Hoàng bào đổi lấy cà sa,
Vin
[1] vào cửa Phật xót xa chi là.
Ngày ngày cơm trắng dưa cà,
Niết bàn[2], cõi ấy biết là có không?
Chương 6
Vì trời có hai vầng dương
Từ lần cuối cướp giàu giúp nghèo cùng Thị Duệ, Ngọc Trinh bị hai người anh trai đưa về Đông Kinh. Cách biệt gần một năm, Ngọc Trinh cũng có nhiều thay đổi. Nàng theo lệnh cha lấy vua nhà Lê làm chồng đã được mấy năm. Nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi, đã bỏ trốn mấy lần, rồi bây giờ nàng thật sự trở thành hoàng hậu của vua Lê Kính Tông. Vào một ngày mưa rả rích, hoàng hậu lâm bồn. Trước cửa phòng hoàng hậu có khoảng mười người hầu đang chờ sai vặt.
Nghe có tiếng phía cửa sổ, hai nô tì liền chạy đến rồi mở một bên cửa sổ để nhận khay nước nóng. Những người hầu tuy đứng trên hành lang nhưng cũng không khỏi bị ướt mưa là thế, nên người nô tì hiểu tại sao bà mụ không cho mở cửa chính vì gió lạnh có thể gây hại cho hoàng hậu.
Phía sau bức bình phong bằng gỗ được trạm khắc hoa lá cầu kì, bỗng có tiếng hét đau đớn của Ngọc Trinh. Hai bà mụ dặn dò chỉ bảo tận tình để mong mẹ tròn con vuông. Nếu như có điều gì không hay thì họ chắc sẽ mất mạng.
Ngọc Trinh nghiến chặt cái khăn ở miệng và gồng người. Một bà mụ lo lắng thấm mồ hôi trán cho nàng. Bà nói:
- Hoàng hậu cố thêm chút nữa thôi!
- Ngọc Thoa quạt lò than!- Ngọc Trinh ra lệnh.
Ngọc Thoa và vài nô tì vội quạt các lò than xung quanh bức bình phong. Vì ngoài việc giữ ấm từ xa cho hoàng hậu, họ cũng tránh mùi khói ảnh hưởng.
Nhũ mẫu của nàng khuyên nhủ:
- Hoàng hậu, người cố thêm một chút nữa! Đẻ con so là vậy đó!
Trong khi hoàng hậu vượt cạn thì nhà vua ở thư phòng cũng không yên. Mưa không có dấu hiệu là sẽ dần. Mưa nhạt nhòa khung cửa phòng được thếp vàng lên hoa văn hình rồng.
Một tướng quân đứng trước hiên đối diện căn phòng. Đó là Trấn quận công Trịnh Lâm, con trai thứ ba của Trịnh Tùng. Tướng quân đi theo hầu nhà vua đã nhiều năm. Lúc này, tướng quân có trách nhiệm đứng hầu trong lúc nhà vua cần tĩnh tâm.
Bàn viết chất đầy sách, vài cuốn đang mở. Phòng hơi tối vì thắp ít đèn, có ít ánh sáng từ cửa sổ. Lấp lóe ánh vàng đèn cầy ở một bàn đầy đèn cầy đỏ và những bức tượng và tranh Phật.
Nhà vua đang quỳ, nhoà đi trong ánh lửa đèn cầy đang nhảy múa. Nhà vua đội mũ tam sơn, vận áo bào màu xanh còn khoác thêm hoàng bào. Ngài thắp thêm vài cây đèn cầy rồi tiếp tục lần tràng hạt trước các tượng Phật.
Vua Lê Kính Tông là con thứ của vua Lê Thế Tông, cháu nội của vua Lê Anh Tông. Đó cũng chính là một trong các nguyên nhân khiến ngài phải cầu xin chư Phật thương xót cho số phận ngài và hoàng hậu. Tình yêu của hai người đang kết trái. Ngài cầu xin khẩn thiết, mong cho hoàng hậu sinh hạ một hoàng nữ. Nếu là hoàng nam thì ngày mà ngài nối gót theo cha và ông mình sẽ sớm được định đoạt. Ngài không muốn mình chết trong tay của Thượng phụ Trịnh Tùng, thân phụ của hoàng hậu.
