Ông già Khottabych - Cập nhật - Lazar Laghin

khottabych-1.jpg

ÔNG GIÀ KHOTTABYCH
Tác giả: Lazar Laghin
Dịch giả: Trần Đăng Thái
Thể loại: Văn học Thiếu nhi
Tình trạng tác phẩm: Full
Tình trạng dịch: Full
Độ dài: 64 chương
Cảnh báo: Không
***
GIỚI THIỆU:
Tác giả:
Lazar Laghin (1903-1979) là bút danh của Lazar Yosifovich Ginzburgh, nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch hoạt hình nổi tiếng, được đánh giá là đại diện hàng đầu của văn học trào phúng và văn học thiếu nhi Nga thời Xô viết.
Lazar Laghin từng là Phó tổng biên tập tạp chí Cá sấu nổi tiếng của Nga, đã xuất bản nhiều cuốn truyện như Chiến hạm Anyuta [tiểu thuyết, 1945], Sáng chế AB [tiểu thuyết khoa học giả tưởng, 1947-1948], Đảo thất vọng [tiểu thuyết khoa học giả tưởng, 1947-1951], Atavya Proksima [tiểu thuyết khoa học giả tưởng, 1956], Câu chuyện buồn phiền [tiểu thuyết trào phúng, 1961], Quần đảo ẩm thực [tiểu thuyết, 1963], Người xanh [tiểu thuyết viễn tưởng, 1966]... nhưng tác phẩm được yêu thích nhất của ông vẫn luôn là Ông già Khottabych.

Tác phẩm:

Ông già Khottabych của tác giả Lazar Laghin được mệnh danh là Nghìn lẻ một đêm của văn học thiểu nhi Nga, rất hài hước hấp dẫn, được nhiều thế hệ bạn đọc Nga cũng như nước ngoài, trong đó có Việt Nam cực kỳ yêu thích. Xoay quanh các nhân vật chính là những mẩu chuyện ngộ nghĩnh, cảm động, đem lại những bài học hay về lối sống trung thực, về tình bạn, tình yêu thương gia đình và nhiều điều cần thiết để phát triển nhân cách cho bạn đọc trẻ tuổi cũng như những bất ngờ thú vị cho cả người đọc trưởng thành.
Năm 1956, Ông già Khottabych được chuyển thể thành bộ phim cùng tên - và là bộ phim được đánh giá cao suốt nhiều thập kỷ qua của điện ảnh Nga.

MỤC LỤC
Chương 1 --- Chương 2
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Gravity

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
19/12/16
Bài viết
40
Gạo
443,2
Re: Ông già Khottabych - Cập nhật - Lazar Laghin

2. Cái bình bí mật

Cuối cùng, Volka đã thu xếp được một chỗ ngồi tương đối tốt.

Bóng tối lờ mờ mát mẻ và bí ẩn bao trùm trong xe. Nếu nheo mắt lại, có thể tưởng tượng bạn không phải đang đi dọc ngõ Ba Ao, nơi bạn đã sống cả đời mình, mà đang đi ở một nơi nào đó tại vùng Siberia mênh mông xa lắc, nơi bạn phải chiến đâu khốc liệt với thiên nhiên để xây dựng một nhà máy mới khổng lồ. Và dĩ nhiên, Volka Kostylcov sẽ đứng ở hàng đầu những người xuất sắc trên công trường ấy. Em là người đầu tiên nhảy xuống xe khi đoàn xe tải đên nơi đã định. Em là người đầu tiên dựng lều bạt của mình và nhường ngay cái lều ấy cho những người bị ốm dọc đường, còn em thì vừa nói đùa với các bạn cùng công trường, vừa ngồi sưởi bên đống lửa mà chính em đã nhóm một cách nhanh nhẹn và khéo léo. Còn lúc giữa những cơn băng giá dữ dội hoặc những trận bão tuyết điên cuồng, một người nào đó tính giảm bớt nhịp độ lao động thì người ta sẽ nói ngày với anh ta: “Thật đáng xấu hổ! Anh hãy noi gương đội lao động kiểu mẫu của Volka Kostylcov...”

