[Tiểu thuyết] Vẫn là Alice - Still Alice - Lisa Genova [tiến độ siêu chậm]

images

Vẫn là Alice
Người dịch: Vy Trà
Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.

Mở đầu
Kể từ lúc đó, khoảng hơn một năm trước, trong đầu cô đã có đã có những nơ-ron thần kinh, không cách xa phần tai lắm, bị chèn ép đến chết nhưng cả quá trình ấy lại im lặng đến mức cô chẳng thể nghe thấy. Mọi người có thể sẽ nói chính những nơ-ron này tự chúng gây họa để rồi dẫn đến việc hủy hoại chính mình. Thế nhưng cho dù đó có là một sát thủ cỡ phân tử hay là một vụ tự sát của các tế bào thì chúng cũng không có khả năng cảnh báo cô về những điều sẽ xảy ra trước khi chúng chết.

Tháng 9, 2003
Tháng 10, 2003
Tháng 11, 2003
Tháng 12, 2003
***
Tháng 1, 2004
Tháng 2, 2004
Tháng 3, 2004
Tháng 4, 2004
Tháng 5, 2004
Tháng 6, 2004
Tháng 7, 2004
Tháng 8, 2004
Tháng 9, 2004
Tháng 10, 2004
Tháng 11, 2004
Tháng 12, 2004
***
Tháng 1, 2005
Tháng 2, 2005
Tháng 3, 2005
Tháng 4,2005
Tháng 5, 2005
Tháng 6, 2005
Mùa hè 2005
Tháng 9, 2005
***
Lời bạt

 
Chỉnh sửa lần cuối:

VyTra

Gà cận
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
19/6/15
Bài viết
256
Gạo
585,6
Re: [Tiểu thuyết] Vẫn là Alice - Still Alice - Lisa Genova [tiến độ siêu chậm]
Tháng 9, 2003

Alice ngồi trước bàn làm việc trong phòng ngủ nhưng cô hoàn toàn bị những tiếng động John gây ra khi anh chạy hết từ phòng này sang phòng khác dưới tầng một làm xao nhãng. Cô phải hoàn thành bài bình duyệt nộp cho Tạp chí Tâm Lý Học Nhận Thức này trước khi bay vậy mà cô đã đọc cùng một câu đến ba lần nhưng vẫn chưa thể để nó vào đầu. Đồng hồ đang chỉ 7 giờ 30, có lẽ chiếc đồng hồ này chạy nhanh mười phút. Cô đoán được là nhờ ước lượng và dựa vào âm thanh đang lớn dần dưới tầng do chồng cô đang cố gắng tìm thứ gì đó anh để quên nhưng không tìm được trước khi đi làm. Cô gõ gõ chiếc bút đỏ lên môi dưới, nhìn những con số trên đồng hồ, lắng nghe tiếng gọi mà cô biết là sẽ sớm xuất hiện.

“Ali?”

Cô ném bút lên mặt bàn rồi thở dài. Đi xuống cầu thang, cô thấy anh đang quì trong phòng khách, lần lần tay bên dưới những chiếc gối ở sô pha.

“Anh tìm chìa khóa hả?” Cô hỏi.

“Kính! Em yêu, đừng nói gì cả. Anh sắp muộn rồi.”

Cô dõi theo ánh mắt vội vàng của anh lên mặt lò sưởi, ở đó có chiếc đồng hồ cổ Waltham vốn có giá trị vì độ chính xác cực cao của mình vậy mà bây giờ nó đang báo là 8 giờ. Lẽ ra anh phải đủ hiểu để không tin cái đồng hồ cổ lỗ sĩ ấy chứ. Mấy cái đồng hồ trong nhà cô hiếm khi biết thời gian của thế giới thực. Cô đã bị lừa gạt quá nhiều lần bởi mấy cái mặt trông cực kì thành thực đó và từ lâu lắm rồi cô đã rút ra kết luận rằng chỉ có thể tin vào đồng hồ đeo tay của mình mà thôi. Cô chắc chắn đúng vì lúc đi vào trong bếp cái lò vi sóng mới chỉ báo là 6:52.

Cô nhìn lên mặt bàn bếp bằng đá gra-nít nhẵn nhụi, sạch bóng và thấy cặp kính đang nằm cạnh chiếc tô hình cây nấm, bên trên đang vứt đầy những bức thư chưa mở. Không ở dưới cái gì, không khuất sau cái gì cũng không bị cái gì che mất khi nhìn từ đây sang! Tại sao chồng cô, một nhà khoa học, một anh chàng thông minh như thế lại không nhìn thấy mấy thứ ở ngay trước mắt mình như vậy được nhỉ?

Đương nhiên, thỉnh thoảng một vài thứ của cô cũng bằng cách nào đó chui vào mấy chỗ không hề dễ tìm. Tuy vậy cô không đời nào nói cho anh biết chuyện này, và cô cũng không bảo anh tìm cùng mình. Mới đây thôi, may mắn là John không biết, cô đã phải lục tung cả nhà, rồi sau đó là cả văn phòng lên để tìm cái sạc Blackberry của mình. Cuối cùng cô đã phải đầu hàng, đi mua một cái mới để rồi ngay tối hôm đó cô thấy chiếc sạc đang cắm ở ổ điện ngay cạnh giường, nơi mà lẽ ra cô phải tìm đầu tiên mới phải. Cô nghĩ lý do cho chuyện xảy ra với cả hai vợ chồng cô là những công việc họ phải làm đang chồng chất và họ đều rất bận. Và đương nhiên, vì họ đang già đi nữa.

Anh đứng ở cửa ra vào, nhìn vào cặp kính trên tay cô chứ không nhìn cô.

“Lần sau, khi tìm gì đó anh nhớ giả bộ mình là một người phụ nữ nhé.” Alice mỉm cười nói.

“Anh sẽ mặc một cái váy của em, được chưa nào? Ali, xin em đấy, anh muộn lắm rồi.”

“Cái lò vi sóng bảo là anh vẫn còn cả tấn thời gian,” cô vừa đưa kính cho anh vừa nói.

“Cảm ơn em.”

Anh nhận lấy cặp kính như một vận động viên chạy tiếp sức nhận lấy cây gậy từ đồng đội rồi đi thẳng ra cửa.

“Thứ bảy này em về, anh có nhà không?” Cô nói với theo lưng anh, bước cùng anh xuống dưới nhà.

“Anh không biết, thứ bảy này anh có rất nhiều việc phải làm ở phòng thí nghiệm.”

Anh cầm lấy túi xách, điện thoại và chìa khóa đang để trên chiếc bàn đặt gần cửa.

“Em đi an toàn nhé, ôm Lydia và hôn con bé giúp anh. Và cố gắng đừng tranh cãi với con bé.” John nói.

Cô nhìn thấy hình ảnh của mình và anh trong chiếc gương đặt gần cửa ra vào – một hình ảnh rất khác biệt, một người đàn ông cao, tóc nâu điểm ánh kim, đeo kính và một người phụ nữ tóc xoăn xinh xắn, đang khoanh tay trước ngực, cả hai đều như đang sẵn sàng nhào vào một cuộc tranh luận không điểm dừng quen thuộc. Cô cắn cắn răng nuốt vào, cô sẽ không sa vào cuộc tranh luận này nữa.

“Lâu rồi chúng ta chưa được ở bên nhau. Anh cố gắng về nhà được không?” Cô hỏi.

“Anh biết, anh sẽ cố.”

Anh hôn cô, mặc dù đang rất vội nhưng vẫn không quên kéo dài nụ hôn đó thêm một khoảnh khắc đặc biệt mà chỉ hai người mới hiểu được. Nếu không phải cô đã rất hiểu anh cô sẽ cho rằng đó là một nụ hôn rất lãng mạn. Có thể cô đã đứng đó mà hi vọng rằng nụ hôn đó có nghĩa là Anh yêu em, anh sẽ rất nhớ em. Nhìn anh vội vàng lao xuống đường, cô chắc chắn rằng nụ hôn đó có nghĩa: Anh yêu em nhưng đừng giận anh khi thứ bảy này không thấy anh ở nhà.

Trước đây, mỗi sáng hai người thường cùng nhau đi bộ qua sân trường Harvard. Trong tất cả những điều cô yêu thích khi chỗ làm chỉ cách nhà chưa đến một dặm, dạy ở cùng một trường với anh thì việc hàng ngày đi làm cùng anh là việc cô thích nhất. Bao giờ họ cũng dừng ở cửa hàng Jerri’s, mua cho anh một tách cà phê đen, một tách trà chanh cho cô, uống nóng hay đá là tùy thuộc từng mùa, rồi hai người sẽ tiếp tục bước qua sân trường Harvard, nói chuyện về những nghiên cứu, về lớp họ đang dạy, về những vấn đề ở khoa của mỗi người, về những đứa con của họ hay kế hoạch cho buổi tối hôm đó. Khi mới kết hôn, họ thậm chí còn nắm tay nhau mà bước đi. Cô rất yêu thích sự riêng tư mỗi buổi sáng cùng anh đi bộ như vậy trước khi cả hai bị cuốn vào những yêu cầu của công việc hàng ngày, của tham vọng cho đến khi cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức.

Nhưng thời gian gần đây họ hay phải đi qua trường Harvard một mình. Suốt mùa hè vừa rồi Alice phải di chuyển rất nhiều, cô phải bay đi khắp nơi tham dự những buổi hội thảo về tâm lý học ở Rome, New Orleans và Miami, cô còn tham gia vào hội đồng đánh giá bảo vệ luận án ở Princeton. Trước đó vào mùa xuân, việc nuôi cấy tế bào của John đòi hỏi phải nghiêm ngặt làm vệ sinh vào đúng khoảng giờ đó mỗi sáng nhưng anh lại không tin tưởng bất cứ sinh viên nào của mình có thể hoàn thành đúng yêu cầu. Vì thế nên anh tự mình làm. Cô không nhớ lý do cho lần trước mùa xuân đó là gì nhưng cô nhớ lần nào lý do của họ cũng chính đáng và đều có vẻ chỉ là tạm thời.

