Lane,
Anh viết thư này cho em vì anh nghĩ rằng có khả năng em sẽ mở nó ra và đọc, thay vì chỉ xóa nó đi như anh biết em luôn làm với những email của anh. Anh sẽ không tô vẽ bất cứ điều gì và cũng không nói một cách hài hước. Anh sẽ nói thẳng vào vấn đề. Anh rất tiếc phải nói với em điều này qua một mẩu giấy tồi tệ, nhưng bác Harry vừa qua đời sáng nay. Em cần phải về nhà và nói lời vĩnh biệt. Mẹ và bà không đối diện được với cái chết của bác Harry. Không ai trong số chúng tôi có thể làm được điều đó. Cả nhà nhớ em khủng khiếp, và ngay bây giờ mọi người cần em. Tất cả mọi người. Tang lễ sẽ diễn ra vào thứ 7. Làm ơn, hãy về nhà. Làm ơn.
--- Lochlan
Tôi đẩy gọng kính giữa mũi lên khi đọc đi đọc lại đến lần thứ một nghìn lá thư của anh trai tôi từ khi nhận được nó vào hai ngày trước. Nó nhắc tới hai việc. Một, bác tôi vừa qua đời. Cha đỡ đầu và người bạn thân của tôi vừa mất. Và hai, tôi phải về nhà.
Tôi không nhảy cẫng lên vui mừng vì bất cứ điều nào trong số đó cả.
Tôi rời mắt khỏi tờ giấy nhàu nát mà Lochlan đã viết nguệch ngoạc lên và nhìn chằm chằm vào cánh cửa sổ tàu hỏa mà tôi đang ngồi bên trong. Thị trấn Yorkshire trôi qua tôi, và ngay vài giây sau đó tôi đã lạc trong vẻ xanh tươi đẹp đẽ của nó. Thật chẳng may mắn chút nào, vẻ đẹp huyền ảo như một giấc mộng chẳng bao giờ kết thúc đó chẳng đủ để che đậy nỗi đau đớn trong ngực tôi. Những nỗi đau đớn khủng khiếp nhanh chóng kéo tôi trở lại thực tại và nó thét gào lên với tôi rằng tôi chẳng thể nào trốn chạy khỏi nó được.
Chẳng phải lần này, Lane, giọng nói chua chát rít lên trong tâm trí tôi. Mày chẳng thể trốn chạy được đâu.
Chẳng có thứ gì xinh đẹp cho một đôi mắt trống rỗng hay nhẹ nhàng cho một đôi tai tinh tế có thể xóa đi thực tại không thể tránh khỏi mà tôi sẽ sớm phải đối mặt. Tôi xoay người trên ghế vì dạ dày cứ cuộn lên khi ý nghĩ về những ngày sắp tới kéo tới.
Tại sao điều này lại xảy ra? Tôi rầu rĩ tự hỏi.
Tôi cảm thấy tội lỗi vì đã từng ước trong giây lát giá như mình được quay trở lại căn hộ ở New York thay vì lên đường về nhà ở York, Anh. Rồi tôi cảm thấy xấu hổ về suy nghĩ tại sao cái chết của bác tôi lại đặt tôi vào tình huống khủng khiếp đến mức này trong khi điều tôi nên nghĩ đến phải là tại sao Chúa lại mang bác đi đầu tiên.
Những ưu tiên của tôi, như thường lệ, lại rối tung cả lên.
Tôi cảm thấy ngay cả việc nuốt xuống cũng thật khó khăn khi cổ họng cứ nghẹn lại. Sau khi hít thở sâu vài hơi để thả lỏng cơ thể, tôi lấy điện thoại từ trong túi áo khoác ra và mở email. Môi tôi giần giật khi tôi cuộn email lên xuống. Có đến hàng trăm tin nhắn của bác Harry mà tôi chẳng bao giờ nhìn lại để xóa chúng cả và tôi thấy vui vì điều đó. Bác là người duy nhất trong gia đình mà hàng ngày tôi nói chuyện cùng. Thực ra, bác là người duy nhất trong gia đình mà tôi vẫn nói chuyện cùng. Tôi có thể trốn chạy khỏi tất cả mọi người, nhưng không phải bác Harry của tôi.