Đằng sau chiếc đi văng nhô lên cái bàn ăn chổng ngược bốn chân, cái bàn bỗng trở nên hết sức lý thú và khác thường. Bên trong cái bàn, chiếc xô chất đủ thứ chai lọ kêu loảng xoảng. Chiếc giường mạ kền ánh lên lờ mờ ở bên thành thùng xe. Cái thùng tô nô cũ kỹ mà bà vẫn thường dùng để muối dưa bắp cải vào mùa đông bỗng có cái vẻ bí ẩn và nghiêm trang đến nỗi Volka chẳng hề ngạc nhiên tí nào, nếu em biết rằng chính nhà triết học Diogenes – người ta đọc về ông ấy trong môn lịch sử Hy Lạp cổ đại xưa kia đã từng ở trong một cái thùng như vậy.

Những tia nắng mỏng manh lọt qua các lỗ thủng nhỏ xíu ở thành xe làm bằng vải bạt. Volka ghé mắt nhìn qua một cái lỗ thủng ấy. Trước mắt em vùn vụt chạy qua như trên màn ảnh ở rạp chiếu bóng những đường phố vui vẻ và ồn ào; những ngõ hẻm yên tĩnh và râm mát; những quảng trường rộng lớn, trên đó người đi bộ xếp hàng hai đi khắp tứ phía. Phía sau những người đi bộ là dãy cửa hiệu với các tủ kính lớn sáng loáng chứa đầy hàng hóa, trong đó là những người bán và những người mua có vẻ mặt băn khoăn; những trường học và những sân trường đã thấp thoáng nhiều bóng áo trắng và khăn quàng đỏ của các bạn học sinh nôn nóng nhất, thường đến trường rất sớm vào ngày thi; những nhà hát, những câu lạc bộ, những nhà máy, những tòa nhà đồ sộ tươi màu gạch đỏ đang xây dựng, được ngăn cách với dòng ngươi qua đường bằng những hàng rào ván ghép cao và bằng những vỉa hè lát gỗ hẹp.

Thế rồi chiếc xe tải của Volka từ từ đi ngang qua rạp xiếc, một tòa nhà sang trọng không cao lắm, có mái vòm hình tròn màu gạch. Trên tường rạp xiếc bây giờ không có những tấm bảng quảng cáo hấp dẫn với hình lũ sư tử màu vàng tươi và các cô đẹp đứng duyên dáng một chân trên lưng những con ngựa lộng lẫy không tả xiết. Trong dịp hè, đoàn xiếc đã chuyển đến Công viên Văn hóa, biểu diễn trong nhà bạt khổng lồ. Cạnh rạp xiếc bỏ trống không xa, chiếc xe tải vượt qua một xe buýt màu xanh da trời chở khách tham quan. Ba chục em nhỏ xếp hàng hai, nắm tay nhau đo trên vỉa hè dõng dạc hát đồng ca, giọng lanh lảnh nhưng chẳng đều: “Chúng ta đâu cần bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ!...” Có lẽ đây là các em ở vườn trẻ đang dạo chơi trên đại lộ... Trước mắt Volka lại chạy qua những trường học, hiệu bánh mì, những cửa hàng, câu lạc bộ, nhà máy, những rạp chiếu bóng, những thư viện, những khu nhà mới...

Nhưng rồi chiếc xe tải, xịt khỏi và thở phì phò mệt nhọc, đã đỗ lại trước cổng khu nhà mới của Volka. Mấy bác công nhân khuân vác khéo léo chuyển đồ đạc vào nhà xong xuôi rồi lên xe đi.

Sau khi loay hoay mở được mấy cái thùng đựng các thứ đồ cần thiết nhất, bố nói:

- Những thứ còn lại chúng ta sẽ xếp đặt nốt khi đi làm về.

Rồi bố đi đến nhà máy.

Mẹ cùng bà bắt đầu lấy nồi niêu bát đĩa ra, còn Volka thì quyết định chạy ra sông một lát. Quả là bố đã cấm Volka không được ra sông tắm mà không có bố đi cùng, vì sông ở đây rất sâu, nhưng Volka đã nhanh chóng tìm được cách bào chữa cho mình:

“Ta cần phải đi tắm để cho đầu óc được thảnh thơi. Làm sao ta lại có thể đi thi với cái đầu óc bí rì rị được!”