Nhũ mẫu vui mừng chạy ra từ phía sau bức bình phong. Một trong các vị thái y chỉ đạo nhóm người săn sóc cho hoàng hậu lúc này, liền hỏi:
- Là hoàng nam hay hoàng nữ?
- Là hoàng nam, là hoàng nam đó!
Nhũ mẫu vừa trả lời thái y xong thì vội vã chạy ngang qua hai kẻ hầu đang quỳ mà ra ngoài. Thái y lo lắng nhìn bức rèm, bỏ mặc tiếng khóc của ấu chúa vừa chào đời rồi vội vã chạy ra.
Nhờ một nô tì giúp đỡ, hoàng hậu ứa nước mắt ôm đứa bé trong lòng.
- Ngọc Thoa mau ra ngoài kêu tất cả mọi người vào đây cho ta.
Hoàng hậu âu yếm hôn lên tay đứa nhỏ. Ngọc Thoa hớt hãi chạy vào báo:
- Không thấy Thái y và nhũ mẫu đâu cả!
- Đại sự chẳng lành rồi...
Hoàng hậu buồn bã nhìn đứa trẻ rồi âu yếm kề má mình vào tay đứa nhỏ.
Vua Lê Kính Tông đang nhắm mắt đọc kinh lần tràng hạt rồi dừng hẳn vì tiếng hô to của nhũ mẫu.
- Chúc mừng hoàng thượng! Nhà Lê chúng ta có người nối nghiệp rồi!
Nhà vua rùng mình rồi kéo căng tràng hạt ra. Tràng hạt bung ra trong tay ngài. Từng hạt rơi xuống đất đánh những tiếng chua chát “tách tách” trong không gian yên tĩnh.
Trịnh Tùng đã lớn tuổi, đội mũ tam sơn, bận áo bào màu tím. Ngài được nô tì xoa chân mình trong thau vàng nghi ngút khói. Ngài cảm thấy thư thái, đảo đều nước trà trong miệng. Bỗng, thái y với thân người ướt mưa, lật đật chạy vào báo:
- Bẩm chúa thượng hoàng hậu đã hạ sinh được hoàng nam!
Trịnh Tùng, Đô Nguyên Soái Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương, mừng rỡ. Ngài nhổ vào tách đang cầm trên tay rồi lấy cái khăn lau miệng. Hàm răng của ngài hơi nâu vì đã lâu không nhuộm lại.
- Giỏi lắm con gái của ta!
Vua Lê Kính Tông phủ phục xuống nền nhà, chua xót ngước lên nhìn chư Phật.
- Phật Tổ tại thượng! Từ khi biết tin Hoàng hậu mang long thai, trẫm đã ăn chay trường, ngày đêm tụng kinh niệm Phật cũng chỉ mong cho Hoàng hậu sinh hạ hoàng nữ... Vậy mà...
Lê Kính Tông giận dữ đứng dậy trong khó khăn vì quỳ đã lâu. Ngài hất tung các pho tượng Phật, xé một bức tranh Phật quăng lên những cây đèn cầy.
- Tại sao người không thể thương lấy… nhà Lê của trẫm!
Bức tranh cháy…
Cửa thư phòng mở tung khiến căn phòng sáng hẳn lên. Chân một tướng quân bước đến mở thêm cửa sổ. Người mới vào phòng cất lời:
- Bên ngoài trời cũng đã tạnh mưa thưa Hoàng thượng.
- Là khanh đó sao...
Tướng quân đi vài bước dừng lại phía gần nhà vua. Đó là Vạn quận công Trịnh Xuân, con thứ của Trịnh Tùng. Lê Kính Tông lấy bên trong áo ra xâu chuỗi bằng cẩm thạch, quay người về phía bức tranh Phật đang cháy rồi tiếp tục quỳ.
- Mấy năm nay các cận thần của trẫm đều bị xử tử. Trẫm không còn khả năng chống cự đâu, nhắn giùm với Thượng phụ đừng lo...
Trịnh Xuân khuyên giải:
- Thánh thượng sao lại tự chịu cảnh này, chi bằng da ngựa bọc thay tỏ chí anh tài?
Nhà vua nghĩ Trịnh Xuân cũng là chỗ thân tình với ngài. Tuy tướng quân là con ruột của Thượng phụ nhưng lại là người ngài có thể tin tưởng, giống như hoàng hậu.
- Trẫm thân cô thế cô, một cây làm chẳng nên non... Cơ nghiệp trăm năm của nhà Lê ta đành nhờ cậy ở nhà chúa.
Trịnh Xuân liền quỳ xuống mà tâu, để tỏ rõ tâm tư với nhà vua:
- Trùng Quang Đế[3] anh hùng chí khí cạn, tử tiết bên dòng nước lớn. Đặng Dung trung thành thác theo chủ. Thánh thượng khát khao muốn lập nghiệp lớn, Trịnh Xuân xin dốc lòng dốc sức làm một Đặng Dung
[4] cho người. Nguyện theo hầu thánh thượng, tuyệt không hai lòng!
Nhà vua ban đầu còn ngờ ngợ, sau khi nghe xong liền phá lên cười khiến Trịnh Xuân giật mình.
- Bản thân trẫm là con trời, mà còn chưa biết sẽ chết ngày nào...
Nhà vua ngước nhìn tượng Phật Tổ còn lại và bức tranh đang cháy nửa chừng. Vua giơ xâu chuỗi lên thì dừng. Vua cười khà rồi giơ mạnh xâu chuỗi lên qua đầu. Ánh xanh kịp phản chiếu lên mặt trước răng ngài, tạo nên một vẻ quý phái. Vua buông xâu chuỗi rơi xuống cổ khiến Trịnh Xuân hụt hẫng mà than rằng:
- Thánh thượng, đừng để suy nghĩ sẽ thất bại lấn át tinh thần người.
Vua Lê chắp tay và khấn.
- Phật tổ nếu có trên đời đã nghe được lời cầu xin của người. Thánh thượng! Người nghĩ đi tu là cách người có thể bảo toàn được tính mạng hay sao?
Nhà vua cay đắng nhắm mắt gạt ngoài tai những lời khuyên bảo của Trịnh Xuân.
- Phải. Khanh nói phải… Họ Lê ta chẳng có mấy hoàng tử chết già...
Nhà vua thở dài rồi mở mắt nhìn tượng Phật tổ và chắp tay lại.
- Bình An Vương, phụ thân khanh có công lớn với Đại Việt. Trong lòng người đã không có hoàng đế như trẫm từ lâu. Trẫm còn phải gọi người là Thượng phụ. Trẫm biết dựa vào đâu!
Trịnh Xuân như bắt được vàng, liền tâu:
- Chỉ tám chữ thôi.
Nhà vua kinh ngạc quay sang nhìn Trịnh Xuân. Trịnh Xuân đỡ vua đứng dậy, đi vài bước đến gần cửa sổ. Xuân kể lại chuyện khoảng một năm trước:
- Giữa chính điện nhà Mạc, Trạng nguyên của chúng đã nói tám chữ.
Nhà vua tò mò bấu chặt tay Xuân. Ngài muốn biết cách nào giúp người thoát khỏi tình cảnh bi đát của một thiên tử. Ngài như vật trưng bày trên ngai vàng.
Một người ý thức rất rõ về danh dự của bản thân và gia đình, đến mức độ trở thành nội lực thúc đẩy hành động, thì thường người đó không có được trí óc minh mẫn. Nhà vua đã mắc vào chước quỷ của Xuân một cách dễ dàng.
Không chỉ có phía vua Lê Kính Tông biết chuyện, mà cả kẻ thù của nhà vua cũng biết.
Tại thư phòng của chúa Trịnh Tùng, Trịnh Lâm đứng cạnh một vị quan lớn tuổi đang bận thường phục. Đó là Thái phó Trịnh Đỗ, em trai của Trịnh Tùng.
Trịnh Đỗ tâu với chúa:
- Xuân đến gặp thánh thượng, sau đó người đã cho người làm vài món mặn.
Trịnh Tùng nhíu mày rồi mở mắt ra. Trịnh Tùng phẩy tay để sai khiến hai nô tì xoa bóp chân phải lui ra. Trịnh Lâm vội quỳ xuống, vì chàng băn khoăn có nên nói về nội dung cuộc trò chuyện bên bàn ăn của nhà vua và Trịnh Xuân. Trịnh Đỗ nói tiếp:
- Xuân là đứa thông minh. tài giỏi. Chắc là đã dẫn dụ được thánh thượng ngồi yên trên ngai vàng của mình.
