7
TỐI HÔM ĐÓ, JOHNNY KỂ cho tôi nghe về cô bạn gái New York. Tên cô ấy là Raquel. Johnny thậm chí đã gặp cô ấy. Anh cũng sống ở New York như Gat, nhưng là ở phố dưới với dì Carrie và chú Ed, trong khi Gat thì sống ở phố trên với mẹ. Johnny kể rằng Raquel là một vũ công hiện đại mặc quần áo màu đen.
Em trai Mirren, Taft, kể rằng Raquel đã gửi cho Gat một túi sôcôla hạnh nhân nhà làm. Nhỏ Liberty và Bonnie thì bảo rằng Gat lưu hình của cô ấy trong điện thoại.
Gat không hề nhắc chút gì về cô bạn gái ấy, nhưng cậu khó khăn khi nhìn vào mắt tôi.
Đêm đầu tiên ấy, tôi khóc và cắn ngón tay và uống chai rượu tôi xoáy được ở tủ bếp nhà Clairmont. Tôi đâm sầm vào bầu trời, nổi điên và đấm mạnh những vì sao khỏi dây neo của chúng, xoay vòng vòng và nôn mửa.
Tôi đấm tay vào tường phòng tắm. Tôi gột rửa đi cơn tủi nhục và tức giận trong làn nước giá băng. Rồi tôi rùng mình nằm trên giường như một con chó bị vứt bỏ, làn da run rẩy trên từng khớp xương.
Sáng hôm sau, và mọi ngày về sau đó, tôi cư xử như chẳng có gì xảy ra cả. Tôi giương cao chiếc cằm vuông của mình.
Chúng tôi chèo thuyền và đốt lửa mừng. Tôi thắng giải đấu tennis.
Chúng tôi làm những tảng kem lớn và nằm dài trên bãi biển dưới ánh mặt trời.
Một đêm nọ, cả bốn đứa chúng tôi đi picnic ở bãi biển nhỏ bên dưới. Nghêu, khoai cây, và ngô hấp. Những nhân viên đã làm nó. Tôi không biết tên họ.
Johnny và Mirren đem thức ăn trong những chiếc chảo nướng bằng kim loại. Chúng tôi ngồi ăn quanh ánh lửa của đám lửa mừng, làm nhễu bơ trên cát. Rồi Gat làm bánh s’mores
[8] ba tầng cho tất cả chúng tôi. Tôi ngắm nhìn tay cậu trong ánh lửa, xiên những miếng marshmallow trên một cái que dài. Nơi đó từng viết tên của chúng tôi, giờ thì cậu quen với việc viết lên tên tựa những cuốn sách cậu muốn đọc.
[8] S’mores: là một loại bánh dùng trong cắm trại ở Mỹ và Canada, có nhân marshmallow kẹp giữa hai lớp bánh sôcôla. Khi những người cắm trại ăn nó, họ thấy ngon và đòi thêm - “Some more”, từ đó tên bánh ra đời.
Đêm đó, trên tay trái:
Tồn tại và. Trên tay phải:
Hư vô.[9]
[9] Being and Nothingness (L'Être et le Néant) là một tác phẩm lớn, hơn 700 trang sách, của Jean-Paul Sartre, một trong những nhà triết học hàng đầu của Pháp thế kỷ 20, một trong những người sáng lập ra Chủ nghĩa hiện sinh.
Tôi cũng có những chữ viết trên tay. Một câu trích dẫn tôi yêu thích. Trên tay trái:
Sống cho. Trên tay phải
: ngày hôm nay.
“Muốn biết tớ đang nghĩ gì không?” Gat hỏi.
“Có,” tôi nói.
“Không,” Johnny trả lời.
“Tớ đang tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể nói ông ngoại của chúng ta sở hữu mảnh đất này. Không phải về mặt pháp lý mà về mặt thực tế ấy.”
“Làm ơn đừng có bắt đầu nói về tội lỗi của những Người hành hương nữa
[10],” Johnny rên rỉ.
[10] Pilgrim: Vào khoảng thế kỷ 16 - 17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh.
Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi là "Người hành hương" (Pilgrims). Họ là những người tổ chức buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ.