Thật là lạ, bao giờ Volka cũng biết nghĩ ra cách bào chữa khi cu cậu định làm những việc bị cấm đoán.

Có một con sông ở gần nhà quả là hết sức tiện lợi. Volka nói với mẹ rằng em đi ra bờ sông để học bài địa lý. Và quả thật em đã định lật qua sách giáo khoa chừng mười phút. Nhưng chạy ra đến bờ sông, không chậm một phút, Volka đã cởi quần áo và lao xuốn nước. Mười một giờ trưa, bờ sông không có một bóng người. Điều này vừa hay lại vừa dở. Hay là vì chẳng ai có thể ngăn cản Volka tha hồ vùng vẫy. Dở là vì không ai có dịp thích thú xem em bơi đẹp, nhẹ nhàng ra sao và đặc biệt em lặn giỏi như thế nào.

Volka bơi và lặn cho tới mệt lử. Bấy giờ, em quyết định rằng thế là đủ, đã trèo hẳn lên bờ rồi, nhưng em nghĩ lại và cuối cùng lại lặn một lần nữa, xuống chỗ nước trong veo mát rượi, ánh năng ban trưa rực rỡ rọi tới tận đáy.

Đúng vào lúc Volka đã tính ngoi lên mặt nước, tay em bỗng chạm phải một vật gì đó thuôn thuôn ở dưới đáy sông. Volka vớ luôn vật ấy và ngoi lên ở ngay cạnh bờ. Trong tay em là một bình gốm phủ rêu nhầy nhụa, hình thù nom rất lạ. Có lẽ Volka đã mò được một cái bình cổ. Miệng bình được trám chặt bằng một chất nhựa màu xanh lá cây, trên đó có đóng một cái gì trông tựa như dấu ấn.

Volka ước tính trọng lượng của bình, thấy bình khá nặng. Và cu cậu đứng ngây người.

Một kho báu! Một kho báu chứa những vật cổ xưa có ý nghĩa lớn lao về mặt khoa học!... Tuyệt quá!

Mặc vội quần áo, Volka lao nhanh về nhà để mở bình ra ở một cái xó vắng vẻ.

Trên đường chạy về nhà, trong đầu Volka đã kịp hình thành một cái tin sáng mai nhất định sẽ xuất hiện trên tất cả các báo. Thậm chí, em còn nghĩ cho cái tin đó một đầu đề: “Một thiếu niên giúp ích cho khoa học”. Nội dung tin đó như sau:

“Hôm qua, cậu bé Volka Kostylcov đã đến đồn công an N và trao cho người trực ban một kho báu gồm những vật hiếm cổ xưa bằng vàng, mà em đã tìm thấy ở dưới đáy sông, tại một chỗ rất sâu. Kho báu đã được cơ quan công an chuyển cho Viện Bảo tàng Lịch sử. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, Volka Kostylcov là một tay lặn tài ba”.

Lẻn qua nhà bếp, nơi mẹ đang chuẩn bị bữa trưa, Volka lao vào phòng nhanh đến nỗi suýt nữa thì gãy cả chân: em vấp phải cây đèn chùm chưa kịp treo lên. Đó là cây đèn chùm trứ danh của bà. Xưa kia, từ hồi trước cách mạnh, ông nội quá cố đã tự tay sửa chiếc đèn dầu treo thành cây đèn chùm. Đó là kỷ vật của ông mà bà không bao giờ rời xa. Vì treo nó ở phòng ăn không được đẹp lắm nên bố mới định treo nó ở chính cái phòng mà Volka vừa lẻn vào. Một cái móc sắt to tướng đã được đóng trên trần để treo cây đèn chùm đó.

Vừa xoa chỗ đầu gối bị bầm, Volka vừa khóa trái cửa lại. Sau đó, em móc trong túi ra một con dao nhíp và run run vì hồi hộp, em cạy cái dấu ấn ở miệng bình.

Đúng lúc ấy, cả căn phòng bỗng mù mịt khói đen hăng hắc, rồi một cái gì đó tựa một vụ nổ không phát ra tiếng đã hất tung Volka lên trần nhà và em bị mắc quần vào đúng cái móc đinh dùng để treo cây đèn chùm của bà nội.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên