỡi chàng.

Sĩ Giao nhìn ra phía đông thì có cây đu dựng bằng đá, mấy cô gái ấy đang chơi trên ấy nhí nháu gọi chàng. Chàng quay ra nhìn bàn đá, nàng tiên khi nãy không còn nằm ở đấy, chàng ú ớ gọi nhặt lên một mảnh vải hồng thơm thơm mùi trầm. Ấy rồi tay chàng thấy có dính ướt từ bao giờ chẳng hay. Gió lên, mây đen từ phía nam kéo đến ùn ùn, mấy cô con gái cũng không còn lưu lại đấy. Chàng giật mình tiếng sét bên tai.

Sĩ Giao choàng tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn xunh quanh. Thấy đám lính hớt hải chạy mưa, mang sơn cùng gỗ vào phía trong mái chùa vừa dựng. Chí Liệt gọi lớn:

- Bá Nam quân sư. Còn đứng đó mong chờ điều chi? Tay quân sư, mảnh vải hồng từ đâu mà có?

Sĩ Giao đầu óc mơ màng, tay dính ướt dụi mắt, chàng nói:

- Bẩm thiếu chủ. Là đệ vừa mơ giấc mơ thật lạ. Tỉnh dậy đã thấy khăn hồng trên tay.

- Chạy vào trong chùa rồi kể lại cho ta nghe.

Chàng kể lại cho Thiện tướng, Thiện tướng cho đấy là điềm mừng liền sai lính đi sửa soạn lễ vật, nhang đăng chính ngọ ngày mai lên đỉnh núi làm lễ. Sĩ Giao mở miếng lụa ra, tiếng sét xé tan tiếng mưa rào rả rích, ánh sáng hắt vào hiện lên trên mảnh vài chín chữ thành một hàng sắp xếp theo đúng lối: “Dương Tử Tiền Cao Hưng Bá Ngô Vương Chủ”, phía dưới còn đề một bài thơ:

“Dương gian hỏa ánh hồng

Tử ngục thủy thành giang.

Nhất chí đồng cam khổ

Quảng nhân chính dị sàng.”

Chí Liệt hỏi trên đó đề gì, Sĩ Giao ấp úng:

- Dạ bẩm, chỉ là vài nét nguệch ngoạc chắc khi tối Gã Quỷ nghịch ngợm rồi nhét vào tay ta. Lát nữa ngủ dậy sẽ phạt đệ ấy.

Vội vàng Sĩ Giao ném mảnh vải ấy vào đống lửa đốt đi. Dương Chí Liệt quay lại thấy vải cháy còn một góc chữ Dương, lại thấy Sĩ Giao ấp úng, liền hỏi:

- Có chắc là không có gì trên đó hay không? Sao lại là chữ Dương. Mau gọi Gã Quỷ dậy.

Gã Quỷ bấy giờ trong cơn say mê mệt gọi ba tiếng không thấy dậy. Chí Liệt nhìn mặt Sĩ Giao lấm lét mà sinh nghi, gọi cho bằng được Gã Quỷ tỉnh dậy. Chí Liệt xách một thùng nước mưa vừa hứng được dội vào mặt Gã Quỷ. Gã Quỷ tỉnh dậy cầm lấy dao quắm cạnh người mà quát tháo:

- Là kẻ nào hắt nước vào ta?

Chí Liệt phủi tay cho khô đáp:

- Là ta gọi ngươi dậy đấy.

Sĩ Giao không kịp cản thì Gã Quỷ cầm lấy dao dương lên xông thẳng về phía Chí Liệt. Chẳng chút nương tay, gã ra đòn sấm rền đất rung. Từng chiêu xuất ra như nghìn cân giáng xuống. Chí Liệt không đánh lại mà chỉ dùng cây gậy chống những đòn ấy. Gã Quỷ hung tợn không khiến Chí Liệt nao núng. Đám lính cạnh đó xô vào giữ lấy gã Quỷ. Gã gồng mình lên, chiếc áo giáp đứt bung ra tứ phía. Bọn lính sợ hãi lui ra cả đám. Chí Liệt cười lớn:

- Để nay ta sẽ cho ngươi tâm phục khẩu phục.

Nói rồi, Chí Liệt dùng gậy đánh thẳng vào cánh tay cầm dao của Gã Quỷ. Gã Quỷ người như đá sắt, không hề hấn gì quay dao mưu chặt gãy côn của Chí Liệt. Thiện tướng nhanh như sóc thu cây gậy về, mình quay năm vòng trên không liên tiếp vụt trúng lưng và gáy Gã Quỷ. Gã quỷ đứng yên, gầm gào trong tiếng sấm, mắt liếc nhìn thiếu chủ.
Gã vứt bỏ giáp áo, mình còn lại chiếc khố sờn rách. Từng vết sẹo trên người hắn nổi lên như những tổ kiến, tổ mối khiến cho người khác phải khiếp sợ. Chí Liệt bình tĩnh múa côn, lộn tiếp ba vòng dùng sức đầu gậy đánh thẳng vào ngực Gã Quỷ.
Dương Diện hết sức bình sinh ném thẳng dao quắm về phía thiếu chủ. Thiếu chủ né nhanh, dao ấy cắt đôi cột lim, mái chùa phía ấy rơi xuống vài ba viên. Dương thiếu chủ dùng gậy đánh với gã quỷ hai trăm hiệp thì trời sáng. Gã Quỷ đứng ra phía trước gậy của thiếu chủ khiến thiếu chủ không nỡ ra tay. Chí Liệt hỏi:

- Nhà ngươi nhận thua hay sao?

Gã cười lớn, mặt méo xệch:

- Ta đói quá! Từ đêm qua đến giờ uống rượu mà không được ăn gì nên đói. Ăn xong ta lại đánh với ngươi.

Tất cả lại cươi ồ lên. Đỗ Đại sai người mang xôi thịt lên cho hắn ăn. Chí Liệt vỗ vai hắn trêu trọc hắn:

- Nhà ngươi võ thuật không có, thậm chí không bằng đứa trẻ con. Chí có cái khỏe và liều là ta không bằng ngươi.

Dường như gã chẳng quan tâm đến lời thiếu chủ nói. Gã hỏi:

- Nhà ngươi gần sáng hắt nước vào mặt ta có ý gì?

- Ta thấy nhà ngươi đi đánh nhau mà uống rượu đến say sưa, chẳng may địch đến đánh bất ngờ nhà ngươi ứng phó thế nào.

- Ngày trước ta làm tướng cướp trên núi Yên. Nửa đêm có mấy đứa định chém ta nhưng rồi chúng nó chết trước ta. Nhà ngươi khỏi lo.

- Đấy là bọn lâu la không tính.

- Ngày trước ở Đỗ Gia Trang, ta đánh nhau với bọn lính người Bắc cũng vậy thôi. Chẳng khá hơn là mấy. Có Sĩ Giao quân sư chứng kiến đó.

Chí Liệt như nhớ ra chuyện khi đêm hỏi Sĩ Giao, lại hỏi Gã Quỷ:

- Nhà ngươi ngày qua lên núi kiếm gỗ củi có thấy gì hay không?

- Ta thấy thú rừng đi chơi, chim ca nhảy nhót và khe suối nhỏ ở đằng kia.

- Còn gì nữa hay không mà ngươi đi từ chiều đến khi mặt trời khuất núi mới về?

Thấy gã ấp úng, Chí Liệt giật lại niêu xôi về phía mình mặt nghiêm nghị hỏi:

- Nhà ngươi còn giấu giếm điều gì hay không?

Gã nhìn Sĩ Giao lắc đầu liền lắp bắp:

- Ta… ta có gặp mấy đứa con gái lên núi hái quả nên đi theo bọn nó.

- Hái quả ở đâu? Nhà ngươi hung tợn như quỷ dữ, ngươi đi theo bọn ấy chúng thấy ngươi chẳng chạy mất à?

- Ơ hay. Ta thì sao? To khỏe như ta bọn con gái đứa nào chẳng thích.

- Cái mặt nhà ngươi ấy, ta là con gái thì ta chạy trốn cho nhanh chứ to khỏe gì. Nói mau. Bọn nó lên đấy làm gì? Rồi có chuyện gì xảy ra.

- Thì ta theo bọn con gái ấy đến đỉnh núi, thấy có mấy gã ở đấy đợi bọn ấy đến. Thế rồi bọn nó giao hợp với nhau ở cái bàn đá trên đỉnh núi cao kia. Đợi bọn nó giao hợp xong, có đứa con gái mặc áo hồng mặt đẹp như tiên nữ đi sau cùng ta bắt được rồi giao hợp với nàng. Nàng chẳng chống cự gì lại còn nũng nịu ta ở lại chơi với nàng ấy nên ta mới về muộn. Nàng còn tặng ta mảnh vải hồng làm tin, hẹn ta chiều nay quay lên đỉnh núi gặp nàng.

Bọn lính tráng xì xào bàn tán, Chí Liệt mặt nghiêm nghị:

- Việc quân tình không lo, lại còn đi chơi bời, trai gái. Quân sư ghi lại phạt hắn trăm roi để hắn nhớ cũng là để cho những kẻ khác lấy đó làm gương.

- Đợi ta ăn xong rồi hãy phạt. Đánh ta hai trăm doi cũng được.

Gã cười hả hê. Ăn xong Gã tự mình sai hai tên lính to khỏe nhất cầm roi mây đánh lên người hắn hai trăm roi. Đánh được một trăm roi thì hai tên lính tay mỏi rã rời, hai tên khác ra thay. Đánh hai trăm roi đã rồi, Gã như được giãn gân cốt đứng dậy vươn vai cạnh đó là chục cái roi mây đã nát vụn. Bốn tên lính mệt nhoài vội chạy đi sợ gã nhớ mặt lại rước họa về sau. Gã kéo một tên lại nhấc cổ lên, mặt tên ấy tái xạm như con gà vừa bị cắt cổ xin gã thả xuống. Gã cười lớn rồi thả tên lính tội nghiệp kia xuống đất:

- Bọn bay lính tráng mà đánh người như gãi ngứa vậy đánh giặc, bắt cướp làm sao? Bọn cướp vốn hung tợn, máu liều chém giết không ghê tay. Chỉ e thấy chúng các ngươi co vòi mà trốn chạy.

Nói rồi Đỗ Đại sai đám lính dựng lại cột chùa vừa gãy, tên nào tên ấy mệt mỏi rã rời sau một trận mưa đêm. Thấy bọn lính uể oải, Chí Liệt nói với Sĩ Giao:

- Rừng thiêng nước độc, càng ở lâu e rằng bọn cướp lợi thế hơn. Sĩ Giao có kế gì hay chăng?

Sĩ Giao nhìn về phía chân núi có mấy cây gỗ mục và đám lá khô, một con cáo đuổi theo một con gà tre. Cáo vồ nhanh về phía con gà, gà nhảy lên cành cây phía trước thì cáo bị thụt sâu dưới đám lá cây cố ngoi ngóp lên trong vô vọng. Sĩ Giao nhoen miệng cười gọi Gã Quỷ lại gần nói nhỏ vào tai gã, xong rồi bàn bạc với Chí Liệt một hồi. Đám lính khi đó chạy ra bắt lấy con cáo xẻ thịt nấu cháo sang chia cho được gần hai mươi người ăn.

Nắng lên xiên qua ngọn cây, Chí Liệt vẫn mải miết luyện binh và không ngừng nghĩ về mảnh vải hồng mà Sĩ Giao sáng nay đã đốt. Không yên lòng nhân lúc Sĩ Giao đi thám thính tình hình, Chí Liệt lại gọi Gã Quỷ tới dò la. Gã Quỷ nghĩ là Thiếu chủ muốn đánh nhau bèn ra chiêu trước nhưng được hai chục hiệp thì Thiếu chủ khóa thế dừng đánh, lại rót vào tai Gã Quỷ lời dụ:

- Sáng này đương dở câu chuyện. Ngươi hãy kể tiếp cho ta. Cô gái kia đưa mảnh vải ấy rồi thế nào?

Gã Quỷ cười lớn:

- Mảnh vải hồng ấy à? Nàng ấy viết tên ta lên đó. Nàng ấy hỏi tên ta, ta bảo nàng ấy viết tên ta và nàng ấy lên mảnh vải ấy để làm tin. Chiều nay ta sẽ dắt huynh đệ qua đó gặp bọn con gái ấy..

- Có thật là như thế chăng?

- Là thật. Nhà ngươi không tin thì chiều nay ta dẫn người đến đó. Ngươi chọn lấy một nàng.

- Ta không hỏi chuyện đó. Là những chữ trên mảnh vải kia. Nhà ngươi họ Đỗ tên Thăng, cớ sao lại có chữ Dương trên đó?

- Ta không biết chữ nên mới nhờ nàng ấy. Mà tên ta là Dương Diện hộ sư tướng Đỗ Tồn Thăng. Có chữ Dương đấy.

- Dương Diện là mặt dê chứ đâu phải chữ Dương kia.

- Xằng bậy. Quân Sư huynh nói với ta, Dương Diện là mặt trời sáng rực giác ngộ tâm ta u tối.

Nói vậy, Chí Liệt mới chẳng nghi ngờ nữa. Đỗ Đại đi tuần núi nửa ngày, báo lại cho Chí Liệt thiếu chủ :

- Bẩm Thiếu chủ. Xung quanh phía nam núi này có nhiều hố sâu, ong lấy nó làm tổ đến cả trăm. Sĩ Giao sai ta cùng đám lính đi kiếm lá có, cành khô mục đánh đủ hai đống cao ở kia. Xin thiếu chủ liệu việc.

Chí Liệt nói với Đỗ Đại sai hai chục tên lính dọn sạch cỏ bụi dẫn đường đến những tổ ong ấy, cho người đi lại thật nhiều để đất ấy phẳng nhẵn như đường đi đã có từ lâu. Chí Liệt chia cứ hai lính một hố sâu đầy ong phủ lên lá khô và cành mục, lại lựa ra miếng gỗ dày mỏng khác nhau đi qua mỗi hố ấy. Một lối đi chắc chắn người giẫm lên cũng không rơi xuống, một lối đi chỉ cần giẫm nhẹ cả người sẽ rơi xuống hố đầy ong.

Sau giờ mùi, Chí Liệt cho quân phục tại mỗi hố ấy như đã định từ trước. Đỗ Đại cùng Gã Quỷ cùng hai mươi tên lính cởi bỏ hộ giáp, người nào người nấy bôi đất lên người, nhem nhuốc. Kẻ đóng khố, người áo quần xộc xệch, tay mang theo đoản đao, giáo ngắn hướng đỉnh núi phục sẵn ở đấy chờ đám con gái lên chỗ ấy giao hợp.

Đến giờ thân ba khắc, như lời Gã Quỷ nói đám con gái ấy đến lưng núi thì đám lính xô ra tóm lấy mỗi người một cô gái, còn hơn hai chục đứa túm tụm với nhau sợ hãi. Đám con gái thấy người lạ mặt hốt hoảng la toáng lên. Gã Quỷ nhảy ra dùng đoản đao kè cổ cô gái đi đầu, dọa lớn:

- Lũ con gái các ngươi. Im lặng! Không ta cho một đao chết cả lũ bây giờ. Ngoan ngoãn chiều theo ý bọn ta thì sẽ được sống. Đừng có để ta mang tiếng giết đàn bà.

Bọn con gái thi nhau cúi vái xin tha mạng. Nói rồi, Đỗ Đại ra hiệu cho mấy ả. Đỗ Đại giọng vang vang nói:

- Lũ con gái các ngươi. Không ở nhà lo liệu việc nhà, khăn nhung áo lụa thơm tho đến núi hoang này là cớ sao?

Có người con gái chỉnh lại áo tóc, dáng thướt tha, nước da trắng ngần như tuyết đỉnh Mẫu Sơn, tóc đen nháy tựa mun gỗ, đôi mắt ngọc xanh biếc bước tới, giọng yểu điệu sướt mướt :

- Bẩm các huynh đệ. Bọn tiểu nữ chẳng dám giấu. Ngày trước làng phía chân núi Đông Bắc trù phú, màu mỡ. Từ khi quan sứ Hành Lập về Giao Châu này, bắt trai tráng trong làng đi lính, đánh giặc Chà Và, Lâm Ấp, mọi rợ Man Hoàng, cả đám thanh niên trai tráng phải đi, số về thì thương tật, còn lại thì ở trong quân ngũ. Còn lại lũ con gái chúng tôi. Nơi đây, cả mấy vùng xung quanh đây cũng như vậy.

- Thế nên các ngươi đến đây tìm bọn cướp cho thỏa khao khát làm vợ hay sao? Bọn ta cũng là cướp đây. Đi theo bọn ta, có cơm ăn áo mặc, khỏi phải chốn chui lủi ở xó núi này. – Gã Quỷ trêu ghẹo đám ấy rồi cười ngặt nghẽo.

Cả đám cười lớn. Đỗ Đại quắc mắt nhìn khiến bọn lính im bặt.

- Ấy thế mà các ngươi bán mình cho giặc cướp hay sao?

- Nói ra chỉ sợ các anh hùng khinh bọn tiểu nữ. Bọn này cũng là chân yếu tay mềm. Đương đêm bọn chúng vào làng cướp phá. Lũ con gái chúng tôi cùng với người già, trẻ con sao có thể chống lại được. Thôi đành ngậm ngùi theo bọn chúng. Nay chẳng thể rời được.

Đỗ Đại toan thả bọn gái ấy ra. Thì thầm vào cô gái ban nãy nói điều gì đó rồi cho lệnh thả đám con gái ấy đi. Mặt nàng kia đon đả, lẳng lơ gọi bọn con gái ấy lên núi. Gã Quỷ thấy lạ hỏi Đại :

- Miếng ngon đến miệng, sao anh nỡ thả bọn chúng đi.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.


Chương 3.2 Thiện tướng Bình Nam đả tứ hổ

Đỗ Đại thả đám con gái đi vào trong núi khiến mấy tên lính bứt rứt trong người toan đuổi theo đám con gái ấy. Đỗ Đại ra hiệu cho đám lính lui lại. Mỗi người tìm lấy một gốc cây, tảng đá lớn để núp. Chưa đây một khắc sau, toán con gái ấy cởi bỏ xiêm y, mỗi người chọn cho mình một chỗ như đã định sẵn từ đầu. Có một cô gái còn chần chừ không cởi. Đỗ Đại sinh nghi theo dõi từng động tĩnh của cô gái ấy. Còn đám lính kia chằm chằm nhìn về bọn con gái đang ở trần với ánh mắt thèm khát.

Từ phía sườn trái xuất hiện chừng trên chục tên cướp kè kè bên mình là giáo dài, trường đao. Có tên dáng vẻ thủ lĩnh đi từ sườn núi phải sau đấy là mười mấy tên lâu la.

Bọn lâu la toan cởi quần áo chọn lấy cho mình một cô gái thì tên thủ lĩnh ấy gọi một tên khác lại gần bàn bạc to nhỏ. Ánh mắt đong đưa của cô gái ban nãy khiến Gã Quỷ không kiềm chế được tạo tiếng động lớn, cây thông gãy xuống. Cô gái khi nãy chưa bỏ xiêm y hét lớn lên :

- Các anh ơi. Bọn cướp vặt kia định giở trò đồi bại với tụi thiếp.

Hô lớn, Đỗ Đại cho đám lính nhảy ra, tay giữ chắc đoản đao cùng giáo ngắn. Gã Quỷ thét lớn :

- Lũ giặc cỏ các ngươi còn không chịu đầu hàng. Ta là Dương Diện Lão Quỷ Đỗ Tồn Thăng đây.

Tên thủ lĩnh đứng lên đầu ra hiệu cho đám lâu la tập hợp gươm giáo như muốn ăn tươi nuốt sống Gã Quỷ cùng bọn lính. Y cười lớn :

- Ra là gã mặt quỷ! Chui rúc đám quan lại Tống Bình mà làm tướng đây à! Ngày trước đánh nhau với huynh trưởng ta ở bến Bình Than chẳng suýt mất mạng, nay tới đây nạp mạng chăng.

Gã Quỷ gào thét khiến cây rung, chim bay toán loạn. Đỗ Đại quát lớn :

- Lũ cướp các ngươi còn không mau đầu hàng.

Nói rồi hai chục tên lính xông lên phía trước khua múa đao kiếm vờ như đánh. Bấy giờ đám lâu la giương gươm giáo toan đánh lại thì Đỗ Đại ra hiệu cho đám lính chạy tứ phía theo đường mà Thiếu Chủ đã tính từ trước đó. Chạy được một đoạn thì cứ mỗi nhánh đường thêm hai lính chạy ra, chẳng mấy chốc số lính đông gấp đôi bọn cướp.

Nhìn vậy, tên thủ lĩnh huýt sáo cho bọn lâu la chạy lại. Có tên dáng người thấp tẹt, mũi to như quả cà chua, đầu quấn khăn vàng, mắt híp tiến đến thủ thỉ vào tai tên thủ lĩnh :

- Ta mắc bẫy chúng rồi.

Hắn cười lớn:

- Cái tên thất phu nhà ngươi! Phàn Du trước giờ dùng mưu giết chết bao nhiêu kẻ. Nay các ngươi dùng mưu cũ rích ấy đừng hòng giết được ta.

Nói xong, từ hai phía sườn núi bọn cướp từ đâu ra đến cả năm chục người. Đỗ Đại tỏ vẻ rụt rè hỏi :

- Các ngươi ai dám xông lên trên kia bắt cướp.

Cả đám lính bước lùi lại một bước, duy chỉ còn một tên lính còi cọc miệng há hốc. Dương Diện dùng sức hẩy hắn lên ngã dụi mặt xuống đất. Dương Diện thét lớn :

- Hèn quân. Hãy xem ta đây.

Gã Quỷ lao lên như tảng đá lăn ngược dốc, gã dùng dao quắm cắt đứt đôi cây thông lớn. Bọn lâu la cướp vẫn tiến lên, tên thủ lĩnh cầm cây nỏ bắn xuống phía dưới sượt qua đầu gã quỷ. Gã giật mình thấy tóc rơi xuống, hét lớn :

- Lũ cướp khốn nạn. Cậy trên cao lại có nỏ bắn. Có giỏi thì xuống đây đấu với ta so cao thấp, mạnh yếu.

Tên thủ lĩnh hò hét đám lâu la chạy xuống phía dưới hòng truy giết. Đỗ Đại cho quân rút lui như khi nãy trốn chay. Tên thủ lĩnh cười lớn, chạy đuổi theo, vừa chạy vừa nói lớn :

- Giờ thì xem các ngươi còn mai phục bằng gì ?

Tên lùn khi nãy gọi thêm một đám lâu la nữa đuổi theo trợ giúp tên thủ lĩnh. Đám lính chạy toán loạn, lựa đường chạy qua đám cỏ khô, lá khô. Bọn cướp đuổi theo khắp ngả ấy chạy đến những chỗ ấy, thấy bọn lính chạy qua được cũng đuổi theo qua đấy. Đám lâu la không biết chạy qua chỗ yếu, ngã thụt xuống những hố đầy ong. Được nửa canh giờ, bọn cướp người chết vì ong đốt, kẻ thoát được lên hố được thì cũng bị quân lính cầm đuốc từ xa ném vào mà chết cháy. Còn lại chừng mười tên lâu la và đám con gái chạy xuống núi toan tìm lối thoát thì bị đám lính chặn giữ lại. Hai tên cầm đầu bị trói dắt xuống chân núi.

Đêm ấy, Chí Liệt cho người tra khảo bọn lâu la bị bắt, không tên nào chịu khai đường vào động cướp. Chí Liệt cho giết bảy tên. Hai tên thủ lĩnh cứng đầu luôn miệng nói :

- Cha mẹ chúng mày. Dám lừa ông mày. Đại ca ta sẽ giết chết hết lũ chúng mày.
Hai tên ấy gào thét đến nửa đêm thì đói lả đi. Gã Quỷ uống rượu rồi đùa giỡn với một đứa con gái mà gã giữ lại, trước mặt hai tên thủ lĩnh. Gã rót rượu vào bát rồi đưa lên miệng đưa cho tên thủ lĩnh người cao lớn. Y nhổ nước bọt vào bát ấy, Gã Quỷ giận lên đập bát vỡ, lấy mảnh vỡ lên rạch vào lưng y. Y không nhúc nhích, mặt căng lên như sắp nổ, đôi hàm nghiến chặt ken két. Gã Quỷ hét lớn vào mặt y:

- Là nhà ngươi muốn vậy. Lính đâu lôi ả người tình của hắn kéo lên đây.

Gã Quỷ định lột sạch quần áo trên người ả xuống thì Chí Liệt dùng gậy gõ vào đầu hắn :

- Ngươi lại định làm điều xằng bậy gì nữa đây ? Còn không mau đi kiếm quân sư về đây. Nửa đêm rồi, chưa thấy đệ ấy về. Không biết là có xảy ra điều gì không nữa.

Có tên lính hớt ha hớt hải chạy từ phía Bắc về, chân tay lẹo khẹo vấp phải gốc đa nổi trên mặt đất. Mặt tím tái tên ấy thở không ra hơi nói :

- Bẩm chủ tướng ! Quân sư chở vàng bạc châu báu qua chân núi phía bắc thì bị toán cướp ấy xông ra cướp. Cả người và ngựa giờ không thấy tăm hơi.

Chí Liệt đấm vào tay mình, tự nói với mình :

- Quả nhiên, Sĩ Giao liệu tính như thần. Giờ chỉ còn…

Đỗ Đại từ phía chùa dưới chân núi chạy về báo:

- Bẩm thiếu chủ. Khi tối, đám lính dò đường đi cùng hai đứa con gái và tên lâu la đã tìm được đường vào động cướp.

- Thế tên lâu la ấy đâu?

- Ta dọa hắn, hắn sợ quá ngã xuống núi mà chết rồi. Còn hai ả kia ta tha cho về làng cũ rồi.

- Vậy ngươi cùng ta đi ngay lối đỉnh núi rồi sang bên động. Mở một lối để tướng sĩ rút thật nhanh. Chúng ta đột nhập động ấy mà bắt sống bọn cướp. Gã Quỷ cầm một trăm lính tức tốc đến chân núi phía bắc cùng Sĩ Giao giải vây đánh hai mặt vào động ấy. Ắt chúng sẽ bại.

Nói rồi, Chí Liệt dẫn theo một trăm lính mở đường lên đỉnh núi từ sườn nam, đến đoạn có nhiều bàn đá thì chia đôi đường. Đỗ Đại dẫn năm mươi lính đi sườn phải, Chí Liệt dẫn năm mươi lính đi sườn trái. Tay cầm đuốc, tay cầm đoản đao, giáo ngắn bọn lính hô hào, chí khí ngút trời.

Bọn cướp trong đêm bị tập kích bất ngờ, không kịp trở tay, nháo nhác tìm vũ khí chống trả lại. Đám lính lại ném đuốc vào những chỗ dễ cháy, gió đông nam theo sườn núi khiến lửa bén nhanh, chẳng mấy chốc đã thiêu rụi toàn bộ lều tranh của bọn cướp. Chí Liệt giương cung bắn hạ cờ xí của toán cướp trên đỉnh núi. Cờ rơi xuống đống lửa mà cháy tiêu tan. Lúc ấy có hai tên mặt dữ như cọp chạy tới chỗ Chí Liệt, một tên hơi thở còn nồng nặc mùi rượu, ria mép lếch thếch như con mèo ăn vụng, mồm méo xệch nói giọng của người phía tây sông Đáy, đều đều mà không phân biệt nổi thanh tiếng:

- Cái lũ kia ! Đang đêm dám xông đến đây đốt phá. Bọn mày không muốn sống nữa chăng?

Chí Liệt nói lớn :

- Ta là An Dương thiện tướng, người Hoan Châu dòng dõi Dương gia. các ngươi còn không mau mau đầu hàng.

Cái tên mặt lông mày rủ xuống quặp lấy hai bên sẹo ở đuôi mắt, mặt lúc nào buồn rười rượi nhìn như chó vùng Tây Lương, hắn nheo mày càng hiện lên nhiều nếp nhăn, giọng nói huênh hoang :

- Cái lũ phản chủ họ Dương. Chúng mày không biết bọn này là thế nào không mà dám đến đây phá phách. Ta đây là Đại Bạch Hổ Mão Tử Hùng.

- Lục Bạch Hổ. Cả cái vùng Lĩnh Nam này chỉ nghe thấy tiếng thôi là đái ra quần rồi. Bọn trẻ con quấy khóc chỉ cần nhắc đến cũng nín thinh. Ta đây đại danh Nhị Hổ Giang Hoài – Cái tên mặt như mèo vụng vỗ ngực, mặt vênh vênh.

Chí Liệt cười lớn:

- Lục Bạch Hổ á? Nghe lục súc thì hợp với bọn bay hơn. Bọn bay thằng thì lùn thấp, mặt con lợn, đứa thì lạch bạch, giọng quang quác như gà vịt. Lại thêm hai cái mặt nhà các ngươi nhìn khuyển hoang, mèo dại. Hổ cọp cái nỗi gì !

Đỗ Đại cùng đám lính ùa theo cười hả hê.

Có tên lâu la đứng cạnh ấy, cái khố đùm còn lộ nguyên đôi mông trắng, chổng lên trời mà khoe :

- Mẹ chúng mày. Có biết đây là gì không?

Đỗ Đại xông lên, đạp thẳng vào mông hắn một cái dúi dụi. Tên thủ lĩnh mặt nhăn lấy dao găm trong tay áo, rạch phanh áo ra mà khoe từng thớ vằn trên người. Hắn gầm gào, đôi tai nhúc nhích. Đôi tay mang đôi Lưỡng long thần trảo sắc lẹm chém tảng đá vỡ làm năm mảnh. Hắn lại gầm gừ, đôi mắt sọc lên như hổ dữ xông thẳng vào Chí Liệt mà chém giết.

Chí Liệt lùi lại, rút gươm ra đấu với hắn. Đánh qua đánh lại hai chục hiệp thì gã xô Chí Liệt ngã ra đất. Tên còn lại dùng cung toan bắn Chí Liệt thì Đỗ Đại xông cầm đoản đao phi trúng gãy đôi cây cung. Tên ria mép lệch xệch ấy lại dùng Hỏa phụng trượng xông tới đánh với Đỗ Đại.

Chí Liệt đứng dậy xuống tấn dùng xà quyền lựa theo thế võ của tên thủ lĩnh kia mà đánh. Đánh được gần trăm hiệp thì Chí Liệt nhặt kiếm lên chém thẳng vào đôi Long thần trảo. Ánh kiếm trong lửa sáng lòa đôi mắt của tên thủ lĩnh kia, hắn đứng thế tựa hổ ngồi đỡ đòn.

Kiểm sắc gẫy đôi khiến Chí Liệt giật mình. Chí Liệt nghĩ trong đầu chẳng thể đấu lại hắn, toan tìm kế mà trói hắn lại. Chí Liệt chạy tới một gian nhà tranh còn chưa bị cháy trốn đi. Hắn gầm gào đuổi theo nhanh như cọp rình mồi, gã đạp thẳng cửa xông tới. Đôi chân găm năm móng sắt, hắn trèo nhanh nhẹn lên kèo nhà toàn tìm Chí Liệt.

Chí Liệt từ trên mái nhà dùng giáo đâm thẳng xuống vai hắn. Hắn né được, dùng chân với vuốt sắt toan đạp trúng bụng Chí Liệt. Thiếu chủ rơi nhanh xuống dưới tránh được đòn hiểm. Chàng dùng đoạn kiểm gãy, toàn bộ sức lực dồn đầu kiếm chặt gẫy cột nhà khiến bờ tường vỡ vụn. Hắn ngã làm cái rầm, phía bên ngoài Đỗ Đại dùng gậy vụt trúng đầu hắn thì tên thứ hai dùng trượng nhảy tới đánh sượt qua vai Đỗ Đại. Hai người cùng chạy ra ngoài, trước sau hợp nhất tạo thế Long Phượng tụ quần. Hai tên cướp hung tợn miệng méo xệch nhìn với ánh mắt dữ dằn lại xông tới muốn giết ngay Chí Liệt và Đỗ Đại. Bốn người đánh qua đánh lại thêm hai trăm hiệp nữa vẫn chưa phân thắng bại.

Lửa cháy mỗi lúc một lớn hơn, Chí Liệt cho quân rút theo đường đã mở từ trước. Đoàn quân rút đến sườn núi phía nam, bọn cướp cũng kịp chạy tới chỗ đấy. Có tiếng hô hào lớn từ chân núi phía Đông chạy sang, nghe ra giọng Gã Quỷ, Đỗ Đại cho quân dạt về hai bên. Toán cướp nghĩ là quân lính trốn chạy, viện quân của mình chạy đến đứng lại cười lớn :

- Lũ quan quân hèn nhát. Phen này bọn mày sẽ biết Lục Bạch Hổ thế nào!

Có tên lâu la hớt hải chạy lại, cầm đuốc ném thẳng vào chân tên Đại Hổ. Hắn lắp bắp hoảng sợ :

- Là… là gã Dương Diện Lão Quỷ Tồn Thăng.

Tên Đại Hổ biết chẳng còn đường lui sai đám lâu la quyết liều chết một phen. Đánh được nửa canh giờ thì toán cướp chết đến hơn nửa. Số còn lại đầu hàng, quân lính bắt giữ trói lại giải về thành Luy Lâu đến tám chín chục tên. Tên Đại Hổ cùng với Nhị Hổ đánh với Chí Liệt cùng Đỗ Đại được năm mươi hiệp thắng thế, toan chạy trốn thì bị Lão Quỷ giật bẫy tóm gọn cả hai. Thừng thít chặt đến mức nghẹt thở khiến bọn chúng không thể nhúc nhích. Sáng ngày sau, Chí Liệt sai lính giải hai tên ấy cùng hai tên bị bắt khi chiều trên núi.

Lại nói về Sĩ Giao, đêm ấy, chàng cùng đoàn tùy tùng khoảng chục người vờ vận chuyển vàng bạc đi đường qua chân núi phía bắc. Lại sai năm mươi lính phục sẵn dưới con kênh gần đó, hễ toán cướp đi từ phía bến Bình Than thì chặn đánh. Năm mươi lính mai phục từ dòng kênh phía bắc khi nào lửa đốt trên núi Lạn Kha thì xông ra đánh giết cướp. Còn lại bốn mươi lính phục dưới làng giữa khe núi chờ lệnh.

Đêm đó, Sĩ Giao bị tên thủ lĩnh sẹo xẻ ngang vai, đám lâu la gọi là Hống Sửu bắt được. Sĩ Giao bị trói vào gốc cây thông lớn chân núi phía Bắc. Một tên lính vờ đau bụng đi tiện thì nghe tiếng hô hào từ trên đỉnh núi giữa đêm. Đám lâu la toán cướp hỗn loạn. Tên lính ấy dùng dao cắt đứt thừng trói Sĩ Giao.
Sĩ Giao ra hiệu cho quân lính đánh từ phía bờ kênh lên chân núi, chém giết một trận. Đến giờ thìn trời sáng, nửa núi phía bắc cháy rụi, bọn cướp, đứa bị cháy, đứa bị lính dùng thương đao chém bốn phần chết ba. Hai tên thủ lĩnh đứng đầu bị Chí Liệt bắt sống.
Bốn tên thủ lĩnh bị bắt trói, đứa nào đứa ấy mặt giữ tợn như cọp, lại có bớp trắng từ cổ lên đến gáy, vằn đen như da hổ nên mới gọi là Bạch Hổ. Sáu tên cả thảy, còn hai tên kẻ đã chạy trốn. Đả bại toán cướp ấy, Dương Chí Liệt được dân vùng ấy tụng là Đại hổ Bình Nam, ngày rằm mồng một lên chùa chân núi phía nam thắp hương thờ sống, dân chúng vùng ấy có bài thơ mà khấn rằng:

”Bình Nam đả hổ cứu người

Uy vang lừng lẫy khắp trời Lĩnh Nam.

Kể rằng dân đói lầm than,

Thương nhân khiếp hãi, quân quan ngậm ngùi.

Làng trên xóm dưới lửa thui

Núi cao sông lớn dập vùi dưới chân

Gái trai lớn bé xa gần

Hễ nghe tiếng ấy mà dần chạy xa

Lúa còn son sắt lụa là

Trâu thời bú mẹ, đàn gà còn thơ

Hôm nào sáng sớm tinh mơ

Một đàn hổ quạ chẳng chừa một ai

Cô nàng yếm áo sờn vai

Anh chàng khố rách soạn bài thơ hay.

Cầm cày, hái lúa mỗi ngày

Chuối kia em bón, bòng này anh chăm.

Ở đâu hổ báo, rắn trăn

Ngày qua phá ruộng, nong tằm cháy khô.

Chuối chưa chín, bòng chưa to

Giặc kia kéo đến xéo cho nát nhừ

Dòng trong nước chảy lững lờ

Tay chèo, tay kéo những giờ trăng lên

Líu lo trên bến dưới thuyền

Cá tôm tanh tách chim khuyên mừng lòng.

Bỗng đâu ngạc quái giữa dòng

Xô người chèo lái, lại hòng cướp ngư.

Than ôi cái phận thủ từ

Sớm chiều quét lá cùng sư kinh thiền

Chúng dân thương xót cùng quyên

Trăm đồng, một nén chút tiền nhang hoa.

Ấy rồi hổ báo lại qua

Phật rơi nước mắt, lệ nhòa đôi vai.

Liệu ai đủ dũng đủ tài,

Đánh tan hổ báo ương tai bớt dần?

Bình Nam chẳng quản tấm thân

Ngày đêm phục kích đỡ dần tiếng than

Đêm kia động cướp hoang tàn.

Quân sư mưu trí, Bình Nam nghệ tài

Tồn Thăng võ dũng giương oai

Lão ngư Đỗ Đại sức ai địch bằng.

Lưỡng hổ cậy dũng hung hăng

Bình Nam khéo bẫy san bằng núi Tiên.

Nay thời giặc cướp đã yên

Thành tâm kính bái dâng lên thánh hiền.”

Diệt xong giặc cướp khét tiếng vùng đông du, dân chúng vùng ấy hả hê lắm. Trẻ con, người già đi lại thấy yên lòng. Những con buôn, thổ hào cũng thở phào vì đường gần dễ đi mà chẳng sợ cướp. Vàng bạc của cải bọn cướp cất giữ Chí Liệt đem chia hết cho người dân vùng ấy. Chùa chiền, đền miếu không kể lớn bé cứ quanh đó năm mươi dặm cũng được tu sửa bằng tiền ấy.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.


Chương 3.3 Mầm thạch long

Ngày đẹp cuối tháng tám, Đỗ Đại nhận lệnh về huyện Chu Diên nhậm chức. Sĩ Giao ngồi dưới gốc thị chùa Kiến Sơ nhìn về núi thiêng ấy mà thở dài. Chí Liệt hỏi:

- Thù nhà nợ nước đã trả. Quân sư sao vẫn thở dài?

- Chẳng giấu gì huynh tướng. Từ ngày Đỗ Gia Trang bị thảm sát, tám anh em chúng tôi chia đôi ngả đường. Sĩ Giao tôi, huynh trưởng Đỗ Đại, em trai Sĩ Hoàng cùng tâm phúc Đỗ Dụng ngược dòng Vân Cừ thì bị cướp. Đỗ Đại cùng ta chạy về được Giao Châu, lấy đất Luy Lâu làm ruộng, chài lưới nơi sông Cái, sông Thiên Đức cho đến nay cũng đã quá ba năm. Sĩ Giao may mắn được qua lại La Thành, ra vào trị sở Tống Bình. Lúc nguy nan lại được chủ công cứu giúp. Nay nghĩ về Đỗ Dụng và em trai thiếu may mà thấy buồn thay.

- Chí trai muôn phương vùng vẫy. Sinh ly tử biệt biết mấy thì. Quân sư chớ phiền lòng. Cùng ta lên núi Tiên Du vãn cảnh kiếm vui chăng?

Sĩ Giao cùng Chí Liệt thúc ngựa đến núi ấy, ngắm cây hoa, cây liễu làm vui. Trên đoạn đường về, hai người gặp đám hòa thượng đang cùng kéo mấy xe gỗ nặng trĩu, lại cả đá thạch kỳ quái. Chí Liệt dừng lại hỏi đám ấy :

- Chẳng hay những thứ này các tăng chở đi đâu?

- Chúng tăng đi từ Tiên Du mang về Đại tự hương Phù Đổng. Núi ấy nhiều dị thảo kỳ hoa mọc trên đá, sư phụ kêu chúng tôi tới đó mang về.

Sĩ Giao đi một vòng quanh đám tăng nhìn thấy tảng đá dáng hình như đầu Rồng, lại có hai cây mọc ra như râu Rồng. Thạch diện có những nếp đỏ kỳ quái như văn tự cổ. Sĩ Giao hỏi đám tăng ấy:

- Đá này các tăng lấy ở đâu?

- Bọn tăng tôi lên đỉnh núi Tiên Du lấy xuống. Xưa có toán cướp ở đó dân chúng quanh đó chẳng ai dám lên núi ấy. Nay nhờ ơn Dương tướng quân diệt bọn ấy mà chúng tăng mới lên núi ấy kiếm về.

- Chẳng hay các tăng có thể tặng hai chúng tôi tảng đá này. Ta tặng các tăng một con ngựa đỡ sức kéo.

Đám tăng ấy bàn bạc một hồi, nói với Sĩ Giao :

- Hai vị thông cảm cho chúng bần tăng. Hay là hai vị cùng chúng bần tăng về Đại tự, trụ trì đồng ý thì sẽ tặng cho hai vị.

Hai người đi theo đám tăng ấy đến Đại tự kia, như đoán được trong đầu thì đúng là Đại Đường Nam tự. Sĩ Giao đứng xuống ngựa nhìn lại cảnh chùa một hồi lại hỏi :

- Có phải là Đại Đường Nam tự do vương tử Lý Đạo Cổ dựng chăng?

Có người bước từ hữu viên đại sảnh bước ra, giọng trầm mặc :

- Đại Đường Nam tự chính đây. Vương tử Đạo Cổ nơi xa không hay, quan sứ Tượng cổ chẳng còn thây. Chẳng phải hai người ngày nạp phật của Đại tự đã tới đây.

Chí Liệt giọng nói vang vang :

- Bọn giặc ấy, chữ vương tử nghe mà trướng tai.

Đám hòa thượng bảo nhau chạy vào hậu viên, chỉ còn lại vị cao tăng mặt đẹp như phật kia ở lại cùng hai vị tướng quân. Vị tăng ấy nói :

- Chốn phật môn, không phân biệt kẻ mạnh người yếu. Đức Phật từ bi có đức hiếu sinh mở lòng đón nhận mọi lòng thành.

Chí Liệt tức giận, mặt đỏ phừng phừng, tay nắm chặt dây cương quay ngựa ra phía cửa tự. Chí Liệt quay mặt lại mà hỏi:

- Ta nghe nói nhà ngươi là Đại thiền sư đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, tinh thông kinh phật, ngày ngày giảng giải đạo lý cho chúng dân phật tử. Cớ nào lại mê kỳ hoa dị thảo, sai đám tăng đi lên núi cao mà tìm kiếm thứ ấy.

- Nam mô a di đà phật. Phật tổ chứng niệm. Bần tăng đầu nào có tâm vị kỷ mê muội. Nơi ấy muôn thú chim muông hãi hùng đám giặc cướp, cỏ cây hoa lá chốn ấy cũng vì thế mà sinh ra kỳ dị. Chúng tăng mang chúng về đây chẳng có lòng khác, chỉ mong hướng chúng đến bản thiện như khi chúng được sinh ra, ấy rồi lại trả chúng về với nơi ấy cho muôn thú, chim muông có bạn có bầu.

Chí Liệt nói :

- Ra là như vậy. Ấy thế mà đám tăng đi lấy đá kia nói về hỏi sư ngươi đồng ý mới tặng cho ta đá ấy. Thế cớ làm sao?

- Đám đệ tử ấy là mong hỏi ý Phật. Tâm trong sáng Phật ý nghiêng lòng. Nay thấy Tướng quân khảng khái, tính tình bộc trực lại không mang xà tâm. Ý Phật đã nghiêng, mời hai vị tướng quân mang đá ấy về.

Như lời đã nói, Sĩ Giao tặng cho tự ấy một con ngựa khỏe. Hai người mang đá ấy về La Thành. Dương Thanh lấy làm kỳ lạ hỏi Sĩ Giao:

- Các ngươi mang mấy trăm lính đi bắt giặc cướp. Nghe rằng cũng hao tổn vài phần sức lực sĩ tướng.

Sĩ Giao bẩm lại :

- Giặc dữ trong thành, đồn trú thì dễ đánh. Bọn trộm gà cướp chó thì không đáng để bàn. Bọn cướp này tổ chức bài bản, kỷ luật nghiêm minh lại hung tợn hơn quân tướng nhà Đường gấp đến vài lần, lấy một mà địch được năm sáu, chém giết chẳng chút nương tay. Quân sĩ vừa trải qua chiến đấu ác liệt, bọn ấy lại dựa địa hình, thời tiết mà cản bước quân ta. Cũng vừa xảy ra chuyện hương Phù Đổng nên thành ra mới vậy. Mong chủ tướng minh xét.

Dương Thanh nghe Sĩ Giao phân trần cho là phải lẽ nên không dò xét. Sĩ Giao bàn
tiếp với họ Dương:

- Sĩ Giao thấy rằng. Đám người đến Đại tự hương Phù Đổng kia, chẳng phải bọn
tiểu nhân tầm thường. Chí Liệt thiếu chủ cũng đã nhìn thấy và báo lại cho chủ công. Mong chủ tướng sớm cho tra xét tránh hậu họa.

Dương Thanh cười lớn:

- Quân sư quá lo lắng rồi. Ta đã phái người giả làm chúng đệ tử để dò la tình hình. Chẳng hay viên đá này là như thế nào?

- Bẩm chủ tướng cùng thiếu chủ. Đá này bề ngoài có vẻ thô ráp xấu xí. Nhưng để ý kỹ một chút, dưới lớp ráp thô này là ngọc bích nảy mầm ra cây tạo thành râu rồng. Ấy là điềm lạ thứ nhất. Chủ tướng xem hình dạng nó, phía trên nhô cao như sừng của loài rồng, đôi mắt chính đây hai ụ lồi to, chỉ cần bóc lớp màng đá này ra sẽ là hai con mắt xanh ngọc. “Long Diện” lại có sọc thắng kẻ xuống đến “Long khẩu”, chính là chỗ này, ấy là mũi rồng. Mà rồng là biểu trưng của vương quyền. Chẳng phải chính là điềm báo tốt cho chủ công?

Dương Thanh nhìn lại viên đá ấy một lượt, hỏi Sĩ Giao :

- Có lẽ là Long Thủ, ấy nhưng lại có những nét nguệch ngoạc màu đỏ phía chính diện này có vẻ giống chữ viết của tiền nhân. Theo quân sư thì ta nên để viên đá này nơi nào?

- Phía cổng nam La Thành, đi hướng về hương Phù Đổng chừng hai trăm bước có kênh nước chẳng rõ nguồn từ đâu, có tự bao giờ nước trong vắt chảy vào trong lòng đất quanh năm không thấy cạn. Tiểu nhân nghe dân gian có huyền tích rồng trẫm mình chốn ấy mà tạo thành dòng nước ấy. Nay có đầu rồng chốn này, chọn ngày lành tháng tốt mời nhà sư đến, soạn sửa lễ vật, sai mười tám trai tráng trong thành ra ấy mà dâng lễ làm tế nhập thân cho rồng. Long này ngự ở cổng Nam La Thành vừa hợp với phận của chủ tướng.Ý rằng chủ công là người Nam, tổ tông lại ở phía nam đất ấy. Rồng phía nam ấy chính là ứng vào người đó.

Dương Thanh cười lớn. Hỏi Sĩ Giao :

- Chẳng hay mời sư thầy nơi nào? Ta có đọc chút thiên văn, thiên tượng nhưng vẫn muốn hỏi quân sư chọn ngày thế nào?

- Bẩm chủ công. Nay chủ công nắm Giao Châu, Đường triều xa xôi ngày một ngày hai chưa thể đến ngay, nhưng ắt sẽ đến nên không thể để lâu. Tiểu nhân bấm được ngày mùng tám canh ngọ là ngày hoàng đạo. Nhân dịp ấy mà thử lòng bọn tăng nhân Đại tự hương Phù Đổng.

- Quân sư thật hợp ý ta. Hai ngày nữa, Chí Liệt cùng quân sư soạn sửa lễ vật, chọn lấy lính tráng mà làm lễ tế. Nghe rằng từ Hát môn xuôi dòng Đáy chừng ba chục dặm đường, phía hữu ngạn có đất gọi là Phụng Châu, nơi ấy lại có thợ đục đá giỏi nhất. Sĩ Giao sai người mời người ấy về để tạc đá Long Thủ. Về phần sư thầy, ta cũng định mời đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng để xem lòng dạ bọn chúng thế nào.

Lại nói những ngày Chí Liệt diệt cướp ở núi Lạn Kha, Dương Thanh sai Triệu Hoằng cho người đóng giả kẻ học đạo về chùa Đại Đường ấy mà do thám tình hình để báo cáo lại cho Dương Thanh. Triệu Hoằng bản tính tham lam, yêu vàng bạc châu báu nên mấy tên quan lại ngày trước dưới trướng Lý Tượng Cổ đút lót cho hắn mỗi người mấy lượng vàng để được về chùa ấy nghe ngóng.

