[Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)

Truyện đã được đăng tải hết trên thư viện Gác sách.
CTLNKDT.png

(Bìa sách - thiết kế viên miu.invisible)

Chúng ta là những Kẻ dối trá
Tác giả: E. Lockhart
Thể loại: Thanh thiếu niên, lãng mạn.
Dịch và hiệu đính: streetchick

Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.
Tóm tắt nội dung:

Một gia đình xinh đẹp và khác biệt.
Một hòn đảo tư.
Một cô gái thông minh, bị thương tổn; một chàng trai sôi nổi, quan tâm đến chính trị.
Một nhóm bốn người bạn — những Kẻ dối trá — với tình bạn trở nên tàn phá.
Một cuộc cách mạng. Một tai nạn. Một bí mật.
Sự dối trá chồng chất.
Tình yêu đích thực.
Sự thật.
Có lẽ đó là những gì bạn cần biết.
MỤC LỤC
Về tác giả
Sách của E. Lockhart

Thư từ nhà xuất bản
Nội dung

PHẦN MỘT: Chào mừng
PHẦN HAI: Vermont
PHẦN BA: Mùa hè thứ mười bảy
PHẦN BỐN: Trông kìa, một đám cháy
PHẦN NĂM: Sự thật
__Hết__​
 
Chỉnh sửa lần cuối:

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
VỀ TÁC GIẢ

E. LOCKHART là tác giả của bốn tập sách về Ruby Oliver: The Boyfriend List, The Boy Book, The Treasure Map of Boys, và Real Live Boyfriends. Cô cũng viết Fly on the Wall, Dramarama, và How to Be Bad (cuốn cuối cùng là tác phẩm đồng sáng tác với Sarah Mlynowski và Lauren Myracle). Cuốn tiểu thuyết The Disreputable History of Frankie Landau-Banks của cô đã dành được giải Michael L. Printz Danh dự, lọt vào vòng chung kết giải Sách quốc gia, và thắng giải Cybils với hạng mục Sách dành cho Thanh thiếu niên xuất sắc nhất.​

Những tác phẩm khác của E. Lockhart
The Boyfriend List
The Boy Book
The Treasure Map of Boys
Real Live Boyfriends
· · ·
Fly on the Wall
Dramarama
The Disreputable History of Frankie Landau-Banks
How to Be Bad (đồng sáng tác với Sarah Mlynowski và Lauren Myracle)

Thư từ nhà xuất bản
Đồng nghiệp thân mến,

Tôi không thường viết thư yêu cầu người đọc làm điều này, nhưng xin hãy tin tôi. Tôi sẽ không kể cho bạn nghe về cốt truyện của cuốn sách. Tốt hơn hết là bạn hãy cứ đọc nó. Giữa những bìa sách bạn sẽ tìm thấy:

gia đình Sinclair xinh đẹp trên hòn đảo tư nhân lộng gió,
bốn người bạn trung thành với nhau một cách vô điều kiện,
rất nhiều những câu đùa hóm hỉnh,
và tình yêu đích thực đầy tuyệt vọng.

Cũng như…

những bí mật gia đình,
những ảo giác,
một tai nạn kinh hoàng,
và nhiều chú chó săn[1].
[1] Golden retrievers: giống chó có kích thước trung bình. Thuộc họ nhà chó ưa hoạt động, chơi đùa, chúng rất trung thành và thông minh. Chúng còn có tên gọi khác là chó săn mồi hoặc chó tha mồi.

Chúng ta là những Kẻ dối trá là thứ làm lóa mắt. Nó kịch tính, đầy chất nhân văn, và lãng mạn. Nó là một câu chuyện kinh dị hiện đại, phức tạp từ người đã lọt vào chung kết giải Sách quốc gia và nhận được Giải Printz danh dự - E. Lockhart. Bạn không cần phải biết thêm nữa. Thêm nữa sẽ làm hỏng mất.

Hãy đọc nó.

Tôi tin rằng bạn sẽ muốn nói về cuốn sách này với ai đó đã đọc nó. Vậy nên hãy đọc bản đọc trước này và sao một bản cho một người bạn, và để cuộc trò chuyện bắt đầu. Dù cho bạn có làm gì đi chăng nữa, đừng nói trước nội dung cuốn sách cho những ai chưa đọc.

Và nếu có ai đó hỏi bạn cuốn sách kết thúc ra sao, hãy cứ NÓI DỐI.

Với tất cả những điều tốt lành nhất,

Beverly Horowitz
Thông tin thêm
Sơ đồ Đảo Beechwood
Untitled.png

 
Chỉnh sửa lần cuối:

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
PHẦN MỘT
Chào mừng
1
CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI nhà Sinclair xinh đẹp.

Không ai phạm pháp.
Không ai nghiện ngập.
Không ai thảm bại.

Nhà Sinclair là những con người khỏe mạnh, cao ráo và tốt đẹp. Chúng tôi là những đảng viên Dân chủ giàu có lâu đời. Nụ cười rộng mở, chiếc cằm vuông vức, và những cú giao bóng tennis đầy hung hãn.

Chẳng sao cả nếu cuộc ly dị xé vụn cơ tim của chúng tôi để chúng khó có thể đập mà không khỏi gắng sức. Chẳng sao cả nếu mớ tiền trong quỹ ủy thác chẳng còn đến một cắc; nếu những hóa đơn thẻ tín dụng chưa trả nằm dài trên tủ bếp. Chẳng sao cả nếu có một đống lọ thuốc trên chiếc tủ cạnh giường.

Chẳng sao cả nếu một trong chúng tôi yêu ai đó điên cuồng.

Yêu
rất nhiều
đến nỗi phải dùng những thước đo ghê gớm tương tự mới có thể đo đếm được.

Chúng tôi là nhà Sinclair.

Không ai nghèo túng.
Không ai xấu xa.

Chúng tôi sống, chí ít là vào mùa hè, trên một hòn đảo tư nhân ở bờ bang Massachusett.

Có lẽ đó là tất cả những gì bạn cần biết.

2
TÊN ĐẦY ĐỦ CỦA TÔI là Cadence Sinclair Eastman.

Tôi sống ở Burlington, Vermont, với mẹ và ba chú chó.

Tôi sắp bước sang tuổi mười tám.

Tôi sở hữu một tấm thẻ thư viện dùng nhiều vẫn còn xài tốt chán và cũng không có thêm nhiều thứ gì khác lắm, dẫu rằng đúng là tôi sống trong một căn nhà bự chảng đầy những thứ đồ đắt tiền mà vô dụng.

Tôi từng có mái tóc vàng, nhưng giờ nó đen nhánh.

Tôi từng khỏe mạnh, nhưng giờ thì ốm yếu.

Tôi từng xinh đẹp, nhưng giờ nom bệnh tật.

Đúng là kể từ sau tai nạn tôi chịu chứng đau nửa đầu.

Đúng là tôi không chịu những kẻ ngu ngốc.

Tôi thích nghĩa bện vào nhau. Bạn hiểu chứ? Chịu chứng đau nửa đầu. Không chịu những kẻ ngu ngốc. Ý của từ ở câu trước gần giống ý ở câu sau, nhưng không hẳn vậy.

Suffer.

Bạn có thể nói nó có nghĩa là chịu đựng, nhưng nó không đúng chính xác. [2]
[2] Nguyên văn:Suffer migraines (Chịu chứng đau nửa đầu). Do not suffer fools (Không chịu những kẻ ngu ngốc). Từ Suffer được dùng trong cả hai câu nhưng nghĩa của nó không giống nhau.


CÂU CHUYỆN CỦA TÔI BẮT ĐẦU trước lúc tai nạn xảy ra. Tháng sáu mùa hè năm tôi mười lăm tuổi, cha tôi bỏ đi theo ả đàn bà nào đó ông yêu hơn chúng tôi.

Cha tôi là một giáo sư lịch sử quân sự khá thành đạt. Hồi ấy tôi rất ngưỡng mộ ông. Ông khoác chiếc áo vest bằng vải tuýt. Ông gầy gộc. Ông uống trà sữa. Ông thích những trò chơi cờ bàn[3] và để tôi thắng, thích những con thuyền và dạy tôi chèo kayak[4], thích xe đạp, sách và bảo tàng nghệ thuật.
[3] Boardgame: một thể loại trò chơi gồm hai hoặc nhiều người tương tác trực tiếp với nhau thông qua một bàn cờ. Boardgame thường sử dụng vật dụng đi kèm như các lá bài, xí ngầu, quân cờ,… để hỗ trợ cho cuộc chơi. Một số trò Boardgame phổ biến như: cờ tỷ phú, bài uno, bài ma sói, bài nói dối, rút gỗ, đâm hải tặc, cờ tổ ong...
[4] Kayak là một chiếc thuyền tương đối nhỏ và hẹp, được điều khiển hoàn toàn bằng sức người, thiết kế chủ yếu để được tự đẩy bằng mái chèo tay. Đây là loại xuồng gỗ nhẹ bọc da chó biển của người Et-ki-mô.


Ông chưa từng thích chó, và đó là dấu hiệu biểu lộ ông yêu mẹ tôi nhiều đến nhường nào khi ông để những chú chó săn của chúng tôi ngủ trên ghế sofa và dắt chúng đi dạo ba dặm mỗi buổi sáng. Ông cũng chưa từng thích ông bà ngoại, và đó là dấu hiệu biểu lộ ông yêu cả mẹ và tôi nhiều đến nhường nào khi ông dành trọn mỗi mùa hè trong căn nhà Windemere trên đảo Beechwood, viết những bài báo về những cuộc chiến xảy ra hàng lâu trước đó và nở nụ cười với họ hàng trong mỗi bữa ăn.

Tháng sáu năm ấy, mùa hè tôi mười lăm tuổi, cha tôi thông báo rằng ông đang rời đi và sẽ khởi hành hai ngày sau đó. Ông nói với mẹ tôi rằng ông không phải là một người nhà Sinclair, và cũng chẳng thể cố biến mình thành thêm được nữa. Ông không thể cười, không thể giả dối, không thể trở thành một phần của cái gia đình đẹp đẽ trong những căn nhà đẹp đẽ đó được.

Không thể. Không thể. Sẽ không.

Ông đã thuê sẵn những chiếc xe chuyển đồ. Ông cũng đã thuê cho mình một căn nhà. Cha tôi tống mớ hành lý cuối cùng vào ghế sau chiếc Mercedes (ông chỉ để lại cho mẹ tôi mỗi chiếc Saab), và nổ máy.

Rồi ông lôi ra một khẩu súng ngắn và bắn vào ngực tôi. Tôi đang đứng trên bãi cỏ và tôi ngã xuống. Vết đạn bắn mở rộng miệng và tim tôi lăn ra khỏi lồng ngực và rơi xuống thảm hoa. Máu nhịp nhàng trào ra từ vết thương ấy,

rồi từ mắt,
từ tai,
từ miệng.

Nó có vị của muối và thất bại. Nỗi tủi nhục của việc bị hắt hủi thấm đẫm bãi cỏ trước nhà, những viên gạch trên lối đi, những bậc thang dẫn ra hiên trước. Tim tôi co thắt giữa những bông mẫu đơn như một con cá hồi.

Mẹ tôi càu nhàu cáu kỉnh. Bà nói để kềm tôi lại.

Bình thường lại, ngay, bà nói. Ngay bây giờ, bà nói.
Bởi vì con là thế. Bởi vì con có thể.
Đừng có kêu la khóc lóc, bà nói. Thở đi và ngồi dậy.

Tôi làm như mẹ bảo.

Mẹ là tất cả những gì còn lại của tôi.

Mẹ và tôi giương cao chiếc cằm vuông của mình khi bố lái xe xuống đồi. Rồi chúng tôi vào nhà và ném đi tất cả những món quà ông tặng: trang sức, quần áo, sách vở, mọi thứ. Những ngày tiếp theo đó, chúng tôi vứt bỏ chiếc ghế bành và những chiếc ghế tay vịn mà ba mẹ tôi cùng mua. Quăng đi món đồ sứ cho lễ cưới, những đồ dùng bằng bạc, những tấm ảnh.

Chúng tôi mua đồ nội thất mới. Thuê người trang trí. Đặt đồ bạc của Tiffany[5]. Dành trọn một ngày lang thang khắp những phòng triển lãm nghệ thuật và mua những bức tranh để lấp đầy những khoảng trống trên tường.
[5] Tiffany: thương hiệu trang sức nổi tiếng của Mỹ.

Chúng tôi nhờ luật sư của ông ngoại bảo vệ tài sản của mẹ.

Rồi chúng tôi gói ghém đồ đạc và lên đường đến đảo Beechwood.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
3
MẸ PENNY, DÌ CARRIE, VÀ DÌ Bess là con gái của Tipper và Harris Sinclair. Năm hai mươi mốt tuổi, ông ngoại Harris thừa kế khoản tiền từ Harvard và làm tăng số tài sản của mình bằng cách làm công việc kinh doanh mà tôi chẳng bao giờ thèm hiểu. Ông thừa kế những căn nhà và đất đai. Ông ra những quyết định thông minh về thị trường chứng khoán. Ông cưới bà Tipper và giữ bà trong căn bếp và khoảng vườn. Ông để bà trình diện trong những viên ngọc trai và trên những chiếc thuyền buồm. Bà có vẻ thích nó.

Thất bại duy nhất của ông ngoại đó là ông chưa bao giờ có được một cậu con trai, nhưng chẳng sao cả. Những cô con gái nhà Sinclair rám nắng và may mắn. Cao ráo, vui vẻ, và giàu có, những cô con gái ấy như những nàng công chúa trong câu chuyện thần tiên. Họ nổi tiếng trên toàn Boston, Harvard Yard, và đảo Martha’s Vineyard vì những chiếc áo len đan casơmia và những buổi tiệc tùng đình đám. Họ sinh ra là những huyền thoại. Sinh ra để cưới hoàng tử và học ở những trường Ivy League[6], sở hữu những bức tượng ngà và sống trong những căn nhà tráng lệ.
[6] Ivy League: được dùng để chỉ nhóm tám trường đại học và viện đại học gồm: Harvard (Massachussetts), Yale (Connecticut), Columbia (New York), Brown (Rhode Island), Dartmouth (New Hampshire), Cornell (New York), University of Pennsylvania (Pennsylvania) và Princeton (New Jersey).

Ông ngoại và bà Tipper yêu những cô con gái của họ, và chẳng thể nói được là họ yêu ai nhất. Đầu tiên là Carrie, rồi tới Penny, rồi tới Bess, rồi lại tới Carrie. Những đám cưới linh đình với cá hồi và người chơi đàn hạc được tổ chức, rồi những đứa cháu tóc màu vàng sáng ra đời và những chú chó lông vàng khôi hài xuất hiện. Hồi đó, không ai có thể tự hào về những cô gái Mỹ xinh đẹp của mình hơn ông bà Tipper và Harris.

Họ xây ba căn nhà mới trên hòn đảo dốc đứng mà họ sở hữu và đặt cho mỗi căn một cái tên: Windemere cho mẹ Penny, Red Gate cho dì Carrie, và Cuddledown cho dì Bess.

Tôi là đứa lớn nhất trong đám cháu nhà Sinclair. Người thừa kế hòn đảo, gia tài, và cả những kì vọng.

Chà, có lẽ vậy.

4
TÔI, JOHNNY, MIRREN, và Gat. Gat, Mirren, Johnny, và tôi.

Gia đình gọi chúng tôi là bốn Kẻ dối trá, và có lẽ chúng tôi cũng đáng với danh hiệu đó. Cả đám chúng tôi gần như xêm xêm tuổi nhau, và bốn đứa đều sinh vào mùa thu. Chúng tôi gây nên rắc rối mọi năm chúng tôi ở trên hòn đảo. Gat bắt đầu đến Beechwood năm chúng tôi lên tám. Mùa hè thứ tám, chúng tôi gọi nó là vậy.

Trước đó, Mirren, Johnny, và tôi không phải là những Kẻ dối trá. Chúng tôi chẳng là gì ngoài những đứa anh chị em họ của nhau, và Johnny là một đứa phiền nhiễu vì anh không thích chơi với đám con gái.

Johnny, anh là một kẻ khoác lác, nỗ lực, và quái vật. Hồi ấy anh sẽ treo cổ những con Barbie của chúng tôi và dùng súng làm bằng Lego để bắn vào ngực chúng.

Mirren, cậu ấy ngọt ngào, tò mò, và mít ướt. Hồi ấy cô bạn sẽ dành cả buổi chiều với Taft và hai đứa sinh đôi, té nước ở bãi biển lớn, trong khi tôi vẽ những bức tranh trên giấy kẻ ô vuông và nằm đọc sách trên chiếc võng ở hiên nhà Clairmont.

Rồi Gat tới để dành trọn mùa hè bên chúng tôi.

Chồng của dì Carrie bỏ dì khi dì đang mang thai em của Johnny, Will. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Gia đình tôi chưa từng hé miệng về nó. Mùa hè thứ tám ấy, Will mới còn là một đứa nhóc và dì Carrie đã cặp kè với chú Ed.

Con người tên Ed này, chú ấy là một người buôn tranh và yêu quý trẻ con. Đó là tất cả những gì chúng tôi được nghe kể về chú ấy khi dì Carrie thông báo rằng dì sẽ dẫn chú ấy tới Beechwood, cùng với Johnny và đứa bé.

Họ là những người cuối cùng đến vào mùa hè năm đó, và phần lớn chúng tôi cứ ngồi trên bến tàu chờ con thuyền tấp vào. Ông ngoại bế tôi lên để tôi có thể vẫy tay chào Johnny – anh lúc ấy đang khoác chiếc áo phao màu cam và đứng trên mũi thuyền mà hét toáng lên.

Bà ngoại Tipper đứng kế chúng tôi. Bà quay đi không nhìn chiếc thuyền một lúc, thọc tay vào túi và lôi ra một viên kẹo bạc hà trắng. Bóc vỏ nó và nhét vào miệng tôi.

Khi bà nhìn lại chiếc thuyền, nét mặt bà thay đổi. Tôi liếc xem xem ngoại đang nhìn cái gì.

Dì Carrie bước xuống với Will đeo bên hông. Nó khoác chiếc áo phao màu vàng dành cho con nít, và thật sự tôi không thấy hơn ngoài một đám tóc vàng trắng dày lộn xộn trên đầu nó. Niềm vui dâng lên khi chúng tôi nhìn thấy cậu nhóc. Chiếc áo mà tất cả chúng tôi đều đã từng mặc hồi bé đó. Mái tóc. Tuyệt vời làm sao khi cậu nhóc chúng tôi chưa quen biết này rõ ràng là một Sinclair.

Johnny nhảy ra khỏi con thuyền và quăng chiếc áo phao của mình lên bến. Trước nhất, anh chạy tới chỗ Mirren và đá cô bạn. Rồi anh đá tôi. Đá cặp sinh đôi. Đi tới chỗ ông bà ngoại và đứng thẳng. “Thiệt tốt được hai người, thưa Ông ngoại và Bà ngoại. Cháu hy vọng sẽ có một mùa hè hạnh phúc.”

Bà Tipper ôm anh. “Mẹ cháu bảo cháu nói vậy, có phải không?”

“Vâng ạ,” Johnny nói. “Và cháu sẽ nói, rất vui lại được gặp lại hai người.”

“Ngoan lắm.”

“Cháu đi được chưa ạ?”

Tipper hôn lên đôi gò má đầy tàn nhang của anh. “Rồi, đi đi.”

Ed theo sau Johnny, dừng lại để giúp nhân viên dỡ hành lý chất trên chiếc thuyền máy. Chú cao và mảnh khảnh. Da chú rất đen: sau đó chúng tôi mới biết rằng đó là từ gốc Ấn Độ. Chú đeo chiếc kính có gọng đen và mặc bộ độ thành thị sang trọng: bộ vest bằng vải lanh và áo sơ mi kẻ sọc. Chiếc quần đã bị gấp nếp sau chuyến đi.

Ông ngoại đặt tôi xuống.

Miệng bà ngoại Tipper ngậm thẳng băng. Rồi bà nhe ra khoe trọn hàm răng và bước tới trước.

“Anh hẳn là Ed. Thiệt là một bất ngờ dễ thương làm sao.”

Chú bắt tay. “Carrie không nói với bác là chúng cháu sẽ đến sao?”

“Dĩ nhiên là nó có nói rồi.”

Ed ngó quanh để nhìn gia đình da trắng của chúng tôi. Quay sang dì Carrie. “Gat đâu rồi?”

Họ gọi cậu ấy, và từ trong chiếc tàu, cậu ấy trèo ra, cởi bỏ chiếc áo phao, nhìn xuống để tháo chốt.

“Mẹ, Bố,” dì Carrie nói, “chúng con đem cháu trai của Ed đến để chơi với Johnny. Đây là Gat Patil.”

Ông ngoại đưa tay và vỗ đầu Gat. “Xin chào, chàng trai trẻ.”

“Xin chào.”

“Bố nó vừa qua đời năm nay,” dì Carrie giải thích. “Nó và Johnny là bạn thân. Việc chúng ta trông nó vài tuần cho chị của Ed sẽ giúp chị ấy rất nhiều. Và, Gat? Cháu sẽ được nấu ăn ngoài trời và đi bơi như chúng ta đã bàn. Đồng ý chứ?”

Nhưng Gat không trả lời. Cậu ấy nhìn tôi.

Cậu ấy có cái mũi hơi tẹt và cái miệng hấp dẫn. Da nâu, mái tóc đen và gợn sóng. Cơ thể tràn đầy năng lượng. Dường như Gat đang trong tư thế sẵn sàng. Như thể cậu đang kiếm tìm điều gì đó. Cậu trầm lặng và nhiệt tình. Tham vọng và đậm đặc như cà phê. Tôi có thể nhìn ngắm cậu mãi.

Mắt chúng tôi gặp nhau.

Tôi quay đi và bỏ chạy.

Gat theo sau. Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân cậu theo sau tôi trên lối đi bằng gỗ lát ngang hòn đảo.

Tôi cứ chạy. Cậu cứ theo sau.

Johnny đuổi theo Gat. Và Mirren đuổi theo Johnny.

Những người lớn vẫn ở lại trên bến tàu, lịch sự đứng quanh chú Ed, nhẹ nhàng thầm thì với bé Will. Đám nhóc làm những gì đám nhóc làm.

Bốn đứa chúng tôi ngừng rượt đuổi khi tới được bãi biển bé xíu phía sau nhà Cuddledown. Đó là một dải cát nhỏ với những tảng đá cao nằm ở hai bên. Ngày ấy ít ai dùng nó. Bãi biển lớn có những bãi cát mịn và ít tảo biển hơn.

Mirren cởi giày ra và đám chúng tôi làm theo. Chúng tôi chọi đá xuống nước. Chúng tôi tồn tại.

Tôi viết tên cả đám trên cát.

Cadence, Mirren, Johnny, và Gat.

Gat, Johnny, Mirren, và Cadence.

Đó là khởi đầu của chúng tôi.

JOHNNY XIN CHO Gat ở lại lâu hơn.

Anh đã được như ý.

Năm tiếp theo đó anh xin cho cậu ấy đến luôn cả mùa hè.

Gat đến.

Johnny là cháu trai đích tôn. Ông bà ngoại gần như chưa từng nói không với Johnny.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
5
MÙA HÈ THỨ MƯỜI BỐN, GAT và tôi một mình điều khiển chiếc thuyền máy nhỏ. Lúc đó là mới sau bữa sáng. Dì Bess bắt Mirren chơi tennis với hai đứa sinh đôi và Taft. Năm đó Johnny bắt đầu chạy và anh đang chạy quanh đường vòng ngoài. Gat tìm thấy tôi trong bếp Clairmont và hỏi xem liệu tôi có muốn đi lái thuyền không?

“Không hẳn.” Tôi muốn lên giường nằm đọc sách.

“Đi mà?” Gat gần như chưa bao giờ nói “đi mà”.

“Cậu tự đi đi.”

“Tớ không thể mượn nó,” cậu nói. “Tớ thấy không đúng lắm.”

“Dĩ nhiên cậu có thể mượn nó rồi.”

“Nếu không có một trong số các cậu thì không.”

Cậu ấy đang trở nên lố bịch đấy. “Cậu muốn đi đâu?” tôi hỏi.

“Tớ chỉ muốn đi khỏi đảo thôi. Thi thoảng tớ chẳng chịu đựng nổi việc ở đây.”

Lúc ấy tôi chẳng thể tưởng tượng nổi đó là cái gì mà cậu ấy không thể chịu đựng được, nhưng tôi nói được rồi. Chúng tôi lái ra biển với áo gió và đồ bơi. Chút sau Gat tắt máy. Chúng tôi ngồi ăn quả hồ trăn và hít thở bầu không khí đượm vị mặn của muối biển. Ánh mặt trời chiếu trên mặt nước.

“Bơi nào,” tôi nói.

Gat nhảy xuống và tôi theo sau, nhưng làn nước lạnh hơn nhiều so với ở bãi biển, nó khiến chúng tôi hụt hơi. Mặt trời chui vào sau những đám mây. Chúng tôi cười những nụ cười hoảng sợ và hét nhau rằng nhảy xuống nước thiệt là ý tưởng ngu ngốc nhất trần đời. Chúng ta đã nghĩ gì vậy hả trời? Ai cũng biết là ngoài khơi có cá mập. Đừng có nói về mấy con cá mập chứ, Chúa ơi! Chúng tôi giành giựt và xô đẩy nhau, vật lộn để là đứa đầu tiên theo lên chiếc thang treo phía sau thuyền.

Một phút sau đó, Gat ngả người ra đằng sau và để cho tôi trèo lên trước. “Không phải là vì cậu là con gái đâu mà là vì tớ là một người tốt,” cậu nói với tôi thế.

“Cảm ơn nhé.” tôi cứng họng.