Bác là sự phiền phức của tôi, nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ đánh đổi bác để lấy cả thế giới. Bác là người bạn đáng tin và thật thà nhất của tôi, và bây giờ thì bác đã ra đi rồi.
Tôi đã tự hỏi điều gì đã xảy ra khi bác không gửi email cho tôi vào sáng thứ ba. Chúng tôi vừa nói chuyện qua Skype vào buổi tối hôm trước, và bác vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Chúng tôi có một thói quen; tôi thức dậy gửi email cho bác vào mỗi sáng, và chúng tôi sẽ chat qua lại cho tới khi tôi nói chuyện với bác qua Skype trong giờ nghỉ ăn trưa tại chỗ làm. Lúc đó là 2 giờ chiều ở New York, và là lúc 7 giờ tối tại York. Bác Harry đi ngủ vào tầm 9h tối, vì thế chúng tôi luôn nói chuyện trước lúc đó.
Tôi đã gọi ngay cho bác vào sáng thứ 3 khi tôi không nhận được email từ bác, nhưng điện thoại ở nhà bác chỉ mãi kêu cho tới khi máy trả lời tự động ghi âm. Tôi đã để lại một tin nhắn ngắn bảo bác gọi lại cho tôi ngay khi có thể, và khi bác đã không gọi điện cho tôi, nỗi khiếp sợ tràn ngập trong tôi. Tôi sợ khủng khiếp và tôi đã không thể gọi điện cho bố mẹ để nhờ họ kiểm tra tình hình của bác bởi vì tôi đã xóa số điện thoại của họ nhiều năm trước -- số của anh trai tôi cũng vậy.
Số điện thoại duy nhất mà tôi thuộc lòng là số của bác tôi vì bác vẫn giữ số điện thoại đó cho đến khi tôi có thể nhớ được.
Sáng thứ 4 khi bác
vẫn không liên lạc với tôi, tôi quyết định online và lấy số của quán cà phê Lilly’s Café trên phố Pavement. Bà tôi là chủ của quán cà phê đó, nhưng bà cũng nằm trong danh sách không-nói-chuyện của tôi, cũng giống như bố mẹ và các anh tôi vậy, thế nên chúng tôi không gần gũi với nhau.
Không giống như chúng tôi của trước kia trước khi tôi chuyển đi.
Không nói đến điều này nữa, tôi đã tính rằng nếu như tôi phải gọi một ai đó đến kiểm tra tình hình của bác, thì người đó phải là bà của tôi. Bà bướng như quỷ vậy, nhưng bà là thành viên duy nhất trong gia đình mà tôi có thể cãi lý. Chắc chắn là không.
Tôi không có Internet trong phòng -- điều này quả là quá sốc khi tôi là một biên tập viên tự do -- vì tín hiệu trong khu vực này rất kém. Tôi lợi dụng Wi-Fi miễn phí ở quán cà phê Starbucks bất cứ khi nào tôi cần. Tôi thay quần áo vào sáng thứ 4, với ý định đi thẳng ra Starbucks để dùng Wi-Fi miễn phí liên lạc với bà tôi.
Trên đường đi, tôi gặp người đưa thư ở tầng trệt khu nhà, và anh ấy đưa cho tôi một lá thư. Có một dấu tem khẩn phía trên, cũng như những dấu tem đánh dấu phải giao trong ngày hôm sau. Nó đã được gửi vào ngày hôm trước. Địa chỉ hồi thư là của anh trai tôi, vì thế tôi đã bóc thư ngay lập tức.
Cầm lá thư đau khổ đó lên đọc là trái tim tôi vỡ vụn thành từng mảnh lần thứ hai trong cuộc đời. Nỗi đau cuộn trào đã từng quen thuộc trong tôi, nhưng lần này nó đến từ một người hoàn toàn khác, liên quan tới một tình huống hoàn toàn khác. Một lần nữa tôi bị nhấn chìm bởi nỗi buồn đau thấm dần qua xương tủy chứ không phải là bùng nổ qua dòng nước mắt. Nỗi đau mà tôi cảm nhận lấp đầy tôi từ đầu đến chân, và tôi không thể nào trốn chạy được.