Nghe tiếng chùa ấy lớn, gỗ, gạch sơn ngói đều được rát vàng, thếp bạc, lại có vị cao Tăng tu ở đấy, nên đám dân chúng, con buôn khắp Giao Châu này về lễ lạc thật nhiều. Thấy như miếng thơm ngon nên càng có nhiều kẻ tranh nhau xin đi tới đó. Triệu Hoằng nhận lời, phái đi cả thảy bảy người. Được hai ngày, kể từ ngày Chí Liệt dẫn viện quân hai trăm lính đến Tiên Du, ba người bị chùa ấy từ chối không nhận làm phật tử, không cho nghe giảng kinh phật.

Triệu Hoằng bẩm báo lại cho Dương Thanh, Dương Thanh cho gọi ba người ấy đến dò hỏi:

- Các ngươi làm việc gì sai trái nơi cửa chùa mà để chùa ấy không nhận.

Có tên người mập mạp, da trắng bủng beo tiến lên mà bẩm :

- Bẩm chủ công. Chúng tôi tới chùa ấy cả thảy bảy người. Sau khi khai danh báo tên thì được một nhà sư nói giọng Quỳnh Châu dẫn ra một lối sau chùa dặn dò. Nói rằng chùa nhỏ, phật tử đông, xin chúng tôi về, sau này có dịp thì tới báo danh lần nữa.

- Hay bọn ấy tham của đút lót mà các ngươi không cho tiền bọn ấy?

Một tên dáng thư sinh bẩm lại :

- Triệu Đại nhân có dặn dò chúng tiểu nhân nhưng khi ở chùa, bốn người kia được nhận vào chùa thì nói lại với chúng tiểu nhân là không cần phải đút lót cho bọn ấy. Sau khi biết không được vào chùa học kinh, tiểu nhân cũng có gặp riêng vị sư ấy đút lót cho chút tiền nhưng vị ấy không nhận. Lại nói, có nhận tiền cũng không thể giúp được.

Ngày hôm sau, lại có một tên trốn khỏi chùa ấy về báo lại cho Triệu Hoằng. Hoằng bẩm lại với họ Dương. Dương cho gọi kẻ ấy lên. Giọng nói tên này không phải người Tống Bình, mặt mũi thâm tím như vừa mới bị đánh đập, Dương Thanh hỏi hắn :

- Nhà ngươi dò la tin tức gì chăng? Mặt mũi tại sao lại ra như thế?

Hắn lấm lét mặt, giọng run run :

- Bẩm Thiên thanh tướng quân. Bọn chúng nhiều kẻ không ăn chay, uống rượu, lại luyện võ suốt ngày. Đêm qua, tiểu nhân còn nghe được bọn chúng thì thầm to nhỏ thì bị bắt đánh cho thâm tím mặt mũi. Cũng may có vị tiểu hòa thượng cứu giúp nên mới chạy được ra ngoài.

- Nhà ngươi là người ở đâu? Tên họ là gì? Làm việc gì ở Tống Bình.

- Bẩm tướng quân. Tiểu nhân họ Ngô, tên Dụ, thân mẫu sinh tiểu nhân vào ban ngày nên vẫn gọi là Nhật Dụ, hiện đang là đốc mã Giao châu. Được giao quản lý số lượng trâu ngựa vùng Giao Châu này. Tiểu nhân sinh ra tại đất Đường Lâm. Tổ tiên ngày trước người quận Nam Hải, đất Phiên Ngung của Việt Vương thời chiến quốc, đến Ái Châu cầy cấy đến nay cũng được năm đời.

- Ra là thế. Ngươi có sợ chết không?

- Bẩm chủ tướng. Làm người ai chẳng sợ chết. Tiểu nhân cũng có gia đình, trên cha mẹ già, lại chưa lập gia thất, càng không muốn chết.

- Sao lại phụng sự dưới trướng tên ác nhân Tượng Cổ?

- Là phận tôi tớ, tiểu nhân không dám bàn.

- Ta nghe lời người khác nói Triệu Hoằng ăn đút lót của mấy người đến Đại tự hòng kiếm lợi vậy? Ngươi nghĩ làm sao?

- Là chủ tướng xin chủ công chớ vì những lời rèm pha mà nghi kị kẻ dưới.

- Nhà ngươi có hay không đút lót cho Triệu Hoằng. Hắn nói với ta nhà ngươi lòng dạ thật thà. Nhưng hắn lại sợ ngươi là người từng dưới trướng Tượng Cổ nên cũng có phần e dè.

- Nếu là Triệu đại nhân có lòng nhận của đút lót thì kẻ nào hám lợi cũng nhìn thấy điều ấy mà đút lót. Còn phận làm tôi tớ, tiểu nhân chỉ làm theo lệnh trên.

- Thế trên ngươi còn có ai ?

- Bẩm chủ tướng ! Trên tiểu nhân còn có Liễu tá đại nhân Đặng Khả.

Dương Thanh nghĩ một lúc, cười lớn :
- Là tên Liễu tá giữa chợ La Thành, một mình mắng chửi hai thằng cháu của
Tượng Cổ mà tên quan sứ ấy chẳng thể làm gì được? Ngươi làm đốc mã, động cơ gì muốn đến nơi Đại tự ấy.

Tên ấy lúm khúm bẩm lại :

- Là Đặng đại nhân nói với tiểu nhân. Lần này đến ấy, có cơ may thì tiểu nhân sẽ trúng lớn. Ấy thế mà tiểu nhân xin đi.

Dương Thanh mặt nghiêm nghị, nói lớn:

- Ta biết dạ nhà ngươi rồi. Thưởng cho ngươi hai lượng bạc. Cho nhà ngươi lui. Hễ có gặp họ Đặng ấy thì chuyển lời cho hắn như vậy là hòa vốn rồi.

Thấy dáng vẻ cậu ta có vẻ đường hoàng, trả lời những câu hỏi của Dương Thanh đâu ra đấy, đáo để đến kinh ngạc, Thanh lấy làm mến mộ lắm.

Dương Thanh hỏi Triệu Hoằng về cái tên Nhật Dụ này. Hoằng cho biết, ngày hôm trước, Dương Thanh sai Triệu Hoằng đi dò la Đại Đường tự thì Đặng Khả đại nhân có đến giới thiệu cậu ta cho Hoằng. Cậu ta năm nay mới tròn mười lăm mà dáng người vạm vỡ lớn hơn những thiếu niên tuổi ấy, tinh thông tính toán từ khi lên mười, được cha cho theo học ông thầy người Trung Nguyên tại hương Sơn Ổi, huyện Quân Ninh, Ái Châu. Nghe nói ngày trước, đất ấy có ông thầy người Trung Nguyên đến, thấy đất linh ứng mà mở lớp dạy học. Sau này học trò nơi ấy có vị tiến sĩ làm tới Tể phụ Đường triều thời Bố Cái Phùng Hưng.

Dương Thanh trộm nghĩ "Tuổi trẻ mà đã có tài, sau này ắt có tương lai sáng lạn. Hy vọng trời giúp ta, cho ta nhiều hơn những nhân tài như vậy."
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.


Chương 3.4 Đuổi cáo mời thầy tu

Chợt nghĩ, Dương Thanh nhận tin quân báo về:

- Bẩm chủ tướng. Ngoài trấn Hải Môn báo về, quân sĩ nhà Đường đã lui về Ung Châu, một phần lớn lực lượng đã rút hẳn về Quế Châu.

Dương Thanh cười sảng khoái, giọng đầy hào khí :

- Đúng là đám thối nát, rụt cổ rùa. Còn việc gì nữa hay không?

- Bẩm chủ tướng. Phía Đường triều cho sứ ban chiếu sắc phong chủ tướng làm thứ sử Quỳnh Châu. Hiện viên sứ Lỗ Hạo đang bị giữ lại ở trấn Hải Môn.

- Các ngươi mau dẫn quan sứ ấy tới đây. Các ngươi không được thất lễ. Trên đường tới đây, các ngươi đối xử tử tế với y chứ?

- Bấm chủ tướng. Thiếu chủ Chí Trinh đã có dặn dò lũ tiểu nhân. Hiện viên sứ ấy đang cùng thiếu chủ ở Hải Môn trấn.

Nửa ngày sau, Chí Trinh dẫn y về tới phủ. Dương Thanh sai lính giăng đầy giấy vàng mã khắp từ bờ bắc sông Thiên Đức qua cổng nam La Thành vào đến tận phủ. Thêm đó là các nhà trong thành đều treo cờ rủ trước cửa nhà. Viên sứ ấy thấy điều ấy làm lạ, liền hỏi Chí Trinh :

- Dương tướng quân này. Sao thành phủ lại giắc đầy vàng mã như vậy?

- Đại nhân không biết đấy thôi. Những ngày qua tướng phụ mắc bệnh lạ, người lúc nào cũng rầu não mà suy nhược đi nhiều. Người lại sợ trong thành có nhiều linh hồn chưa siêu thoát nên sai bọn tiểu nhân làm vậy để lòng thấy thanh thản với những người đã chết, cũng là đuổi trừ ma tà trong dân. Người hiện giờ đang ốm o nằm một chỗ, e là chẳng thể ra tiếp đón được ngài từ phía xa.

Viên sứ ấy cùng Chí Trinh vào trong phủ thấy Dương Thanh nằm trên giường, miệng há hốc, đôi mắt đờ đẫn, môi thâm sì. Y lại gần định hỏi thì Chí Trinh gàn lại:

- Ấy Lỗ Đại nhân. Người đường xa tới đây. Hãy cứ nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Bệnh của tướng phụ là kiểu phong hàn xứ nam, người từ xa tới rất dễ mà bị truyền sang.

Lỗ Hạo nghe vậy liền lui ra. Kéo Chí Trinh ra một góc mà nói :

- Bệnh này chờ trị xong có lâu hay chăng?

- Sớm nhanh chóng khỏi thì cũng phải ba ngày, mà lâu cũng đến cả tháng. Các lang sĩ nói với tiểu nhân tướng phụ có khỏi cũng phải hai tuần nữa mới dậy được. Tướng phụ lại chẳng chịu ăn uống gì nên là…

Chí Trinh thở dài. Lỗ Hạo lắc đầu, lại gọi tên tùy tùng vào mà bàn. Bàn xong, Lỗ Hạo lại hỏi:

- Dương Thanh như vậy thì ai cầm đất Giao Châu này?

- Chẳng giấu gì. Tướng phụ lại giao hết việc chính sự cho Đỗ quân sư. Còn việc Binh tướng là tiểu đệ của tiểu nhân Chí Liệt.

Lỗ Hạo ghé tai thì thầm với Chí Trinh:

- Dương Thanh thế kia thì chẳng biết có thể qua khỏi hay không. Hai người kia ta nghe nói cũng chỉ là hạng tầm thường, chẳng thể sánh được với Chí Trinh huynh đệ. Nay bản sắc phong này trong tay ta. Đêm nay canh ba…

Bỗng có tiếng ho sặc sụa từ phía giường trong. Chí Trinh quay vào nâng gối cho Dương Thanh. Lỗ Hạo chạy tới nói lớn:

- Này Dương Thanh kia. Triều đình có chiếu ban tước cho ngươi.

Dương Thanh hắng lên một hồi rồi thều thào trong vòng tay của Chí Trinh:

- Thật là thất lễ với Lỗ Đại nhân. Xin Đại nhân tha tội cho. Thanh tôi nào có tài cán gì mà triều đình sắc phong.

Thấy Dương Thanh yếu ớt, nói chẳng ra hơi. Lỗ Hạo chẳng vui vẻ gì nhưng vẫn miễn cho Dương Thanh, không phải bái lạy nhận chiếu. Dương Chí Liệt quỳ sát giường, mặt hướng về Dương Thanh, sau đấy nhận chiếu chỉ thay cha. Họ Lỗ ra ngoài phủ, vỗ vào cánh cửa ba cái rồi nói lớn :

- Ta về phòng trọ.

Đêm ấy, canh ba gà gáy, Chí Trinh cùng hai tên tùy tùng chạy tới quán trọ. Thấy đèn phòng trọ Lỗ Hạo còn sáng, cửa lại để hé, Chí Trinh gõ cửa ba tiếng. Lỗ Hào khệnh khạng chạy ra mở cửa, Chí Trinh nhanh chóng lẻn vào, ra dấu cho hai tên tùy tùng đóng cửa đứng ngoài quan sát. Lỗ Hạo hỏi Trinh:

- Dương Thanh nhận chỉ ý thế nào?

Chí Trinh lúi húi thò tay vào trong áo lấy ra ba thỏi vàng lúng túng nhét vào tay áo họ Lỗ. Họ Lỗ run bần bật nhận chúng rồi làm rơi một thỏi xuống dưới sàn gây tiếng động lớn. Tên tiểu nhị chạy tới thì bị hai tay lính giữ lại. Hắn nhanh nhảu hỏi vọng vào :

- Chẳng hay Đại nhân có chuyện gì không ạ?

- Không có gì đâu. Chỉ là ta đọc sách khuya mà ngủ quên mất, đánh rơi thẻ tre xuống đất. Có hai người đứng gác rồi, nhà ngươi cứ yên tâm mà lui xuống.

Tên tiểu nhị lui xuống đi ngủ. Không gian yên ắng trở lại, Chí Trinh thủ thỉ với viên sứ:

- Tướng phụ nói với tiểu nhân người yếu lắm, e là không qua khỏi. Chẳng thể đi Quỳnh Châu nhậm chức được. Đây có chút lòng thành của ta, mong Đại nhân giúp đỡ ta về bẩm báo với triều đình.

Lỗ Hạo nói khẽ khẽ :

- Được được ta hiểu.

Ngày sau, giờ thìn hoàng đạo, Lỗ Hạo được Chí Trinh tiễn đến tận trấn Hải Môn. Đi gần hết đất Lục Châu, đám quân lính An Nam cũng dần xa, tên tùy tùng mới nói lại với Lỗ Hạo:

- Đại nhân ở xa chắc chưa hay. Tên Dương Thanh biến hóa thần thông. Xưa Tượng Cổ Đại nhân cũng bị hắn vờ ốm, dọa cho kinh hãi.

- Nhà ngươi sao không nói từ trước với ta.

- Đại nhân quả nhiên từ xa tới không biết. Ban đầu tiểu nhân cũng nghĩ lời tiểu tử Chí Trinh kia là đúng. Những xét lại mới thấy nhiều điều không đúng. Ngay bản thân bọn lính tráng, quan lại cũng không hề có ý qua lại phủ thăm hỏi. Lại nghe rằng, sau Dương Thanh giết chết Tượng Cổ, treo đầu thị chúng, hắn còn minh mẫn chỉ đạo Đỗ Sĩ Giao đi dẹp giặc cướp. Ngày qua người trong thành còn kháo nhau rằng mồng tám tới bọn chúng còn lập lễ tế nhập Long, mà chính Dương Thanh là người chủ tế.

Lỗ Hạo khen lập luận của tên ấy mà nghĩ thầm trong bụng:

- Triều đình chẳng qua cũng chỉ là vờ cho hắn đến Quỳnh châu mà trừ khử hắn. Chuyện đã thế, nay về báo với triều đình là Dương Thanh không chịu nhận chiếu, kháng chỉ lại có ý làm phản, triều đình sẽ chẳng trách tội ta mà sẽ mang quân đến mà diệt hắn.

Đến cửa ngõ Ung Châu, có toán người phi ngựa chặn đầu xe. Lỗ Hạo mở cửa xe nhìn ra là đám trọc đầu dữ tợn, tay chắp trước ngực. Y hỏi bọn chúng:

- Lũ trộm cướp các ngươi. Sao dám chặn đường ta.

Có một tên cưỡi ngựa lại gần khiến Lỗ Hạo thất kinh :

- Ta là sứ giả triều đình. Các ngươi chớ có làm bừa.

Tên ấy xuống ngựa, tay chắp phía trước quỳ xuống, giọng đầy giận dữ :

- Mong đại nhân minh xét. Trả lại công lý cho chúng tiểu nhân.

Cả đám ấy, dăm người đều phục xuống mà vái lạy, đồng thanh. Lỗ Hạo lại hỏi :

- Các ngươi là ai? Có điều gì khuất tất. Ta thì giúp được gì cho các người.

- Chúng tiểu nhân là người của Đạo Cổ vương tử. Trước cả nhà bị giết bởi tên họ Dương kia, căm phẫn lắm thay. Nay được Vương tử tin tưởng tập hợp quân lính ở Giao Châu. Mong đại nhân về báo với triều đình, chúng tiểu nhân đã tập hợp được số lượng lớn quân ngũ để chống lại họ Dương ấy. Nay mong triều đình mang đại binh tới, trong ngoài ứng hợp giết chết họ Dương. Trước là lấy lại uy danh triều đình, sau là rửa hận cho vương tử Đạo Cổ.

Lỗ Hạo về bẩm báo lại với triều đình, vua Đường bấy giờ là Hiến Tông Lý Thuần ra chỉ lập Quế Trọng Vũ làm Đô hộ sứ An Nam. Lại điều binh từ các châu Quảng, Quế, Ung, Ích đến các cửa ngõ vào Giao Châu, số quân lên đến hơn mười vạn binh.

Trong thời gian viên sứ hộ Lỗ trở về kinh thành bẩm báo triều đình cũng chừng hơn một tháng, Dương Thanh ra lệnh tất cả các quân doanh khắp Giao Châu luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Chí Trinh thừa lệnh Dương Thanh sai đám quan lại từ Phúc Lộc đến vùng biên thùy Thang Châu, Chi Châu đóng chặt cửa thành, không giao du với đám buôn bán từ bên ngoài, đóng chặt các quan ải ngăn chặn mọi sự di tản có dấu hiệu gây nguy hại cho tình hình Giao Châu.

Tháng tám, ngày canh ngọ, như đã định từ trước, Dương Thanh cho lập đàn tế nhập Long ở phía nam cổng La Thành. Nghe trong lễ có đại thiền sư cầu tế nên dân chúng xung quanh Tống Bình đến tham gia rất đông. Đám quan lại, thổ hào địa phương có dịp để tỏ lòng với chủ tướng mới. Dương Thanh cho lệnh, hễ có quan lại nào mang vàng bạc của cải trên năm lượng bạc thì xung hết tiền ấy vào ngân khố, chia cho đám dân Giao Châu nên đám quan lại, thổ hào nhiều kẻ cho là Dương Thanh không chuộng kẻ sĩ, trở mặt không đến tham dự nữa.

Chính ngọ ngày ấy, mười tám lính tráng khỏe mạnh lên đàn tế mặc áo đỏ, vàng chia làm hai cánh từ đông sang tây dọc theo hai bờ dòng kênh về đến chiếc đài đá ở chính giữa đầu con kênh. Hai bên đài là vị sư thầy mặc áo cà sa vàng, đi vòng vòng lẩm nhẩm những lời khấn tiếng Phạn. Chốc chốc lại thấy hai vị ấy tung vạt cà sa phát tiền lễ rơi xuống xung quanh. Đám dân lại xúm vào tranh nhau vồ lấy được tiền lễ ấy.

Được nửa canh giờ, đám lính tập trung dâng đá lên nơi gọi là "Long Lãnh" để nhập Long Thủ. Bỗng có một cơn gió nổi lên, mây đen che kín cả bầu trời. Đám quan lại, dân chúng lấy làm thất kinh chạy toán loạn. Vị tăng kia đứng trên bục giọng rung như loa truyền âm :

- Gió mưa vẫn vũ, thiên long độ thế. Bản mệnh tại giá. Nhập hồn.
Nói rồi, tảng đá ấy nhẹ bỗng, một tên lính dâng lên đài, "Long Thủ" vừa vặn với "Long Lãnh". Tên lĩnh ngã ngửa ra sau, tay hắn còn đang cầm chiếc khăn phủ Long Thủ. Long Diện hiện ra, đôi mắt chói lóa như ánh dương, nét mặt vừa thanh tú lại uy nghiêm toát lên khí chất để vương. Đám quan lại, dân chúng trông thấy quay lại vội dập đầu xuống mà quỳ lạy.

Nhìn từ phía xa, Dương Thanh nhận thấy rõ mình rồng uốn lượn dưới lòng đất, đầu rồng nhô lên khỏi mặt đất. Dương Thanh chạy tới gần, tay chạm vào Long Thủ, từng nét chạm trổ tinh tế, gương mặt thần long hiện lên càng thêm uy nghi, chân thực hơn. Sĩ Giao sai người mang cho Dương Thanh cầm lấy nghiên mực đỏ và bút lông để họ Dương điểm những vảy đỏ và miệng rồng. Dương Thanh đặt nghiên ấy lên đài chênh vênh, có một làn gió nhẹ thổi khiến mực đỏ chảy xuống trán rồng, chảy theo những vân chạm trổ. Có một chữ Vương (王) hiện lên chính giữa Long Diện. Đỗ Đại chạy vội lên đài nhìn thấy nói nhỏ vào tai Dương Thanh rồi
quay ra giọng uy vang như sấm rền:

- Trời xanh ứng báo! Người làm chủ đất này ấy là bậc để vương. Không ai khác nữa chính là Thiên thanh Dương tướng đây.

Ba quân đứng dưới, bọn quan lại cùng đám dân nghe vậy mà nhí nháu bàn tán, nhiều kẻ không ưa lời đấy ra về. Dương Thanh giọng như chuông đồng:

- Ta là quan triều đình, ăn lộc triều đình nào có lòng khác. Thấy đám vô lại, cậy quyền, cậy thế hiếp kẻ yếu mà thấy giận thay nên mới giết lũ ấy. Nay làm lễ này trước là cảm tạ trời đất, sau là nghĩ đến muôn dân Giao Chỉ này mà nhìn hướng Đông bái vọng Long Vương cho dân chúng được mưa thuận gió hòa.

Đàn lễ được tổ chức đến đầu giờ mùi thì xong. Bọn dân chúng người hoan hỉ, kẻ u rầu bước đi. Dương Thanh cho gọi Sĩ Giao vào hỏi:

- Lòng dân chưa mong ta xưng vương. Quân sư nghĩ thế nào?

- Bẩm chủ tướng. Dân ta bấy lâu vẫn coi Triều đình Trường An là thiên tử. Lại thêm bấy nhiêu năm bị người Hoa Hạ dựng kế đồng hóa người Nam. Chủ tướng giết chết họ Lý, dân chúng kẻ mừng, kẻ lo. Ấy nên chuyện xưng vương lúc này thật chưa nên. Trong dân gian lại lắm nhiễu điều cho chủ công vì danh mà làm ra điều như vậy thì dân chúng lại càng lánh xa. Gương cũ anh em họ Viên thời Tam Quốc, chủ công hãy suy xét cho kỹ. Lại thêm triều đình Trường An còn đang thịnh, bọn quan lại vẫn còn một lòng trông về ấy. Chi bằng ta hãy xây dựng quân đổi vững chắc, người dân hướng về chủ công. Chủ công hùng cứ một phương, trong lúc thiên hạ có loạn thì nhắc lại chuyện ấy cũng chưa muộn. Nay vì muôn dân Giao Chỉ, mong chủ tướng soi xét.

- Sĩ Giao nói quả thật là hợp ý ta. Khi trưa nay trên đàn lễ, Đỗ Đại nói chuyện ấy ta e nhiều kẻ không vừa lòng. Nay ta cho ban bố trong toàn đất Giao chỉ bảy mươi điều dân nên làm, chín mươi điều phạt tội. Lại sai cho đám thổ hào phát ruộng đất cho dân để cấy trồng nuôi binh thêm thời gian nữa, để khi đủ mạnh rồi thì sẽ chẳng có kẻ dám động đến.

Sĩ Giao nghe vậy cũng thấy mừng. Hai người bàn thêm chuyện quân một lúc lâu. Trời ngả sẫm màu, Gã Quỷ xong thẳng vào phủ, xô ngã đám lính và lũ gia nhân cản hắn chạy vào thưa:

- Quân sư huynh!

Sĩ Giao ra hiệu cho Gã Quỷ chào Dương Thanh. Gã Quỷ cười hề hề :

- Cúi chào Dương tướng chủ.

Dương Thanh nghiêm nghị hỏi :

- Nhà ngươi có chuyện gì tới đây mà lại vô phép tắc như vậy?

- Bẩm tướng chủ! Là khi nãy ở ngoài đài tế, ngài có làm nghiêng nghiên mực rơi xuống mặt rồng. Bây giờ mặt ấy hiện lên nhiều vân màu đỏ. Bọn lính ngoài ấy nói là có chữ ở trên ấy.

Dương Thanh nhăn nhó nói lớn:

- Đó là chữ Vương. Đỗ Đại khi nãy chẳng nói trước toàn thể mọi người đấy thôi. Nhà ngươi hết chuyện tìm đến đây để gặp quân sư hay sao?

- Nào có chuyện ấy.

Sĩ Giao hẹm giọng. Gã Quỷ nghe vậy, thu mình, hạ giọng:

- Dạ. Bẩm tướng chủ. Là vị sư ấy từ lúc bái xong không chịu đi. Lại ngồi đó niệm chú điều gì đó cùng đám đệ tử. Đám dân thấy thế cũng lán lại. Có làn gió lạnh thổi từ hướng đông bắc khiến tiểu nhân gai cả người. Quay lại thì thấy bọn tăng ấy chỉ trò vào đầu rồng bằng đá ấy. Tiểu nhân hỏi thì một lão nông chỉ về phía đầu rồng nói là ở trên mặt ấy có bài thơ bằng văn tự cổ.

Dương Thanh liền thúc ngựa ra cửa nam thành, thấy đám tăng vẫn ngồi niệm ở chỗ ấy. Dương Thanh chạy ngựa lại gần hỏi đám tăng ấy:

- Các ngươi sao còn chưa đi?

- Sấm rằng thiên mệnh khó cưỡng. Bần tăng ngồi đây để phó lại lời sấm ấy.

- Khó cưỡng làm sao? Ý của nhà ngươi là điều gì?

- Bần tăng xuất gia chỉ mong điều an lành đến với sinh linh. Vì thế ngồi đây khấn trời, cầu phật cho sinh linh điều ấy.

- Ta nghe các ngươi ngồi đây đã hơn hai canh giờ. Có cần phải như vậy hay chăng?

- Niệm kinh phật đâu tính thời giờ. Nếu như đại nhân không mong chúng tăng ngồi đây thì chúng tăng xin nghe theo mà xin lui.

Sĩ Giao nói với Dương Thanh:

- Bọn tăng này niệm kinh phật chỗ đấy cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ta. Có chăng đây là cơ hội tốt bọn ấy muốn khoe khoang với đám dân. Hãy cứ kệ chúng vậy.

Dương Thanh lại hỏi đám tăng ấy :

- Trên đầu rồng viết chữ gì nhà ngươi có biết chăng?

- Bẩm tướng quân. Bần tăng xưa học chữ, đọc kinh chưa từng biết qua chữ này. Nhưng bần tăng biết có người biết chữ đó.

- Người đó thế nào? Hiện ở đâu?

- Cạnh Đại tự có ngôi chùa nhỏ. Sư ở đấy chính là người biết chữ này.

Dương Thanh sai Sĩ Giao đến Phù Đổng tìm ngôi chùa đó tìm vị tăng ấy. Dương Thanh cũng cho gọi tay thợ đục đá đến dò hỏi:

- Nhà ngươi chạm đá ra đầu rồng kia, chắc biết chữ trên ấy chứ?

- Bẩm tướng quân. Khi tiểu nhân đến chạm đầu rồng đã thấy những vân lạ trên đó. Dùng búa đẽo đi không được. Khi tiểu nhân khắc đến mắt rồng thì đá tự vỡ ra tạo thành hình mặt rồng như vậy. Những chữ trên đó, tiểu nhân không được biết.

- Thế nhà ngươi đọc được chữ này chứ?

Dương Thanh ném một mảnh giấy trước mặt thợ đá. Hắn nhặt lên nhìn một lượt, nheo mày, đáp lại lời Dương Thanh :

- Tiểu nhân không biết loại chữ này.

- Nói láo. Nhà ngươi đục đá, khắc ra những chữ ấy lại nói là không biết.

Dương Thanh cho là hắn nói dối, sai lính tạm giam hắn vào ngục. Trời đá tối sầm, đám tăng nhân phía nam cùng mấy người đi từ trong thành ra cũng đã về Đại tự. Chưa thấy Sĩ Giao về, Dương Thanh lòng nóng như lửa đốt, lại thúc ngựa đến Phù Đổng mà tìm Sĩ Giao cùng vị tăng.

Trời tối tĩnh lặng, không gian thanh tịnh nơi cửa chùa khiến Dương Thanh như bớt đi cái mệt mỏi. Thanh tự nhiên cảm thấy thanh thản đến lạ. Dương Thanh trói ngựa chỗ gốc thị, chạy vào trong chùa tìm người. Thấy Sĩ Giao đang thiền cùng hai vị tăng nhân ăn mặc đơn sơ. Thanh hỏi:

- Ta sai quân sư đi tìm vị tăng ấy. Sĩ Giao đã thấy người hay chưa mà còn ngồi đây thiền.

Không thấy Sĩ Giao nhúc nhích, Dương Thanh quát lớn :

- Đỗ quân sư. Nghe thấy ta hỏi gì không?

Sĩ Giao giật mình tỉnh lại như vừa trong cơn mê. Sĩ Giao nhận ra sự có mặt Dương Thanh ấp úng mà thưa :

- Bẩm chủ tướng. Tại hạ tới đây chẳng thấy người, dưới không gian yên ắng của cảnh chùa thành tâm nhắm mắt lại mà chẳng biết mình đã lạc vào cõi mơ từ bao giờ. Mong chủ tướng tha tội.

- Người nào trong hai người này biết chữ của người xưa?

- Dạ bẩm. Đây chính là vị thiền sư họ Trịnh mà tại hạ đã từng nói qua với ngài. Còn đây là hòa thượng Lập Đức, chủ trì Kiến Sơ tự. Chính Lập Đức sư phụ đây là người đọc được chữ ấy.

- Nghe danh hai vị từ đã lâu. Nay có cơ hội diện kiến. Có lời mời hai sư phụ về phủ để luận văn tự, sau đấy là mong được thỉnh giáo về phật pháp.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.


Chương 3.5 Độ thế cứu Bình nam

Dương Thanh ngỏ lời mời hai vị tăng sư tới phủ cùng luận giải bài thơ trên đầu Thạch Long. Hai vị tăng ấy đứng dậy cúi chào Dương Thanh, Lập Đức thay lời sư phụ mà thưa :

- Nghe tiếng Dương tướng quân từ đã lâu, nay được tướng quân đích thân tới mời. Quả là vinh hạnh cho bọn tiểu tăng. Chúng bần tăng xin cùng ngài tới phủ để cùng luận giải.

- Sao vị tăng ấy không nói gì?

- Dạ bẩm. Sư phụ trước giờ tính tình hòa nhã, dung dị hết mức, lại không hay bàn việc. Mong tướng quân thông cảm. Xin tướng quân dẫn đường về phủ.

Cả bốn người cùng lên xe ngựa về Tống Bình trong đêm ấy. Dương Thanh háo hức hỏi Lập Đức những chữ ấy viết gì. Lập Đức lớn tiếng đọc những vần thơ, giọng đầy suy tư:

"Chốn trần gian đỏ lửa

Cõi chết chảy thành dòng

Một dạ cùng cam khổ

Kẻ quân tử khác lòng."

Buông lời xong, Ngôn Thông nói Lập Đức xin ra về. Dương Thanh lên tiếng có ý mời hai vị tăng nhân ấy ở lại. Ngôn Thông từ chối xin về kẻo trời khuya sương rơi. Dương Thanh tiễn hai người ấy đến cửa phủ thì Đặng Khả liễu tá gọi Dương Thanh trở lại mà bẩm:

- Bẩm chủ tướng. Luận viết bài thơ này ra lên giấy. Mong tướng quân xem qua.

“Dương gian hỏa ánh hồng

Tử ngục thủy thành giang.

Nhất chí đồng cam khổ

Quảng nhân chính dị sàng.”

Ba chữ Quảng, nhân, chính, ghép lại chỉ thay đổi nét này thành chữ Định. Tại hạ thấy có điều gì đó ám chỉ ở đây.

Sĩ Giao cũng nhẩm được bài thơ ấy vừa ứng với bài thơ khi trước Sĩ Giao có được tại núi Lạn Kha. Sĩ Giao đứng một lúc không nói lên lời gì. Dương Thanh mặt giận dữ, ném mảnh giấy ấy cho Sĩ Giao:

- Thế này là ý gì? Kẻ nào to gan dám ám chỉ ta sẽ chết?

Sĩ Giao nghĩ một hồi, bất giác trả lời :

- Dạ bẩm. Điều này quả nhiên trùng hợp.

Dương Thanh nóng giận, hất tung chiếc bàn nghị. Lại hỏi Sĩ Giao:

- Nhà ngươi còn đứng đấy làm gì nữa! Mau đi dò xét, đứa nào dám cả gan viết lời ấy tới đây. Nhà người nói trùng hợp điều gì? Sĩ Giao!

Đặng Khả lúng túng, áo quần chưa gọn chạy đi gọi đám lính đuổi theo hai vị hòa thượng, cùng giải tên thợ đá đến. Sĩ Giao lấy lại bình tâm mà đáp Dương Thanh:

- Ngày trước, đi diệt cướp núi Lạn Kha, tiểu nhân nằm mộng có đám con gái gần núi ấy nhét vào tay tại hạ mảnh vải đề bài thơ này. Tỉnh dậy thì thấy Chí Liệt thiếu chủ đang đánh lộn với Dương Diện Lão quỷ. Hai người tranh cãi về mảnh vải kia.

- Mau gọi gã điên ấy tới đây ngay.

Dương Thanh đùng đùng nổi cơn giận tra hỏi hai vị tăng và người thợ đá. Hai bên quả quyết cho rằng họ không hề dính líu tới việc này. Dương Thanh không kìm được cảm xúc liền cho giải ba người ấy vào lao tra tấn ép cung. Hai người tăng nhân không hề nói thêm điều gì từ khi bị giải vào ngục mặc cho vị thợ đá kia kêu gào thảm thiết trước những cung hình tra tấn. Mệt lả người đi, đám cai ngục mới lôi ba người ấy về phòng giam cho hồi sức để chờ thẩm vấn tiếp.

Hai vị tăng nhân lại ngồi thiền trong lúc tay thợ đá kia lao vào vồ những miếng ăn mà bọn cai ngục ném vào cho. Tay thợ đá kia hỏi đau đớn, miệng run run, mái tóc xõa quá vai bù xù, móm mém nhai những miếng cơm nguội vừa nhặt từ đất lên. Nước mắt giàn giụa hỏi hai vị tăng :

- Hai cao tăng là phật chốn nào? Tra tấn cực hình như vậy mà vẫn ngồi đấy thiền?
Ngôn Thông cất lời đáp :

- Phật tại tâm, tâm sáng phật rọi. Những thứ ấy chỉ là bề ngoài, sao cản được cái tâm sáng trong.

Tên ấy nghe chưa giác ngộ hết đã nằm lăn ra mệt nhoài. Lập Đức lời lẽ chân tình hỏi sư phụ Vô Ngôn Thông:

- Sư phụ thấy người này có phải là người có tội?

- Cái tâm không tối tự mà thấy mệt theo bản năng. Kẻ tâm gian trá sẽ lắng lo sợ hãi, chẳng thể ngủ yên. Con tự quan sát người ấy mà phán xét.

Lập Đức nghe lời thầy cùng thiền đến lúc nửa đêm. Có tiếng mở khóa, Lập Đức tỉnh giấc nhưng chẳng mở mắt ra, lại nghe thấy người bước tới gần. Người ấy nghe giọng khá quen khiến vị sư phụ mở mắt ra. Nhận ra Sĩ Giao, Lập Đức hỏi:

- Chúng tăng nghe lời ngài tới đây, nay lại bị trách phạt nơi ngục tối này. Chúng tăng tôi ngày ngồi thiền chốn chùa nhỏ, không màng những chuyện như vậy. Ngài tới đây khuyên nhủ chúng tăng thì cũng không có gì để khai với ngài.

Sĩ Giao từ tốn trả lời:

- Chủ tướng chỉ là cả giận mà như vậy. Ta sẽ dùng lời mà khuyên giải ngài ấy. Chỉ là ta có đôi điều chưa rõ tỏ. Nghe rằng, ngày trước ở núi Tiên Du, Lập Đức đọc kinh chẳng hay ai dạy cho sư chữ ấy? Có nhiều người biết được chữ ấy chăng?

- Chẳng giấu gì ngài. Ngày bé ta ở núi Lạn Kha, có một vị thầy họ Phạm về làng dạy học, có dạy cho ta chữ ấy. Nhưng thầy chỉ nhận ba người để truyền thọ. Ta mồ côi từ nhỏ, tính lại ham đọc nên thầy quý nhận dạy. Một người tài đối đáp giỏi võ nghệ thầy cũng nhận làm đệ tử. Một người khéo tay, thông minh nhanh trí, quyết đoán cũng là con của vị hào trưởng hương ấy. Dạy bọn ta được hơn một năm thì thầy bị bắt giết. Bởi vì một lẽ thầy ta dạy chữ của tiền nhân - chữ cổ của người Nam ta, là thứ mà triều đình cấm lưu hành. Những người ai dạy, học chữ ấy đều bị bắt bớ. Đám quan lại đem đốt hết sách vở viết bằng chữ ấy đi nên giờ chẳng còn ai biết.

- Vậy hai người kia sư có biết giờ họ đang ở đâu không?

- Khi thầy bị bắt, ta cùng với hai người kia theo cứu thầy. Sức nhỏ, lực mọn chẳng cứu được thầy lại bị bắt giam cùng với thầy. Một người bị chết trong ngục do không chịu nổi đòn roi. Ta được gửi về làng quản giáo ba năm. Còn một người sau khi vào nhà lao, ta lấy hết tiền của ta đút lót cho bọn quản ngục thả người ấy ra một cách lặng lẽ bởi ta thương nhà y chỉ có mình y là con trai, cha hắn lại làm hương trưởng sợ làm ảnh hưởng đến cha hắn.

- Thế giờ người ấy làm gì, ở đâu?

- Hơn mười năm trước, triều đình có lệnh xung quân. Khi ấy ta đã nương nhờ cửa phật, người ấy cùng vợ con chạy trốn đến vùng man di phía tây bắc, dọc theo Đà Giang. Cha bị cách chức, bị quan quân đày đến Phúc Lộc. Bọn Lâm Ấp khi ấy đánh nhau to với quân triều đình ở Hoan Châu. Ông ấy bị đạn lạc của quân triều đình bắn trúng mà chết. Sau đấy, người ấy hận quân triều đình mà hẹn với dân Hoàng Động nghe lời Nam Chiếu mang quân chiếm đóng Phong Châu. Khi Dương tướng quân nhận lệnh làm Nha môn tướng lại đánh lui bọn Man Hoàng. Người ấy trốn biệt tăm, nghe đâu ra nhập toán cướp trên núi quê cũ.

- Ra là vậy. Không biết người ấy chữ nghĩa ra sao? Có tài nghệ gì nổi bật chăng?

- Ngày trẻ cùng làng với y, tiểu tăng thấy y cái gì cũng khéo, lại có tính quyết đoán. Tuy chỉ có điều là suy nghĩ không được chín chắn mới dẫn đến như vậy.

- Hai vị tăng ăn chút đồ chay ta mới cho người làm. Chuyện ta đã rõ. Chỉ mai mốt là hai vị sẽ được thả. Cảm phiền hai vị cao tăng.

Vô Ngôn Thông ngồi nghe hết câu chuyện chẳng hề nói điều gì. Lúc Sĩ Giao bước khỏi nhà lao, vị cao tăng ấy mới ngỏ lời răn:

- Kẻ tu hành hiếu sinh làm đầu. Những vương bụi trần còn chưa gột sao tu thành chính quả.

- Lập Đức con xưa có làm việc tốt cứu người nhưng người ấy lại trở thành người có tội với chúng sinh. Kể ra con đây cũng là kẻ có tội. Con nói ra việc ấy cũng chỉ mong vị tướng quân ấy không làm liên lụy người khác nữa cũng là rửa cái tội ngày xưa vậy.

Sáng ngày sau, Sĩ Giao cho gọi hai vị tăng ấy lên kể lại chuyện ấy cho Dương Thanh. Dương Thanh chưa thông đầu óc, giọng cáu gắt hỏi:

- Cái đám đầu trọc ở Đại tự đã có mặt ở đây chưa? Cho giải bốn cái tên cướp trắng lên đây cho ta.

- Dạ bẩm chủ tướng. Hiện đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng đang có mặt ngoài kia. Bốn tên thủ lĩnh Bạch Hổ cũng đang chờ ngài xét hỏi. Chủ tướng cứ hỏi lần lượt đám tăng rồi hãy hỏi đến bọn tướng cướp ấy.

Dương Thanh hỏi đám tăng trước, sau đó lại hỏi bốn tên thủ lĩnh kia. Tất cả như loạt, không ai nhận biết tảng đá ấy có từ đâu. Dương Thanh hỏi Sĩ Giao :

- Cái tên Giả Thường chủ trì Đại tự ấy, quân sư có thấy điều gì khác hay không?

- Vị ấy thoạt đầu nhìn tựa phật giáng thế, nhưng khi nghe vị ấy nói về pháp hạnh tại hạ e thấy có chút tâm không được dung dị. Nhưng dân chúng tung hô đám tăng như Phật. Lại thêm khi nhận đá ấy, tăng ấy chẳng chối mà lại tặng ngay cho thiếu chủ về mừng công với chủ tướng. Tại hạ thấy có một người đáng nghi ngờ. Đó là người…

- Ta thấy có một kẻ dung mạo uy nghi, dáng vẻ cương mãnh, da lại màu xanh vương giả tựa Kim Cương Thủ Bồ Tát. Nhưng mắt hắn đảo qua đảo lại liên hồi. Người nhà phật nhưng hắn toát lên sự dữ dằn kỳ lạ. Cái tâm bất minh tự khắc thấy hồi hộp sợ hãi. Nhà ngươi có phải nói đến người ấy chăng?

- Dạ đúng. Quả nhiên hắn có chút gì đó khiến tâm không yên, vẻ lo lắng toát lên khuôn mặt. Tại hạ đã từng nhìn thấy hắn. Khi ở Đại tự, tại hạ cùng thiếu chủ đã nhìn thấy hắn vác tượng phật nghìn cân mà chẳng chút nhăn nhó.

- Lại có kẻ khỏe đến như vậy sao ? Gã Quỷ em ngươi sức có bì được hắn hay chăng?

- Tại hạ e là có chút kém phần. Gã Quỷ mình đồng da sắt, sức khỏe vô lượng nhưng chút nào đó vẫn thua sức hắn.

Sĩ Giao bàn bạc với Dương Thanh một hồi lâu, lại cho gọi Lập Đức sư phụ vào trong trướng mà bàn. Canh tỵ hai khắc, Chí Liệt cầm một bức trướng khổ lớn ra ngoài công đường. Bọn tăng nhân phía dưới bàn tán xôn xao về bức trướng. Lúc đó gã quỷ Tồn Thăng chạy tới, mặt mày giận dữ, tay cầm chắc dao quắm gườm gừ đám tăng ấy, quát tháo ầm ĩ. Bọn tăng nhân ấy vẫn chẳng hề có phản ứng gì khả nghi. Sĩ Giao bèn phải cho người thả đám ấy đi.

Cùng lúc thả đám tăng nhân, Dương Thanh sai Chí Liệt cùng Dương Diện giải bọn cướp Lục Bạch Hổ ra pháp trường phía thành Luy Lâu để hành quyết. Mỗi xe ngục, Dương Thanh nhờ thầy Lập Đức viết lên ấy những lời kể tội lỗi của bọn chúng bằng văn tự cổ và cho Liễu tá Đặng khả đi cùng lớn tiếng đọc lên những lời ấy. Chí Liệt cầm bức trướng lớn khi nãy đi trước đoàn.

Đoạn đến phía đông cổng La Thành chừng năm dặm, xuất hiện từ đâu có một gã mình cao lớn, uy nghi, lại nói giọng rất giống người xứ Tiên Du một mình xông tới nhảy lên xe ngục của tên Đại hổ Ngũ Tử Hùng. Chí Liệt sai lính thắt chặt vòng vây không đám ấy cướp tù. Dương Diện gã quỷ xông tới đánh với kẻ lạ mặt.

Sĩ Giao sai cho lính chạy vội về phía La Thành. Chí Liệt tay cầm chắc cây thương hướng về kẻ lạ mặt kia hỏi lớn:

- Là kẻ nào dám cả gan cướp tù?

- Lũ quan quân các ngươi! Tất cả chỉ là đám chó gà. Các người nghĩ dùng chữ viết kia mà mắng chửi hạ nhục bọn ta thì sẽ tìm được người các ngươi cần tìm.

- Ra chính là ngươi! Ngươi nghĩ là nhà là ai mà dám cướp tù? Còn không mau mau chịu trói.

Tên thủ lĩnh thấp lùn, bủng beo mặt hớn hở:

- Tứ đệ. Mau mau cứu bọn ta.

Chí Liệt mặt mày nghiêm nghị, quát lớn :

- Thì ra là tên cướp chạy trốn. Cuối cùng thì cũng chịu tới đây nộp mạng.

Chí Liệt đốc ngựa chạy tới, vung thương đâm hắn. Tên ấy nhanh như sóc, nhảy lên đạp vào một tên lính áp nha đương cưỡi trên ngựa ngã nhào xuống đất. Chí Liệt đuổi theo chạy đến bờ sông Thiên Đức thì gã đột nhiên quay lại, cúi người xuống phản đòn khiến Chí Liệt bất ngờ. Thiếu chủ kéo cương khiến ngựa nhảy bổ lên cao, hý vang. Tên kia tay cầm trảo hét lớn:

- Thanh Long kim cương trảo.

Đôi tay hắn giương lên hai móng vuốt vảy xanh ánh ngọc, dùng uy lực sấm sét của đôi tay ra đòn khiến ngựa của Thiếu chủ ngã dúi dụi, máu chảy lênh láng.
Chí Liệt thoát nhanh khỏi yên ngựa, cắm thương xuống mặt đất để lấy lại thăng bằng. Chí Liệt lớn tiếng hỏi hắn :

- Nhà ngươi là người từ đâu đến? Danh tính thế nào? Võ ấy ngươi học được từ đâu?

Hăn cười lớn, lại quất ngựa xống tới sát chỗ Chí Liệt mà nói:

- Nhà ngươi muốn danh tính người sẽ cho ngươi chầu trời, xuống âm ti mà bảo với Diêm Vương là người giết ngươi tên Tứ Hổ Long Trạch.

Nói rồi, hắn rút song câu toan chém Chí Liệt, Chí Liệt lấy mũi tên dương cung bắn trúng tai ngựa, ngựa lồng lên khiến hắn không thể kiềm chế được. Hắn quắp lấy hai chân vào cổ ngựa, ghì chặt khiến ngựa lăn ra chết. Hắn nhảy xuống đất, đôi vuốt sắc lóe lên trong ánh nắng ban trưa. Chí Liệt giương cây thương lên quát lớn:

- Cái tên thất phu. Tên thì rồng không ra rồng, trạch không ra trạch. Cướp gà trộm chó không xứng chết dưới cây long phượng huyền thương của ta, lại còn ở đó to mồm hay sao.

Long Trạch mặc áo một màu nâu sẫm, mặt quấn khăn kín mít. Đôi mắt xanh ngọc đảo liên hồi, Chí Liệt dường như nhận ra đôi mắt đó, liền hỏi:

- Ta và ngươi dường như đã gặp ở đâu?

- Khỏi cần phải hỏi. Ta chẳng quen cũng không thèm biết lũ chó quan các ngươi. Mau mau thả anh em ta ra. Không thì đừng hòng sống sót.

- Được. Để ta xem nhà ngươi là kẻ nào!

Chí Liệt hét lớn, tiếng vang dội sóng vỗ bờ. Cây huyền thương lao vút xé toang hạt nước còn vương trên ngọn lau. Tên cướp nhanh chóng dùng vuốt sắc đỡ chiêu của Thiện tướng. Hai bên giằng co đến giữa trưa canh ngọ, chạy đến chục dặm đường tả ngạn sông Thiên Đức. Dưới cái nắng của buổi trưa mùa thu, Chí Liệt ướt đẫm mồ hôi, mượn chiêu của tên cướp lao vào xé toang manh giáp trên người. Từng bắp cơ của chàng nhẫy bóng dưới ánh nắng. Chàng ném cung xuống đất như trút bỏ gánh nặng, dồn sức vào cây thương mong hạ sát tên cướp.

Đúng lúc hai bên giao đấu đến hồi gay cấn, Bình Nam đại hổ dùng thương ghì chặt trên vai Tứ hổ toan lấy mạng hắn thì có tiếng vó ngựa chạy đến. Tồn Thăng vội vã lao tới dùng cây gỗ to thúc thẳng vào mạn sườn phải của tên cướp. Tên cướp thấy sức lực gã Quỷ vô thường định bụng chạy trốn. Chí Liệt dùng thương truy sát, hắn chạy nhanh thoăn thoắt chỉ trong nửa khắc đã thoát khỏi sự truy đuổi của thiếu chủ. Gã Quỷ đuổi theo dùng dao quắm chém ngang cổ tên cướp. Tên cướp né được nhưng mảnh vải che mặt lại bị dính vào dao của Gã Quỷ. Gã Quỷ cười lớn:

- Thì ra là gã đầu trọc mặt xanh. Ta trở về báo lại cho Sĩ Giao anh ta mới được.
Nói rồi, Tồn Thăng thúc ngựa quay lại gặp Chí Liệt chạy đuổi theo. Gã Quỷ vội vàng khoe :

- Nhà ngươi có biết gã là ai không? Tên hòa thượng mặt xanh.

- Hắn đâu?

- Hắn chạy đường kia.

- Sao nhà ngươi không đuổi theo hắn.

- Thì là ta quay lại báo cho Sĩ Giao huynh hắn là gã đầu trọc mặt xanh.

Chí Liệt tức tưởi:

- Cái tên ngốc nhà ngươi. Không đuổi theo bắt hắn mang về lại còn quay về báo.

Chí Liệt giằng ngựa của Dương Diện thúc ngựa về phía Long Trạch chạy. Đến bờ sông Thiên Đức, cách phía nam hương Phù Đổng tám dặm đường, Chí Liệt hô lớn:

- Thuyền kia dừng lại. Trên ấy có tên cướp Bạch Hổ.

Thuyền đi vội về phía đông nam, rồi cập bờ phía ấy. Phía sau Chí Liệt có hai vị hòa thượng đi tới, họ Dương hỏi :

- Lập Đức có việc gì qua đó?

- Là sư phụ ta muốn tới đây để cảm tạ vị hương hào họ Nguyễn khi xưa đã dựng tự.

- Sông lớn, lại chẳng có đò qua. Để cướp kia chạy trốn, ta chẳng thể an lòng.

Lập Đức ném một cục đá lớn xuống mặt sông, dòng nước cuốn mạnh viên đá ấy. Lập Đức nói :

- Sông sâu khó qua. Mong thí chủ lượng sức mình tránh điều tai ương.

Tồn Thăng kéo tới ba cây gỗ lớn, buộc lại thành bè nói:

- Mời thiếu chủ qua sông.

- Hay lắm. Kẻ ngốc đôi vẫn có lúc sáng suốt. Ta sẽ dùng bè của ngươi để qua sông.

Nói rồi, ngựa cùng Chí Liệt bước lên, Tồn Thăng dùng sức mạnh phi thường đẩy bè ấy quá nửa sông. Bỗng có gió lớn, nước sông liền chảy mạnh. Tồn Thăng níu thừng giữ chặt bè. Không thể cưỡng lại được sức nước, thừng đứt, bè chống chếnh giữa dòng.

Vị hòa thượng họ Trịnh ngồi thiền cạnh đó chẳng mảy may đến điều đương xảy ra khiến gã quỷ nóng giận quát lớn :

- Thiếu chủ chống chếnh giữa dòng. Ông còn ngồi đấy thiền với tụng.
Lập Đức cản lại :

- Thí chủ bớt nóng giận. Sư phụ sẽ có cách để cứu giúp Dương tướng quân.
Sư thầy họ Trịnh lẩm nhẩm trong miệng, tiếng gió bỗng dừng lại, nước sông lại hiền hòa. Từ phía sông có làn gió ấm thổi ngang sông đẩy đò trở lại bờ. Chí Liệt lấy lại bình tĩnh cho ngựa bước trở lại sông. Chí Liệt chạy lới bái lạy vị cao tăng :

- Quả là phi phàm. Đệ tử đội ơn công cứu mạng.

Phía bên kia sông lại có tiếng vọng sang:

- Quả các ngươi có thần tiên phù trợ. Thù này ắt trả. Các người hãy nhớ lấy ngày hôm nay.

Gã Quỷ ngấp nghển nhìn sang, giọng nói dữ dằn:

- Rồi bọn ta sẽ tìm ra ngươi.

Từ phía bên kia sông, mặt trời chói chang rọi xuống mặt sông lấp lánh, bóng người khuất dần theo những ngọn cỏ lau phía đó. Lập Đức thở phào nói:

- Dị tà chẳng thể thắng nổi chính đạo. Người đó dùng tà pháp sai khiến hà bá, thần gió toan dìm chết ngài.

Chí Liệt nhìn theo dáng người phía bên kia sông, giọng còn ngậm ngùi:

- Cao tăng chính là quý nhân của ta. Chỉ tiếc rằng kẻ ấy dùng dị tà mà thoát mũi huyền thương này.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.


Chương 4.1 Cái uy của quỷ


Dương Thanh nghe tin quân triều đình đến biên giới phía bắc liền sai Chí Trinh dẫn quân đến thành Nà Lữ vùng biên ải đóng quân tại đó để nghênh địch. Lý Do Độc được tăng viện năm nghìn binh mã từ các vùng Ái Châu, Hoan Diễn cùng với thứ sử châu ấy là Vương Thăng Triều mềm dẻo với đám dân Man Hoàng ngăn không cho bọn Nam Chiếu nhòm ngó khi quân triều đình chưa đến lấn đất của người Lão, Lý. Các vùng Hoan, Ái, Diễn Châu đều được lệnh đóng cửa biên giới, quân đội sẵn sàng. Vùng trọng điểm trấn Hải Môn là con đường dễ đi, Dương Thanh sai Sĩ Giao, Triệu Hoằng trấn giữ. Chí Liệt nắm trung quân cùng dân ấp Chu Diên của quan huyện úy Đỗ Đại tạo phòng tuyến dọc từ cửa biển Nam Triệu đến cửa ngõ sông Nhị.

Quế Trọng Vũ được triều đình họ Lý sung quân ở các châu Quảng, Quế, Ung, Ích đến hơn chục vạn quân đóng tại biên giới xứ An Nam. Lại cho đạo thủy quân gần ba trăm chiếc thuyền chiến lớn nhỏ đi từ bờ biển đất Quảng Châu, Quỳnh Châu đi vào cửa biển các sông Vân Cừ, sông Nhị.

Được lệnh đóng cửa biên giới, quan quân xứ An Nam cắt đứt mọi liên hệ với bên ngoài, cố thủ tại các thành trì kiểm soát gắt gao kẻ ra người vào. Đương mùa còn nước đang lên, lúa còn chưa chín hết ngoài đồng, quân lính vội vàng gặt lúa để chở vào các thành trì, kho quân lương để dùng. Chẳng đến một tuần, các cánh đồng đã không một bóng người, chẳng còn một gốc dạ. Trâu bò cũng được thu về dắt thả trên núi, tránh họa chiến tranh. Dân chúng gói ghém đồ đạc, kẻ ngược người xuôi tìm cho mình chỗ ẩn náu an toàn chờ đợi cuộc chiến sắp tới.

Trong lúc quân tình cấp bách, Dương Thanh nhận được thư của viên Liễu tá Đặng Khả tấu trình. Trong thư viết rằng:

"Lão là kẻ ăn lộc trên ban ở Tống Bình này cũng đã được hơn hai chục năm, cũng là dân xứ An Nam này, bằng tất cả tim gan này kính lên Dương tướng quân, mong tướng quân minh xét. Ngoài đồng lúa còn chưa kịp vụ, vội vã gặt lúa ấy là điều chẳng nên làm. Nay thấy dân chúng vừa qua cơn lầm than, quân lính còn chưa thoát cảnh đao thương đã phải chuẩn bị cho cuộc chiến mới mà chưa biết là kẻ thắng được gì, người thua mất gì. Mà chỉ thấy thương thay dân Lão, Lý, người Giao Chỉ, người Hoa Hạ, tất cả đều là con dân xứ An Nam này, đều chịu cảnh khói lửa binh đao. Gốc dạ còn chưa kịp ải, đồng lúa còn chưa kịp cày. Quân lính no vụ này, người dân chắc gì đã không đói. Ấy rồi còn mùa sau, mùa sau nữa,… Thật là không nên.

Kẻ tôi mọn không dám bàn việc thiên hạ. Chỉ mong Dương tướng quân rộng lượng với chúng dân. Nếu tướng quân không chịu nghe lệnh triều đình thì cũng chớ nên lấy máu của dân ra tắm. Xót thay, xót thay.

Bằng ấy lời mong tướng quân thấu hiểu tâm can."

Dương Thanh nổi giận đùng đùng, gọi Đặng Khả vào phủ. Dương Thanh hỏi:

- Kẻ nào xúi ngươi nói những lời sằng bậy ?

- Tự tâm can tại hạ thấy điều ấy! Đâu phải kẻ nào xúi lòng?

- Đừng nghĩ lão già cả mà ta không dám làm gì lão. Kẻ quân tử sao phải luồn cúi, chui rúc những kẻ tiểu nhân. Ta thà chết chứ chẳng thể chịu nhục được hơn nữa.

- Chừng ấy năm làm quan làm tướng chắc tướng quân thừa hiểu. Ngậm bồ hòn làm ngọt ấy cũng là thương dân. Nằm gai nếm mật nuôi chí lớn, ắt sẽ thành.

- Nhà ngươi chớ có múa mép khua môi. Dòng dõi ta mười mấy đời làm thứ sử, lãnh cả một vùng đất phía nam. Đám quan lại triều đình ô nhũng, nhiễu nhách như vậy là quá đủ rồi. Giết Tượng Cổ, đánh Lục cướp ấy cũng là thỏa nguyện ý dân. Nay triều đình kia cho là ta phản phúc, mang quân lính đến bờ cõi ta, ý là nghĩa thế nào.

- Tại hạ không can ngài chiến đấu vì dân, chỉ dám mong ngài suy xét trước sau. Kẻ biết nhún nhường, lựa thời cơ mới làm lên đại nghiệp. Gương Hán Liệt Đế, Tấn Tuyên Đế còn sáng. Kẻ tức giận vì kỉ xưa có Sở Vương, sau có Dạng Đế lấy máu dân tắm mình vẫn còn đấy. Triều đình trước có ban chiếu phong tước cho tướng quân. Mà chuyện cũng đã rồi tại hạ không bàn nữa. Nay triều định nổi giận cho là ngài khi quân, kháng chỉ. Lỗ Hạo cũng chẳng phải kẻ quân tử mà xàm tấu. Tội ấy triều đình nào lại không xét. Chi bằng ngài thuận lòng dân, vờ đầu hàng, đút lót cho họ Quế kia, việc này chẳng coi như đã xong hay sao.

- Bì La Cáp dựng Quy Nghĩa kia vẫn sáng. Đại Lễ giờ hùng mạnh kém ai. Đất nam ta dân chúng đông đúc, tàu bè qua lại giao thương cũng nhiều. Há lại kém nơi kỷ ho cò gáy ấy. Việc hèn hạ ấy ta không thể nghe theo. Nếu còn lời lẽ sằng bậy làm nhiễu loạn lòng quân dân, cứ theo chín mươi điều cấm mà nghiêm trị.

- Vậy ngài hãy giết chết ta ngay tại phủ này.

Dương Thanh chẳng quay đầu lại, gọi lính giải họ Đặng vào ngục tối. Cùng lúc đó, Gã Quỷ Dương Diện chạy tới báo tin:

- Bẩm tướng quân. Theo dò la, tại hạ đã biết tên mặt xanh ngày trước cướp tù toan giải cứu cho bốn tên thủ lĩnh chính là vị hòa thượng ở Đại Đường tự. Kẻ này cũng chính là kẻ khắc chữ lên đá ở trên núi Tiên Du. Tiểu nhân đã sai người cho
bao vây tự, không để kẻ nào chạy thoát.

- Ta nghe nói hắn là bạn tâm giao của Lập Đức sư phụ. Nhà ngươi có biết chăng?

- Là cái gã đầu trọc ở chùa nhỏ kế bên. Tại hạ biết hắn.

- Bắt giải hết chúng về đây. Không cho kẻ nào chạy thoát. Kẻ nào chống lệnh giết ngay tại chỗ.
Tồn Thăng tuân mệnh vội vã chạy ra cửa, hắn lại quay lại hớt hải hỏi :

- Lão già họ Đặng làm điều gì đắc tội với tướng quân? Bọn sai nha lôi lão đi như lôi một thằng què vậy?

- Việc ta giao cho nhà ngươi không lo. Lo chi chuyện ấy!

Tồn Thăng lẩm bẩm trong miệng , bước từ từ ra cửa. Dương Thanh quát lớn khiến hắn giật mình :

- Trời sáng, còn chưa đi mau.

Sáng sớm ngày sau, khi còn gà gáy, Tồn Thăng hý ngựa, ngựa chạy tới, hắn nhảy vút lên ngựa hướng thẳng Phù Đổng lưỡng tự. Tới nơi, hắn la lối om xòm, mắng chửi thậm tệ người trong chùa. Lập Đức nghe thấy bước ra khỏi chùa, giọng từ tốn hỏi:

- Tướng quân không biết có nỗi niềm gì lại tới đây mắng mỏ đám sư trong Đại tự ấy.

- Ra là ngươi. Lão trọc đầu đồng đảng với cướp. Bay đâu bắt hết giải vào nhà lao phủ Tống Bình.

- Vị tướng quân này bớt nóng giận. Ta đã kể hết sự tình với Sĩ Giao quân sư. Ngài về bẩm lại với Dương Thanh tướng chủ giúp bần tăng.

- Thôi đừng có nói nhiều. Bay đâu bắt hết về phủ.

- Tướng quân đã nói vậy thì bần tăng xin được tự đi tới đó.

- Đừng có thấy ta ngốc nghếch mà giở trò. Bọn bay bắt cả lão trọc đầu họ Trịnh kia giải về phủ.

Bọn lính tráng chạy vào trong chùa nhỏ bắt giải vị hòa thượng họ Trịnh. Từ phía Đại tự chạy ra, cả một đám tăng nhân, người cầm trượng, người cầm gậy gộc, đòn gánh đứng bao vây đám lính. Vị hòa thượng Giả Thường mặc áo cà sa óng mượt bằng tơ lụa nghiêng mình cúi chào Tồn Thăng. Tồn Thăng nói lớn:

- Các người còn không mau giao nộp tên cướp mặt xanh. Không thì đừng có trách ta không nương tay.

- Chốn cửa phật mong thí chủ chớ buông lời thóa mạ. Để bần tăng giải thích.

- Đừng có nhiều lời nữa. Đến phủ rồi giải thích với Dương tướng quân.

Nói rồi, đám lính xông thẳng vào đám sư sãi chùa ấy mà đánh. Được lệnh của Tồn Thăng, đám lính càng hung hãn vung gươm giáo thẳng tay. Hai gã hòa thượng bặm trợn cùng vác cây lớn nhằm ngựa của Tồn Thăng. Tồn Thăng kéo cương ngựa quay đầu lại rồi nhảy xuống ngựa, tay rút kiếm chém chẻ đôi cây lớn. Vị chủ trì Giả Thường lùi lại vào Đại tự đóng chặt cửa chùa, nói lớn ý cho hai kẻ mặt mày hung tợn kia:

- Giả Không cùng Giả Thanh ở lại gắng chống cự bọn chúng.

Đám lính của Tồn Thăng mất hàng ngũ, kéo cả đoàn vào nơi hỗn loạn mà đánh đám tăng kia. Sau nửa canh giờ, Tồn Thăng cho bắt trói tất cả đám tăng. Tồn Thăng lại cho người mắng mỏ đám tăng trốn trong chùa. Suốt một canh giờ không thấy động tĩnh gì, Tồn Thăng cho người phá cửa chùa nhưng không thể phá. Tồn Thăng gạt đám lính sang một bên, tự mình dùng sức lao vào cánh cửa đồng. Gã Quỷ chợt nghĩ :

- Là đám tăng trốn trong tự mà cửa chùa lại cứng nên ta mới phải chịu. Ta về báo lại cho lão họ Dương kia như thế liệu có sao không ?

Gã Quỷ suy nghĩ một hồi quyết định cho thu quân về, cùng với đó là đám hòa thượng bị trói. Đi được đoạn nửa đường, từ phía nam đi tới là một đoàn quân người ngựa dũng khí ngời ngời chạy tới. Giáp hoa, cờ thêu chữ vàng óng ánh trên lụa bay phấp phới trong gió. Gã Quỷ thấy lạ liền hỏi:

- Các ngươi là lính từ đâu đến? Kẻ cầm đầu là ai?

Có một tên cưỡi ngựa, hắn bịt kín mít khuôn mặt chỉ lộ ra hai đôi mắt. Giọng nói giống người xứ Quảng bắc Lĩnh Nam, hắn đáp :

- Ta là Trương Sang, là tướng kỵ binh của Chí Trinh thiếu chủ. Về đây có tin cấp báo.

- Chí Trinh hắn đang ở Nà Lữ phía bắc, chống quân triều đình. Nhà ngươi đi từ phía nam lại cho quân lính mặc hộ giáp về phủ e có điều gì không phải.

- Thiếu chủ bảo ta mang hai trăm binh kỵ về tăng cường cho trị sở. Nhận lệnh ta gom thêm quân ở Chu Diên, vượt sông Thiên Đức tới đây thì gặp ngươi.

- Ra là thế. Tại sao quân lính lại bịt mặt hết thế kia?

- Bẩm tướng quân. Bọn tôi là lính mật nên mới ăn mặc như vậy tránh khỏi sự tò mò của kẻ khác.

- Cờ thêu chữ gì? Nắng quá, mắt ta không có đọc được.

- Bẩm là chữ "Dương".

Gã Quỷ cho một tên lính chạy tới đám lính kỵ ấy thì gã đọc lớn :

- Là chữ Trương, không phải chữ Dương.

Có tên bắn lao vút ra, tên lính ấy ngã xuống tại chỗ. Gã Quỷ ra lệnh toàn quân giữ vững đội hình chuẩn bị chiến đấu.

Sang cười lớn, ra hiệu cho đám lính kỵ chạy tới vung gươm giáo mà chém đám lính bản bộ của Tồn Thăng. Thăng thấy lính không thể chống cự được liền ra hiệu cho đám lính chạy về phía con kênh gần đó. Tồn Thăng cưỡi ngựa dùng dao quắm chém chết năm tên lính kỵ rồi bỏ chạy về phía con kênh. Đám hòa thượng nháo nhác chạy thì tên đứng đầu lính kỵ quát lớn:

- Tất cả đứng lại. Nghe ta chiến đấu với đám lính của họ Dương kia thì sống. Kẻ nào chạy ta giết chết kẻ ấy.

Bọn hòa thượng được đám lính kỵ cởi trói, phát vũ khí cho. Hai đội quân hợp một truy đuổi lính của Tồn Thăng. Gã Quỷ chạy tới bờ kênh sai cho đám lính dừng lại, gào thét:

- Đứa nào xông lên giết chết thằng cầm đầu sẽ được thưởng hai trăm lượng.
Có một tên áo quần xộc xệch chạy đến, tay cầm giáo dài xin ra trước đón đám ấy. Tồn Thăng bảo tên giám quân nhường ngựa cho hắn. Tồn Thăng hô lớn lấy sĩ khí quân lính:

- Giặc ở phía trước, cái chết phía sau. Mau mau mà giết giặc.

Tên lính tiên phong chạy lên trước, chém chết hai lính kỵ, Tồn Thăng cho ngựa lao lên. Bọn lính thấy thế cũng liều mình lao lên phía trước. Giao chiến hỗn loạn, đám lính kỵ ngã ngựa liên hồi. Tồn Thăng ra lệnh người nào bắt được ngựa thì quay lại chém giặc. Sau nửa canh giờ, đám hòa thượng chạy trốn hết loạt. Lính kỵ còn lại phân nửa, phía quân Tống Bình chỉ còn Gã Quỷ một mình một ngựa. Tên thủ lĩnh cười lớn:

- Bọn tiểu nhân phản phúc. Ăn lộc trên lại trở mặt giết người trên. Nay ta thay mặt cho vương tử Đạo Cổ trừng trị các ngươi.

Tồn Thăng lấy làm giận lắm nhưng gã không thể làm gì, toan ném dao quắm về phía tên thủ lĩnh. Ngựa của tên thủ lĩnh thất kinh khiến hắn ngã ngựa. Tồn Thăng cười lớn:

- Ra chỉ là thằng cưỡi ngựa chưa vững mà cũng đòi đánh với ta.

Tay thủ lĩnh bỏ mạng che mặt xuống. Đôi tay vuốt vảy rồng nhảy lên ngựa lao về phía Tồn Thăng. Gã Quỷ tay không vũ khí bỏ chạy về hướng Tống Bình. Gã còn quay lại nói lớn:

- Cái loại quỷ da xanh nhà ngươi. Đừng hòng bắt được ta.

Long Trạch cho đám lính kỵ đuổi theo Gã Quỷ hòng giết chết gã. Có mũi tên bắn ra, trúng phía lưng phải gã. Dương Diện nén đau thúc ngựa thục mạng chạy nhanh hơn. Đến cổng La Thành, Dương Diện cho gọi mở cửa thành. Thấy hồi lâu không có người mở cửa, Gã Quỷ chạy lòng vòng quanh thành gọi ầm ĩ. Đến cửa phía Đông, có bóng người đi lên thành Gã Quỷ hớn hở gọi :

- Này tên kia. Mau mở cửa thành cho ta vào. Có đám người định truy sát ta.

Người trên cửa thành nói lớn vọng xuống:

- Nhà ngươi còn không mau chịu trói.

- Ra là gã hòa thượng thối nhà ngươi. Giả Thường giả dị cái gì. Ta phỉ nhổ vào.
Lúc ấy, gã hòa thượng da xanh cũng đuổi kịp tới nơi. Quân lính vây quanh Tồn Thăng. Gã Quỷ gầm gào hung dữ, mọi thứ dị tật trên người gã lại hằn lên. Đám lính thần hồn nát thần tính lui lại. Gã chạy ngựa tới một tên lính kỵ cầm thương, rút mũi tên trên lưng hắn mà phi cắm giữa trán tên lính ấy đoạt thương.

Gã cầm thương chém tứ phía, ngựa xông thẳng tới chỗ Long Trạch. Long Trạch dùng song câu giao chiến với Gã Quỷ Dương Diện. Giao đấu được ba mươi hiệp, biết mình không thể chống cự được Gã Quỷ thúc ngựa chạy thẳng vào vòng vây, lấy hết uy lực chém chết cả chục lính kỵ thoát về hướng Tây Bắc. Long Trạnh thúc ngựa đuổi theo đến bờ sông Nhị đoạn có bãi bồi giữa sông, bên kia có bóng cây đa lớn rủ xuống sông Nhị thì không thấy Dương Diện đâu nữa, chỉ thấy toàn cây lau mọc cao hơn đầu người lớn. Nhìn một hồi xung quanh không thấy người đâu, Long Trạch toan trở về La Thành.

Có một trận mưa vần vũ kéo đến nhanh, Long Trạch quay đầu trú dưới một lều tranh gần bờ sông. Trận mưa ào qua chỉ trong chớp mắt đã tạnh. Long Trạch thấy có xoáy nước giữa dòng đang tiến lại gần bờ chỗ Trạch đang trú. Trời nắng gắt trở lại, Long Trạch chạy ra ngoài lều tranh có tiếng vọng lớn từ túp lều :

"Đông hải kình trắng

Ngạc ngư vũng lầy

Chớ có tới đây

Phạm vào sát tội"

Lời vọng vừa dứt thì túp lều cùng cả bờ đất bị xoáy nước cuốn trôi. Hoảng hồn Long Trạch thúc ngựa chạy thẳng về La Thành, không dám ngoảnh đầu lại. Từ bụi lau, có bóng người lấp ló bước ra. Tiếng ngựa hý vang không khiến người này lo lắng. Anh ta bước ra gọi lớn:

- Này vị tráng sĩ kia. Bước đường cùng còn đi đâu nữa. Chi bằng qua sông với ta.

- Việc công còn dang dở, tướng chủ còn lưu lạc. Thăng ta phải đi tìm.

Gã Quỷ thúc ngựa chạy đi về phía trước, một lát ngựa lại chạy lại chỗ cũ. Nghĩ trong đầu đường ấy là sai đường, Dương Diện lại cho ngựa rẽ về trái đường, đi lòng vòng một hồi lại trở về chỗ cũ. Cứ như vậy, đến lần thứ tư Dương Diện quát lớn:

- Là kẻ nào dùng tà thuật?

Chàng trai khi nãy bước ra, dáng người gầy, đôi tay dài sải, đôi bàn chân bè ra như chân vịt mặc chiếc khố màu nâm sậm. Làn da ngăm đen, mái tóc xõa ngang vai, trán anh ta buộc một dây vải vòng ra phía sau. Mũi gãy, tai nhỏ như chuột, đôi mắt đượm buồn đen nháy. Anh ta cười mà mặt trông chẳng thấy vui hơn, môi dưới trề ra nói :

- Ta nghe có vị tướng quân ghé thăm, lại muốn nhờ ta xem trí tài người ấy thế nào. Hóa ra chỉ là một tên ngốc.