“Nhưng khi cá mập cắn đứt chân tớ, hứa là cậu sẽ viết một bài phát biểu về việc tớ tuyệt vời như thế nào nhé.”

“Được luôn,” tôi nói. “Gatwick Matthew Patil là một bữa ngon miệng đấy.”

Lạnh như vầy dường như có vẻ hài hước một cách cuồng loạn. Chúng tôi không có khăn tắm. Chúng tôi túm tụm vào nhau dưới chiếc chăn lông cừu hai đứa tìm thấy dưới ghế ngồi, tựa đôi vai trần vào nhau. Những chiếc chân lạnh cóng, chiếc này chồng lên chiếc kia.

“Đây chỉ là để chúng ta không bị giảm nhiệt thôi,” Gat nói. “Đừng có nghĩ là do tớ thấy cậu xinh hay gì đấy nhé.”

“Tớ biết là cậu không thấy vậy mà.”

“Cậu đang lấn hết cái chăn đấy.”

“Xin lỗi.”

Một khoảng lặng.

“Tớ có thấy cậu xinh, Cady ạ.” Gat nói. “Tớ không có ý nói xấu gì đâu. Thật sự là, cậu trở nên xinh vậy từ khi nào thế? Thật khiến tâm trí tớ rối bời.”

“Tớ luôn trông y một vẻ mà.”

“Cậu thay đổi năm qua các năm học. Nó làm tớ xao lãng khỏi cuộc chơi của mình.”

“Cậu có một cuộc chơi à?”

Cậu ấy gật đầu một cách trang nghiêm.

“Đó là điều ngớ ngẩn nhất mà tớ từng được nghe đấy. Thế cuộc chơi của cậu là gì nào”

“Không gì có thể xuyên thủng được lớp giáp thép của tớ. Cậu vẫn chưa để ý thấy à?”

Câu đó khiến tôi bật cười. “Không.”

“Chết tiệt. Tớ cứ nghĩ là nó đang có tác dụng chứ.”

Chúng tôi chuyển chủ đề. Nói về việc dẫn đám nhóc đến Edgartown để xem một bộ phim vào buổi chiều, về những con cá mập và liệu chúng có thật sự ăn thịt người hay không, về Plants Versus Zombies.

Rồi chúng tôi quay trở lại đảo.

Không lâu sau đó, Gat bắt đầu cho tôi mượn những cuốn sách của cậu và tìm tôi ở bãi biển nhỏ vào những lúc xế tà. Cậu kiếm tôi khi tôi đang nằm trên bãi cỏ Windemere với những chú chó.

Chúng tôi bắt đầu cùng nhau dạo bước trên con đường vòng quanh đảo, Gat đi trước và tôi theo sau. Chúng tôi nói về những cuốn sách hay tạo dựng ra những thế giới ảo. Thi thoảng chúng tôi kết thúc bằng việc dạo nhiều lần quanh bờ trước khi thấy đói hoặc mệt.

Những đóa Hồng Nhật[7] mọc quanh lối đi trên biển. Chúng có màu hồng sậm và trắng, và tỏa ra mùi hương nhẹ và ngọt ngào.
[7] Beach Rose (Rosa rugosa): là loài thực vật có hoa trong họ Hoa hồng, mọc ở gần biển. Tên thường gọi là Hồng Nhật, Mai Khôi. Loài này được Thunb miêu tả khoa học đầu tiên năm 1784.

Một ngày nọ tôi nhìn Gat, lúc ấy đang nằm dài trên chiếc võng nhà Clairmont với một cuốn sách, và cậu trông có vẻ, chà, có vẻ như cậu là của tôi vậy. Như cậu là một người đặc biệt đối với tôi.

Tôi lẳng lặng leo lên chiếc võng kế cậu. Tôi lấy chiếc bút ra khỏi tay cậu — cậu ấy luôn đọc sách với một cây bút — và viết Gat lên mu bàn tay trái của cậu, và Cadence lên mu bàn tay phải.

Cậu giành lấy chiếc bút. Viết Gat lên mu bàn tay trái của tôi, và Cadence lên mu bàn tay phải.

Tôi không nói về số phận. Tôi không tin vào định mệnh hay tâm giao hay siêu nhiên hay bất cứ thứ gì giống thế. Ý tôi là chúng tôi hiểu nhau. Tường tận.

Nhưng chúng tôi mới chỉ mười bốn tuổi. Tôi chưa từng hôn một chàng trai, dẫu rằng năm tới ở trường tôi sẽ hôn vài người, và không biết vì sao chúng tôi không cho đó là tình yêu.

6
MÙA HÈ THỨ MƯỜI LĂM, tôi đến muộn một tuần so với những người khác. Cha đã bỏ chúng tôi, và Mẹ và tôi còn phải đi mua sắm, tham khảo người trang trí nội thất và đủ thứ khác.

Johnny và Mirren gặp chúng tôi ở bến tàu, gò má hồng hào và đầy ắp trong đầu những kế hoạch cho mùa hè. Hai đứa đang dàn dựng một giải đấu tennis cho gia đình và đã đánh dấu công thức làm kem. Chúng tôi sẽ đi chèo thuyền, đốt lửa mừng.

Đám nhóc túm tụm với nhau và la hét như mọi khi. Hai dì cười những nụ cười lạnh nhạt. Sau chuyến đi đến ồn ào, mọi người liền tới Clairmont nhấm nháp cocktail.

Tôi tới căn nhà Red Gate tìm Gat. Căn Red Gate nhỏ hơn nhiều so với căn Clairmont, nhưng nó vẫn có bốn phòng ngủ trên lầu. Đó là nơi Johnny, Gat, và Will sống với Dì Carrie — tính luôn cả chú Ed, khi chú ấy ở đó, dù không thường xuyên.

Tôi đi tới cửa bếp và nhìn qua tấm kính. Ban đầu Gat không nhìn thấy tôi. Cậu ấy đang đứng ở quầy bếp trong chiếc áo T-shirt xám và chiếc quần jean. Vai cậu rộng hơn so với trong trí nhớ của tôi.

Cậu tháo dây buộc một đóa hoa khô khỏi nơi treo ngược nó trên một chiếc ruy băng bên cửa sổ phía trên bồn rửa.

Đó là một đóa Hồng Nhật có màu hồng sẫm với những cánh hoa mọc thưa thớt, loại hồng mọc trên những bụi cây thấp mọc quanh vành Beechwood.

Gat, Gat của tôi. Cậu ấy đã hái cho tôi một đóa hồng từ nơi tản bộ yêu thích của chúng tôi. Cậu ấy đã treo nó lên để cho nó khô đi và chờ tôi đến đảo để cậu có thể đưa nó cho tôi.