“Không. Tớ đang hỏi, làm thế nào mà chúng ta có thể nói là đất đai thuộc về
ai đó được?” Gat vẫy tay với cát, biển và bầu trời.
Mirren nhún vai. “Người ta cứ mua và bán đất suốt đấy thôi.”
“Chúng ta không nói về sex hay giết người được hả?” Johnny hỏi.
Gat tảng lờ anh. “Có lẽ đất đai không hề nên thuộc về con người. Hoặc có lẽ nên có giới hạn số đất con người có thể sở hữu.” Cậu nghiêng người ra phía trước. “Mùa đông này khi tớ đến Ấn Độ, trong chuyến đi tình nguyện ấy, chúng tớ đã xây nhà vệ sinh. Xây chúng là vì những con người ở đó, trong ngôi làng đó, không
có chúng.”
“Tất cả chúng ta đều biết cậu đã đến Ấn Độ,” Johnny nói. “Cậu nói với tụi này chừng bốn mươi bảy lần rồi đấy.”
Đây là điều tôi yêu ở Gat: cậu ấy rất hăng hái, rất không ngừng quan tâm đến thế giới, đến nỗi cậu đã phiền muộn khi tưởng tượng đến khả năng rằng người khác sẽ phát chán khi nghe những thứ cậu nói. Thậm chí khi họ thẳng thừng nói với cậu. Nhưng cậu cũng không thích tha cho chúng tôi một cách dễ dàng. Cậu muốn làm chúng tôi phải suy ngẫm – kể cả khi chúng tôi chẳng có tâm trạng mà suy ngẫm chút nào.
Cậu chọc một que gỗ vào trong ngọn lửa. “Tớ đang nói là chúng ta nên bàn về nó. Không phải ai cũng có những hòn đảo tư nhân. Một số người làm việc trên đó. Một số người làm việc trong những nhà máy. Một số không có việc làm. Một số không có thức ăn.”
“Ngừng nói ngay đi,” Mirren nói.
“Mãi ngừng nói luôn đi,” Johnny bảo.
“Chúng ta có cái nhìn lệch lạc về con người trên Beechwood,” Gat nói. “Tớ không nghĩ là các cậu nhận thấy điều đó.”
“Im đi,” tôi bảo. “Tớ sẽ cho cậu thêm sô cô la nếu cậu ngậm miệng giùm.”
Và Gat đã ngậm miệng, nhưng mặt cậu nhăn nhó. Cậu đột ngột đứng dậy, nhặt lên từ bãi cát một hòn đá, và dồn hết sức ném nó đi. Cậu cởi chiếc áo nỉ của mình và đá bay giày. Rồi cậu bước xuống biển trong chiếc quần jean.
Đầy giận dữ.
Tôi ngắm nhìn những cơ bắp trên vai cậu dưới ánh trăng, những giọt nước bị cậu đá văng tung tóa. Cậu lặn xuống và tôi đã nghĩ: Nếu giờ mình không đuổi theo cậu ấy, cái cô Raquel đó sẽ có được cậu. Nếu giờ mình không đuổi theo cậu ấy, cậu ấy sẽ rời đi. Khỏi những Kẻ dối trá, khỏi hòn đảo, khỏi gia đình này, khỏi tôi.
Tôi ném phăng chiếc áo len dài tay và lao xuống biển theo Gat trong bộ váy. Tôi đâm sầm vào làn nước, bơi ra chỗ cậu đang nằm ngửa. Mái tóc ướt bóng mượt của cậu được vuốt khỏi khuôn mặt, để lộ ra vết sẹo mảnh vắt ngang lông mày.
Tôi với lấy tay cậu. “Gat.”
Cậu giật mình. Đứng trong làn biển cao đến thắt lưng.
“Xin lỗi,” tôi thì thầm.
“Tớ không bảo cậu ngậm miệng, Cady ạ,” cậu nói. “Tớ chưa từng nói thế với cậu bao giờ.”
“Tớ biết.”
Cậu im lặng.
“Làm ơn đừng ngậm miệng,” tôi nói.
Tôi cảm thấy đôi mắt cậu lướt qua thân hình trong bộ váy sũng nước của tôi. “Tớ nói quá nhiều,” cậu nói. “Tớ chính trị hóa mọi thứ.”