- Ngươi là kẻ nào? Đừng có đứng đấy già mồm. Có giỏi đánh với ta một trận.

- Tại hạ là người làng Chèm đất bên kia sông, tên là Lý Toàn, người làng vẫn gọi là Nga Tú Du Thủy. Tướng quân xin bớt giận. Người làm tướng, khi đánh trận đâu chỉ lấy sức mạnh mà còn phải dùng cả cái này.

Chàng thanh niên cầm một cây sậy chỉ vào đầu y. Tồn Thăng lại nói :

- Cái bộ tóc của nhà ngươi thì làm được trò trống gì.

Anh chàng lại cười phá lên. Tồn Thăng mặt phừng phừng tay cầm cây thương dí vào cổ anh chàng. Chàng ta không tỏ gì lên khuôn mặt, lại lấy lá sậy vờn ria mép mà nói :

- Dũng tướng xin chớ nóng giận. Ta đây chỉ là muốn cứu ngài đấy thôi.

Tồn Thăng rút thương lại, có tiếng cười lớn từ lòng sông vọng tới:

- Dương Diện Lão Quỷ Tồn Thăng. Còn chưa chịu nhận mình ngốc sao.

- Ra là nhà ngươi, Đặng Hoài. Không lo giữ thành lại lạc đến đây chơi để cho đám đầu trọc kia cướp thành.

- Lão Quỷ lên thuyền, rồi cùng ta qua sông. Chủ tướng đang ở bên đó đợi huynh đệ.
- Thù nhà nợ nước đã trả. Quân sư sao vẫn thở dài?

- Chẳng giấu gì huynh tướng. Từ ngày Đỗ Gia Trang bị thảm sát, tám anh em chúng tôi chia đôi ngả đường. Sĩ Giao tôi, huynh trưởng Đỗ Đại, em trai Sĩ Hoàng cùng tâm phúc Đỗ Dụng ngược dòng Vân Cừ thì bị cướp. Đỗ Đại cùng ta chạy về được Giao Châu, lấy đất Luy Lâu làm ruộng, chài lưới nơi sông Cái, sông Thiên Đức cho đến nay cũng đã quá ba năm. Sĩ Giao may mắn được qua lại La Thành, ra vào trị sở Tống Bình. Lúc nguy nan lại được chủ công cứu giúp. Nay nghĩ về Đỗ Dụng và em trai thiếu may mà thấy buồn thay.

- Chí trai muôn phương vùng vẫy. Sinh ly tử biệt biết mấy thì. Quân sư chớ phiền lòng. Cùng ta lên núi Tiên Du vãn cảnh kiếm vui chăng?

Sĩ Giao cùng Chí Liệt thúc ngựa đến núi ấy, ngắm cây hoa, cây liễu làm vui. Trên đoạn đường về, hai người gặp đám hòa thượng đang cùng kéo mấy xe gỗ nặng trĩu, lại cả đá thạch kỳ quái. Chí Liệt dừng lại hỏi đám ấy :

- Chẳng hay những thứ này các tăng chở đi đâu?

- Chúng tăng đi từ Tiên Du mang về Đại tự hương Phù Đổng. Núi ấy nhiều dị thảo kỳ hoa mọc trên đá, sư phụ kêu chúng tôi tới đó mang về.

Sĩ Giao đi một vòng quanh đám tăng nhìn thấy tảng đá dáng hình như đầu Rồng, lại có hai cây mọc ra như râu Rồng. Thạch diện có những nếp đỏ kỳ quái như văn tự cổ. Sĩ Giao hỏi đám tăng ấy:

- Đá này các tăng lấy ở đâu?

- Bọn tăng tôi lên đỉnh núi Tiên Du lấy xuống. Xưa có toán cướp ở đó dân chúng quanh đó chẳng ai dám lên núi ấy. Nay nhờ ơn Dương tướng quân diệt bọn ấy mà chúng tăng mới lên núi ấy kiếm về.

- Chẳng hay các tăng có thể tặng hai chúng tôi tảng đá này. Ta tặng các tăng một con ngựa đỡ sức kéo.

Đám tăng ấy bàn bạc một hồi, nói với Sĩ Giao :

- Hai vị thông cảm cho chúng bần tăng. Hay là hai vị cùng chúng bần tăng về Đại tự, trụ trì đồng ý thì sẽ tặng cho hai vị.

Hai người đi theo đám tăng ấy đến Đại tự kia, như đoán được trong đầu thì đúng là Đại Đường Nam tự. Sĩ Giao đứng xuống ngựa nhìn lại cảnh chùa một hồi lại hỏi :

- Có phải là Đại Đường Nam tự do vương tử Lý Đạo Cổ dựng chăng?

Có người bước từ hữu viên đại sảnh bước ra, giọng trầm mặc :

- Đại Đường Nam tự chính đây. Vương tử Đạo Cổ nơi xa không hay, quan sứ Tượng cổ chẳng còn thây. Chẳng phải hai người ngày nạp phật của Đại tự đã tới đây.

Chí Liệt giọng nói vang vang :

- Bọn giặc ấy, chữ vương tử nghe mà trướng tai.

Đám hòa thượng bảo nhau chạy vào hậu viên, chỉ còn lại vị cao tăng mặt đẹp như phật kia ở lại cùng hai vị tướng quân. Vị tăng ấy nói :

- Chốn phật môn, không phân biệt kẻ mạnh người yếu. Đức Phật từ bi có đức hiếu sinh mở lòng đón nhận mọi lòng thành.

Chí Liệt tức giận, mặt đỏ phừng phừng, tay nắm chặt dây cương quay ngựa ra phía cửa tự. Chí Liệt quay mặt lại mà hỏi:

- Ta nghe nói nhà ngươi là Đại thiền sư đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, tinh thông kinh phật, ngày ngày giảng giải đạo lý cho chúng dân phật tử. Cớ nào lại mê kỳ hoa dị thảo, sai đám tăng đi lên núi cao mà tìm kiếm thứ ấy.

- Nam mô a di đà phật. Phật tổ chứng niệm. Bần tăng đầu nào có tâm vị kỷ mê muội. Nơi ấy muôn thú chim muông hãi hùng đám giặc cướp, cỏ cây hoa lá chốn ấy cũng vì thế mà sinh ra kỳ dị. Chúng tăng mang chúng về đây chẳng có lòng khác, chỉ mong hướng chúng đến bản thiện như khi chúng được sinh ra, ấy rồi lại trả chúng về với nơi ấy cho muôn thú, chim muông có bạn có bầu.

Chí Liệt nói :

- Ra là như vậy. Ấy thế mà đám tăng đi lấy đá kia nói về hỏi sư ngươi đồng ý mới tặng cho ta đá ấy. Thế cớ làm sao?

- Đám đệ tử ấy là mong hỏi ý Phật. Tâm trong sáng Phật ý nghiêng lòng. Nay thấy Tướng quân khảng khái, tính tình bộc trực lại không mang xà tâm. Ý Phật đã nghiêng, mời hai vị tướng quân mang đá ấy về.

Như lời đã nói, Sĩ Giao tặng cho tự ấy một con ngựa khỏe. Hai người mang đá ấy về La Thành. Dương Thanh lấy làm kỳ lạ hỏi Sĩ Giao:

- Các ngươi mang mấy trăm lính đi bắt giặc cướp. Nghe rằng cũng hao tổn vài phần sức lực sĩ tướng.

Sĩ Giao bẩm lại :

- Giặc dữ trong thành, đồn trú thì dễ đánh. Bọn trộm gà cướp chó thì không đáng để bàn. Bọn cướp này tổ chức bài bản, kỷ luật nghiêm minh lại hung tợn hơn quân tướng nhà Đường gấp đến vài lần, lấy một mà địch được năm sáu, chém giết chẳng chút nương tay. Quân sĩ vừa trải qua chiến đấu ác liệt, bọn ấy lại dựa địa hình, thời tiết mà cản bước quân ta. Cũng vừa xảy ra chuyện hương Phù Đổng nên thành ra mới vậy. Mong chủ tướng minh xét.

Dương Thanh nghe Sĩ Giao phân trần cho là phải lẽ nên không dò xét. Sĩ Giao bàn
tiếp với họ Dương:

- Sĩ Giao thấy rằng. Đám người đến Đại tự hương Phù Đổng kia, chẳng phải bọn
tiểu nhân tầm thường. Chí Liệt thiếu chủ cũng đã nhìn thấy và báo lại cho chủ công. Mong chủ tướng sớm cho tra xét tránh hậu họa.

Dương Thanh cười lớn:

- Quân sư quá lo lắng rồi. Ta đã phái người giả làm chúng đệ tử để dò la tình hình. Chẳng hay viên đá này là như thế nào?

- Bẩm chủ tướng cùng thiếu chủ. Đá này bề ngoài có vẻ thô ráp xấu xí. Nhưng để ý kỹ một chút, dưới lớp ráp thô này là ngọc bích nảy mầm ra cây tạo thành râu rồng. Ấy là điềm lạ thứ nhất. Chủ tướng xem hình dạng nó, phía trên nhô cao như sừng của loài rồng, đôi mắt chính đây hai ụ lồi to, chỉ cần bóc lớp màng đá này ra sẽ là hai con mắt xanh ngọc. “Long Diện” lại có sọc thắng kẻ xuống đến “Long khẩu”, chính là chỗ này, ấy là mũi rồng. Mà rồng là biểu trưng của vương quyền. Chẳng phải chính là điềm báo tốt cho chủ công?

Dương Thanh nhìn lại viên đá ấy một lượt, hỏi Sĩ Giao :

- Có lẽ là Long Thủ, ấy nhưng lại có những nét nguệch ngoạc màu đỏ phía chính diện này có vẻ giống chữ viết của tiền nhân. Theo quân sư thì ta nên để viên đá này nơi nào?

- Phía cổng nam La Thành, đi hướng về hương Phù Đổng chừng hai trăm bước có kênh nước chẳng rõ nguồn từ đâu, có tự bao giờ nước trong vắt chảy vào trong lòng đất quanh năm không thấy cạn. Tiểu nhân nghe dân gian có huyền tích rồng trẫm mình chốn ấy mà tạo thành dòng nước ấy. Nay có đầu rồng chốn này, chọn ngày lành tháng tốt mời nhà sư đến, soạn sửa lễ vật, sai mười tám trai tráng trong thành ra ấy mà dâng lễ làm tế nhập thân cho rồng. Long này ngự ở cổng Nam La Thành vừa hợp với phận của chủ tướng.Ý rằng chủ công là người Nam, tổ tông lại ở phía nam đất ấy. Rồng phía nam ấy chính là ứng vào người đó.

Dương Thanh cười lớn. Hỏi Sĩ Giao :

- Chẳng hay mời sư thầy nơi nào? Ta có đọc chút thiên văn, thiên tượng nhưng vẫn muốn hỏi quân sư chọn ngày thế nào?

- Bẩm chủ công. Nay chủ công nắm Giao Châu, Đường triều xa xôi ngày một ngày hai chưa thể đến ngay, nhưng ắt sẽ đến nên không thể để lâu. Tiểu nhân bấm được ngày mùng tám canh ngọ là ngày hoàng đạo. Nhân dịp ấy mà thử lòng bọn tăng nhân Đại tự hương Phù Đổng.

- Quân sư thật hợp ý ta. Hai ngày nữa, Chí Liệt cùng quân sư soạn sửa lễ vật, chọn lấy lính tráng mà làm lễ tế. Nghe rằng từ Hát môn xuôi dòng Đáy chừng ba chục dặm đường, phía hữu ngạn có đất gọi là Phụng Châu, nơi ấy lại có thợ đục đá giỏi nhất. Sĩ Giao sai người mời người ấy về để tạc đá Long Thủ. Về phần sư thầy, ta cũng định mời đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng để xem lòng dạ bọn chúng thế nào.

Lại nói những ngày Chí Liệt diệt cướp ở núi Lạn Kha, Dương Thanh sai Triệu Hoằng cho người đóng giả kẻ học đạo về chùa Đại Đường ấy mà do thám tình hình để báo cáo lại cho Dương Thanh. Triệu Hoằng bản tính tham lam, yêu vàng bạc châu báu nên mấy tên quan lại ngày trước dưới trướng Lý Tượng Cổ đút lót cho hắn mỗi người mấy lượng vàng để được về chùa ấy nghe ngóng.

Nghe tiếng chùa ấy lớn, gỗ, gạch sơn ngói đều được rát vàng, thếp bạc, lại có vị cao Tăng tu ở đấy, nên đám dân chúng, con buôn khắp Giao Châu này về lễ lạc thật nhiều. Thấy như miếng thơm ngon nên càng có nhiều kẻ tranh nhau xin đi tới đó. Triệu Hoằng nhận lời, phái đi cả thảy bảy người. Được hai ngày, kể từ ngày Chí Liệt dẫn viện quân hai trăm lính đến Tiên Du, ba người bị chùa ấy từ chối không nhận làm phật tử, không cho nghe giảng kinh phật.

Triệu Hoằng bẩm báo lại cho Dương Thanh, Dương Thanh cho gọi ba người ấy đến dò hỏi:

- Các ngươi làm việc gì sai trái nơi cửa chùa mà để chùa ấy không nhận.

Có tên người mập mạp, da trắng bủng beo tiến lên mà bẩm :

- Bẩm chủ công. Chúng tôi tới chùa ấy cả thảy bảy người. Sau khi khai danh báo tên thì được một nhà sư nói giọng Quỳnh Châu dẫn ra một lối sau chùa dặn dò. Nói rằng chùa nhỏ, phật tử đông, xin chúng tôi về, sau này có dịp thì tới báo danh lần nữa.

- Hay bọn ấy tham của đút lót mà các ngươi không cho tiền bọn ấy?

Một tên dáng thư sinh bẩm lại :

- Triệu Đại nhân có dặn dò chúng tiểu nhân nhưng khi ở chùa, bốn người kia được nhận vào chùa thì nói lại với chúng tiểu nhân là không cần phải đút lót cho bọn ấy. Sau khi biết không được vào chùa học kinh, tiểu nhân cũng có gặp riêng vị sư ấy đút lót cho chút tiền nhưng vị ấy không nhận. Lại nói, có nhận tiền cũng không thể giúp được.

Ngày hôm sau, lại có một tên trốn khỏi chùa ấy về báo lại cho Triệu Hoằng. Hoằng bẩm lại với họ Dương. Dương cho gọi kẻ ấy lên. Giọng nói tên này không phải người Tống Bình, mặt mũi thâm tím như vừa mới bị đánh đập, Dương Thanh hỏi hắn :

- Nhà ngươi dò la tin tức gì chăng? Mặt mũi tại sao lại ra như thế?

Hắn lấm lét mặt, giọng run run :

- Bẩm Thiên thanh tướng quân. Bọn chúng nhiều kẻ không ăn chay, uống rượu, lại luyện võ suốt ngày. Đêm qua, tiểu nhân còn nghe được bọn chúng thì thầm to nhỏ thì bị bắt đánh cho thâm tím mặt mũi. Cũng may có vị tiểu hòa thượng cứu giúp nên mới chạy được ra ngoài.

- Nhà ngươi là người ở đâu? Tên họ là gì? Làm việc gì ở Tống Bình.

- Bẩm tướng quân. Tiểu nhân họ Ngô, tên Dụ, thân mẫu sinh tiểu nhân vào ban ngày nên vẫn gọi là Nhật Dụ, hiện đang là đốc mã Giao châu. Được giao quản lý số lượng trâu ngựa vùng Giao Châu này. Tiểu nhân sinh ra tại đất Đường Lâm. Tổ tiên ngày trước người quận Nam Hải, đất Phiên Ngung của Việt Vương thời chiến quốc, đến Ái Châu cầy cấy đến nay cũng được năm đời.

- Ra là thế. Ngươi có sợ chết không?

- Bẩm chủ tướng. Làm người ai chẳng sợ chết. Tiểu nhân cũng có gia đình, trên cha mẹ già, lại chưa lập gia thất, càng không muốn chết.

- Sao lại phụng sự dưới trướng tên ác nhân Tượng Cổ?

- Là phận tôi tớ, tiểu nhân không dám bàn.

- Ta nghe lời người khác nói Triệu Hoằng ăn đút lót của mấy người đến Đại tự hòng kiếm lợi vậy? Ngươi nghĩ làm sao?

- Là chủ tướng xin chủ công chớ vì những lời rèm pha mà nghi kị kẻ dưới.

- Nhà ngươi có hay không đút lót cho Triệu Hoằng. Hắn nói với ta nhà ngươi lòng dạ thật thà. Nhưng hắn lại sợ ngươi là người từng dưới trướng Tượng Cổ nên cũng có phần e dè.

- Nếu là Triệu đại nhân có lòng nhận của đút lót thì kẻ nào hám lợi cũng nhìn thấy điều ấy mà đút lót. Còn phận làm tôi tớ, tiểu nhân chỉ làm theo lệnh trên.

- Thế trên ngươi còn có ai ?

- Bẩm chủ tướng ! Trên tiểu nhân còn có Liễu tá đại nhân Đặng Khả.

Dương Thanh nghĩ một lúc, cười lớn :
- Là tên Liễu tá giữa chợ La Thành, một mình mắng chửi hai thằng cháu của
Tượng Cổ mà tên quan sứ ấy chẳng thể làm gì được? Ngươi làm đốc mã, động cơ gì muốn đến nơi Đại tự ấy.

Tên ấy lúm khúm bẩm lại :

- Là Đặng đại nhân nói với tiểu nhân. Lần này đến ấy, có cơ may thì tiểu nhân sẽ trúng lớn. Ấy thế mà tiểu nhân xin đi.

Dương Thanh mặt nghiêm nghị, nói lớn:

- Ta biết dạ nhà ngươi rồi. Thưởng cho ngươi hai lượng bạc. Cho nhà ngươi lui. Hễ có gặp họ Đặng ấy thì chuyển lời cho hắn như vậy là hòa vốn rồi.

Thấy dáng vẻ cậu ta có vẻ đường hoàng, trả lời những câu hỏi của Dương Thanh đâu ra đấy, đáo để đến kinh ngạc, Thanh lấy làm mến mộ lắm.

Dương Thanh hỏi Triệu Hoằng về cái tên Nhật Dụ này. Hoằng cho biết, ngày hôm trước, Dương Thanh sai Triệu Hoằng đi dò la Đại Đường tự thì Đặng Khả đại nhân có đến giới thiệu cậu ta cho Hoằng. Cậu ta năm nay mới tròn mười lăm mà dáng người vạm vỡ lớn hơn những thiếu niên tuổi ấy, tinh thông tính toán từ khi lên mười, được cha cho theo học ông thầy người Trung Nguyên tại hương Sơn Ổi, huyện Quân Ninh, Ái Châu. Nghe nói ngày trước, đất ấy có ông thầy người Trung Nguyên đến, thấy đất linh ứng mà mở lớp dạy học. Sau này học trò nơi ấy có vị tiến sĩ làm tới Tể phụ Đường triều thời Bố Cái Phùng Hưng.

Dương Thanh trộm nghĩ "Tuổi trẻ mà đã có tài, sau này ắt có tương lai sáng lạn. Hy vọng trời giúp ta, cho ta nhiều hơn những nhân tài như vậy."
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.


Chương 4.2 Lúc hoạn nạn gặp kẻ hiền nhân

Đặng Hoài kể cho Tồn Thăng mọi chuyện. Thì ra đám tăng kia chẳng phải là dạng tầm thường. Đại Đường tự, ngày thắp hương thờ phật qua mắt chúng dân và quan lại, đêm thờ tiết độ sứ mới chết. Ngày luyện khí công, gánh nước trồng rau, đêm rèn binh đao nơi hậu viên, chờ ngày báo thù cho tên tiết độ sứ họ Lý. Ngày trước có ba kẻ Triệu Hoằng sai đi dò la lọt được vào chùa thì hai trong số ba kẻ ấy là người Hoa Hạ, một tên là Tăng thống phủ Tống Bình thời Đô hộ Tượng Cổ tên gọi Hoành Trinh, một tên là Quận châu mục Quản Đồ, một người nữa là đô đốc Thang châu Mã Tước. Đám ấy xưa được Tượng Cổ yêu mến, cất nhắc cho giữ những vị trí hiểm yếu. Sau khi hắn chết, những kẻ ấy thân cô thế cô, bắt buộc phải đầu hàng theo Dương Thanh.

Nghe tin Triệu Hoằng tuyển người dò la Đại Đường tự, chúng liền đến đút lót cho Triệu Hoằng. Vào đấy, chúng vượt qua những thử thách đầu tiên của đám giả tăng kia. Chúng được tin tưởng giao phó về Tống Bình dò la, tập hợp lực lượng để chờ ngày hôm nay, toan giết chết họ Dương cùng những người thân cận.

Đến ngày hôm qua, giữa đêm khuya, có người lấm lét chạy vào phủ bị bọn lính bắt được. Dương tướng quân cho xét hỏi thì Triệu Cường con trai Triệu Hoằng chạy tới bẩm báo người này chính là Mã Tước, một trong ba kẻ đã trà trộn được vào Đại Đường tự. Dương tướng quân hỏi hắn làm gì trong suốt thời gian ở trong tự. Hắn khai hết những gì hắn thấy và được biết cho Dương Thanh nghe. Nghe xong, cả giận Dương thanh toan cho người đến tự ấy mà đốt sạch bọn phản loạn. Mã Tước cản lại mà báo rằng nếu Dương Thanh ra ngoài thành trong đêm là sẽ có kẻ ám sát ngay. Nói vậy, Dương Thanh cẩn thận hơn, sai người mặc áo choàng, cưỡi ngựa đỏ đi ra ngoài phủ. Tiếng ngựa hý cất vang trong đêm, Dương Thanh nhận thấy lời của Tước là thật.

Dương Thanh hỏi Tước:

- Vì đâu nhà ngươi có ý quay lại giúp ta?

- Không phải là vì ngài khảng khái chính trực thì tiểu nhân chẳng nói ra điều này cho ngài. Chẳng giấu gì. Nhà tiểu nhân xưa ở đất Kiến Nghiệp, Giang Nam, ba đời làm quận úy đất Giang Lăng, đến đời ông nội tiểu nhân vì loạn An Lộc Sơn mà chạy về đất này. Đám quan lại ở Tống Bình hay qua lại nhà tiểu nhân, cha tiểu nhân mới giới thiệu tiểu nhân vào phủ, lại được tiết độ sứ yêu mến nên được giữ đất Thang Châu. Tiết độ sứ không được lòng dân chúng và các vị tôn trưởng người Nam như ngài nên bị giết. Thoạt đầu tiểu nhân có chút nghi ngại, nhưng sau những lời nói và hành động của ngài đối với đám quan lại chỉ chăm chăm nịnh trên lừa dưới kia đã thay đổi suy nghĩ của tiểu nhân. Ngài không ghét bỏ đám quan lại cũ còn sót lại mà những người được việc, có khả năng được ngài tận tâm nâng đỡ, gỡ những trói buộc trong đầu. Thật là đấng chủ tốt vậy. Khi vào Đại tự dò la, tiểu nhân như những người khác bị bọn ấy dò xét. Qua mắt được đám ấy thì tiểu nhân được thu nạp. Đám người ấy là tay chân của vương tử Đạo Cổ, trước lập chùa ở chốn đấy để đám quan lại Tống Bình có chỗ đi lại nương cửa phật. Sau khi Tượng Cổ chết, bọn chúng tối đóng chặt cửa, mưu bàn việc quân tình, lại cho người vào thành dò la, đút lót bọn quan, tướng hòng có được thông tin để dễ bề ra tay. Danh sách những người thân tín của ngài bị mua chuộc tiểu nhân có đây. Nhưng không phải tất cả nhận được tiền đều bán rẻ tướng quân. Đặng Khả là một trong những người như vậy, vì thấy tướng quân cho quân đóng tại biên giới nên mới ngăn cản. Sợ tướng nơi xa không thể cứu giúp binh biến bên trong Tống Bình. Đêm nay, tin biết ngài cho các tướng đi biên ải, chỉ để lại một viên tướng không mưu lược là Tồn Thăng nên mới có ý định ra tay cướp La Thành. Trong ứng, ngoài hợp e là không dễ để ngài thoát khỏi tay bọn chúng. Tiểu nhân bị bọn chúng nhìn thấy có lòng dạ khác nên bị bắt trói ba ngày nay, chẳng cho ăn uống gì. Đến sáng nay có vị hòa thượng tên Lập Đức vào tự ấy giúp tiểu nhân trốn ra ngoài, tiểu nhân vội đến đây báo với tướng quân.

Thấy lòng dạ người này không phải người xấu, Dương Thanh hỏi cách nào để thoát ra ngoài một cách an toàn thì Tước nói với Dương tướng chủ rằng Dương Diện lão quỷ là người có thể cản bước bọn chúng. Lại sai Gã Quỷ đuổi khéo Lập Đức cùng Vô Ngôn Thông để tránh tai họa cận kề. Cũng vì Gã là tướng soái có sức mạnh và đầy dũng cảm nhất còn lại ở Tống Bình nên việc cản bước lũ giặc trong nhà không ai phù hợp hơn.

Dương Thanh sai người hầu cận đóng chặt cửa phủ, lại mặc áo lính tuần đi cùng với đám Đặng Hoài, Triệu Cường dùng quân bài ra khỏi cửa thành phía tây, chạy đến bờ sông Nhị. Còn lại đám lính trung quân thì giao hết cho Dương Diện đi đối phó với đám tăng nhân Đại tự. Dương Thanh nói với Đặng Hoài :

- Thật là cực chẳng đã mới phải làm ra điều như vậy. Chẳng biết tên ngốc Tồn Thăng có thể chạy thoát mà tới chỗ này không.

Đặng Hoài đáp lời :

- Nếu Tồn Thăng là kẻ dũng, không mưu lược gì thì ắt sẽ như lời Mã Tước nói với tướng chủ.

Y lời Đặng Hoài, sau khi qua sông cùng với Lý Toàn, Đặng Hoài dắt Tồn Thăng vào diện kiến Dương Thanh. Dương Thanh lấy làm mừng lắm. Gã Quỷ máu chảy ngang lưng xuống đến gót chân. Dương Thanh sai người lấy áo khác thay cho Gã Quỷ, tự tay băng bó vết thương cho hắn. Dương Thanh hỏi gã:

- Vết thương này vì ta mà có. Ai nói cho nhà ngươi biết ta ở đây mà đến?

Gã cười :

- Nam tử hán, có chút này chỉ là gãi ngứa. Tiểu nhân từ Phù Đổng đến Tống Bình, thấy trên cổng thành có treo bốn chữ : "Dương Tây Trinh Đông" ý là tướng chủ phía tây, thiếu chủ đang ở phía đông.

- Vậy mà Triệu Cường và Đặng Hoài cho rằng ngươi chẳng thể hiểu được ý đấy.

- Là Lập Đức hòa thượng tới thành biết trong thành có biến nên đã nhắc ta đi về phía tây.

- Thế sư ấy đâu rồi?

- Sư bảo thế loạn không ở được lâu, lại đi cùng họ Trịnh hướng Đông Nam. Khi ấy, bọn giặc mặt xanh đuổi tới, tiểu nhân liền chạy đi tới đây. Tên tiểu tử tên Toàn giúp tiểu nhân tránh được giặc cướp mặt xanh kia. Chẳng biết hắn dùng tà thuật ra sao mà khiến xoáy nước dưới sông nói được, lại cuốn phăng bờ đất chỗ tên Long Trạch ấy đứng.

Lý Toàn tay cầm ria mép, giọng nói ba hoa:

- Toàn ta vốn cháu ba mươi đời của lưỡng quốc Đại tướng Lý Ông Trọng. Xưa tại bến này, ta bắt thủy quái chốn sông sâu, hà bá thủy tề có thá gì đâu. Bọn ấy nghe thấy tên ta mà rụt đầu sợ hãi.

Tồn Thăng nhìn Toàn với ánh mắt ngưỡng mộ. Gã Quỷ vỗ vai Toàn:

- Người thì bé loắt choắt, tay dài lều nghều như cái sào chọc…

- Ấy, ấy. Nhà ngươi đừng có nói thế. Áo con trai ta mặc đây là da của thủy quái, đôi giày ta đi cũng là da của thủy quái ấy mà may thành. Chiếc vòng này toàn là răng của thủy quái.

Tồn Thăng cười lớn, chỉ vào lưng hắn đầy vết sần sùi cứng ráp:

- Còn mái tóc bù xù cùng với cái lưng cứng ráp kia của ngươi cũng bắt chước theo thủy quái đấy. Ta hình dung con thủy quái của ngươi giống ngươi lắm.

Mấy người lại cười ùa theo Gã Quỷ. Dương Thanh can lời :

- Là Lý Toàn từ nhỏ đã sinh ra lưng đã bị vậy, chẳng thể khác được. Ngươi xem lại mình xem có khác gì quỷ sa tăng không. Mái tóc kia của Lý Toàn làm nghề sông nước để vậy cũng là cho tóc ấy nhanh khô, đầu không mọc nấm. Ngươi xem nhà ngươi thuở đầu đến với nghĩa quân của ta, chấy rận đầy đầu, lại suốt ngày lòa xòa chẳng chịu búi lên. Đánh nhau với đám quân triều đình, bọn ấy chẳng sợ khiếp vía mấy phần vì điều đó.

Lý Toàn cười nắc nẻ, còn Tồn Thăng mặt chẳng vui quay mặt đi bỏ qua chuyện. Gã hỏi Dương Thanh :

- Chủ tướng cớ sao bỏ thành để cho đám giặc cướp kia chiếm được.

Dương Thanh đập bàn, mắng trách:

- Là do ngươi! Ta nói ngươi đi sớm về sớm, ấy nhưng không chịu đi lại để đến sáng hôm sau mới chịu đi. Người không bắt được, lại bị chết đám trung quân.
- Theo ý của tướng quân, trời sáng gà gáy, tại hạ đã cầm lính đi. Nào ngờ bọn giặc ấy đứa nào đứa ấy giáp khiên đầy đủ, vũ khí ngắn dài đều có, cưỡi ngựa thuần thục. Thân tiểu nhân người không manh giáp, bọn giám quân được ba con ngựa, đám lính đi chỉ bắt người chứ nào đâu có chủ định đánh giết. Đã không bắt được đám giả tăng, lại bị cái tên mặt xanh kia dẫn quân đến. Thoát chết là may lắm rồi.

- Ai bắn ngươi?

- Là cái tên gì đó tên là Trương Sang. Hắn bảo là quân tiếp viện của Trinh thiếu chủ. Nào ngờ đọc tên hiệu trên cờ hắn thì bị bọn ấy bắn tên.

- Các ngươi giết được bao nhiêu lính, đám ấy có bao nhiêu người.

- Cả thảy giết được gần trăm, còn hơn nửa nữa. Thoát đến thành thì thành không mở. Trong thành hò reo ầm ĩ, quân lính đến cỡ bảy tám nghìn đứa.

- Nhà ngươi còn thấy ai đứng trên thành.

- Là tên hòa thượng Giả Thường, hai tên bặm trợn Giả Không, Giả Thanh, có đô úy Tống Bình Khương Nho, đám áp nha đô sứ đến bảy tám người.

- Thật là nuôi ong tay áo.

Đặng Hoài thấy vậy vỗ về họ Dương, Triệu Cường lại cho người soạn rượu thịt lên. Dương Thanh uống rượu mà lòng nóng như lửa đốt chờ tin báo về. Bữa tối tàn cơn, Dương Thanh ngà ngà nằm trên trõng tre thiếp đi.

Trong cơn mê sảng, Dương Thanh mơ thấy có một lão ông mình cao hai trượng ba thước, khí chất đoan dũng khác thường, giọng nói vang vang như sấm rền đang giảng đạo cho một người học trò nghe. Chàng thanh niên kia mải mê chăm chú nghe lời lão ông bàn về việc trị nước an dân, lại giảng giải kinh thư, luận sách Xuân thu kể chuyện nhân đức, trung nghĩa của những gương tiền nhân.

Dương Thanh bước nhẹ tới, ngồi cạnh chàng thanh niên mà anh ta không hề biết, Dương Thanh ngồi chăm chú nghe cùng. Anh chàng ngồi cạnh gù gật trên đống sách, gục mặt xuống bàn, Dương Thanh thảng thốt nhận ra người ấy là Triệu Xương, tướng chủ cũ của Giao Châu. Dương Thanh lay Xương dậy thì thầy chẳng trách phạt lại nhẹ nhàng dặn dò:

- Trước con là người chủ công minh, sau y là dũng tướng vì cái tội của kẻ trên mà diệt kẻ trên tự lập lấy danh. Tuy rằng y dũng mãnh, khí chất còn vương nhiều nóng nảy nên người dưới lắm kẻ không ưa. Vãn bình sinh mà thoát nạn.

Dương Thanh ngẫm thấy lão ông nói mình. Vội vàng cúi lậy nghe lời dạy. Lão ông đứng lên bục đá, mặt nhìn hướng tây bắc ngược dòng sông trước mặt nói rằng:

- Đất Bạch Hạc trước đời ta Vương họ Hùng chọn đất ấy mà lập ra nước Nam. Khí chất ở đấy vượng sung. Từ phía núi Hy Cương xuôi về đến ngã ba con nước long phượng cứ hùng. Nhà ngươi lui về đất ấy ắt tai họa lui dần.

Dương Thanh cúi lạy hỏi:

- Chẳng hay tên họ thầy là chi.

Dứt lời, lão hóa thành luồng sáng vàng bay lên trời, chỉ còn lại mây khói mịt mù ngang trời, sông nước mênh mông. Triệu Xương dắt Dương Thanh đi qua con đương rêu phong đầy đá, bước qua những lụi cây hoang tàn, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ thôn hoa rụng. Triệu xương chỉ tay lên bầu trời nói với Dương Thanh:

- Nhà ngươi nghe lời Phụ tín Đại vương nói đấy. Nhà ngươi vì ghét bỏ kẻ tham tàn mà tàn sát. Nay đại họa cận kề, y lời thần nói mà theo. Gặp người họ Lý thì dựa người ấy, có lúc cần nhờ đến. Gặp Vương thì bái lạy ắt sẽ gặp điều lành. Từ đất đình lớn này, lấy thuyền nhỏ vượt cửa Nhuệ giang sang bên kia là làng nhỏ Thị Điềm. Đất ấy có đền thờ Đại vương. Nếu hương lên, nhang cháy một nửa có cành tre gãy thì là ngài ứng báo. Còn không thì số nhà ngươi đến vận suy tàn.

Tỉnh dậy mơ màng, Dương Thanh nhận được tin báo về từ biên giới. Quân tình cấp bách, xé toang mơ hồ, Dương Thanh cùng Triệu Cường vượt sông sang đất Phong Châu. Tại đây Dương Thanh hợp hai nghìn quân phòng đông của thứ sử Vương Thăng Triều tại cửa Hát Môn. Trong đêm cho người bí mật về La Thành dò thám tình hình.

Lúc bấy giờ, Chí Trinh sau nhiều ngày cố thủ thành Nà Lữ đã phải bỏ thành khi quân triều đình được tù trưởng động Hổ dẫn đường. Sau khi mất thành, Trinh chạy vào núi, sai quân đóng tại đèo Mã Phục. Đêm đến sai lính đi đốt trại lính quân triều đình, cho thứ độc bẩn vào nguốn nước ăn của quân triều đình. Lại có kẻ phát hiện ra chỗ thiếu chủ họ Dương, Trọng Vũ sai năm trăm tên lính đi vây núi, đốt cháy cả núi. Chí Trinh cùng hơn một nghìn lính liều chết chạy theo đường núi chạy đến đất phía đông châu Bình Nguyên, đóng quân tại núi Hiếu Sơn, lại cho hai trăm lính đi đến bờ đông Lô Giang. Tại đây, Chí Trinh mượn lương thực của tù trưởng người Mèo là Giàng A Kha. Nhờ có một người trong vùng ấy biết tiếng người Lão, Chí Trinh cho người đó đi theo, dẫn đường xuôi sông Lô về đến đất huyện Thừa Hóa châu Phong.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.
Chương 4.3 Sinh ly tử biệt
Lúc mất thành Nà Lữ, tả tướng của Chí Trinh là Triệu Túc dẫn năm trăm lính vượt sông Nam Bình (Sông Thương) hội quân với cha và Sĩ Giao tại Hải môn.

Đương lúc nguy bách, Triệu Hoằng tự ý mang quân đến Hải Môn quan nghênh chiến với tướng địch là Thôi Kết. Phó tướng của Quế Trọng Vũ thấy Hoằng là kẻ ham sống sợ chết lại hám tiền bạc của cải, sai sứ giả sang vờ cầu hòa. Sĩ khí quân lên cao, thấy Kết sợ hãi mà nộp tiền vàng của cải, Triệu Hoằng lại sai con trai Triệu Túc mang thêm quân đến để hòng dọa Kết.

Đêm rằm tháng chạp, Kết lại sai sứ giả bí mật đến chỗ Hoằng chở theo rượu thịt trăm cân, vàng bạc nghìn lượng, vải lụa nhiều vô kể. Sứ giả nói với Hoằng:

- Triều đình có ý tốt muốn công nhận Dương Thanh tướng quân. Nhưng khi phong chiếu, hắn lại vờ ốm không nhận. Nghe Triệu Hoằng tài đức phần nào cũng vượt hơn họ Dương ấy, lại biết lắng nghe lòng dân được lòng đám sĩ tướng xứ Giao Châu. Trọng Vũ tướng quân thấy cái uy của người hùng tài lấy làm kính nể. Chút quà mọn này coi như chút quà gặp mặt. Trọng Vũ muốn cầu hòa với Triệu Công, phần sau sẽ trở về báo với Triều đình phong tước, cấp thổ cho ngài.

Lời ngon ngọt khiến Triệu Hoằng mơ tưởng. Vàng bạc châu báu lụa là không thể không lay lòng. Triệu Hoằng cho thân tín giấu kín chúng ở phía sau trại hướng về Tống Bình. Hoằng hớn hở khoe với Sĩ Giao :

- Dương Thanh nói quả không sai. Đám quân ô hợp triều đình cũng chỉ có vậy. Lũ rùa rụt đầu. Thấy con trai ta đã kinh hồn bạt vía.

Sĩ Giao lấy làm lạ, hỏi Hoằng :

- Triệu Túc là tả tướng quân dưới quyền Trinh thiếu chủ cố thủ Nã Lữ. Sao hắn lại trở về đây?

Hoằng ậm ừ:

- Thành Nà Lữ đất ở chỗ hiểm dễ thủ khó công. Xung quanh lại có bốn gò đất cao, quân lính đóng tại đó mà giữ thành được dễ dàng. Đất trọng yếu Hải Môn như ta và ngài giữ ở đây mới là thật hiểm nghèo. Thêm một dũng tướng như con trai ta trấn thủ đất này chẳng phải thêm phần an tâm hơn hay sao.

- Tại hạ nghe nói tiên sinh cầm quân nghênh chiến ở quan ải. Cớ sao lại cho quân lui về. Túc là dũng tướng cũng là người có mưu lược, há chẳng phải nắm thêm phần thắng hay sao.

- Là đám quân lính triều đình nhổ trại lui quân. Ta mới cho lính ra hù dọa ba ngày đã khiến bọn đó thành rùa rụt cổ. Thấy thế nên ta cho quân tập kích trở lại chỗ này.

Sĩ Giao thấy bất an trong lòng, sai người đi tìm hiểu xem thực hư. Biết được chuyện có sứ giả đến cầu kiến Triệu Hoằng, vị quân sư không hài lòng gọi Triệu Túc đến. Túc bị Sĩ Giao xoay vần liên tục, hỏi câu trước câu sau lời không giống nhau nên cuối cùng phải khai thật với Sĩ Giao. Sĩ Giao thở dài ngao ngán, đuổi Túc ra ngoài, hạ ba cấp làm lính quân nhu, cấp phát lương thảo.

Triệu Hoằng thấy điều đó mà không thèm nhìn mặt Sĩ Giao, lại cho người rêu rao Sĩ Giao cấu kết với địch, vì tư thù mà lấy việc công để trị tội, chia rẽ lòng quân lúc sĩ khí lên cao. Bọn giám quân cũng bị bọn Thôi Kết, Trọng Vũ điều đình mà có ý đồ trốn bỏ quân doanh nhiều vô kể. Sĩ Giao bấy giờ dùng binh quyền đuổi khéo cha con Triệu Hoằng về Tống Bình để tránh hậu họa chia rẽ quân tâm. Có hai vạn quân trong tay so với bảy vạn quân lính kỵ của họ Quế, lại không có võ tướng dũng kiệt, Sĩ Giao cho quân lui về tuyến phòng thủ phía sau, chờ viện binh từ các Châu phía nam.

Chí Liệt nghe tin đám quân tướng trong phủ Tống Bình cấu kết với giặc chiếm được La Thành gấp gáp cho quân lính lui về theo đường thủy đến sông Thiên Đức phía nam thành Luy Lâu. Đỗ Đại hợp quân với Sĩ Giao giữ chắc phòng tuyến phía đông. Từ Ái Châu, Tồn Thành dẫn hơn vạn rưỡi binh mã đi dọc bờ biển, đóng quân tại Đa Cương, Võ An châu. Các châu Võ An, Trường Châu không thấy có lính đến tiếp viện. Chí Liệt cho gọi Sĩ Giao bàn chuyện:

- Nay tuyến được dọc từ La Thành, Cổ Loa thành đến thành biên giới đều nằm trong tay triều đình. Tướng phụ không biết rõ thế nào, Sĩ Giao có ý kiến gì hay không?

- Thật là không thể ngờ tới. Chủ tướng đối tốt với bọn thứ sử, châu mục các nơi. Nay cần người đối phó với đám quân triều đình lại chỉ có riêng Ái Châu góp quân giúp sức. Mặt phía tây Phong Châu cũng là mặt hiểm yếu, quân Nam Chiếu lúc nào cũng nhăm nhe. Không thể để hổng chỗ đó được. Quân triều đình lại chiếm được nhiều nơi quan trọng, có thể tấn công bất cứ lúc nào. Nếu bọn chúng thủ thành chờ ta phản công lại thì sức quân ta cũng chẳng thể làm gì hơn.

- Chi bằng sai sứ giả sang đất Nam Chiếu giữ mối hòa hảo, đánh vào đất Vân Nam, Quảng Châu. Khi thắng được quân triều đình, hai bên chia đất.

- Đất Ngũ Lĩnh, Đại Lý bọn Nam Chiếu đã nhăm nhe từ lâu, sau loạn An Lộc Sơn, quân triều đình càng giữ vững hơn đất đó. Đất xứ nam ta mới là miếng mồi lớn. Ta e rằng khi quân Đường Lâm, Phong Châu, Bình Nguyên, Nam Tà đánh Tống Bình thì bọn Man Hoàng nhân đấy mà chiếm luôn của ta.

- Vậy như, Hoan Châu, Diễn Châu mang quân một vạn ra đến đây chẳng biết ý quân sư thế nào.

- Đất bắc Hoành Sơn, Lâm Ấp cũng đã bình. Người đất ấy xưa mang phúc của chủ tướng mà thanh nhàn bấy lâu. Nay chỉ có thể nhờ người xứ đó vậy. Cũng nhân bọn Trọng Vũ, Thôi Kết chưa vào Tống Bình, thiếu chủ sai người đến dò la đám thân tín của chủ tướng tại Tống Bình tình hình thế nào.

Chí Liệt lập tức nghe theo. Tại Tống Bình khi ấy, La Thành, Long Biên, Cổ Loa đều có lính giáp hoa, giáo dài ngày đêm canh giữ. Hai tên Giả Không, Giả Thanh làm dũng tướng giữ hai thành bên ngoài, Long Trạch giữ La Thành chờ quân triều đình đến thì dâng binh quyền lên.

Long Trạch cùng với Giả Thường sai bọn đệ tử đi dán cáo thị ở khắp nơi, treo thưởng đầu của Dương Thanh vạn lượng bạc, lại kể tội Dương Thanh:

"Thanh phản phúc giết chết quan sứ là Tượng Cổ, có dã tâm chiếm đoạt. Khi đến Tống Bình lại giết cả nghìn người vô tội. Ấy là hai tội đáng chết.

Chùa Đại Đường xưa là nơi dân chúng trong vùng đến cầu phật, nay hắn lại sai người đốt tự khiến đám hòa thượng lầm than, bao nhiêu công đức xứ Giao Châu đều tiêu tan. Chốn linh thiêng hắn cũng chẳng có chút tâm đức nương tay. Ấy cũng là tội lớn với đám dân."

Chí Liệt nghe tin mà cả giận, đêm cho người đi xé hết cáo thị xuống. Có hai chục tên lính bị bắt, một nửa đám đó khai Chí Liệt đóng quân ở Luy Lâu. Đêm ngày sau, doanh trại ngoài thành của Chí Liệt bị tập kích, số lính chết đến phân nửa. Chí Liệt dẫn năm nghìn quân chạy về phía nam. Sĩ Giao cùng Đỗ Đại biết tin mang quân đến tiếp viện thì Trọng Vũ nhân thời cơ đó vượt Hải Môn quan đánh tan quân phòng thủ, số đầu hàng lên đến vạn rưỡi quân. Họ Quế rộng đường đến Tống Bình. Đỗ Đại anh dũng phá giặc bị trúng nhiều mũi tên của địch, khó lòng qua được. Sĩ Giao cầm hai nghìn lính chạy về phía biển đến hạ lưu sông Nhị - đất làng Gia Viễn.

Đỗ Đại quay lại cùng một nghìn lính liều chết cản bước địch đang đuổi theo Sĩ Giao. Đỗ Đại thấy tên cầm cờ phía quân lính mình bị chém chết, Đỗ Đại chạy tới mà cầm lấy cán cờ giương cao, hét lớn:

- Quyết không để cờ rơi. Thà chết cũng không được để dũng khí quân ta rơi xuống.

Đỗ Đại tay cầm cờ lớn, tay phải giữ chắc Xích Đao chém chết cả trăm tên giặc. Phá tan thế giặc vây, Đỗ Đại trao cờ cho một tên lính khỏe mạnh giục hắn cầm cờ đi theo quân của Sĩ Giao xuôi về phía nam. Cờ vừa rời khỏi tay thì Đỗ Đại bị bộ tướng của Quế Trọng Vũ là Bùi Chiêm chém chết.

Nhận tin dữ Đỗ Đại liều mình quay lại cản bước địch mà chết, Sĩ Giao chẳng thèm ăn uống đến ba bốn ngày, chỉ nằm một chỗ quay lưng ra ngoài mà nhìn vào bức tường. Nước mắt ròng ròng không sao cho hết nỗi đau thương. Sáng ngày ra nhìn về phương bắc nghe tin, chiều muộn lại quay về hướng tây mà ngóng ngóng người. Việc quân tình báo về bỏ bê hết thảy. Lại sai người quay lại tìm xác của Đỗ Đại, đám lính quay về mặt người nào người ấy rệu rã chẳng có hồi âm. Quân lính thì chạy khắp vùng để xin lương thực từ trong dân. Có đến cả ba bốn chục lính đảo ngũ, cởi mũ giáp mà bỏ đi.

Ba ngày để tang Đỗ Đại qua đi, Sĩ Giao cho tập hợp quân lính tại trước cửa nhà vị hào trưởng đất Gia Viên Nguyễn Tất. Mặt mày còn thất thần nhìn đám lính, giọng thều thào chẳng ra hơi, tay cầm mảnh giấy đọc trước linh cữu giả của Đỗ Đại, tay run run mà khóc rên như cha mất, mẹ mất:

"Ôi hỡi Đỗ Đại huynh trưởng ơi!

Thuở hàn vi huynh trưởng dắt tiểu đệ đến gặp Anh Sách tướng quân. Đại huynh được lòng Anh Sách mà em được xung làm quân tướng Tống Bình. Thấy bất bình chốn trường phủ hai huynh đệ về xứ Quảng Yên sống cuộc sống ngư chài. Sóng gió ấy thế mà chẳng qua đi, kẻ tham lam lại chèn ép ngư gia, khép dân mình vào tội chết. Thật là đắng cay, chua xót lắm. Huynh trưởng lại dắt bọn chúng đệ về phủ Tống, nhận đất Luy Lâu, làm nha môn áp sứ. Thế rồi tên Lý sứ ép ta phải bỏ quan, không thể nào sống chung được với lũ nịnh hót, trắng đen bất phân. Anh em ta được Dương tướng quân nhận về phục vụ dưới trướng. Bao nhiêu kế sách, trí lược được mang ra cho tướng chủ dùng. Xuân hạ hai mùa, bao nhiêu chiến công ghi tên lẫy lừng.

Khi họ Lý kia tham bạo, hung tàn, ta với huynh cùng tướng chủ lật đổ viên sứ nát. Lại được nghe giặc Lục cướp mà đi dẹp chúng. Đến nay cũng đã được nửa năm.
Huynh còn chưa yên bề dân đất Hồng, đã lại phải cùng bọn đệ dẫn lính chống quân Trung Nguyên.

Dẫu biết rằng, thắng thua là điều tất yếu của nhà binh. Nay thắng, mai thua đó là lẽ thường tình. Quân triều đình đông nhưng lại không ưa khí hậu xứ nam ta, lại thêm đường xá xa xôi, quân lương tiếp tế từ Ích Châu, Vân Nam, Quế Châu đâu phải chuyện ngày một ngày hai. Tên xứ Hành Lập cũng đang chôn chân miền biên viễn với đám lính Nam Man, cũng chẳng ưa gì họ Quế kia mà tiếp viện binh lương cho hắn. Thế nên ta và chủ tướng đã thống nhất giữ chặt phòng tuyến, tử thủ để bảo vệ Tống Bình, đợi khi quân lính triều đình phương Bắc rệu rã, lương thiếu, bệnh nhiều ắt tự sẽ tan. Ấy vậy mà đám quan lại Tống Bình, các tướng dưới lại chẳng chịu nghe lời. Kẻ thì điều đình qua lại với họ Quế, ăn đút lót, dối giục lòng dân, lại sai bọn tốt lính đầu hàng họ Quế. Kẻ làm tướng tiên phong, đóng quân đồn trại miền biên giới, chẳng hay lẽ sau trước tư thông với địch, dẫn rắn về cắn gà nhà để huynh phải oan nghiệt nơi đây.

Ôi kể sao cho hết những ngày ! Bao nhiêu đau đớn, thân gầy hao yếu, tâm này thật xót xa.

Đây ly rượu này xin được chia ba, chén mời thiện địa, chén hòa hồn huynh. Ta xin uống nốt ly rượu này để tỏ ý tình. Kẻ ở người đi, đôi dòng lệ tuôn, kính mong hồn huynh nơi chín suối ngậm cười độ thế cho chúng dân."

Sĩ Giao lấy lại tinh thần, truyền cái lửa sôi sục cho đám lính còn đang nguyện sống chết đến cùng với họ Đỗ. Sĩ Giao liền cho ba mươi tên lính đi khắp vùng dò la. Hai ngày sau, việc chôn cất Đỗ Đại đã hoàn thành, nhận được tin Chí Liệt đóng quân ở phía tây bắc vùng đất Hiến. Sĩ Giao qua đất Cúc Bồ nhận thêm ba nghìn lính do người anh em họ Đỗ ở đất đó tập hợp từ hai năm trước. Cả thảy đến nửa vạn quân đến đất Hiến hội quân với Chí Liệt. Từ hương Đa Cương sang đất Hiến chỉ cách có dòng Nhị, một vạn rưỡi quân lính do Tồn Thành dẫn ra từ châu Ái cũng đã có mặt tại đây. Tồn Thành cho thuyền nhẹ qua sông dò la. Chí Liệt lấy làm mừng rỡ, sai quân chia làm hai ngả dọc theo sông Nhị chờ thời cơ đánh lên Tống Bình.

Cùng lúc đó có mật thám báo tin về cho Dương Thanh, Thôi Kết đã dẫn năm nghìn quân tiên phong đi từ hướng Bắc phá vỡ vòng vây tại mặt trận phía bắc thành Cổ Loa. Đi sau là hai vạn rưỡi binh mã đóng tại Cổ Loa hướng ra đông bắc. Dương Thanh đến đất Bạch Hạc, sai Tồn Thăng ở lại đất Thị Điềm làm như lời thần nhân mách bảo.
 

Nguyễn Khai Quốc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
27/7/17
Bài viết
31
Gạo
0,0
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.


Chương 4.4 Võ nghệ Liêu gia
Gã Quỷ ở lại đất Thị Điềm, nhờ Lý Toàn biết lễ nghi vùng ấy soạn sửa lễ vật dâng lên đền xưởng cao lầu thờ thần nhân Lý Ông Trọng. Lý Toàn sửa soạn áo đẹp, mũ mão rồi khấn sớ trước điện. Tồn Thăng không thích không khí trang nghiêm chốn đền miếu nên đi ra ngoài vãn cảnh, thấy đôi chim hót ríu rít trên ngọn tre cao. Tồn Thành thấy có tổ chim non xua xua đôi chim bố mẹ đi, bẻ cong cây tre xuống để lượm lấy tổ cho đám trẻ con đang đứng đó chơi. Bỗng nhiên có tiếng mũi tên bắn ra, cây tre cạnh đó gãy đôi khiến Tồn Thành giật mình quát lớn :

- Có kẻ dùng ám khí. Các cháu mau chạy đi.

Tồn Thành nhặt mũi tên lên thấy có chữ khắc trên mũi tên, chạy vào hỏi Lý Toàn. Lý Toàn nói :

- Đây là chữ Phùng. Ngày trước nghĩa quân của Bồ Phá Cần tướng quân đóng tại đất này, có dùng loại mũi tên này để chiến đấu với quân Phùng Hải. Từ khi thiếu chủ Phùng An bị đày đi xứ đất Quy Nghĩa thì đất này không ai dùng nữa sợ bị quân triều đình bắt được sẽ xử tội chết.

Lý Toàn cùng Tồn Thăng chạy ra phía ngoài toan tìm người dùng ám khí. Đi ra phía sau miếu cũng không thấy người. Lý Toàn huýt sáo, tiếng sáo ong ong trong đầu khiến người ta khó chịu. Tồn Thăng chạy vào trong miếu, tránh cái âm thanh kỳ quái. Lúc bấy giờ đám trẻ con kéo hò hét :

- Chú Lý Toàn giỏi quá. Tiếng huýt sáo cũng có thể làm kẻ gian ngã gục.

Lý Toàn mặt vênh váo :

- Chuyện nhỏ dễ như ăn trầu thôi. Các cháu đi đi. Không lát nữa hắn tỉnh dậy lại đánh cho.

Tồn Thăng đầu óc còn lấn cấn, loạng choạng bước ra, bám vào vai Toàn. Toàn cười trọc ghẹo Gã Quỷ. Gã Quỷ liều xiêu cầm dao quắm chém vu vơ. Toàn nhìn cây tre bị gãy thấy điềm báo đã linh ứng vội chạy vào khấn vái trong đền. Tồn Thăng bước tới đám trẻ con vừa đứng nói chuyện với Lý Toàn thấy một tên cầm nỏ nằm sõng soài dưới đất. Thăng hẩy nhẹ người cho hắn nằm ngửa ra, đột ngột người hắn hất tung lên đạp trúng tay cầm dao của Thăng khiến dao bay xa vài chục thước cắm thẳng vào cây bưởi. Thăng lùi lại một chiêu khóa chặt được người đó. Lý Toàn bước ra, xoa xoa vào vết thương của Gã Quỷ, gã thấy gai người, lấy tay gãi ngứa. Toàn dùng dao nhỏ phi trúng cây bưởi, dao quắm của Thăng rơi xuống. Tên kia đứng lại, cúi chào hai người.

- Chẳng biết cao nhân chỗ này. Đã đắc tội.

Lý Toàn mắng hắn :

- Cái tên trộm vặt nhà ngươi. Đừng có nghĩ là bọn này không biết. Ta thấy ngươi len lén lút lút theo bọn ta từ lúc ở đất đình bên kia. Định ăn trộm phải không?

- Dạ. Tiểu nhân không dám.

Dương Diện trợn mắt dọa hắn :

- Nhà ngươi là ai, từ đâu đến đây? Ngươi biết bọn ta là ai không mà dám theo dõi bọn ta lại dùng nỏ kia bắn suýt trúng người ta? Muốn sống khai ra mau.

- Tiểu nhân là Liêu Đức Thinh, người ở Đỗ Động. Tiểu nhân được nghe phía Tây bắc La thành có ngôi đền rất thiêng. Hễ ai có việc gì khó khăn cần cứu giúp thì cứ đến chỗ đó thì sẽ được toại lòng. Được người ta giới thiệu tới đây, lại gặp hai vị khí chất khác thường nên đành theo bước dò la. Tiểu nhân nhìn thấy ngài định bắt chim non trên cành tre nên chỉ dám phóng tiễn để đánh lạc hướng ngài, chẳng ngờ lại trúng cây tre.

- Ta bắt chim non thì liên can gì mà phải đánh lạc hướng.

- Sinh linh muôn loài đều được trời ban tặng cho sự sống. Loài chim cũng như chúng ta. Chúng có cha có mẹ, con cái, tổ ấm gia đình sao nỡ đành chia cắt chúng, để chúng phải mồ côi, cha mẹ lạc mất con. Nếu như kẻ nuôi chim non có tâm thì bọn chúng có thể sống, nhưng không có ai dạy chúng hót, dạy chúng nhảy chúng bay thì chim ấy cũng như bỏ đi vậy. Còn không thì là giết chết chim non đó rồi. Như vậy thật là đáng thương. Xin ngài lượng thứ cho tiểu nhân không biết trước sau, đắc tội với ngài.

Gã Quỷ nhìn qua Thinh, dáng người khúm núm, mặt cúi gằm, đôi chân vững trãi như cây gỗ cắm chặt đất, có vẻ hắn ta không hề e sợ như cái vẻ mặt ấy của hắn. Mái tóc quăn rối được búi gọn củ hành đầy những dấu vết của gió bụi cuộc đời, khuôn mặt hắn vuông vức chữ điền, lớt phớt những mảng da trắng trên khuôn mặt toát lên thần thái của kẻ sĩ ẩn mình trong cái dáng hình lúm khúm của hắn. Dương Diện vòng ra phía sau toan đạp vào khuỷu chân hắn thì chân hắn cứng như đá thép, khiến Dương Diện thấy thật đau, hét lên :

- Chân nhà ngươi có nẹp đá hay sắt?

Hắn không trả lời mà còn giễu cợt Tồn Thăng:

- Là người đạp trúng gốc cây tôi đang đứng cạnh chứ đâu phải là chân tiểu nhân.

Hắn bước nhích ra một bước thì có cây gỗ trên đầu trạm khắc hình rắn hổ ở đó. Dương Diện thấy kỳ lạ, hỏi hắn:

- Rõ ràng là khi ta ra phía sau đâu có cây gỗ này ở chân ngươi.

- Là ngài có ý định đạp vào chân tôi?

- Ta muốn kiểm tra xem ngươi sức lực ra sao.

- Xin thất lễ.

Nói rồi, chàng trai tung chân, cây gậy đầu xà từ dưới đất mọc lên dài đến tám thước. Chàng ra đòn bất ngờ, Dương Diện không kịp trở tay bị đầu xà đánh vào ngực liên tiếp bảy tám chiêu. Gã Quỷ gồng người dùng sức đẩy gậy về phía Thinh. Thinh vận khí dồn toàn lực xuống chân hòng đỡ lại sức khỏe vô biên của Gã Quỷ. Cây gậy bị bẻ cong, dáng trông hệt mãng xà. Gã Quỷ bỗng thấy nhói ở trước ngực, lấy sức tay đập mạnh vào gậy nhưng cây gậy không gãy mà còn khiến ngực thêm đau. Thấy vậy, Gã Quỷ liền cố rút cây gậy ra khỏi ngực mình nhưng không thể nào rút ra. Cây gậy găm chặt vào ngực Gã Quỷ, phần đuôi của cậy quấn chặt vào tay trái của gã khiến gã kêu la thống thiết.

Lý Toàn lúc bấy giờ lấy cây tiêu ra thổi một điệu nhạc. Âm thanh phát ra khiến đầu óc Thăng điên đảo, Đức Thinh vội chạy đi, hai ngón tay bịt chặt lỗ tai. Cây cậy rơi xuống dưới đất, Dương Diện ngã nằm xuống đất. Thinh chạy đến bụi tre gần bờ sông thì Toàn toan gọi lớn:

- Người anh em xin dừng bước.

- Anh là thần tiên chốn nào? Đã đắc tội.

- Ta là Lý Toàn, hậu duệ của Ông Trọng – Phụ Tín Đại vương. Người vùng Từ Liêm này. Người anh em có phải là người của Liêu gia trang vùng Đỗ Động. Chiêu thức thiết giả mộc xà là một trong mười bảy bí thuật của trang ấy. Nay được chiêm ngưỡng mở to con mắt. Thật là vinh hạnh.

Thinh giọng nói khảng khái, tay khoanh trước ngực, hất miệng:

- Sao anh lại biết mười bảy bí thuật đó, lại có thể khắc chế được. Hẳn là đại cao thủ ẩn mình.

- Năm trước, ta may mắn được gặp thầy Liêu Hữu tiên sinh. Thầy dạy ta cùng Hữu Phương. Hữu Phương giỏi thơ văn, kinh sử thi đậu tú tài, lại tới tận Trường An thi thố. Còn ta ham võ nên đã được thầy truyền lại cho võ học. Học đến độ giác ngộ triết lý trong bí chiêu đó thì được thầy chỉ cho khắc chế những điểm yếu của Liêu gia võ học.

- Lấy tâm chế lực, lấy thanh chế hoạt. Anh quả nhiên hiểu rõ Thập thất Liêu gia bí chiêu. Nay gặp đây thật là hạnh ngộ.

Lý Toàn nhếch mép cười, tay dang rộng như đón chào Thinh. Thinh bước lại, tay bỏ cuộn dây sắt xuống đất, quỳ gối bái lạy Toàn:

- Anh quả là người tinh thông võ học. Cảnh giới võ thuật ấy chẳng phải kẻ thường có thể làm được. Xin nhận một bái của vãn bối.

Toàn nắm chặt lấy tay Thinh, từng thớ gân trên người Thinh nổi lên, mặt hắn vằn lên vết thẹo dưới cằm. Toàn kéo Thinh vào lầu phủ, lại gọi Gã Quỷ dậy. Thinh mừng rỡ bước theo, hai người hàn huyên chuyện trò đến cuối chiều. Hai người cầm kiếm, nỏ, côn, xích ra trước lầu luyện những chiêu thức kỳ quái. Tồn Thăng thấy trong mình kém cỏi võ thuật, chẳng hiểu những chiêu thức kia của hai người bọn họ. Gã lấy rượu ra tu ừng ực. Hắn say, cười vào hai người kia:

- Hai kẻ điên kia. Những chiêu thức ấy là để gạt người ta chứ sao có thể mang ra mà đánh trận.

Lý Toàn nhìn hắn say mèm, Toàn lấy một mảnh vải quấn vào tay Thăng, rồi thít chặt với cây lớn. Thăng hỏi :

- Sao lại dùng vải quấn tay ta.

- Nhà ngươi cứ thứ thoát ra khỏi chỗ ngươi đang đứng cho ta xem.

Thăng giật mạnh mảnh vải quấn tay mình, vải càng siết chặt khiến tay hắn trắng bợt. Hắn càng cố kéo thì càng không thể dứt ra. Tay kia cầm dao khía vào vải đó nhưng vải ấy không hề sờn sứt. Tay hắn giãy giụa mảnh vải bó thít tay hắn, bàn tay gã thâm sì. Gã tức giận lôi cả cây lớn lên khỏi mặt đất, dùng cước đạp gãy cây thành ba đoạn.

Bấy giờ, Lý Toàn dùng một cây kim luồn vào một đầu của sợi vải, Toàn xâu thật nhanh hết một vòng tay thì vải tự tuột ra khỏi tay Thăng. Tím tái mặt mũi, Thăng định ra đòn với Toàn, Toàn vuốt ria mép nói:

- Người đánh trận chỉ biết dùng sức chẳng phải tướng tài. Chỉ là võ dũng, vô dụng mà thôi. Gặp kẻ địch thì chỉ cần vài chiêu là mắc bẫy bị tóm sống, số chẳng may gặp người gian lắm mẹo thì khác gì nộp mạng. Lấy bình tâm mà kháng lại lực cường. Lấy trí tuệ để đuổi kẻ địch đi, khiến địch không thể thắng được, càng đánh càng thua, bấy giờ địch tự tan. Tên ngốc nhà ngươi còn chẳng thể thoát nổi một mảnh vải nhỏ, thì sao có thể thoát được khi bị kẻ địch bày thiên la địa võng. Kẻ dũng tướng, bất chấp cái chết là uy dũng, anh hùng đấy. Nhưng sao không nghĩ rằng khi ta chiến thắng thì được vang danh, nếu như mà có thua thay vì quẫn tiết mà chết chi bằng chẳng phải sống sót được thì sẽ có cơ mưu mà báo thù hay sao.

- Nhức đầu. Ta chẳng cần biết. Kẻ nào có giỏi thì đến đây mà giết ta.

- Trận ở Phù Đổng đến thành Cổ Loa, nhà ngươi may mắn còn sống sót chẳng phải là bài học quý giá hay sao.

- Thôi! Nhà ngươi không phải nói gì thêm nữa. Dương Thanh yêu cầu chúng ta ở lại đây làm cái việc thắp hương gì gì đó đã xong hay chưa.

- Việc đó đã xong. Đêm nay ta và ngươi đi dọc bờ sông này về phía Tây Bắc, đến Hát Môn bẩm báo lại với Dương tướng quân để ngài ấy yên tâm.

Đêm xuống, ba người bàn bạc rồi chia tay nhau thành hai ngả đường đi. Lý Toàn cùng Tồn Thăng xua mái chèo nhanh thoăn thoắt trên dòng Nhị ngược Tây Bắc hướng đất Bạch Hạc. Liêu Thinh thân thủ nhanh nhẹn chạy bộ về Tống Bình dò la tin tức của quan quân triều đình đã chiếm đóng ở đó.

Thinh đi qua bãi lầy phía bắc La Thành rồi nghỉ tại quán trọ bên cạnh dòng sông Tô Lịch. Đến nửa đêm, quán trọ có tiếng ồn ào khiến Thinh tỉnh giấc. Thinh gọi tên hầu bàn lên hỏi:

- Ngoài quán có chuyện gì mà lại ồn ào? Để ta mất ngủ thì đừng trách ông.

- Dạ thưa quan khách. Ngoài kia quan quân đang dò xét. Ngài không có gì giấu giếm thì xin ngài cứ lui vào trong nghỉ ngơi. Sau khi ông chủ nhà tôi làm việc xong với những người thì sẽ hết ồn ào.

- Dò xét điều chi?

- Tiểu nhân nghe nói là đám quan quân đi lục xét người của Dương tướng quân còn ở Tống Bình để đem về xét xử.

Thinh đánh mắt qua khe cửa nhìn ra phía ngoài, thấy một đám lính giáp, vũ khí giáo dài, kiếm ngắn đang nhăm nhe tìm người. Thinh cho tên hầu bàn một ít bạc vụn, sai hắn đi lấy một gầu nước sôi về phòng. Tên hầu bàn vội vàng nghe theo, chạy ra ngoài vẻ mặt sợ sệt đi lấy nước sôi về cho Thinh.

Một lúc sau, nghe có tiếng sột soạt áo quần cùng tiếng gươm giáo tiến lại gần, họ Liêu nhảy vội lên kèo nhà, mặt mũi bịt kín bằng vải lụa. Đám lính láu nháu bên ngoài tranh cãi với tên chủ quán và tên hầu bàn khi nãy. Bọn lính đạp cửa vào, tên áp nha cầm đầu sai đóng chặt cửa quán. Không thấy ai trong phòng, tên áp nha quát mắng:

- Rõ là cái thằng rách rưới này bảo khiêng nước nóng đến cho khách ở phòng này. Sao không thấy người đâu.

- Dạ dạ. Tiểu nhân vừa còn nói chuyện với vị ấy ở trong phòng mà. Tiểu nhân đâu có lòng nào dám dối đại nhân.

- Thế người đâu? Các ngươi định giấu giếm tội phạm trong nhà hay sao? Tội chết đấy con nhé.

Tên chủ quán vội vàng rút ba nén bạc khéo léo nhét vào ống tay áo tay áp nha. Chủ quán cười cười, lưng cúi xuống còng rạp thưa với tay áp nha:

- Thi Nguyên đại nhân bớt giận. Đại nhân bớt giận. Chắc là vị khách đó chỉ đi ra ngoài một chút. Để bọn tiểu nhân đi tìm vị đó về. Chứ quán khách trọ của tiểu nhân không dám chứa chấp tội phạm triều đình đâu.

- Cánh quán trọ các ngươi đừng có giở trò với ta. Đừng hòng qua mắt bọn ta. Hai tên môn khách cùng với chủ quán trọ Quán Tiên và Quán Sứ che giấu tội phạm bị Thôi tướng quân bắt giết rồi đó nghe chưa.

Có đám lính kéo xềnh xệch một người mặc quần áo lếch thếch, mặt mày bị bỏng rộp vào phía trong. Thấy ồn ào phía ngoài, tay áp nha chạy ra liền hỏi:

- Có chuyện gì ngoài đó.

Một tên lính bẩm lại với viên đô áp nha:

- Bọn tiểu nhân đi tuần nơi hậu viên thấy có một tên khả nghi đang lúi húi cầm cây đuốc chạy ra chuồng ngựa.

- Mặt hắn bị sao thế kia?

- Là hắn trốn đi không được, định chạy đi thì trượt phải phân ngựa, đuốc còn cháy dữ dội rơi vào mặt hắn khiến hắn bị phỏng rộp.

Thi Nguyên tiến lại gần người kia hơn. Mùi phân ngựa khiến hắn tỏ ra khó chịu, hắn giương đèn cầy lên soi kỹ mặt người đó. Đang ôm mặt do đau rát, người đó thấy xô nước ở dưới chân tên hầu bàn liền chạy tới úp nguyên nửa khuôn mặt vào đó. Viên áp nha cho người kéo hắn ra. Hắn kêu la thảm thiết:

- Sao lại là nước sôi thế này. Nóng quá. Rát quá. Đau quá.

Hắn sờ lên khuôn mặt hắn thì thấy loang lổ vết cháy, vết bỏng nước sôi, hắn tung lên vật xuống, gào thét khiến Thi Nguyên nghĩ thầm trong bụng :

- Đúng là kẻ điên dại. Đang bỏng lại đi úp mặt vào gầu nước sôi.

Thi Nguyên hỏi hắn:

- Nhà ngươi là ai? Từ đâu đến? Tại sao đêm tối lại trốn ở phía sau quán trọ.

Hắn lạc giọng, người run run nói:

- Tại hạ là Lưu Trình, người Đỗ Động. Ngày qua, làng mạc bị tàn phá nên nay đi đến Tống Bình kiếm cơm. Nghỉ chân tại quán trọ này, nửa đêm tỉnh giấc thấy tiếng xì xào phía ngoài, thấy mỏi người nên tiểu nhân gọi tên tiểu nhị cho một gầu nước ấm để xông người cho thư giãn. Chờ mãi không thấy tên đó mang đến nên tiểu nhân ra phía sau hâu viên đi tiểu tiện thì gặp mấy anh lính hung dữ dọa giết tiểu nhân nên mới thành ra như thế này. Thật là đau quá, đau quá.

Viên chủ quán nhanh nhảu tiếp lời:

- Là đúng người này ở phòng trọ này đó Thi đại nhân. Chắc là hắn ra ngoài gặp lính của ngài hốt hoảng quá nên mới như vậy.

Thi Nguyên lại hỏi:

- Đỗ Động à. Thế nhà ngươi biết họ Liêu đất đó chứ.

- Dạ. Ngày nhỏ tiểu nhân được cha gửi đến Liêu gia học võ nhưng Liêu gia nghiêm khắc với học trò, tiểu nhân lại nghịch ngợm nên bị trả về. Từ bấy tiểu nhân không có qua lại với họ Liêu.

- Ngươi có biết người tên Liêu Thinh hay chăng?

- Dạ bẩm. Con có biết. Người ấy là cháu ruột của Liêu Hữu tiên sinh, gọi Hữu Phương tú tài là chú, Người ấy ngày qua bị bắt giết cùng với người Liêu gia.

- Nói láo. Tên đó chạy trốn mất rồi. Ta nghe nói hắn chạy trốn tới phía tây Tống Bình phủ. Chẳng hay hắn đi cùng các ngươi. Nhìn bộ dạng nhà ngươi thật giống hắn lắm.

- Dạ. Xin Đại nhân minh xét. Người nhà tiểu nhân còn đang chờ ở bên kia dòng Tô Lịch. Đại nhân có thể đối chứng.

Thi Nguyên quan sắt người đó thật kỹ. Thi nguyên quay ra phía sau, nhìn dáng chân vửng trãi quen quen, liền đạp hắn một chiêu thật mạnh vào phía khớp khuỷu chân hắn. Hắn ngã nhào, mặt bỏng rộp va vào chuôi giáo của tên lính. Hắn lúi húi đứng dậy, dường như còn choáng váng, hắn loạng quạng xô ngã một tên lính vào gầu nước. Viên chủ quán mắt sáng như mở cờ trong bụng, miệng cố nhịn cười, lại mon men đỡ tay lính lên rồi dìu gã bị bỏng kia vào phòng.

Thi Nguyên thầm nghĩ tên đó yêu ớt, chân tay như đàn bà liền cho quân rút đi. Tay chủ quán không quên đon đả chào họ Thi:

- Đại nhân đi mạnh giỏi. Lần sau lại nhà.
 
Bên trên