Tính tới lúc này thì tôi đã hôn một hay ba chàng trai không hề quan trọng với mình.

Tôi đã mất bố.

Tôi đã đến hòn đảo này từ căn nhà thấm đẫm nước mắt và sự lừa gạt,

và tôi đã thấy Gat,

và tôi đã thấy bông hồng đó trong tay cậu,

và trong khoảnh khắc đó, với ánh mặt trời rọi từ khung cửa sổ chiếu lên người cậu,

những quả táo trên quầy bếp,

mùi hương của gỗ và biển thoảng trong không khí,

Tôi đã gọi đó là tình yêu.

Đó tình yêu, và nó tác động lên tôi mạnh đến nỗi tôi đã phải dựa vào tấm cửa kính vẫn đang đứng chắn giữa hai chúng tôi mới có thể đứng vững. Tôi muốn chạm vào cậu như cậu là một chú thỏ con, một con mèo nhỏ, thứ gì đó đặc biệt và mềm mại đến nỗi bạn không thể để nó rời khỏi đầu ngón tay. Vũ trụ thật tuyệt vì có cậu tồn tại trong đó. Tôi yêu cái lỗ thủng trên chiếc quần jean, vết bẩn trên đôi chân trần, lớp vảy trên khuỷu tay và vết sẹo vắt ngang chân mày cậu. Gat, Gat của tôi.

Khi tôi đứng đó, nhìn chằm chằm, cậu đặt đóa hồng vào một chiếc bì thư. Cậu lục tìm bút, cứ kéo mở rồi lại đóng hết ngăn kéo này đến ngăn kéo nọ, tìm thấy một chiếc trong túi mình, và viết.

Tôi đã không nhận ra cậu đang viết một địa chỉ cho đến khi cậu lôi ra một cuộn tem từ ngăn kéo tủ bếp.

Gat dán tem. Viết dòng địa chỉ người gửi.

Bông hồng ấy không dành cho tôi.

Tôi rời cửa căn Red Gate trước khi cậu nhìn thấy tôi và chạy vụt ra vành Beechwood. Tôi ngắm nhìn bầu trời đang dần trở nên tối đen, cô độc.

Tôi bứt hết những đóa hồng mọc trên một bụi cây chết và ném chúng đi, từng bông một, vào mặt biển dữ dội.
 

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
7
TỐI HÔM ĐÓ, JOHNNY KỂ cho tôi nghe về cô bạn gái New York. Tên cô ấy là Raquel. Johnny thậm chí đã gặp cô ấy. Anh cũng sống ở New York như Gat, nhưng là ở phố dưới với dì Carrie và chú Ed, trong khi Gat thì sống ở phố trên với mẹ. Johnny kể rằng Raquel là một vũ công hiện đại mặc quần áo màu đen.

Em trai Mirren, Taft, kể rằng Raquel đã gửi cho Gat một túi sôcôla hạnh nhân nhà làm. Nhỏ Liberty và Bonnie thì bảo rằng Gat lưu hình của cô ấy trong điện thoại.

Gat không hề nhắc chút gì về cô bạn gái ấy, nhưng cậu khó khăn khi nhìn vào mắt tôi.

Đêm đầu tiên ấy, tôi khóc và cắn ngón tay và uống chai rượu tôi xoáy được ở tủ bếp nhà Clairmont. Tôi đâm sầm vào bầu trời, nổi điên và đấm mạnh những vì sao khỏi dây neo của chúng, xoay vòng vòng và nôn mửa.

Tôi đấm tay vào tường phòng tắm. Tôi gột rửa đi cơn tủi nhục và tức giận trong làn nước giá băng. Rồi tôi rùng mình nằm trên giường như một con chó bị vứt bỏ, làn da run rẩy trên từng khớp xương.

Sáng hôm sau, và mọi ngày về sau đó, tôi cư xử như chẳng có gì xảy ra cả. Tôi giương cao chiếc cằm vuông của mình.

Chúng tôi chèo thuyền và đốt lửa mừng. Tôi thắng giải đấu tennis.

Chúng tôi làm những tảng kem lớn và nằm dài trên bãi biển dưới ánh mặt trời.

Một đêm nọ, cả bốn đứa chúng tôi đi picnic ở bãi biển nhỏ bên dưới. Nghêu, khoai cây, và ngô hấp. Những nhân viên đã làm nó. Tôi không biết tên họ.

Johnny và Mirren đem thức ăn trong những chiếc chảo nướng bằng kim loại. Chúng tôi ngồi ăn quanh ánh lửa của đám lửa mừng, làm nhễu bơ trên cát. Rồi Gat làm bánh s’mores[8] ba tầng cho tất cả chúng tôi. Tôi ngắm nhìn tay cậu trong ánh lửa, xiên những miếng marshmallow trên một cái que dài. Nơi đó từng viết tên của chúng tôi, giờ thì cậu quen với việc viết lên tên tựa những cuốn sách cậu muốn đọc.
[8] S’mores: là một loại bánh dùng trong cắm trại ở Mỹ và Canada, có nhân marshmallow kẹp giữa hai lớp bánh sôcôla. Khi những người cắm trại ăn nó, họ thấy ngon và đòi thêm - “Some more”, từ đó tên bánh ra đời.

Đêm đó, trên tay trái: Tồn tại và. Trên tay phải: Hư vô.[9]
[9] Being and Nothingness (L'Être et le Néant) là một tác phẩm lớn, hơn 700 trang sách, của Jean-Paul Sartre, một trong những nhà triết học hàng đầu của Pháp thế kỷ 20, một trong những người sáng lập ra Chủ nghĩa hiện sinh.

Tôi cũng có những chữ viết trên tay. Một câu trích dẫn tôi yêu thích. Trên tay trái: Sống cho. Trên tay phải: ngày hôm nay.

“Muốn biết tớ đang nghĩ gì không?” Gat hỏi.

“Có,” tôi nói.

“Không,” Johnny trả lời.

“Tớ đang tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể nói ông ngoại của chúng ta sở hữu mảnh đất này. Không phải về mặt pháp lý mà về mặt thực tế ấy.”

“Làm ơn đừng có bắt đầu nói về tội lỗi của những Người hành hương nữa[10],” Johnny rên rỉ.
[10] Pilgrim: Vào khoảng thế kỷ 16 - 17, một số người theo Công giáoThanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh.
Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi là "Người hành hương" (Pilgrims). Họ là những người tổ chức buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ.


“Không. Tớ đang hỏi, làm thế nào mà chúng ta có thể nói là đất đai thuộc về ai đó được?” Gat vẫy tay với cát, biển và bầu trời.