Cô cố gắng tập trung trở lại với đống giấy tờ nhưng vẫn bị xao nhãng, lần này là vì nỗi ấm ức trong lòng khi sáng nay cô đã không tranh luận thêm với John về chuyện của Lydia, con gái út của họ. Chẳng lẽ đứng về phía cô một lần thì anh sẽ chết hay sao? Cô cố gắng lướt qua phần còn lại của tài liệu, đây không phải là tác phong thường thấy của cô nhưng hiện tại cô đang trong tâm trạng không tốt và không có đủ thời gian. Phần nhận xét và gợi ý của cô đã hoàn thành, cô cho vào phong bì niêm phong lại mà lòng cảm thấy áy náy vì cô biết có thể mình đã bỏ qua một lỗi nào đó trong phần thiết kế của nghiên cứu hoặc phần giải thích. Cô thầm trách John vì đã khiến cô phải thỏa hiệp với cái không hoàn chỉnh trong công việc của mình.

Cô kiểm tra lại va li, nó vẫn ở nguyên trạng thái như khi cô trở về từ chuyến công tác trước. Cô hi vọng những tháng tiếp theo mình sẽ ít phải đi công tác hơn. Trong lịch công tác của kì mùa thu năm nay, cô chỉ mới nhận lời một vài buổi thỉnh giảng và hầu hết các buổi đó cô đều lên lịch vào thứ sáu, những ngày cô không phải dạy. Ví dụ như ngày mai chẳng hạn. Ngày mai cô sẽ là diễn giả mở màn cho một chuỗi các buổi hội thảo chuyên đề về mảng tâm lý học nhận thức ở Stanford. Sau đó cô sẽ đi gặp Lydia. Cô sẽ cố gắng để không cãi nhau với con bé nhưng cũng chẳng thể nói trước được điều gì.

***​

Alice dễ dàng tìm được đường đi đến hội trường Cordura nằm ở góc khuôn viên giữa khu Drive West và Panama Drive. Trong mắt một người đến từ khu Bờ Đông như cô tòa nhà có tường trát màu trắng, mái lợp ngói đất nung, bao quanh bởi một khu vườn xanh mát như thế này trông giống một khu khách sạn nghỉ dưỡng vùng Ca-ri-bê hơn là một tòa nhà nghiên cứu học thuật. Cô đến khá sớm nhưng vẫn đi luôn vào phía trong, định bụng đi vào khu giảng đường để xem lại tài liệu.

Cô ngạc nhiên nhận ra căn phòng đã khá đông người rồi. Một đám đông đầy nhiệt huyết đang vây quanh bàn búp-phê kê theo hình tròn, hung hãn tấn công số thức ăn như đám chim mòng biển ở những bãi biển gần thành phố. Trước khi cô kịp lỉnh đi tránh khỏi đám đông ấy cô đã nhận ra Josh – bạn cùng lớp với cô ở Harvard, một kẻ đáng kính vì sự ích kỉ của hắn – đang đứng chắn đường mình, chân anh ta sải rộng đứng chắc chắn trên mặt đất như thể đã sẵn sàng lao vào cô vậy.

“Tất cả những thứ này đều là dành cho tôi đấy à?” Alice mỉm cười tinh nghịch.

“Hả, ngày nào chúng tôi cũng ăn uống như thế này. Đây là dành cho một trong những nhà tâm lý thực nghiệm của chúng tôi, hôm qua anh ấy vừa được bổ nhiệm. Còn cậu, Harvard đối xử với cậu thế nào?”

“Tốt.”

“Tôi không thể tin là cậu vẫn ở đó sau bao nhiêu năm như vậy. Nếu lúc nào thấy chán ở đó thì cậu nên xem xét việc chuyển đến đây.”

“Có gì tôi sẽ liên hệ với cậu. Còn cậu thì sao, vẫn tốt chứ?”

“Tuyệt vời. Sau buổi diễn thuyết cậu nên đến thăm văn phòng tôi một chuyến, cậu nên xem trường dữ liệu mẫu mới nhất của bọn tôi. Chắc chắn cậu sẽ bị ngạc nhiên đấy.”

“Xin lỗi tôi không đi được. Sau khi xong ở đây tôi phải bay đi L.A ngay.” Cô nói, cảm thấy thật may mắn vì có sẵn một lý do để từ chối.

“Ồ, chán nhỉ. Tôi nhớ lần trước gặp cậu là ở buổi hội nghị về tâm lý học. Thật buồn vì tôi đã lỡ buổi diễn thuyết hôm đó của cậu.”

“Ừm, không sao, hôm nay cậu sẽ được nghe một phần lớn của bài hôm đó đấy.”

“Bây giờ cậu lại tái sử dụng mấy bài diễn thuyết cũ à?”

Trước khi cô kịp trả lời thì trưởng khoa - Gordon Miller – cũng là người hùng mới của cô bước tới giải thoát cho cô bằng cách nhờ Josh mang sâm-panh đi mời xung quanh. Cũng giống như ở Harvard, tại khoa tâm lý ở Stanford một buổi tiệc rượu sâm-panh để chúc mừng người vừa được chính thức bổ nhiệm là một truyền thống. Trong sự nghiệp của một giáo sư việc vượt qua hết cột mốc này đến cột mốc khác không có gì đáng để nói đến nhưng được bổ nhiệm chính thức là một dịp vô cùng quan trọng.

Khi mọi người đều đã có ly trong tay, Gordon đứng lên bục, gõ gõ vào chiếc micrô.

“Mọi người vui lòng cho tôi một phút được không?”

Tiếng cười to quá mức của Josh vang khắp cả căn phòng trước khi Gordon nói tiếp.

“Hôm nay chúng ta cùng chúc mừng Mark nhận được bổ nhiệm chính thức. Tôi chắc là anh ấy hẳn đang rất vui vì đã đạt được thành tích này. Chúc ta hãy cùng nâng ly vì những thành công vang dội tiếp theo của Mark nào. Chúc mừng Mark!”

“Chúc mừng Mark!”

Alice quay sang cụng ly với người đứng cạnh, tất cả mọi người nhanh chóng hòa mình vào việc thực hiện nhiệm vụ ăn, uống và thảo luận. Khi tất cả đồ ăn đã biến mất khỏi khay của người phục vụ và giọt sâm-panh cuối cùng đã được dốc ra khỏi chai, Gordon lại một lần nữa lên tiếng.

“Xin mời mọi người về chỗ ngồi để chúng ta bắt đầu buổi diễn thuyết của hôm nay.”

Ông chờ một chút để đám đông khoảng bảy mươi lăm con người này ổn định chỗ ngồi và giữ trật tự.

“Hôm nay, tôi vinh dự được giới thiệu với các bạn diễn giả đầu tiên của chuỗi hội thảo chuyên đề năm nay – Tiến sĩ Alice Howland – người được xem như giáo sư William James của khoa Tâm lý đại học Harvard. Trong suốt hơn hai mươi lăm năm qua, sự nghiệp của cô đã xây dựng lên rất nhiều những tiêu chuẩn hàng đầu cho ngành tâm lý học ngôn ngữ. Cô là người tiên phong và vẫn đang tiếp tục dẫn đầu các nghiên cứu liên ngành và tích hợp các phương pháp về cơ chế của ngôn ngữ. Chúng ta rất may mắn vì ngày hôm nay có cô ở đây cùng chúng ta thảo luận về cấu trúc khái niệm và cấu trúc thần kinh của ngôn ngữ.”

Alice đổi vị trí với Gordon, đưa mắt xuống phía dưới những thính giả đang nhìn vào mình. Trong lúc chờ đợi tràng vỗ tay của mọi người dừng lại cô nghĩ đến một số liệu nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người sợ phát biểu trước đám đông hơn là sợ chết. Cô thì khác. Cô yêu thích những khoảnh khắc đầy liên kết khi đứng trước đám đông thính giả đang yên lặng lắng nghe cô giảng bài, diễn thuyết, kể truyện hay hâm nóng một buổi tranh luận. Cô cũng cực kì thưởng thức cảm giác kích thích khi lượng a-dre-na-lin tăng cao mang đến. Mục tiêu tranh luận càng lớn thì khán giả càng xuất sắc hoặc cực kì thù địch và cảm giác đó càng thỏa mãn cô hơn. John là một giáo viên tuyệt vời nhưng phát biểu trước đám đông lại luôn làm anh lo lắng và anh vẫn luôn rất thắc mắc về nhiệt huyết của cô cho chuyện này. Thay vì phải xuất hiện trước đám đông, có thể anh sẽ không chọn cái chết nhưng chắc chắn anh thà phải gặp rắn hoặc nhện còn hơn.

“Cảm ơn anh, Gordon. Hôm nay tôi sẽ trình bày một số trong những quá trình tâm lý ẩn sau quá trình tiếp nhận thông tin, cấu trúc và cách sử dụng của ngôn ngữ.”

Alice đã sử dụng nội dung cơ bản của buổi diễn thuyết này vô số lần rồi nhưng cô sẽ không gọi đó là “tái sử dụng”. Trọng tâm của buổi diễn thuyết là về những nguyên lý chính của ngôn ngữ, một trong số những nguyên lý cô phát hiện và cũng sử dụng cùng một loạt những cách minh họa trong nhiều năm nay. Tuy nhiên cô cảm thấy tự hào, không một chút ngại ngần, rằng những phát hiện này của cô vẫn chứng minh được rằng chúng là đúng bất chấp sự thử thách của thời gian. Những đóng góp của cô sẽ tạo điều kiện cho những phát hiện mới trong tương lai.

Suốt quá trình diễn thuyết cô không cần nhìn vào tài liệu, cô cảm thấy rất thư thái và tự nhiên, những từ ngữ tuôn trào như một thứ bản năng. Tuy nhiên đến phút thứ bốn mươi của bài diễn thuyết dài năm mươi phút của mình cô bỗng bị rơi vào thế bí.

“Các dữ liệu cho thấy rằng động từ bất qui tắc đòi hỏi phải có sự tiếp cận với…”

Cô không thể tìm được từ phù hợp. Cô không cảm thấy thật rõ điều mình đang muốn nói đến còn từ đó thì đang cố lẩn tránh cô. Hoàn toàn biến mất. Cô không còn biết từ đó bắt đầu bằng chữ cái gì hay nghe như thế nào và có bao nhiêu chữ cái. Cái từ ấy như thể đã hoàn toàn biến mất khỏi đầu cô.