Trịnh Tùng quay sang Trịnh Lâm:
- Con theo hầu thánh thượng bao năm vậy mà không lấy được lòng người, Trịnh Lâm con có thấy xấu hổ không?
Trịnh Lâm cúi đầu thấp xuống. Trịnh Tùng sửa thế ngồi:
- Thánh thượng đã nghe được chuyện gì mà thay đổi nhiều đến như vậy?
Trịnh Lâm tâu với chúa thượng, cũng là cha của chàng:
- Trạng nguyên nhà Mạc đã đưa ra một kế sách, ngắn gọn chỉ tám chữ: cùng Lê... diệt Trịnh, chia đôi sơn hà.
Trịnh Tùng kinh hãi đứng phắt dậy đá thau vàng. Trịnh Tùng loạng choạng đi thì té cũng may là Lâm đỡ kịp. Trịnh Tùng đẩy Lâm ra rồi đến rút kiếm treo bên cột nhà.
- Trời sai họ Trịnh phò Lê, họ Trịnh gánh cái lo, nhà Lê hưởng cái vui! Thánh thượng sống trong sung sướng mà không chịu hưởng! Mua dây buộc mình! Lại còn muốn trừ khử ta sao? Quả thực thánh thượng đã lớn rồi, được chim rồi nên quyết tâm bẻ ná mà!
Trịnh Đỗ châm dầu vào lửa:
- Anh là nguyên lão ba triều, là ngoại tổ phụ của đại hoàng tử vừa chào đời. Nếu thánh thuợng đã có lòng như vậy, sao anh không ra sức đoạt giang sơn về cho họ Trịnh ta?
Trịnh Tùng khẽ giật mình. Ngài loạng choạng đi thì Lâm đỡ. Ngài lo sợ lối suy nghĩ của em trai mình. Ngài hất tay Lâm ra rồi vung kiếm chém khiến thau vàng bị bung đứt làm hai. Ngài vừa giận, vừa lo về em mình, nên ngài đã không tính được chính Trịnh Xuân là người muốn đất bằng nổi sóng gió. Sau này, ngài tự lí giải, không cần biết Xuân đã nói gì, thì tin tức về Trạng nguyên nhà Mạc trước sau gì cũng đến tai vua rồi khiến vua thay đổi như bây giờ.
Trịnh Tùng khẽ liếc thì thấy Đỗ mỉm cười gian xảo. Đỗ vẫn cái điệu bộ ấy như một con cáo đang rình mồi và môi thì mím chặt vào nhau.
Chúa Trịnh Tùng đã phải luôn suy đoán suy nghĩ, tâm tính của thuộc hạ thân cận và thậm chí là những người thân của mình. Chúa phải luôn xác định lại ai là bạn, ai là kẻ thù, bởi lòng người dễ dàng thay đổi bởi một tác động nào đó. Ngồi được vị trí của mình như hiện nay, chúa đã phải mất nhiều năm lao tâm khổ trí, thậm chí còn phải liều cả tính mạng của mình.
Trở lại phía hậu cung nhà Lê, Đoan Từ Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh vừa sinh hạ một hoàng nam. Đáng lí, nàng phải rất vui nhưng vì nghĩ cho nhà vua, nên quyết định đi một bước khó khăn…
Ngọc Thoa quỳ xuống dâng lên một khay. Ngọc Trinh nhìn sang, có một cây trâm hoa vàng và một khăn vàng nhúng nước.
- Đây là giờ phút quyết định, xin hoàng hậu quả quyết…
Ngọc Trinh đưa tay run run đến bên cái khăn cầm lên rồi bóp chặt. Nước chảy khỏi tay nàng. Ngọc Trinh run run thả khăn xuống rồi nhìn sang hài nhi trong tay mình.
- Có lẽ muộn nhất cũng là ngày mà con chập chững biết đi, bập bẹ gọi phụ hoàng, là ngày phụ hoàng con bị đoạt mạng... Mẫu hậu xin lỗi...
Hai vai gánh nặng hòa hai, Ngọc Trinh không biết cân giữa bên tình và bên hiếu, cho đến giờ phút này… Nàng lấy vội cây trâm khiến Ngọc Thoa kinh hãi nhắm mắt. Ngọc Trinh run run giơ cây trâm lên cao rồi vung cây trâm xuống.