Mirren nhún vai. “Người ta cứ mua và bán đất suốt đấy thôi.”

“Chúng ta không nói về sex hay giết người được hả?” Johnny hỏi.

Gat tảng lờ anh. “Có lẽ đất đai không hề nên thuộc về con người. Hoặc có lẽ nên có giới hạn số đất con người có thể sở hữu.” Cậu nghiêng người ra phía trước. “Mùa đông này khi tớ đến Ấn Độ, trong chuyến đi tình nguyện ấy, chúng tớ đã xây nhà vệ sinh. Xây chúng là vì những con người ở đó, trong ngôi làng đó, không chúng.”

“Tất cả chúng ta đều biết cậu đã đến Ấn Độ,” Johnny nói. “Cậu nói với tụi này chừng bốn mươi bảy lần rồi đấy.”

Đây là điều tôi yêu ở Gat: cậu ấy rất hăng hái, rất không ngừng quan tâm đến thế giới, đến nỗi cậu đã phiền muộn khi tưởng tượng đến khả năng rằng người khác sẽ phát chán khi nghe những thứ cậu nói. Thậm chí khi họ thẳng thừng nói với cậu. Nhưng cậu cũng không thích tha cho chúng tôi một cách dễ dàng. Cậu muốn làm chúng tôi phải suy ngẫm – kể cả khi chúng tôi chẳng có tâm trạng mà suy ngẫm chút nào.

Cậu chọc một que gỗ vào trong ngọn lửa. “Tớ đang nói là chúng ta nên bàn về nó. Không phải ai cũng có những hòn đảo tư nhân. Một số người làm việc trên đó. Một số người làm việc trong những nhà máy. Một số không có việc làm. Một số không có thức ăn.”

“Ngừng nói ngay đi,” Mirren nói.

“Mãi ngừng nói luôn đi,” Johnny bảo.

“Chúng ta có cái nhìn lệch lạc về con người trên Beechwood,” Gat nói. “Tớ không nghĩ là các cậu nhận thấy điều đó.”

“Im đi,” tôi bảo. “Tớ sẽ cho cậu thêm sô cô la nếu cậu ngậm miệng giùm.”

Và Gat đã ngậm miệng, nhưng mặt cậu nhăn nhó. Cậu đột ngột đứng dậy, nhặt lên từ bãi cát một hòn đá, và dồn hết sức ném nó đi. Cậu cởi chiếc áo nỉ của mình và đá bay giày. Rồi cậu bước xuống biển trong chiếc quần jean.

Đầy giận dữ.

Tôi ngắm nhìn những cơ bắp trên vai cậu dưới ánh trăng, những giọt nước bị cậu đá văng tung tóa. Cậu lặn xuống và tôi đã nghĩ: Nếu giờ mình không đuổi theo cậu ấy, cái cô Raquel đó sẽ có được cậu. Nếu giờ mình không đuổi theo cậu ấy, cậu ấy sẽ rời đi. Khỏi những Kẻ dối trá, khỏi hòn đảo, khỏi gia đình này, khỏi tôi.

Tôi ném phăng chiếc áo len dài tay và lao xuống biển theo Gat trong bộ váy. Tôi đâm sầm vào làn nước, bơi ra chỗ cậu đang nằm ngửa. Mái tóc ướt bóng mượt của cậu được vuốt khỏi khuôn mặt, để lộ ra vết sẹo mảnh vắt ngang lông mày.

Tôi với lấy tay cậu. “Gat.”

Cậu giật mình. Đứng trong làn biển cao đến thắt lưng.

“Xin lỗi,” tôi thì thầm.

“Tớ không bảo cậu ngậm miệng, Cady ạ,” cậu nói. “Tớ chưa từng nói thế với cậu bao giờ.”

“Tớ biết.”

Cậu im lặng.

“Làm ơn đừng ngậm miệng,” tôi nói.

Tôi cảm thấy đôi mắt cậu lướt qua thân hình trong bộ váy sũng nước của tôi. “Tớ nói quá nhiều,” cậu nói. “Tớ chính trị hóa mọi thứ.”

“Tớ thích khi cậu nói,” tôi nói, vì nó đúng là vậy. Khi tôi ngừng nghe, tôi thích nó.

“Chỉ là mọi thứ khiến tớ…” Cậu ngưng lại. “Mọi thứ trên thế giới đang rối tung lên, chỉ vậy thôi.”

“Ừ.”

“Có lẽ tớ nên…” - Gat nắm lấy tay tôi, lật ngược nó lại để nhìn dòng chữ viết ở mặt sau - “… tớ nên sống cho ngày hôm nay và không cứ mãi suy đi tính lại mọi lúc mọi nơi nữa.”

Tay tôi đặt trong đôi bàn tay đẫm nước của cậu.

Tôi rùng mình. Tay cậu trần và ướt nước. Chúng tôi từng lúc nào cũng nắm tay nhau, nhưng cả mùa hè cậu chưa từng chạm vào tôi.

“Thật tốt khi cậu nhìn thế giới theo cách của mình,” tôi bảo cậu.

Gat thả tôi ra và ngả mình lại vào làn nước. “Johnny muốn tớ câm miệng. Tớ đang làm cậu và Mirren phát chán.”

Tôi nhìn vào nét mặt nhìn nghiêng của cậu. Cậu không chỉ là Gat. Cậu trầm lặng và nhiệt tình. Tham vọng và đậm đặc như cà phê. Tất cả đều ở đó, trong mí mắt nâu, trong làn da trơn nhẵn, trong cánh môi dưới chìa ra. Có một nguồn năng lượng cuồn cuộn trong cậu.

“Tớ sẽ nói cho cậu nghe một bí mật,” tôi thì thầm.

“Gì cơ?”

Tôi với tay ra và chạm vào cánh tay cậu lần nữa. Cậu không gạt đi. “Khi chúng tớ nói Im đi, Gat, ý chúng tớ không phải vậy chút nào.”

“Không ư?”

“Ý chúng tớ là, chúng tớ yêu cậu. Cậu nhắc chúng tớ rằng chúng tớ là những kẻ đáng khinh và ích kỷ nhường nào. Cậu không phải một trong chúng tớ, theo kiểu đó.”

Cậu hạ mắt xuống. Mỉm cười. “Ý cậu là vậy ư, Cady?”

“Đúng thế,” tôi đáp. Tôi để những ngón tay mình rê dọc theo cánh tay đang duỗi ra nổi lềnh phềnh trên mặt nước của cậu.

“Tớ không thể tin được là hai người đang ở trong làn nước đó!” Johnny đang xắn quần đứng trên làn nước cao đến mắt cá chân. “Đó là Phương Bắc đấy. Mấy ngón chân tớ tê cóng hết cả rồi đây này.”

“Nó rất dễ chịu khi cậu chìm mình vào,” Gat hét trả.

“Nghiêm túc đấy hả?”

“Đừng có yếu ớt thế!” Gat la lên. “Đàn ông lên và chìm mình vào làn nước ngớ ngẩn nào.”

Johnny cười và bước vào. Mirren theo sau.

Và nó thật... tuyệt vời.

Màn đêm đang lờ mờ xuất hiện trên đầu. Tiếng ậm ừ của biển cả. Tiếng quàng quạc của mòng biển.

8
ĐÊM ẤY TÔI trằn trọc không ngủ được.

Sau nửa đêm, cậu gọi tên tôi.

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Gat đang ngả lưng trên lối đi bằng gỗ dẫn đến Windemere. Những chú chó săn mồi nằm kế cậu, cả năm con: Bosh, Grendel, Poppy, Prince Philip, và Fatima. Đuôi chúng đập đập nhẹ nhàng.

Ánh trăng đượm lên tất cả một màu xanh của biển.

“Xuống đây nào,” cậu gọi.

Tôi làm theo.

Mẹ đã tắt đèn. Phần còn lại của hòn đảo chìm trong bóng đêm. Chúng tôi chỉ có một mình, nếu không tính tới lũ chó.

“Nhích qua đi,” tôi bảo cậu. Lối đi không rộng lắm. Khi tôi nằm xuống kế cậu, cánh tay chúng tôi chạm vào nhau, tôi thì để tay trần còn cậu thì khoác chiếc áo đi săn màu ôliu.

Chúng tôi nhìn trời. Bầu trời dát đầy sao, như thể thiên hà đang tổ chức một lễ kỷ niệm, một bữa tiệc chui linh đình khi con người ta đã chìm vào giấc ngủ.

Tôi mừng là Gat đã không cố tỏ ra hiểu biết về những chòm sao hay nói điều gì đó ngu ngốc về việc ước với những vì sao. Nhưng tôi cũng không biết điều gì đã khiến cậu im lặng.

“Tớ nắm tay cậu được không?” cậu hỏi.

Tôi đặt tay mình vào bàn tay cậu.

“Vũ trụ lúc này đây dường như mới rộng lớn làm sao,” cậu bảo. “Tớ cần cái gì đó để níu giữ mình.”

“Tớ ở đây.”

Cậu chà ngón cái vào lòng bàn tay tôi. Mọi dây thần kinh của tôi đều tập trung ở đó, hoạt động và hồi hộp trước mỗi chuyển động của làn da cậu trên tôi.

“Tớ không chắc rằng mình là một người tốt,” một lúc sau cậu lên tiếng.

“Tớ cũng không chắc rằng mình là,” tôi nói. “Tớ đang ứng biến.”

“Ừ.” Gat im lặng một lúc. “Cậu có tin ở Chúa không?”

“Nửa tin nửa không.” Tôi cố nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Tôi biết rằng Gat sẽ chẳng hài lòng với một câu trả lời hời hợt.

“Khi mọi chuyện xấu đi, tớ sẽ cầu nguyện hay tưởng tượng ra ai đó đang che chở cho mình, lắng nghe mình. Như vài ngày đầu sau khi bố tớ mất, tớ đã nghĩ về chúa. Để được che chở, bảo vệ. Nhưng phần lớn thời gian còn lại, tớ chậm chạp lê bước qua cuộc sống thường nhật của mình. Nó thậm chí còn không có một chút tâm linh nào cả.”

“Tớ không còn tin nữa,” Gat nói. “Chuyến đi đến Ấn Độ ấy, sự đói nghèo. Tớ không thể tưởng tượng được vị Chúa nào lại để điều đó xảy ra cả. Rồi tớ về nhà và bắt đầu chú ý đến điều ấy trên những đường phố New York. Người ta bệnh tật và chết đói ngay trong cái nơi được xem là một trong những quốc gia giàu nhất trên thế giới. Tớ chỉ... tớ cũng không thể nghĩ rằng có ai đó đang chở che cho những con người này.”

“Điều ấy không khiến cậu thành người xấu.”

“Mẹ tớ tin. Mẹ tớ sinh ra theo đạo Phật nhưng giờ bà lại đi nhà thờ của Hội Giám Lý. Bà không vừa ý với tớ lắm.” Gat hiếm khi nói về mẹ của mình.

“Cậu không thể tin chỉ vì mẹ cậu bảo cậu làm thế,” tôi nói.

“Không. Vấn đề là: làm thế nào để là một người tốt nếu tớ không còn đức tin nữa.”

Chúng tôi nhìn chăm chăm vào bầu trời. Những chú chó đã vào nhà Windemere qua lỗ chó ở cửa.

“Cậu lạnh rồi,” Gat nói. “Để tớ đưa áo cho cậu.”

Tôi không lạnh nhưng tôi vẫn ngồi dậy. Cậu cũng ngồi dậy. Cởi cúc chiếc áo đi săn màu ôliu và giũ nó.

Và trao nó cho tôi.

Nó mang hơi ấm từ người cậu. Phần vai rộng thùng thình. Giờ thì hai tay cậu để trần.

Tôi muốn hôn Gat ở đó khi tôi đang khoác chiếc áo đi săn màu ôliu của cậu. Nhưng tôi đã không làm thế.

Có lẽ cậu yêu Raquel. Những bức ảnh trong điện thoại của cậu. Bông Hồng Nhật khô trong tấm phong bì.

===> Đọc tiếp tác phẩm được đăng tải trên Thư viện.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
streetchick nhanh quá. :-o
Không ra trang chủ ngó là không biết tác phẩm này hoàn rồi đâu. Chị còn đang tính từ từ đọc. :3
Chúc mừng em nha. @};-
 

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
streetchick nhanh quá. :-o
Không ra trang chủ ngó là không biết tác phẩm này hoàn rồi đâu. Chị còn đang tính từ từ đọc. :3
Chúc mừng em nha. @};-
Cám ơn chị nhiều ạ. Chị dịch cũng nhanh quá trời, hóng chị dịch thêm nhiều truyện của bác Rick nữa. :tho26:
 

Haiiro

Gà BT
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
2.021
Gạo
27.979,0
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
Vừa nhòm ngó bên Nhã Nam, cuốn này sắp xuất bản rồi nè. :D
 

streetchick

Gà ăn bám
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
9/12/13
Bài viết
851
Gạo
4.379,5
Re: [Thanh thiếu niên] Chúng ta là những Kẻ dối trá - Hoàn - E. Lockhart (streetchick dịch)
Bên trên