Có lẽ nguyên nhân là ở ly sâm-panh. Thường thì cô sẽ không uống bất cứ một loại đồ uống có cồn nào trước khi diễn thuyết. Kể cả khi cô đã thuộc nằm lòng nội dung bài diễn thuyết hay đó chỉ là một buổi nói chuyện bình thường cô cũng luôn muốn mình trong tình trạng minh mẫn nhất, sẵn sàng cho phần hỏi đáp mang đầy tính đối kháng và luôn tiềm ẩn những cuộc tranh luận nảy lửa, không có kịch bản ở cuối mỗi buổi. Thế nhưng vì không muốn làm ai phật lòng nên cô đã uống nhiều hơn bình thường một chút, đặc biệt là khi cô lại rơi vào cuộc trò chuyện kiểu hung hăng một cách bị động như vậy với Josh.

Cũng có thể là do chênh lệch múi giờ. Trong khi đầu óc cô đang miệt mài tìm kiếm cái từ đó ở mọi ngõ ngách và một lý do chính xác nhất cho việc biến mất bí ẩn ấy thì tim cô bắt đầu đập thình thịch, khuôn mặt đỏ ửng lên. Trước đây cô chưa bao giờ rơi vào trình trạng bị bí từ như thế này trước mặt các thính giả của mình. Tuy nhiên cô cũng chưa bao giờ để cho mình hoảng hốt trước mặt họ, cô đã từng diễn thuyết trước một lượng thính giả lớn hơn thế này nhiều lần và đã từng rơi vào những tình huống còn đáng sợ hơn nữa. Cô tự nhắc mình phải hít thở sâu, cố quên đi chuyện đó và tiếp tục.

Cô thay thế cái từ đang bị lạc mất ở đâu đó kia bằng một từ mơ hồ, không chính xác – từ “cái đó”, rồi để lại vấn đề đang nói đến để chuyển sang vấn đề tiếp theo. Đối với cô đó như thể một khoảnh khắc đáng xấu hổ tồn tại một cách rõ ràng và vĩnh hằng nhưng khi cô đưa mắt nhìn xuống phía dưới khán giả thì dường như không ai nhận ra cú nấc nghẹn đó trong tâm trí cô, không ai trông có vẻ như đã để ý, thấy ngại ngùng hay băn khoăn. Thế rồi cô thấy Josh đang thì thầm vào tai người phụ nữ ngồi bên cạnh, đôi mày anh ta nhăn lại và một nụ cười nhẹ thoáng qua trên gương mặt.


Lúc cô đang ngồi trên máy bay đến sân bay LAX thì cái từ đó cuối cùng cũng tìm đến với cô – “Thuật ngữ”.


Tính đến thời điểm hiện tại thì Lydia đã sống ở Los Angeles được ba năm. Nếu con bé chịu học đại học ngay sau khi tốt nghiệp cấp ba thì hẳn đã ra trường từ mùa xuân năm nay rồi. Alice hẳn đã tự hào biết bao. Lydia có lẽ là đứa trẻ thông minh hơn hai anh chị của mình nhưng lại không chịu đi học tiếp trong khi hai đứa lớn đều học đại học, trường luật và trường y.

Thay vì học đại học, Lydia đi du lịch châu Âu. Alice đã hi vọng xiết bao khi trở về con bé sẽ nhận ra rõ hơn mình muốn học ngành gì và muốn học ở trường nào. Ấy vậy mà, khi trở về con bé nói với bố mẹ là đã tham gia diễn xuất một chút ở Dublin và bị cuốn hút bởi công việc đó. Ngay lập tức con bé chuyển đến L.A sống.

Alice gần như đã hoàn toàn mất kiểm soát. Càng tức giận bao nhiêu thì cô lại càng nhận ra chính mình là người đã góp phần vào nguyên nhân của vấn đề. Lydia là con út trong gia đình, con bé lại là con của một cặp bố mẹ phải dành quá nhiều thời gian cho công việc và thường xuyên đi công tác; thêm vào đó con bé vẫn luôn là một đứa trẻ chăm chỉ học hành nên Alice và John đã để con bé có quá nhiều không gian tự do. Chính họ đã cho con bé quá nhiều không gian để tạo ra một thế giới cho riêng mình, để tự do nghĩ về chính mình và không phải chịu sự kiểm soát khắt khe mà rất nhiều đứa trẻ ở độ tuổi của con bé phải chịu. Sự nghiệp của cha mẹ con bé chính là một ví dụ điển hình, rõ ràng nhất cho việc chọn ra một mục tiêu duy nhất rõ ràng để theo đuổi bằng cả niềm đam mê và cống hiến bằng những giờ làm việc miệt mài. Lydia hiểu lời khuyên của mẹ về tầm quan trọng của một tấm bằng đại học nhưng con bé lại đủ tự tin và táo bạo để từ chối lời khuyên ấy, đi theo con đường của riêng mình.

Thêm vào đó con bé không hề đấu tranh một cách đơn độc. Cuộc cãi vã nảy lửa nhất giữa Alice và John xuất phát từ quan điểm của anh về chuyện này: Anh nghĩ đó là một quyết định tuyệt vời, sau này lúc nào con bé cũng có thể đi học lại được nếu con bé muốn.

Alice kiểm tra địa chỉ lưu trên chiếc điện thoại Blackberry của mình, cô nhấn chuông căn phòng số 7 và chờ đợi. Cô giơ tay định nhấn một lần nữa thì Lydia mở cửa bước ra.

“Mẹ, mẹ đến sớm vậy.” Lydia nói.

Alice kiểm tra đồng hồ.

“Mẹ đến vừa đúng giờ đấy chứ!”

“Mẹ nói là máy bay hạ cánh lúc tám giờ mà.”

“Mẹ nói là năm giờ chứ.”

“Con viết là tám giờ trong sổ của mình kìa.”

“Lydia, bây giờ là năm giờ bốn lăm phút và mẹ đang ở đây rồi.”

Lydia trông có vẻ hoang mang và do dự như một chú sóc phải đối mặt với một chiếc xe đang vun vút lao đến trên đường.

“Con xin lỗi, mẹ vào nhà đi.”

Cả hai mẹ con đều có vẻ lưỡng lự trước khi bước tới ôm nhau, như thể họ đang chuẩn bị khiêu vũ một điệu mới học và cả hai đều không tự tin vào những bước di chuyển đầu tiên hoặc là không biết ai sẽ đóng vai trò người dẫn dắt. Hoặc có thể đó là một điệu cũ nhưng đã rất lâu hai người không cùng khiêu vũ nên không còn nhớ chính xác các bước di chuyển nữa.

Alice nhìn rõ vết sống lưng và xương sườn Lydia hằn qua lớp áo. Con bé gầy quá, ít nhất cũng phải là 10 Pao so với hình ảnh trong trí nhớ của cô. Cô hi vọng đây chỉ là hậu quả của việc quá bận rộn chứ không phải vì một kế hoạch ăn kiêng nào đó của con bé. Tóc vàng, cao năm phút sáu, hơn Alice 3 insơ, có thể Lydia sẽ nổi bật lên giữa đám đông các cô gái người Ý và châu Á ở Cambridge nhưng ở Los Angeles này, phòng chờ của bất cứ buổi tuyển chọn nào cũng đầy rẫy những cô gái trông hệt như con bé.

“Con đặt chỗ lúc chín giờ rồi. Mẹ chờ ở đây nhé, con sẽ quay lại ngay.”

Alice nghển cổ lên, đứng từ gần cửa ra vào quan sát khu bếp và phòng khách. Đồ nội thất trong phòng hầu hết trông như đồ được các gia đình rao bán lại, trông khá hợp với nhau: một sô pha sọc ô màu cam, một chiếc bàn cà phê phong cách retro, bàn ghế trong bếp kiểu Brady-Bunch. Những bức tường màu trắng để không, chỉ có một tấm hình Marlon Brando treo phía trên sô pha. Không khí trong phòng có mùi Windex rất đậm, cứ như thể Lydia đã tận dụng đến giây cuối cùng để tranh thủ dọn dẹp trước khi Alice đến vậy.

Thực tế thì, căn phòng này hơi sạch sẽ quá. Chẳng có cái đĩa DVD hay VCD nào xunh quanh, không một cuốn sách hay quyển tạp chí nào vứt trên bàn cà phê cả, trên tủ lạnh cũng không gắn bất cứ bức ảnh nào, không hề có chút nào thể hiện sở thích và khiếu thẩm mỹ của Lydia. Người chủ của nơi này có thể là bất cứ ai. Rồi Alice nhận ra một đống giày nam xếp trên sàn, bên trái cánh cửa phía sau cô.

“Kể mẹ nghe về bạn cùng phòng của con đi,” cô nói khi Lydia đi từ ra phòng ra, trên tay vẫn đang cầm chiếc điện thoại.

“Họ đang đi làm.”

“Làm gì thế?”

“Một người làm pha chế ở quán bar, một người giao đồ ăn.”

“Mẹ lại cứ nghĩ cả hai đều là diễn viên cơ đấy.”

“Vâng, đúng thế.”

“Mẹ hiểu rồi. Họ tên là gì ấy nhỉ?”

“Doug và Malcolm”

Một tia kì lạ ánh lên trong mắt Lydia trong một khoảnh khắc nhưng Alice vẫn kịp nhận ra và Lydia cũng biết mẹ mình đã nhìn thấy. Gương mặt Lydia đỏ lên khi nhắc đến tên Malcolm còn đôi mắt con bé thì lo lắng lảng tránh ánh nhìn từ phía mẹ.

“Chúng ta đi thôi được không mẹ? Nhà hàng nói chúng ta có thể đến sớm hơn.” Lydia nói.

“Được thôi, mẹ vào nhà vệ sinh chút đã.”


Alice vừa rửa tay vừa nhìn những chai lọ đặt trên chiếc bàn cạnh bồn rửa: sữa rửa mặt và kem dưỡng ẩm của Neutrogena, kem đánh răng bạc hà Tom’s of Maine, lăn khử mùi của nam, một hộp băng vệ sinh Playtex. Cô suy nghĩ một chút. Cả mùa hè vừa rồi cô không hề thấy kinh lần nào. Tháng năm cô có bị không nhỉ? Tháng tới cô sẽ bước sang tuổi năm mươi nên không phải chuyện bầu bí rồi. Cô vẫn chưa có các triệu chứng bị nóng hay ra mồ hôi đêm nhưng không phải phụ nữ nào đến tuổi mãn kinh cũng bị như thế. Nếu chuyện đó xảy ra với cô thì cũng hoàn toàn không có vấn đề gì cả.

Alice đang lau tay thì nhìn thấy một hộp bao cao su Trojan phía sau bộ sản phẩm chăm sóc tóc của Lydia. Cô chắc chắn phải tìm hiểu thêm về mấy anh chàng bạn cùng phòng này của Lydia, đặc biệt là Malcolm.