“Tớ thích khi cậu nói,” tôi nói, vì nó đúng là vậy. Khi tôi ngừng nghe, tôi thích nó.
“Chỉ là mọi thứ khiến tớ…” Cậu ngưng lại. “Mọi thứ trên thế giới đang rối tung lên, chỉ vậy thôi.”
“Ừ.”
“Có lẽ tớ nên…” - Gat nắm lấy tay tôi, lật ngược nó lại để nhìn dòng chữ viết ở mặt sau - “… tớ nên
sống cho ngày hôm nay và không cứ mãi suy đi tính lại mọi lúc mọi nơi nữa.”
Tay tôi đặt trong đôi bàn tay đẫm nước của cậu.
Tôi rùng mình. Tay cậu trần và ướt nước. Chúng tôi từng lúc nào cũng nắm tay nhau, nhưng cả mùa hè cậu chưa từng chạm vào tôi.
“Thật tốt khi cậu nhìn thế giới theo cách của mình,” tôi bảo cậu.
Gat thả tôi ra và ngả mình lại vào làn nước. “Johnny muốn tớ câm miệng. Tớ đang làm cậu và Mirren phát chán.”
Tôi nhìn vào nét mặt nhìn nghiêng của cậu. Cậu không chỉ là Gat. Cậu trầm lặng và nhiệt tình. Tham vọng và đậm đặc như cà phê. Tất cả đều ở đó, trong mí mắt nâu, trong làn da trơn nhẵn, trong cánh môi dưới chìa ra. Có một nguồn năng lượng cuồn cuộn trong cậu.
“Tớ sẽ nói cho cậu nghe một bí mật,” tôi thì thầm.
“Gì cơ?”
Tôi với tay ra và chạm vào cánh tay cậu lần nữa. Cậu không gạt đi. “Khi chúng tớ nói
Im đi, Gat, ý chúng tớ không phải vậy chút nào.”
“Không ư?”
“Ý chúng tớ là, chúng tớ yêu cậu. Cậu nhắc chúng tớ rằng chúng tớ là những kẻ đáng khinh và ích kỷ nhường nào. Cậu không phải một trong chúng tớ, theo kiểu đó.”
Cậu hạ mắt xuống. Mỉm cười. “Ý
cậu là vậy ư, Cady?”
“Đúng thế,” tôi đáp. Tôi để những ngón tay mình rê dọc theo cánh tay đang duỗi ra nổi lềnh phềnh trên mặt nước của cậu.
“Tớ không thể tin được là hai người đang ở trong làn nước đó!” Johnny đang xắn quần đứng trên làn nước cao đến mắt cá chân. “Đó là Phương Bắc đấy. Mấy ngón chân tớ tê cóng hết cả rồi đây này.”
“Nó rất dễ chịu khi cậu chìm mình vào,” Gat hét trả.
“Nghiêm túc đấy hả?”
“Đừng có yếu ớt thế!” Gat la lên. “Đàn ông lên và chìm mình vào làn nước ngớ ngẩn nào.”
Johnny cười và bước vào. Mirren theo sau.
Và nó thật... tuyệt vời.
Màn đêm đang lờ mờ xuất hiện trên đầu. Tiếng ậm ừ của biển cả. Tiếng quàng quạc của mòng biển.
8
ĐÊM ẤY TÔI trằn trọc không ngủ được.
Sau nửa đêm, cậu gọi tên tôi.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Gat đang ngả lưng trên lối đi bằng gỗ dẫn đến Windemere. Những chú chó săn mồi nằm kế cậu, cả năm con: Bosh, Grendel, Poppy, Prince Philip, và Fatima. Đuôi chúng đập đập nhẹ nhàng.
Ánh trăng đượm lên tất cả một màu xanh của biển.
“Xuống đây nào,” cậu gọi.
Tôi làm theo.
Mẹ đã tắt đèn. Phần còn lại của hòn đảo chìm trong bóng đêm. Chúng tôi chỉ có một mình, nếu không tính tới lũ chó.
“Nhích qua đi,” tôi bảo cậu. Lối đi không rộng lắm. Khi tôi nằm xuống kế cậu, cánh tay chúng tôi chạm vào nhau, tôi thì để tay trần còn cậu thì khoác chiếc áo đi săn màu ôliu.
Chúng tôi nhìn trời. Bầu trời dát đầy sao, như thể thiên hà đang tổ chức một lễ kỷ niệm, một bữa tiệc chui linh đình khi con người ta đã chìm vào giấc ngủ.
Tôi mừng là Gat đã không cố tỏ ra hiểu biết về những chòm sao hay nói điều gì đó ngu ngốc về việc ước với những vì sao. Nhưng tôi cũng không biết điều gì đã khiến cậu im lặng.
“Tớ nắm tay cậu được không?” cậu hỏi.
Tôi đặt tay mình vào bàn tay cậu.
“Vũ trụ lúc này đây dường như mới rộng lớn làm sao,” cậu bảo. “Tớ cần cái gì đó để níu giữ mình.”
“Tớ ở đây.”
Cậu chà ngón cái vào lòng bàn tay tôi. Mọi dây thần kinh của tôi đều tập trung ở đó, hoạt động và hồi hộp trước mỗi chuyển động của làn da cậu trên tôi.
“Tớ không chắc rằng mình là một người tốt,” một lúc sau cậu lên tiếng.
“Tớ cũng không chắc rằng mình là,” tôi nói. “Tớ đang ứng biến.”
“Ừ.” Gat im lặng một lúc. “Cậu có tin ở Chúa không?”
“Nửa tin nửa không.” Tôi cố nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Tôi biết rằng Gat sẽ chẳng hài lòng với một câu trả lời hời hợt.
“Khi mọi chuyện xấu đi, tớ sẽ cầu nguyện hay tưởng tượng ra ai đó đang che chở cho mình, lắng nghe mình. Như vài ngày đầu sau khi bố tớ mất, tớ đã nghĩ về chúa. Để được che chở, bảo vệ. Nhưng phần lớn thời gian còn lại, tớ chậm chạp lê bước qua cuộc sống thường nhật của mình. Nó thậm chí còn không có một chút tâm linh nào cả.”
“Tớ không còn tin nữa,” Gat nói. “Chuyến đi đến Ấn Độ ấy, sự đói nghèo. Tớ không thể tưởng tượng được vị Chúa nào lại để điều đó xảy ra cả. Rồi tớ về nhà và bắt đầu chú ý đến điều ấy trên những đường phố New York. Người ta bệnh tật và chết đói ngay trong cái nơi được xem là một trong những quốc gia giàu nhất trên thế giới. Tớ chỉ... tớ cũng không thể nghĩ rằng có ai đó đang chở che cho những con người này.”
“Điều ấy không khiến cậu thành người xấu.”
“Mẹ tớ tin. Mẹ tớ sinh ra theo đạo Phật nhưng giờ bà lại đi nhà thờ của Hội Giám Lý. Bà không vừa ý với tớ lắm.” Gat hiếm khi nói về mẹ của mình.
“Cậu không thể tin chỉ vì mẹ cậu bảo cậu làm thế,” tôi nói.
“Không. Vấn đề là: làm thế nào để là một người tốt nếu tớ không còn đức tin nữa.”
Chúng tôi nhìn chăm chăm vào bầu trời. Những chú chó đã vào nhà Windemere qua lỗ chó ở cửa.
“Cậu lạnh rồi,” Gat nói. “Để tớ đưa áo cho cậu.”
Tôi không lạnh nhưng tôi vẫn ngồi dậy. Cậu cũng ngồi dậy. Cởi cúc chiếc áo đi săn màu ôliu và giũ nó.
Và trao nó cho tôi.
Nó mang hơi ấm từ người cậu. Phần vai rộng thùng thình. Giờ thì hai tay cậu để trần.
Tôi muốn hôn Gat ở đó khi tôi đang khoác chiếc áo đi săn màu ôliu của cậu. Nhưng tôi đã không làm thế.
Có lẽ cậu yêu Raquel. Những bức ảnh trong điện thoại của cậu. Bông Hồng Nhật khô trong tấm phong bì.
===>
Đọc tiếp tác phẩm được đăng tải trên Thư viện.