Tuy bị ép gả cho vua, nàng không ngờ mình lại rơi vào lưới tình. Hoàng hậu bằng mọi cách lo cho tính mạng vua Lê Kính Tông sắp bị đoạt.Vì trước đó, nhà vuađã có mưu lật đổ Trịnh Tùng- phụ thân nàng- nhưng không thành. Chuyện lần đó, nhà vua được tha cho, còn nàng nhận được lời cảnh cáo thay cho người. Nghĩ đến tương lai của hai người xa xăm bất định, hoàng hậu càng thêm rầu.
Nàng rất lo lắng vì lúc này cha nàng đã một tay che trời. Nếu có lí do để cha nàng giết vua, lẽ nào người lại bỏ qua cơ hội phò tá ấu chúa vừa chào đời cũng là cháu ngoại của mình… Càng nghĩ nàng càng xót xa cho số phận mình, nàng kìm được nước mắt.
Chỉ còn lại một mình Trịnh Khải đứng hầu bên, Trịnh Tùng bắt đầu suy nghĩ cặn kẽ lại mọi chuyện. Vì Trịnh Khải là đứa con một mực trung thành với ngài. Chúa không cần dè chừng như khi có Trịnh Đỗ ở đây. Trịnh Đỗ tuy là em trai ngài, tuy rất được việc, nhưng là người ngài không tin tưởng tuyệt đối.
Chúa Trịnh Tùng nhớ lại nhiều chuyện để đi tìm lời giải.
Năm xưa, Tiên hoàng Anh Tông Tuấn Hoàng đế nghe lời gièm pha của bọn tiểu nhân, trong một lúc cạn nghĩ đã xiêu giạt ra ngoài, bỏ nước nhà không lo. Buộc lòng chúa và tâm phúc phải lập tân vương, tức Thế Tông Nghị Hoàng đế. Cuối cùng, đành tiễn người về trời…
Tiên hoàng Thế Tông Nghị Hoàng đế được chúa tôn lập làm vua khi còn nhỏ tuổi. Người hết lòng tin dùng chúa nên vua tôi không có khoảng cách. Thậm chí, ngày ấy, còn cho phép Trịnh Tùng được chém trước tâu sau. Thật lòng với chúa thì niềm tin yêu ấy không gì sánh bằng. Chỉ tiếc Tiên hoàng mất sớm khiến lòng người không khỏi nghi hoặc là chúa ra tay lần nữa…
Trịnh Tùng lại lập hoàng tử mà người tin yêu lên ngôi vị, tức là vua hiện tại của nhà Lê. Chúa còn gả con gái yêu cho người, tức là người một nhà. Vậy mà người không biết điều, có ý cho rằng chúa chuyên quyền… Thử hỏi kẻ trải trăm trận mạc với người ngồi mát ăn bát vàng, thì ai là người có thể giữ được cảnh thái bình này? Nhà vua còn quá non trẻ, làm sao hiểu được lòng người ham hiểm thế nào…
Nhưng ngẫm lại khởi sự cũng lỗi do chúa. Chính người đã đào quá sâu nên giờ khó lấp lại. Giữa tôi thần đã có khoảng cách, nên chúa cần người giúp giải khó khăn này cho mình. Đó phải là một người ngoài cuộc mà nhà vua tin tưởng.
Trịnh Tùng biết rất rõ người đó là ai.
[1] vin: ý trong câu là dựa vào việc tu đạo mà hòng thoát chết, việc làm này tự biết là khó thành công nhưng vẫn muốn bấu víu vào, khiến người ngoài không khỏi thương tiếc.
[2] niết bàn( hay nát bàn): điểm đến của những người tu hành theo đạo Phật; nơi con người có thể rủ bỏ mọi thứ trần tục, thoát khỏi luân hồi.
[3] Trùng Quang Đế: theo cách dùng từ trong
Đại Việt Sử kí toàn thư, nhà vua Hậu Trần này là quốc quân chết vì xã tắc. Ông là người tận lực chống giặc Minh xâm lược, cho đến ngày bại trận bị giải về kinh đô nhà Minh. Trên đường đi đã tự vẫn.
[4] Đặng Dung: là một trong những người tôn lập Trùng Quang Đế lên ngôi. Ông là người trung quân ái quốc đến hơi thở cuối cùng.