Hai mẹ con ngồi ở một bàn phía hiên của quán Ivy, một quán ăn thời thượng ở ngoại ô Los Angles, gọi hai món đồ uống, một ly Martini Espresso cho Lydia và một ly vang Merlot cho Alice.

“Luận văn khoa học của bố thế nào rồi ạ?” Lydia hỏi.

Chắc là con bé mới nói chuyện với bố. Alice thì chưa nói chuyện lại với con bé lần nào sau cuộc gọi vào Ngày của Mẹ.

“Xong rồi. Bố con tự hào lắm.”

“Thế còn anh Tom và chị Anna thì sao?”

“Vẫn tốt, bận rộn và chăm chỉ làm việc. Con gặp Doug và Malcolm như thế nào vậy?”

Người phục vụ tiến đến, họ đặt món và gọi thêm cho mỗi người một ly đồ uống. Alice hi vọng mấy thứ đồ uống có cồn này sẽ làm giảm sự căng thẳng đang ẩn giấu sau những câu hội thoại nặng nề, gượng gạo giữa hai mẹ con.

“Con gặp Doug và Malcolm như thế nào?”

“Con vừa nói với mẹ rồi mà. Tại sao mẹ lại chẳng bao giờ lắng nghe những gì con nói nhỉ? Một buổi tối, họ đến Starbucks và nói chuyện về việc tìm một người thuê chung phòng trong khi con đang làm việc ở đó.”

“Mẹ tưởng con làm phục vụ trong một quán ăn chứ.”

“Đúng vậy. Con làm ở Starbucks những ngày trong tuần và làm phục vụ vào các tối thứ bảy.”

“Có vẻ như con không còn nhiều thời gian dành cho việc diễn xuất nhỉ.”

“Hiện tại con không tham gia vào bất cứ dự án nào cả nhưng con đang theo học một lớp thực hành, và đi thử vai khá nhiều.”

“Lớp học về cái gì vậy?”

“Kỹ thuật biểu diễn Meisner.”

“Thế con thử vai ở những đâu?”

“Cho chương trình truyền hình và báo chí.”

Alice lắc lắc ly rượu, uống một hơi lớn cạn ly rồi liếm liếm môi. “Lydia, chính xác thì kế hoạch ở đây của con là gì vậy?”

“Con không lên kế hoạch cho việc bỏ cuộc, nếu đó là điều mẹ đang muốn hỏi.”

Những ly rượu đang phát huy tác dụng nhưng không phải theo hướng mà Alice hi vọng. Ngược lại, chúng như tiếp thêm năng lượng để đốt cháy những gượng gạo trong cuộc nói chuyện của hai mẹ con, đẩy sự căng thẳng ra ngoài lớp vỏ bọc và mang đến nguy cơ về một cuộc tranh cãi đầy kịch tích giữa những thành viên trong gia đình.

“Con không thể sống thế này mãi được. Con định vẫn làm ở Starbucks khi con ba mươi tuổi à?”

“Đó là chuyện của những tám năm sau cơ mà mẹ. Mẹ có biết tám năm nữa mẹ sẽ làm gì không?”

“Có, mẹ biết chứ. Đến một lúc nào đó con sẽ cần phải gánh vác lấy những trách nhiệm, con sẽ cần phải có tiền để chi trả cho bảo hiểm y tế, một khoản vay thế chấp, tiết kiệm cho tuổi nghỉ hưu…”

“Con có bảo hiểm y tế rồi. Và con có thể sẽ trở thành một diễn viên. Có rất nhiều người có thể làm được như vậy, mẹ biết mà. Và họ kiếm được rất rất nhiều tiền, nhiều hơn cả bố và mẹ cộng lại.”

“Vấn đề không phải là vì tiền.”

“Thế là vì cái gì? Vì con không trở thành một người giống mẹ sao?”

“Con đừng có hét lên như thế.”

“Mẹ đừng có ra lệnh cho con phải làm gì.”

“Mẹ không muốn con phải trở thành một người như mẹ, Lydia. Mẹ chỉ không muốn con tự giới hạn lại những lựa chọn của mình.”

“Mẹ muốn lựa chọn thay con.”

“Không đúng.”

“Đây là con người con, là những gì con muốn làm.”

“Thế à, phục vụ cà phê Venti Latte à? Con nên học đại học. Con nên dành khoảng thời gian này trong cuộc đời mình để học một cái gì đó.”

“Con đang học một cái gì đó đây. Chỉ là con không ngồi trong một lớp học ở Harvard dằn vặt bản thân mong kiếm được một điểm A trong môn khoa học chính trị gì gì đó. Con đang theo học một lớp học diễn xuất hoàn toàn nghiêm túc, mỗi tuần học mười lăm tiếng đồng hồ. Sinh viên của mẹ mỗi tuần học bao nhiêu tiếng? Mười hai tiếng?”

“Đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.”

“Ồ, nhưng bố thì nghĩ là giống nhau đấy. Bố trả tiền học phí giúp con.”

Alice siết chặt mép váy, môi mím lại. Những gì cô đang muốn nói tiếp không phải là dành cho Lydia.

“Mẹ chưa bao giờ xem con diễn cả.”

Đúng thế, nhưng John thì khác. Mùa đông năm ngoái anh đã bay đến để xem con bé diễn xuất trong một vở kịch. Bận rộn với quá nhiều công việc khẩn trong thời gian đó nên Alice đã không thể sắp xếp thời gian để đi. Khi nhìn vào đôi mắt tràn ngập nỗi đau của Lydia, cô không thể nhớ nổi những công việc ấy là gì nữa. Cô không hề có định kiến gì với nghề diễn viên cả nhưng cô tin rằng việc một mình theo đuổi nghề nghiệp ấy mà không hề có một chút đào tạo nào của con gái cô là một việc làm quá táo bạo. Nếu bây giờ con bé không học đại học, không trang bị cho mình kiến thức và kĩ năng về một lĩnh vực nào đấy, hoặc nếu con bé không có bằng cấp gì cả thì nếu nghiệp diễn này không được như mong đợi, con bé sẽ ra sao?

Alice nghĩ đến hộp bao cao su để trong nhà tắm đó. Nếu Lydia có thai thì sao? Alice lo sợ một ngày nào đó Lydia nhận ra mình đang bị mắc kẹt trong một cuộc sống thiếu thốn nhưng lại thừa thãi những hối tiếc. Cô nhìn con gái mình và nhìn thấy cả những cơ hội và thật nhiều thời gian đang bị lãng phí.

“Con sẽ không bao giờ quay trở lại được đâu. Thời gian trôi qua nhanh lắm.”

“Con đồng ý.”

Đồ ăn được đưa đến nhưng cả hai chẳng ai buồn nhấc dĩa lên cả. Lydia dùng chiếc khăn thêu tay chất liệu bằng vải lanh chấm chấm lên mắt. Họ luôn rơi vào cùng một cuộc tranh cãi như thế này và điều ấy làm Alice cảm thấy như họ đang cố dùng đầu mình để phá bỏ một bức tường bê tông. Sẽ chẳng bao giờ có kết quả gì, cuối cùng chỉ có họ bị làm cho đau đớn và gây ra những tổn thương lâu dài cho cả hai. Cô hi vọng biết bao Lydia nhận ra tình yêu và lý lẽ trong những điều cô muốn dành cho con bé. Cô ước sao mình có thể cứ như vậy mà vươn qua, ôm lấy đứa con gái của mình, thế nhưng giữa họ có quá nhiều những bàn ghế, đĩa chén, ly cốc và nhiều năm xa cách.

Đột nhiên những tiếng động vang lên từ phía cách họ mấy bàn thu hút sự chú ý của hai mẹ con. Ánh chớp đèn nháy của camera lóe lên và một nhóm gồm cả chủ quán ăn lẫn các nhân viên tụ tập lại, tất cả đều tập trung sự chú ý vào một người phụ nữ trông hơi giống Lydia.

“Ai đó con?” Alice hỏi.

“Mẹ!” Lydia nói, giọng vừa mang vẻ xấu hổ vừa có vẻ kích động, rất giống biểu hiện của một cô bé mười ba tuổi. “Đó là Jenifer Aniston.”

Họ tiếp tục bữa tối và chỉ nói chuyện về những chủ đề an toàn hơn, ví dụ như đồ ăn hay thời tiết. Alice muốn tìm hiểu thêm về mối quan hệ giữa Lydia và Malcolm nhưng dư âm còn lại từ cuộc tranh cãi vừa rồi trong Lydia vẫn còn khá nóng và Alice lo là mình sẽ lại làm nó bùng phát một lần nữa. Cô thanh toán rồi họ cùng nhau rời nhà hàng, cả hai đều thấy no nhưng không hề thỏa mãn.

“Xin lỗi quý khách!”

Người phục vụ đuổi kịp họ trên lối ra.

“Quý khách để quên thứ này.”

Alice dừng lại, cô cố gắng nhớ lại xem tại sao chiếc Blackberry của mình lại đang nằm trong tay người phục vụ. Trong lúc ngồi ăn cô không hề kiểm tra email hay xem lịch. Cô kiểm tra trong túi xách – không thấy chiếc điện thoại Blackberry trong đó. Chắc là cô đã bỏ điện thoại ra ngoài khi tìm ví để thanh toán.

“Cảm ơn.”

Lydia nhìn mẹ một cách khó hiểu như thể đang muốn nói về một cái gì đó khác ngoài chuyện về đồ ăn và thời tiết nhưng rồi lại thôi. Hai người im lặng đi bộ về căn phòng của Lydia.

***​

“John?”

Alice đợi ở cửa ra vào, tay nắm chặt tay cầm của chiếc vali. Cuốn tạp chí Harvard đang nằm trên cùng chồng thư chưa có người nhận, rải rác trên sàn nhà phía trước cô. Chiếc đồng hồ trong phòng khách kêu tích tắc và chiếc tủ lạnh vẫn rù rì chạy. Phía sau lưng cô là một buổi chiều ấm áp, ngập nắng nhưng không khí trong nhà lại lạnh lẽo, âm u và buồn chán. Chính là cái không khí của một ngôi nhà không có người ở.

Cô nhặt chồng thư lên rồi đi vào trong bếp, chiếc vali trượt trên những bánh xe theo sau cô như một chú thú cưng trung thành. Chuyến bay của cô đã bị chậm và cô về muộn, kể cả là theo giờ trên chiếc lò vi sóng. Vậy là anh đã có cả ngày nay, cả ngày thứ bảy để làm việc.

Đèn đỏ báo tin nhắn thoại trên chiếc máy trả lời tự động của họ không sáng. Cô kiểm tra trên tủ lạnh. Cũng không có tờ giấy nhắn nào. Không có gì cả.

Tay vẫn nắm chặt chiếc vali, cô đứng trong căn bếp tối đen, nhìn chằm chằm vào chiếc lò vi sóng. Trong đầu cô tiếng nói của sự thất vọng nhưng vị tha đang nhỏ dần, nhỏ dần, chỉ còn là một tiếng thì thầm trong khi một giọng nói khác thuộc về bản năng đang dần trỗi dậy và lan tỏa. Cô đã nghĩ đến việc sẽ gọi điện cho anh nhưng giọng nói đang lớn dần lên kia ngay lập tức bác bỏ và không chấp nhận bất cứ một lời biện hộ nào. Cô đã nghĩ mình sẽ bỏ qua, không quan tâm nhưng giọng nói kia đã ăn sâu vào cơ thể cô, vang vọng trong lòng cô, làm đầu ngón tay cô tê dại, lại quá mạnh mẽ khiến cô không thể không quan tâm.

Tại sao cô lại để ý chuyện này đến thế? Anh có thể đang làm dở một thí nghiệm và không thể bỏ giữa chừng để về nhà. Cô cũng từng ở trong trường hợp như thế không biết bao nhiêu lần rồi. Đó là cách cả hai người bọn họ làm việc. Đó là con người họ. Giọng nói ấy gọi cô là một kẻ ngốc trì độn.

Cô tìm thấy đôi giày chạy của mình nằm trên sàn nhà sát cánh cửa phía sau. Chạy một chút sẽ làm cô thấy đỡ hơn. Đó là những gì cô cần lúc này.

Lẽ ra mỗi ngày cô đều chạy thể dục. Từ rất nhiều năm nay cô coi chạy thể dục là một yêu cầu thiết yếu của mình cũng giống như việc ăn và ngủ vậy, cô thậm chí còn từng đi bộ vào giữa đêm hay khi trời đang có bão tuyết. Thế nhưng trong mấy tháng vừa rồi vì quá bận nên cô đã bỏ qua nhu cầu thiết yếu này của mình. Cô bận quá. Trong khi buộc dây giày cô tự nói với mình rằng cô không mang theo giày khi đến California là vì cô biết mình sẽ không có thời gian để chạy. Nhưng sự thật là cô đã quên mang.

Rời khỏi nhà mình ở phố Poplar, cô đi theo tuyến đường quen thuộc – chạy xuôi đại lộ Massachusetts, qua quảng trường Harvard đến khu Memorial, chạy dọc theo sông Charles đến cầu Harvard, qua MIT rồi quay trở lại – tổng quãng đường khoảng hơn năm dặm, chạy một vòng mất khoảng bốn mươi lăm phút. Cô vẫn luôn muốn tham gia cuộc chạy đua Boston nhưng thực tế, mỗi năm cô đều không có thời gian để tập luyện chạy quãng đường như vậy. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ tham gia. Ở độ tuổi này mà tình trạng cơ thể cô vẫn được tốt thế này nên cô tin rằng mình vẫn có thể chạy kể cả khi đã ngoài sáu mươi.

Trên vỉa hè người đi bộ qua lại đông đúc còn trên đường phố những chiếc xe đang mê mải chạy, gặp nhau ở đoạn giao lộ, cảnh tượng ấy làm cô hỗn loạn khi chạy qua quảng trường Harvard. Khoảng thời gian này vào một ngày thứ bảy thật là đông đúc và bận rộn, đám đông tụ tập, chen lấn chờ đợi đèn tín hiệu giao thông, chờ bàn trống phía ngoài nhà hàng, xếp hàng chờ mua vé ở rạp chiếu phim và cả chờ một khoảng trống trong bãi đỗ tính tiền theo giờ để đỗ xe. Mười phút đầu tiên trong lộ trình của cô đòi hỏi sự tập trung để có thể vượt qua được hết những khó khăn ấy, nhưng một khi chạy qua khu Memorial đến sông Charles cô sẽ có thể tự do mà sải bước chạy và tận hưởng không gian xung quanh.

Đó là một buổi tối trời không mây, không khí rất thoải mái nên dọc sông Charles có thật nhiều người tập trung, tuy vậy bãi cỏ bên cạnh bờ sông vẫn không đông đúc như trên đường phố Cambridge. Bất chấp dòng người đang đi bộ, những người dắt chó đi dạo, người trượt pa-tin, đạp xe và cả những phụ nữ đang đẩy những chiếc xe nôi dành cho người đi chạy bộ, Alice như một lái xe đã quen đường không để ý nhiều đến những gì đang diễn ra xunh quanh. Chạy dọc bờ sông, trong đầu cô không có bất cứ điều gì ngoài tiếng đôi giày Nike của mình va chạm với mặt đường hòa nhịp theo hơi thở của cô. Cô không hồi tưởng lại cuộc tranh cãi với Lydia. Cô cũng không để ý đến cảm giác chộn rộn đang trào lên trong bụng. Cô cũng không nghĩ đến John. Cô chỉ chạy mà thôi.

Theo thói quen, cô dừng lại khi chạy ngược về đến công viên John Fitzgerald Kennedy – một khoảng cỏ được cắt tỉa, chăm sóc tiếp giáp với khu Memorial. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng, cơ thể cô thả lỏng và đã hồi phục lại, cô bắt đầu đi bộ về nhà. Từ công viên JFK đi vào quảng trường Harvard phải đi qua một khu hành lang xếp từng hàng ghế dài rất đẹp mắt nằm giữa khách sạn Charles và trường chính trị Kennedy.

Ở phía kia của hành lang cô đứng giữa ngã tư đường Eliot và Brattle chuẩn bị sang đường thì một người phụ nữ nắm lấy cánh tay, làm cô giật mình hỏi, “Hôm nay cô đã nghĩ đến thiên đường chưa?”

Người phụ nữ đó nhìn Alice chằm chằm bằng một ánh nhìn kiên định, xuyên thấu. Cô ta có một mái tóc dài với màu sắc và kiểu dáng trông như một miếng cọ rửa hiệu Brillo và đeo một tấm biển viết tay trước ngực, trên đó viết NƯỚC MỸ HÃY SÁM HỐI, TỪ BỎ BÓNG ĐEN ĐỂ TRỞ VỀ VỚI CHÚA. Ở quảng trường Harvard lúc nào cũng có người muốn mang Chúa ra bán nhưng Alice chưa bao giờ bị tiếp cận đơn lẻ và trực tiếp như thế này.

“Xin lỗi.” cô vừa nói vừa đưa mắt nhìn dòng xe cộ trên đường đang chia ra, rẽ vào phía bên kia của con phố.

Cô muốn đi tiếp nhưng thay vào đó cô lại đứng yên một chỗ như đã hóa đá. Cô không biết mình đang ở đâu. Cô nhìn lại phía sau qua con phố. Người phụ nữ tóc kiểu miếng cọ rửa Brillo vẫn đang tiếp cận một con người tội lỗi khác phía đầu kia hành lang. Hành lang này, khu khách sạn, các cửa hàng, những con phố ngoằn ngoèo có qui luật. Cô biết mình đang ở quảng trường Harvard nhưng không biết đường nào là đường về nhà.

Cô cố thử lại một lần nữa, lần này chi tiết hơn. Khách sạn quảng trường Harvard, khu thể thao Eastern Mountain, cửa hàng Dickson Bros. Cửa hàng bán đồ tạp hóa, phố Mount Auburn. Cô biết tất cả những chỗ này, khu vực này cô đã qua lại trong suốt hai mươi lăm năm qua nhưng bằng một cách nào đó, hôm nay chúng lại không có mặt trong bản đồ đang hiện lên trong đầu cô về nơi cô sinh sống. Một tấm biển đen trắng hình tròn có in chữ “T” trước mặt cô báo hiệu lối vào khu tàu điện ngầm và xe buýt Red Line; tuy nhiên ở khu Harvard có ba lối vào như thế này và cô không thể nhận ra đây là chỗ nào trong số ba chỗ đó.

Tim cô bắt đầu đập nhanh hơn. Cô bắt đầu đổ mồ hôi. Cô tự nhủ việc nhịp tim tăng nhanh và toát mồ hôi là những phản ứng hoàn toàn tự nhiên của cơ thể sau khi chạy bộ. Thế nhưng khi cô đứng trên vỉa hè, cảm giác ấy lại giống như cảm giác về một nỗi đau.

Cô đi bộ qua một khu nhà rồi lại một khu nữa, đôi chân dẻo dai của cô cảm giác như chúng đã sắp bỏ cuộc, nhường chỗ cho những bước chân đầy bối rối. Cửa hàng the Coop, Cardullo’s, khu bán tạp chí ở góc đường, trung tâm dành cho khách du lịch ở Cambridge phía đối diện và cả khu sân trường Harvard phía sau đó nữa. Cô tự nhủ rằng cô vẫn có thể đọc và nhận ra mọi thứ. Tuy nhiên, thế thì có tác dụng gì chứ. Tất cả đều vô cùng lạc lõng.

Con người, xe hơi, xe buýt và tất cả những loại tạp âm hỗn loạn vây xung quanh rồi vụt qua cô. Cô nhắm mắt lại, lắng nghe nhịp đập và tiếng chạy rần rật của những mạch máu phía sau tai mình.

“Làm ơn, dừng lại đi!” Cô thì thầm.

Cô mở mắt ra. Vội vàng như khi tất cả rời bỏ cô trước đó, mọi thứ xunh quanh lại đột ngột trở về đúng vị trí của mình. Cửa hàng Coop, Cardullo’s, Nini’s Corner, sân trường Harvard. Ngay lập tức cô biết là mình sẽ phải sẽ phải rẽ trái ở phía góc phố rồi đi thẳng về hướng tây trên đại lộ Mass. Hơi thở của cô dần trở nên nhẹ nhàng hơn, không còn vẻ hốt hoảng lạc lõng như trước. Thế nhưng, thật kì lạ là cô đã lạc đường khi cô thậm chí cách nhà mình còn chưa đến một dặm đường. Cô cố gắng đi bộ càng nhanh càng tốt nhưng không chạy.

Cô rẽ sang con phố nhà mình, một con phố yên tĩnh, hai bên trồng hai hàng cây và chỉ cách đại lộ Mass vài tòa nhà. Alice cảm thấy an toàn hơn nhiều khi hai bàn chân trên cô đặt trên con đường và ngôi nhà đã ngay trong tầm mắt, nhưng vẫn chưa hẳn đã an toàn. Cô nhìn chằm chằm và cánh cửa nhà mình, tự nói với bản thân rằng một khi cô bước qua cánh cửa kia và nhìn thấy John – nếu anh ở nhà- đại dương những lo sợ đang cuộn trào trong cô sẽ ngay lập tức bị rút cạn.

“John?”

Anh xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng bếp, râu mọc lún phún, cặp kính bị đẩy lên trên mái tóc kiểu nhà-khoa-học-điên, đang mút mát cây kem Popsicle màu đỏ và mặc chiếc áo phông màu xám yêu thích. Anh đã thức cả đêm. Như cô đã tự nói với chính mình, những lo lắng trong cô đã bị rút cạn. Thế nhưng dường như năng lượng và sự dũng cảm nơi cô cũng rút đi cùng với những lo lắng ấy, khiến cô cảm thấy thật yếu đuối và chỉ muốn tan vào trong vòng tay anh.

“Chào em, anh đang thắc mắc là em đi đâu mất, anh đang định để lại một lời nhắn cho em ở tủ lạnh. Mọi việc thế nào em?” Anh hỏi.

“Cái gì cơ?”

“Standford ấy.”

“À, tốt.”

“Thế còn Lydia?”

Sự phản bội và nỗi đau từ cuộc gặp với Lydia, sự hụt hẫng khi về nhà mà không thấy anh, cảm giác kì lạ khi đi chạy bộ và nỗi sợ hãi khi bị lạc một cách khó hiểu đang hối thúc nhau đòi lên tiếng.

“Anh nói xem.”

“Hai mẹ con lại cãi nhau rồi.”

“Anh trả tiền học phí cho khóa học biểu diễn của con bé phải không?” Cô buộc tội anh.

“À,” anh trả lời, cho nốt miếng kem Popscile cuối cùng vào khuôn miệng đã bị nhuộm đỏ của mình. “Em nghe này, mình nói chuyện đó sau được không? Bây giờ anh không có thời gian để giải thích đâu.”

“John, anh tìm thời gian đi. Anh giúp con bé lang thang bên ngoài mà không hề cho em biết và anh còn không cả ở nhà khi em về, còn…”

“Em cũng không ở nhà khi anh về mà. Buổi đi chạy của em thế nào?”

Cô nghe thấy một lý do rất đơn giản trong câu hỏi của anh. Nếu như cô đợi anh, nếu như cô gọi điện và nếu như cô không làm những gì mình muốn mà đi chạy thì cô đã có thể ở cùng anh trong hơn một tiếng vừa rồi. Cô không thể phủ nhận điều đó.

“Cũng tốt.”

“Anh xin lỗi. Anh đã đợi lâu nhất có thể nhưng anh thật sự phải quay lại phòng thí nghiệm. Hôm nay anh đã có một ngày thật tuyệt vời, những kết quả tuyệt vời nhưng bọn anh vẫn chưa xong, anh còn phải phân tích các số liệu trước khi bắt đầu lại vào sáng mai. Anh chỉ về nhà để gặp em một chút thôi.”

“Em cần phải nói chuyện với anh về chuyện này ngay bây giờ.”

“Đây không phải là chuyện gì mới mà Ali. Chúng ta không có chung quan điểm về vấn đề của Lydia. Chúng ta không thể đợi đến khi anh về mới nói tiếp được à?”

“Không.”

“Em có muốn đi cùng anh sang trường để chúng ta vừa đi vừa nói chuyện không?”

“Em không muốn sang văn phòng, em cần phải ở nhà.”

“Em cần nói chuyện ngay bây giờ, em cần phải ở nhà, đột nhiên cái gì em cũng đòi hỏi luôn như thế. Còn chuyện gì nữa đúng không?”

Từ đòi hỏi anh nói đã chạm đến một dây thần kinh rất mẫn cảm của cô. Đòi hỏi đồng nghĩa với yếu đuối và phụ thuộc. Cha cô. Mục tiêu của cả đời cô là không bao giờ như thế, giống như ông.

“Em rất mệt.”

“Ừ, trông em mệt lắm, em phải chậm lại một chút.”

“Đó không phải là điều em cần.”

Anh chờ cô nói thêm nhưng rất lâu sau cô vẫn không nói gì.

“Em nghe này, anh càng đi sớm thì sẽ được về càng sớm. Em nghỉ một chút đi, tối nay anh sẽ về.”

Anh hôn lên mái tóc ướt mồ hôi của cô rồi bước ra ngoài.

Cô đứng một mình gần cửa ra vào, nơi anh đã để cô lại một mình với không một ai để giãi bày hay thú nhận, cô lại một lần nữa cảm nhận đầy đủ những cảm xúc đã ào ạt tràn qua cô như khi ở quảng trường Harvard. Cô ngồi thụp xuống sàn nhà, tựa lưng vào bức tường lạnh ngắt, nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay đang run rẩy của mình đặt trong lòng như thể chúng không phải là của cô vậy. Cô cố gắng tập trung ổn định hơi thở như cô vẫn làm mỗi khi chạy thể dục.

Sau một vài phút cố gắng hít thở sâu cuối cùng cô cũng bình tĩnh hơn để cố gắng tập trung suy nghĩ về những điều vừa xảy ra. Cô nghĩ đến cái từ đã biến mất khỏi đầu óc cô trong buổi diễn thuyết ở Stanford và kì kinh bị chậm của mình. Cô đứng dậy, bật máy tính và google từ khóa “các triệu chứng tiền mãn kinh”.

Một danh sách đáng kinh ngạc nhanh chóng xuất hiện trên màn hình: nóng trong, ra mồ hôi đêm, mất ngủ, mệt mỏi, lo lắng, chóng mặt, nhịp tim đập bất thường, trầm cảm, cáu kỉnh, dễ thay đổi cảm xúc, mất phương hướng, rối loạn tinh thần, suy giảm trí nhớ.

Mất phương hướng, rối loạn tinh thần, suy giảm trí nhớ. Tất cả những điều này đều xảy ra với cô. Cô dựa người ra sau ghế, luồn ngón tay vào trong mái tóc xoăn màu đen của mình. Cô nhìn vào những bức ảnh đang để trên chiếc giá sách chạy suốt từ nền nhà lên đến trần: ảnh ngày cô tốt nghiệp Harvard, cô và John cùng nhau khiêu vũ trong ngày cưới của họ, ảnh cả nhà khi lũ trẻ còn nhỏ và trong ngày cưới của Anna. Cô nhìn lại danh sách đang hiện trên màn hình. Đây chỉ là những điều tự nhiên, một giai đoạn mới trong cuộc đời một người phụ nữ. Mỗi ngày có hàng triệu phụ nữ phải đối mặt với vấn đề này. Không có gì đe dọa cuộc sống của cô cả. Cũng không có gì khác thường hết.

Cô viết thư gửi đến bác sĩ riêng hẹn một buổi kiểm tra. Có lẽ cô nên sử dụng liệu pháp thay thế estrogen. Cô đọc lại danh sách các triệu chứng một lần nữa. Cáu kỉnh. Dễ thay đổi cảm xúc. Những biểu hiện gần đây của cô với John. Tất cả đều đúng như vậy. Cảm thấy hài lòng nên cô đưa tay tắt máy.

Cô ngồi trong bóng tối thêm một chút nữa, lắng nghe ngôi nhà yên ắng của mình và cả âm thanh truyền sang từ bữa tiệc thịt nướng của nhà hàng xóm. Cô hít vào mùi thịt hăm-bơ-gơ nướng. Không hiểu tại sao cô lại không thấy đói nữa. Cô uống một viên vi-ta-min bổ sung, bỏ đồ trong va-li ra, đọc một vài bài báo trong cuốn Tạp chí Tri Thức rồi đi ngủ.

Khoảng sau nửa đêm John về. Trọng lượng của anh khi nằm lên giường đánh thức cô nhưng chỉ một chút thôi. Cô nằm yên, giả vờ vẫn đang ngủ. Chắc hẳn anh đã rất mệt vì phải thức cả đêm rồi lại phải làm việc cả ngày. Họ có thể nói về chuyện của Lydia vào sáng mai. Và cô sẽ xin lỗi anh vì gần đây đã quá nhạy cảm, dễ xúc động. Bàn tay ấm áp của anh đặt trên hông cô, kéo cô vào lòng anh. Hơi thở nhẹ nhàng của anh vấn vương trên cổ đưa cô vào một giấc ngủ sâu, cô tin rằng mình đã được an toàn.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

VyTra

Gà cận
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
19/6/15
Bài viết
256
Gạo
585,6
Re: [Tiểu thuyết] Vẫn là Alice - Still Alice - Lisa Genova [tiến độ siêu chậm]
Tháng 10, 2003


“Bữa trưa nay nhiều quá.” Alice nói, cô đưa tay mở cánh cửa văn phòng.

“Vâng, mấy cái bánh En-chi-la-da đó to thật.” Dan vui vẻ nói từ phía sau cô.

Alice cầm quyển sổ ghi chép đánh nhẹ lên cánh tay cậu. Họ vừa tham dự một buổi hội thảo buổi trưa kéo dài một tiếng đồng hồ. Cậu sinh viên năm tư – Dan có vẻ ngoài mang phong cách J. Crew – cơ bắp, nhỏ nhắn, mái tóc vàng cắt ngắn gọn gàng và một nụ cười rạng rỡ, có phần kiêu ngạo. Về vẻ bề ngoài, cậu ta trông chẳng giống John chút nào nhưng ở cậu lại có sự tự tin và tính hài hước gợi cô nhớ đến hình ảnh của John khi anh cũng ở độ tuổi đó.

Sau một vài va vấp lúc mới bắt đầu, nghiên cứu luận văn của Dan cuối cùng cũng bắt đầu đạt được thành công; Alice nhận ra cậu đang được nếm trải cảm giác say men chiến thắng sau những thành công ấy nhưng cô hi vọng những cảm xúc ấy sẽ phát triển thành một niềm say mê bền vững. Bất cứ ai cũng sẽ bị cuốn hút khi nghiên cứu và đạt được những thành tựu. Vấn đề là ở chỗ vẫn có thể tiếp tục đam mê ấy khi kết quả không đến như mong đợi và nguyên nhân thì khó nắm bắt.

“Khi nào em đi Atlanta?” Cô vừa hỏi vừa tìm kiếm trong đống giấy tờ trên bàn bản thảo bài nghiên cứu của Dan cô đã xem qua.

“Tuần tới ạ.”

“Em có thể nộp bài trước khi đi được đấy, bài của em tốt rồi.”

“Không thể tin được là em sắp kết hôn. Trời ơi, em già rồi.”

Cô tìm thấy bản thảo, đưa lại cho cậu. “Tôi xin em đấy, em chưa già đâu. Em mới chỉ đang ở ngưỡng bắt đầu của mọi thứ thôi.”

Cậu ngồi xuống, bắt đầu lật giở qua từng trang, đôi mày cậu nhăn lại khi nhìn thấy những dòng chữ nguệch ngoạc màu đỏ bên lề. Phần mở đầu và giới thiệu là những phần Alice với kiến thức chuyên sâu, uyên bác của mình đóng góp một phần rất lớn vào sự hoàn thiện bản luận văn của Dan, trám vào những lỗ hổng trong phần diễn giải, tạo ra một bức tranh gần gũi hơn, chỉ rõ vị trí và tại sao kết quả nghiên cứu của anh có thể hòa nhập cùng với ngành ngôn ngữ học cổ đại và hiện đại thành một thể thống nhất.

“Đây là ý gì ạ?” Dan hỏi, ngón tay chỉ cho cô xem một nhóm những chữ viết cẩu thả màu đỏ

“Những tác động khác nhau của chú ý hẹp và chú ý phân phối.”

“Những ý kiến này tham khảo từ đâu ạ?” Cậu hỏi.

“À, à, ở đâu nhỉ?” Cô tự hỏi mình, nhắm chặt mắt lại, chờ đợi tên tác giả và năm nghiên cứu như bong bóng nổi lên mặt nước. “Em thấy chưa, chuyện này sẽ xảy ra khi em già đi đấy.”

“Thôi mà cô, cô cũng chưa già đâu ạ. Không sao đâu, em có thể tự tìm được.”

Một trong những gánh nặng lớn nhất trong sự nghiệp của bất cứ ai theo đuổi ngành khoa học đó là phải nhớ được năm công bố các nghiên cứu, nội dung chi tiết của các thí nghiệm và ai là tác giả. Alice thường làm các sinh viên của mình phải kính nể vì khả năng có thể kể ra vanh vách và ngay lập tức ít nhất bảy nghiên cứu liên quan đến một vấn đề nhất định cùng với tên của người thực hiện và năm công bố. Hầu hết các giảng viên trong khoa cô đều có khả năng này. Thực tế thì giữa họ tồn tại một cuộc đua ngầm xem trong đầu ai có nguồn tiếp cận hoàn chỉnh nhất và nhanh nhất với các nguồn tư liệu. Thường thì Alice luôn là người giành được dải băng xanh cho người chiến thắng nhiều hơn bất cứ ai.

“Nye, MBB, năm 2000!” Cô thốt lên.

“Em luôn luôn rất nể phục vì khả năng đó của cô. Em nói thật đấy, làm sao mà cô có thể lưu giữ tất cả những thông tin đó trong đầu như vậy được?”

Cô mỉm cười, tiếp nhận sự ngưỡng mộ của cậu sinh viên. “Rồi em sẽ thấy, như tôi đã nói, em mới đang ở giai đoạn khởi đầu thôi.”

Dan lật xem những trang còn lại của bài luận văn, đôi lông mày cậu giãn ra. “Được rồi, em rất vui, bài luận văn này rất tốt. Em cảm ơn cô nhiều. Ngày mai em sẽ lại đến gặp cô.”

Cậu vội vàng ra về. Nhiệm vụ đã hoàn thành, Alice nhìn danh sách những việc cần làm viết trên một tờ giấy ghi nhớ màu vàng, dán phía trên màn hình máy tính của cô ra xem.

Lớp Nhận Thức

Thảo luận buổi trưa

Luận văn của Dan

Eric

Bữa tối sinh nhật

Cô thỏa mãn đánh một dấu tích bên cạnh dòng chữ “Luậnvăn của Dan”.

Còn “Eric”? Là ý gì nhỉ?

Eric Wellman là trưởng khoa tâm lý học của trường Harvard. Cô định nói, định chỉ bảo hay hỏi anh ta cái gì đó sao? Hay cô sắp có một cuộc họp với anh ta? Cô xem trên lịch. Ngày 11 tháng 10 – sinh nhật cô. Chẳng có gì liên quan đến Eric cả. Eric. Khó hiểu quá. Cô mở hòm thư. Cũng không có gì từ Eric. Cô hi vọng đó không phải là vấn đề gì quá quan trọng về mặt thời gian. Hơi khó chịu, nhưng vẫn đầy tự tin rằng mình đã hoàn thành danh sách bất kể việc cần giải quyết với Eric là gì, cô ném tờ giấy ghi nhớ - tờ thứ tư trong ngày - vào thùng rác, rồi lấy một tờ mới.

Eric?

Gọi điện cho bác sĩ

Những việc rối loạn trí nhớ như thế này đang ngọ nguậy cái đầu nhỏ xấu xí của mình ngày càng nhiều hơn làm cô bắt đầu thấy lo ngại. Cô vẫn chần chừ chưa liên hệ với bác sĩ vật lý trị liệu vì cô vẫn nghĩ những khoảng quên lãng như thế này sẽ biến mất theo thời gian. Cô vẫn hi vọng cô sẽ gặp ai đó quen biết cũng trong hoàn cảnh tương tự như mình và sẽ được biết rằng đây chỉ là một giai đoạn ngắn và hoàn toàn tự nhiên để cô không cần phải đi gặp bác sĩ nữa. Tuy nhiên một việc như thế dường như chẳng bao giờ xuất hiện cả vì tất cả bạn bè và đồng nghiệp ở Harvard đồng trang lứa với cô đều là nam. Cô thừa nhận là đã đến lúc cô nên tìm đến những lời tư vấn chuyên nghiệp về y khoa.

Alice và John cùng nhau đi bộ từ khuôn viên trường đến nhà hàng Epulae ở quảng trường Inman. Bước vào phía trong Alice nhìn thấy ngay Anna – con gái lớn của cô – đang ngồi ở quầy ba với chồng con bé – Charlie. Cả hai đứa đều mặc đồ vét màu xanh da trời rất ấn tượng, bộ đồ của con rể cô được nhấn thêm một chiếc cà-vạt màu vàng trơn còn của Anna là một chuỗi ngọc trai đơn. Cả hai cùng làm việc cho hãng luật lớn thứ ba ở Massachusetts đã được vài năm, Anna làm ở lĩnh vực sở hữu trí tuệ còn Charlie chuyên giải quyết các vụ tranh chấp.

Nhìn ly Martini trên tay con gái và khuôn ngực vẫn ở cỡ B cô biết là Anna vẫn chưa có thai. Con bé đã cố gắng trong suốt sáu tháng vừa rồi nhưng vẫn chưa có kết quả. Cũng giống như tất cả những thứ khác, càng khó đạt được Anna lại càng muốn. Alice đã khuyên con bé nên chờ một thời gian, không cần phải vội vàng đến thế khi muốn hoàn thành cột mốc quan trọng này trong cuộc đời. Anna mới chỉ hai mươi bảy tuổi và mới kết hôn với Charlies năm ngoái, hơn nữa mỗi tuần con bé phải làm việc tám mươi đến chín mươi giờ. Thế nhưng Anna lại lấy lý do là tất cả những người phụ nữ đi làm khi cân nhắc đến vấn đề sinh con cuối cùng đều đi đến kết luận rằng: Không bao giờ có thời gian tốt nhất cho chuyện này cả.

Alice lo lắng về việc có một gia đình sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của Anna. Quá trình tiến thân trên con đường sự nghiệp của Alice đã gặp rất nhiều khó khăn, không phải vì những trách nhiệm dần trở nên quá nặng nề hay vì những thành tích cô đạt được trong ngành ngôn ngữ học không đủ thuyết phục mà lại vì cô là một người phụ nữ có con. Việc bị nôn mửa, thiếu máu và chứng tiền sản giật cô phải chịu đựng trong tổng thời gian hai năm rưỡi mang thai đã làm cô bị xao nhãng và ảnh hưởng đến tốc độ phát triển sự nghiệp của mình. Thêm vào đó, ba đứa trẻ sinh ra từ những lần thai nghén ấy còn có nhiều hơn những đòi hỏi không bao giờ kết thúc và tốn thời gian hơn so với bất cứ một công việc khẩn cấp nào ở khoa hay một sinh viên loại A nào mà cô đã từng gặp.

Nhiều lần cô đã chứng kiến trong nỗi sợ hãi nhiều nữ đồng nghiệp vốn có một sự nghiệp đầy hứa hẹn đã bị chậm lại rất nhiều hoặc thậm chí còn phải hoàn toàn chuyển hướng sự nghiệp. Nhìn John và những đồng nghiệp nam với trình độ nghiệp vụ tương đương nhưng lại vượt qua mình quả là một trải nghiệm khó khăn. Cô thường băn khoăn liệu sự nghiệp của anh có thể sống sót được sau ba lần sinh nở, cho con bú, nuôi con nhỏ, ngày qua ngày buồn chán hát mãi câu “Những chiếc bánh xe buýt quay đều, quay đều” và cả việc mỗi đêm chỉ được ngủ hai đến ba tiếng đồng hồ mà không bị đánh thức. Thật sự cô rất nghi ngờ việc đó.

Trong lúc họ ôm hôn nhau, trao cho nhau những cử chỉ hân hoan, chúc mừng sinh nhật thì một ngươi phụ nữ mang mái tóc bị tẩy màu hoàn toàn, mặc một bộ đồ màu đen tiến về phía họ nơi quầy ba.

“Tất cả các thành viên trong bữa tiệc của cô đều có mặt rồi chứ?” Cô ta nở một nụ cười tươi tắn hỏi nhưng nụ cười lại hơi kéo dài quá mức nên trông có vẻ không thành thật.

“Vẫn chưa. Chúng tôi đang chờ thêm một người nữa,” Anna nói.

“Đến đây!” Tom tiến đến từ phía sau họ. “Chúc mừng sinh nhật mẹ.”

Alice ôm hôn con trai rồi chợt nhận ra là cậu đến một mình.

“Chúng ta có cần chờ…?”

“Jill ạ? Không cần đâu mẹ, bọn con chia tay từ tháng trước rồi.”

“Em thay bạn gái nhiều quá rồi, mọi người đều đang không nhớ nổi tên của bọn họ nữa,” Anna nói. “Có người mới nào sắp đến cần chúng ta giữ chỗ cho không?”

“Vẫn chưa có.” Tom nói với Anna rồi quay ra nói với người phụ nữ bận đồ đen, “Chúng tôi đông đủ rồi.”

Thông thường sau mỗi lần chia tay Tom sẽ mất khoảng sáu đến chín tháng để bắt đầu một mối quan hệ mới nhưng cũng chẳng được lâu dài. Cậu là một chàng trai thông minh, sôi nổi, chính là hình ảnh khi còn trẻ của bố mình, đang học năm thứ ba trường Y của Harvard và có kế hoạch trở thành một bác sĩ phẫu thuật chuyên khoa tim mạch. Trông cậu có vẻ như cậu sẽ rất tận hưởng bữa ăn này. Cậu hài hước nói rằng tất cả các sinh viên y khoa và bác sĩ phẫu thuật cậu biết đều ăn uống rất tệ, sống nhờ vào bánh rán, khoai tây chiên, máy bán hàng tự động và căng tin bệnh viện. Không một ai trong số họ có thời gian để tập thể dục, trừ khi tính việc leo cầu thang bộ thay vì đi thang máy là tập thể dục. Cậu nói đùa rằng ít nhất thì vài năm nữa họ cũng có đủ khả năng để điều trị bệnh tim cho nhau.

Khi tất cả mọi người đã yên vị chỗ ngồi bên chiếc bàn hình bán nguyệt đầy đủ đồ uống và món khai vị thì chủ đề câu chuyện dần chuyển sang thành viên không đến tham gia được.

“Lần cuối cùng Lydia tham gia một bữa tối cùng cả nhà là khi nào nhỉ?” Anna hỏi.

“Con bé vẫn ở đây trong tiệc sinh nhật hai mươi mốt của em.” Tom nói.

“Đó là chuyện của gần năm năm trước rồi! Đó là lần gần nhất sao?” Anna tiếp tục hỏi.

“Không, không thể nào.” John không đồng ý nhưng không nói thêm gì.

“Con khá chắc đó là lần cuối đấy.” Tom khẳng định.

“Không phải. Ba năm trước con bé có tham dự buổi sinh nhật tuổi năm mươi của bố các con ở nhà hàng Cape.” Alice nói.

“Con bé thế nào rồi mẹ?” Anna hỏi.

Anna rõ ràng rất vui vì Lydia không học đại học; con đường học vấn bị cắt ngắn của Lydia đã bảo vệ vững chắc vị trí đứa con gái thông minh nhất, thành công nhất nhà Howland cho Anna. Là con lớn nhất trong nhà, Anna là đứa con đầu tiên thể hiện sự thông minh của mình làm hài lòng bố mẹ, đứa con đầu tiên dành được vị trí đứa con gái tuyệt vời nhất. Mặc dù Tom cũng rất thông minh nhưng Anna chưa bao giờ để ý nhiều đến thằng bé, có lẽ vì Tom là con trai. Thế rồi Lydia đến với gia đình họ. Cả hai cô con gái đều thông minh nhưng trong khi Anna phải rất cố gắng mới đạt được những điểm A thì bảng thành tích của Lydia lại cực kì xuất sắc mà hầu như con bé chẳng cần cố gắng nhiều. Anna rất để ý đến chuyện đó. Cả hai đều rất hiếu thắng và độc lập một cách mãnh liệt nhưng Anna không phải là một người ưa mạo hiểm. Con bé có xu hướng theo đuổi những mục tiêu an toàn, tiện lợi và chắc chắn phải kèm theo phần thưởng hữu hình.

“Con bé vẫn tốt.” Alice trả lời

“Thật không thể tin là con bé vẫn tiếp tục như vậy. Con bé đã tham gia được cái gì chưa ạ?” Anna hỏi.

“Năm ngoái, con bé diễn rất tuyệt trong vở kịch đó.” John nói.

“Nó đang đi học.” Alice nói thêm.

Ngay khi những từ ấy vừa thốt ra Alice liền nhớ ra rằng chính John là người đã giấu diếm cô, chu cấp tiền cho con bé theo học một chương trình không bằng cấp. Tại sao cô lại có thể quên đi mà nói chuyện với anh về chuyện đó như vậy được nhỉ? Cô bắn về phía anh một cái nhìn đầy giận dữ. Tia nhìn dừng lại chính xác trên mặt anh và anh hoàn toàn cảm nhận được tác động của việc ấy. Anh nhẹ nhàng lắc đầu rồi đưa tay xoa xoa lưng cô. Bây giờ không phải là thời gian tốt và cũng không phải là một địa điểm tốt. Cô sẽ nói chuyện với anh về chuyện này sau, nếu như cô vẫn nhớ.

“Ồ, ít nhất thì con bé cũng đang làm gì đó.” Anna nói có vẻ thỏa mãn vì mọi người dường như đều nhận ra vị trí hiện tại của những cô con gái nhà Howland.

“Vậy bố, thí nghiệm kiểm chứng đó của bố thế nào rồi?” Tom hỏi.

John rướn người lên trước và bắt đầu nói về những chi tiết nghiên cứu mới nhất của mình. Alice nhìn chồng và con trai, cả hai đều là những nhà sinh học và cả hai đều đang bị thu hút bởi cuộc hội thoại đầy tính phân tích đó, cả hai đều đang cố gắng gây ấn tượng với người kia về những điều mình biết. Nơi khóe mắt John có những đường chân chim thường xuất hiện khi anh cười nhưng ngay cả những lúc anh nghiêm túc nhất vẫn có thể nhìn thấy mờ mờ, lúc này khi anh đang say sưa nói về nghiên cứu của mình những nếp nhăn ấy trở nên thật sâu và thật sinh động, hai tay anh cũng tham gia vào cuộc nói chuyện như những chú rối đang biểu diễn trên sân khấu.

Cô rất thích nhìn anh như vậy. Anh không nói chuyện với cô về nghiên cứu của mình một cách chi tiết và sôi nổi như thế. Ngày trước thì có. Cô vẫn luôn biết đủ về công việc của anh để có thể nói chuyện với anh về chúng nhưng chưa bao giờ đi sâu vào chi tiết. Cô nhận ra những lần nói chuyện như thế giữa anh và cô quan trọng như thế nào khi ở cùng với Tom hoặc đồng nghiệp của John. Trước đây anh thường nói với cô tất cả mọi điều, còn cô thì luôn chăm chú lắng nghe. Cô băn khoăn không biết điều ấy đã thay đổi từ khi nào, ai là người không còn hứng thú làm vậy nữa, là anh không muốn nói hay là cô không muốn nghe nữa.

Món mực ống, hàu nướng sốt cua vùng Maine, salad rau aragula và bánh bao Ý nhân bí ngô đều rất tuyệt vời. Sau bữa tối mọi người cùng nhau hát vang và sai nhạc bài “Chúc mừng sinh nhật” khiến khách trong nhà hàng ở những bàn khác cũng hân hoan, vui mừng vỗ tay theo. Alice thổi ngọn nến cắm trên miếng bánh sô-cô-la ấm áp. Mọi người cùng nhau nâng ly vang Veuve Clicquot trên tay lên, John nâng ly cao hơn một chút nói.

“Chúc mừng sinh nhật người vợ xinh đẹp và tuyệt vời của anh. Chúc mừng năm mươi năm tiếp theo của em”

Họ cùng nhau cụng ly và uống sâm-panh.


Đứng trong phòng vệ sinh nữ Alice nhìn chăm chú hình ảnh của mình trong gương. Hình ảnh người phụ nữ đã có tuổi ở trong đó không giống lắm với hình ảnh tâm trí cô nghĩ về bản thân. Đôi mắt màu nâu vàng của cô trông có vẻ mệt mỏi dù vẫn được nghỉ ngơi rất tốt, làn da trông đã sạm hơn và không còn săn chắc như trước. Cô chắc chắn mình trông giống một phụ nữ hơn bốn mươi tuổi nhưng cô sẽ không nói mình đã già. Cô không cảm thấy mình đã già mặc dù cô biết là mình không còn trẻ nữa. Gần đây cô luôn được nhắc nhở việc mình đã chuyển sang một giai đoạn khác của cuộc đời bởi chứng đãng trí của tuổi tiền mãn kinh đáng ghét. Nếu không thì cô đã luôn cảm thấy trẻ trung, mạnh mẽ và sung sức.

Cô nghĩ đến mẹ mình. Họ trông rất giống nhau. Trong trí nhớ của cô gương mặt lúc nào cũng nghiêm túc và chăm chú của bà chỉ lốm đốm những vết tàn nhang ở mũi và hai gò má chứ không hề có nếp nhăn hay chảy xệ. Bà không sống được đủ lâu để có những thứ ấy trên gương mặt mình. Mẹ của Alice qua đời khi bà mới chỉ bốn mươi mốt tuổi. Anne - em gái của Alice bây giờ cũng bốn mươi tám. Alice đang ngồi cùng bàn ăn tối với chồng và các con mình, cố hình dung xem Anne trông như thế nào, nhưng cô không thể.

Khi đi vệ sinh cô lại nhìn thấy máu. Kỳ kinh của cô. Đương nhiên cô hiểu rằng trong giai đoạn đầu của thời kì tiền mãn kinh, chu kỳ kinh nguyệt sẽ không có qui luật, nghĩa là nó sẽ không đột nhiên hoàn toàn biến mất. Tuy nhiên khả năng cô không phải đang ở giai đoạn tiền mãn kinh chợt ập đến, bám sâu vào tâm trí cô không chịu từ bỏ.

Ý chí của cô – bị sâm-panh và máu làm cho mềm ra – đang hoàn toàn bị khuất phục. Cô bắt đầu khóc, nức nở. Cô dần cảm thấy khó thở, không khí hít vào không đủ. Cô đã năm mươi tuổi và cô cảm thấy mình đang dần dần rơi vào tình trạng mất trí.

Có người gõ cửa.

“Mẹ ơi?” Anna gọi. “Mẹ không sao chứ?”
 
Bên trên