Dẫu cho tôi đã cố. Tôi đã cố nghĩ về một việc gì đó khác trong khi đặt vé máy bay về London. Tôi đã cố nghĩ về một việc gì đó khác khi đặt chân xuống sân bay Heathrow và mua vé tàu Heathrow Express về ga Paddington. Tôi đã cố nghĩ về một điều gì đó khác ngoài gương mặt của bác Harry, và tôi đã làm được điều đó, cho tới khi tôi bắt taxi từ ga Paddington về ga King’s Cross rồi lên chuyến tàu cuối cùng trong hành trình trở về York của mình. Sau khi đặt chân lên toa Coach B -- một toa tàu yên tĩnh -- giọng nói của bác Harry đã phá tan mọi suy nghĩ mà tôi dựng lên để che đậy nó. Giọng nói của bác quẩn quanh quanh tôi, và tôi cảm thấy vừa thoải mái vừa đau khổ với nó.
Tôi bị kéo ra khỏi suy nghĩ của minh khi tàu đột ngột dừng lại. Tôi chớp mắt vài lần và nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi không còn nhìn thấy khung cảnh đồng quê nữa; tôi nhìn chằm chằm vào sân ga đông đúc trong điểm dừng cuối cùng của mình. York.
Chào mừng về nhà, Lane.
Thở ra một hơi thật dài, tôi lo lắng đứng lên và nhét điện thoại vào lại túi áo khoác trước khi với lấy va li trên giá để đồ ngay phía trên đầu. Tôi đi dọc sân ga vài phút sau đó, kéo va li phía sau mình. Tôi bắt taxi từ ga về khách sạn Holiday Inn, một khách sạn nhỏ cách nhà bố mẹ tôi khoảng mười phút, nhận phòng rồi lên căn phòng nhỏ bé mà ấm cúng của tôi. Tôi đang tắm khi điện thoại kêu. Ngay khi nhìn thấy tên anh trai, tôi liền rên rỉ.
Lochlan đang muốn xác nhận liệu tôi có trở về nhà vào tang lễ của bác hay không. Tôi không trách anh ấy vì điều đó - tôi đã không hề trả lời thư của anh ấy. Tôi chỉ đọc nó và đặt ngay chuyến bay gần nhất để bay khỏi New York.
Em đây, tôi trả lời. Bác đang nằm ở đâu thế?
Tôi kiềm chế sự cáu giận đang dâng lên trong cổ họng khi kiên nhẫn chờ anh ấy trả lời. Tôi có rất nhiều câu hỏi, nhưng tôi không muốn bất cứ câu trả lời nào. Tôi muốn biết vì sao bác tôi lại qua đời khi bác vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Tôi muốn biết vì sao bác ấy vẫn còn sống vào đêm thứ 2 mà lại ra đi vào sáng thứ 3. Nhưng nếu tôi nghe được câu trả lời mà tâm trí tôi đang cố kiếm tìm, thì có nghĩa là tôi đang chấp nhận rằng bác đã ra đi, và tôi vẫn chưa sẵn sàng cho điều đó.
Tôi nhảy lên khi điện thoại báo có email.
Ở nhà của bố mẹ. Tất cả đều ở đây.
Một cục nghẹn dồn lên trong cổ họng tôi. Bác nằm ở nhà bố mẹ tôi cũng là điều dễ hiểu thôi; bác yêu quý mẹ tôi, và mẹ cũng yêu thương bác như vậy. Mẹ tôi là cô em gái nhỏ của bác, đồng phạm và người em sinh đôi của bác.
Tôi dụi mắt khi chúng bắt đầu cay.
Em sẽ đến đó trong 20 phút.
Tôi mặc một quần jeans bó đen, đi bốt đen, mặc một cái áo phông dài tay màu đen và một cái áo khoác blazer xám. Mặc xong đồ, tôi quay ra cái gương dài chạm đất và nhìn chằm chằm vào chính mình. Tôi trông vẫn như trước kia, nhưng tôi nhận ra những sự khác biệt phảng phất đâu đó mà người khác có thể nhận ra khi họ nhìn tôi. Mái tóc màu nâu sô-cô-la của tôi bây giờ đã dài rồi, gần như ngang eo rồi. Ngực tôi đầy hơn, và mông to hơn, tạo nên một đường cong cơ thể để bây giờ có thể cho người ta biết tôi đã là một phụ nữ, chứ không phải là một cô gái trẻ nữa. Làn da sứ của tôi đã có những vết tàn nhang sáng, và đôi mắt màu xanh lục bảo vẫn ấn giấu phía sau cặp kính nằm ngay trên sống mũi.
Tôi chỉnh lại cái áo blazer và chớp mắt. Tôi không biết vì sao, nhưng tôi không muốn ăn mặc luộm thuộm trong lần đầu tiên gặp lại gia đình sau sáu năm. Tôi muốn mọi thứ phải hợp với nhau, cho dù bên trong tôi đang vỡ vụn.
Tôi tết tóc theo kiểu Pháp để giữ nó không rơi xuống mặt, và không trang điểm, vì việc nhìn thấy bác sẽ khiến tôi vỡ òa trong sự xúc động, và nó sẽ phá hủy mọi thứ. Tôi nhặt cái khăn màu xanh nhạt trên giường lên và quấn nó xung quanh cố trước khi cầm điện thoại và chìa khóa.
Vì nhà của bố mẹ ở gần đây, tôi quyết định đi bộ. Bên ngoài trời không mưa, chẳng trận mưa nào, nhưng bây giờ là giữa tháng 10, mới 6 giờ tối mà trời đã tối đen như mực và bắt đầu trở nên
thực sự lạnh. Tôi khoanh tay trước ngực và cúi đầu xuống khi gấp gáp chạy ngang qua quán cà phê của bà. Nó gần hơn tôi tưởng. Tôi không nhìn thấy đèn sáng qua khóe mắt, nhưng tôi vẫn tránh nhìn vào đó.
Con đường tới nhà bố mẹ nhanh hơn tôi nhớ, và trước khi tôi kịp nhận ra thì tôi đã đứng trước cửa ngôi nhà tôi đã lớn lên. Tôi chớp mắt khi trở về ngôi nhà ấu thơ của mình. Nó được trang trí nhẹ nhàng với một vài đồ Halloween --- nhắc tôi nhớ về những ngày nghỉ sắp tới -- nhưng bên cạnh đó, nó trông giống hệt như lần cuối cùng tôi ở đây vào sáu năm trước, giống như chẳng có gì thay đổi. . . hay xảy ra.
Mày có thể làm được mà, tôi tự nói với bản thân.
Tôi nhắc đi nhắc lại câu nói này trong tâm trí khi tôi giơ tay lên và chuẩn bị gõ lên cánh cửa được đánh véc-ni tối màu. Dù vậy, tôi chẳng có cơ hội đó, vì cánh cửa đột nhiên mở ra, thấp thoáng bóng hai người phụ nữ khoảng hơn hai mươi đang ra khỏi nhà. Tôi không biết họ là ai và nhìn chằm chằm vào họ.
“Ồ, tôi xin lỗi,” người phụ nữ với mái tóc vàng bạch kim há hốc miệng trước khi nói câu đó.
“Tôi có thể giúp gì cô?”
Cô ta là ai? Tôi tự hỏi, và tại sao cô ta lại hỏi mình như thể cô ta có thể giúp mình được vậy?
“Không, cảm ơn,” Tôi đáp một cách lịch sự. “Tôi có thể đi qua không?”
Người phụ nữ đó không hề di chuyển, và người phụ nữ với nước da ngăm đen khoanh tay trước ngực bước lại gần bạn mình. Tôi liếc qua cô ta, rồi quay lại nhìn người tóc vàng. Trông như họ đang cố ngăn tôi vào nhà.
“Cô là ai?” người tóc vàng hỏi.
Giọng của cô ta không thô lỗ, chỉ là tò mò.
Tôi nôn nóng nhấc chân lên và đếm tới năm trước khi trả lời. “Tôi là Lane. Đây là nhà của bố mẹ tôi. Tôi có thể
xin phép đi qua các cô không?”
“Lane?” người phụ nữ tóc vàng há hốc miệng vì kinh ngạc.
Cô ta nói như thể cô ta biết tôi, nhưng tôi không nhận ra cô ta. Tôi gật đầu với câu hỏi của cô ta, và nó khiến hai người phụ nữ trợn tròn mắt, và ngay sau đó tách nhau ra, mở lối đi giữa hai người. Tôi cảm ơn họ, bước đi giữa họ và vào ngôi nhà của bố mẹ tôi. Tôi thở một hơi đầy lo lắng và đi dọc theo lối đi hướng đến phòng khách.
Tôi liếc qua vai khi đi qua hai người phụ nữ và hướng về lối đi thẳng vào bếp. Tôi ra khỏi tầm mắt của họ và nhìn lại về cánh cửa. Tôi biết bác tôi đang ở đó; đó là nơi bác Teresa nằm khi bác ấy mất cách đây nhiều năm.
Tôi cầm tay nắm cửa và nhẹ nhàng đẩy nó mở ra bằng đầu ngón tay mình. Hương hoa nhài lấp đầy khoang mũi tôi và cuốn quanh tôi như một tấm chăn. Tôi hít vào một hơi thật sâu và để sự thoải mái của mùi hương quen thuộc vây lấy mình. Mắt tôi cứ nhìn chằm chằm xuống dưới, nhưng từ khóe mắt, tôi có thể nhìn thấy chân của giá đỡ quan tài. Tôi chầm chậm bước qua và chần chừ một lát. Trước khi tôi đóng băng hoàn toàn, tôi đi vòng sang bên phải quan tài và hít vào một hơi khi tôi rướn cổ lên và nhìn vào bác.
Tôi bịt tay che miệng khi tiếng nức nở bật ra. Bác thực sự ở đó - không phải là một trò đùa. . . Bác tôi thực sự đã chết rồi. Hình dáng bác nằm đó mang lại cho tôi ký ức bất ngờ của cuộc nói chuyện vài năm trước, và nó bóp nát trái tim tôi.
~ ~ ~
“Lane, cháu yêu, làm ơn hãy nói cho bác biết,” bác tôi nài nỉ. “Cháu không vui. Bác có thể nhìn thấy điều đó.”
“Cháu ổn, bác Harry,” tôi thở dài. “Chỉ là cháu mất nhiều thời gian hơn cháu nghĩ để ổn định ở đây.”
Bác tôi ngây ra, “Cháu chuyển đến đó bốn năm rồi.”
“Nên?” Tôi làu bàu. “Đây là một đất nước khác. Vẫn có quá nhiều thứ cháu cần phải làm quen.”
“Cháu chắc chứ?” bác nhấn mạnh. “Có lẽ cháu nên nói chuyện với bà -- bà rất giỏi giải quyết vấn đề khi cháu buồn.”
Tiếng chuông cảnh báo vang lên trong đầu tôi.
“Ồ không, cháu không nghĩ thế. Cháu không muốn nói chuyện với Irish Oprah. Bà sẽ chỉ bới lông tìm vết thôi và cháu không muốn thế. Bác biết là bà sẽ bảo cháu lên máy bay và về nhà mà. Bà có năng lực đó, và cháu sẽ không để bà lung lạc cháu đâu.”
“Thế thì nói cho bác biết có chuyện gì đi -- làm ơn?” bác nài nỉ. “Bác có thể cảm nhận có điều gì đó đã xảy ra với cháu. Có việc gì thế?”
“Cháu. Ổn,” tôi bảo đảm với bác, rồi quyết định kéo bác ra khỏi nỗi khổ sở đó. “Cháu chỉ có một vài giây phút yếu mềm thôi và nghĩ về việc làm cái gì đó ngốc nghếch, thế thôi.”
“Giải thích cho bác.” bác gần như gầm lên. “Ngay bây giờ.”
Tôi cắn môi dưới và hạ thấp giọng xuống để các khách hàng khác ở Starbucks không nghe thấy tôi nói gì. “Cháu đã mơ về anh ấy đêm qua, và cháu thức dậy mà mồ hôi nhễ nhại. Trong một giây, chỉ trong một thoáng thôi, cháu đã nghĩ rằng mình phải uống thuốc. Trước khi bác phát hoảng lên và bắt cháu về nhà, bác phải hiểu là cháu biết đó là suy nghĩ vô cùng điên rồ, và cháu đã đặt lịch khám với nhà trị liệu để nói về điều đó rồi.”
“Lane,” bác nghiêm giọng gọi tôi.
“Cháu ổn -- cháu chỉ muốn nói chuyện với nhà trị liệu về điều đó.”
Bác chớp mắt. “Có lẽ sẽ có ích nếu cháu nói chuyện với Ka--”
“Không.” tôi ngắt lời bác. “Cháu không thể.”
“Lane--”
“Không, bác Harry, cháu không muốn nhìn thấy hay nói chuyện với anh ấy. Làm ơn. Cháu không thể.”
Bác làu bàu. “Được rồi. Đồng ý.”
Tôi rên lên. “Bác làm thế này ít nhất mỗi tuần một lần. Khi nào bác sẽ từ bỏ việc bảo cháu nói chuyện với anh ấy?”
“Khi nào bác chết và được chôn cất.”
“Bác đừng nói kiểu như thế.” Tôi vung vẩy ngón tay về phía bác. “Bác sẽ chẳng đi đâu hết cả.”
~ ~ ~
“Bác Harry,” tôi vừa gọi vừa khóc khi thoát ra khỏi ký ức của mình và quay trở lại với thực tại. Tôi tiến đến gần quan tài hơn, bụng tôi tựa lên tấm gỗ. “Cháu. . . Cháu rất xin lỗi vì đã không ở đây.”
Lòng tôi đầy hối hận và tôi cảm thấy chán nản với chính mình. Tôi đã không ở đó vì bác khi bác cần tôi nhất. Tôi đã đặt những nhu cầu ích kỷ của mình bên trên người đàn ông đã chẳng làm gì khác ngoài việc yêu thương tôi trong suốt cuộc đời tôi.
Một tiếng kêu nhẹ nhàng vang lên sau lưng tôi, rồi tôi thấy một đôi tay vòng quanh người mình. Tôi không biết ai đang an ủi tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi nước thơm cạo râu từ người đó, thứ mùi thơm đang ôm ấp tôi cũng giống như những cánh tay của ông. Tôi đặt tay mình lên đôi tay đang ôm lấy bụng tôi.
“Ổn rồi, con yêu.”
Bố.
Tôi òa khóc, và xoay người trong cái ôm của ông, tôi cuộn cánh tay mình quanh thắt lưng ông. Bố ôm chặt tôi và đung đưa cho tới khi tiếng khóc thổn thức của tôi dần biến thành tiếng sụt sịt. Vài phút sau tôi quay người lại và nhìn bác tôi. Tôi đặt tay lên đỉnh đầu bác, nhắm mắt lại khi tôi nhận ra cơ thể bác đã lạnh rồi.
Tôi mở mắt và ngắm nhìn khuôn mặt đẹp trai của bác.
“Cháu xin lỗi,” tôi lặp lại, nghiêng người và hôn lên gò má mềm mại của bác. Rồi tôi nhẹ nhàng chạm trán mình lên trán bác. “Cháu thật sự xin lỗi.”
Tôi bỏ qua mọi thứ và khóc rồi khóc rồi lại khóc.
Tôi đã khóc ngất khi đọc lá thư của Lochlan, nhưng nó chẳng là gì so với cảm giác khi nhìn thấy bác tôi. Tôi chìm trong nỗi đau đớn này. Tôi đau khổ, và khi tôi càng nhìn người bác tuyệt vời của tôi, tôi càng cảm thấy bản thân vỡ vụn và trống rỗng.
“Chuyến bay của em thế nào?” một giọng nói vang lên từ cửa phòng.
Tôi không cần phải nhìn cùng biết đó là giọng nói của anh Layton. Tôi đã không nghe thấy giọng của anh ấy cũng gần một năm rồi, nhưng âm thanh đó vẫn vậy. Nó hơi khàn khàn, chắc là do thói xấu hút thuốc lá. Chẳng ngạc nhiên chút nào. Anh ấy bây giờ đã hai chín rồi và đã hút thuốc lâu đến mức tôi không thể nhớ nổi.
“Lâu,” tôi đáp lời Layton mà không rời mắt khỏi bác.
Bố đứng sau lưng tôi, ôm tôi thật chặt. Tôi nhận ra rằng sự tiếp xúc này chắc chắn sẽ thay đổi sau khi bác được chôn cất ở nghĩa trang vào sáng mai, nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi không nhìn thẳng vào bố mẹ, bà hay các anh trai, nhưng ngay bây giờ tôi không nghĩ về sự khác biệt giữa chúng tôi, tôi đang nghĩ về bác Harry của tôi.
“Va li của con ở đâu?”
Tôi hơi căng thẳng khi nghe thấy giọng mẹ vang lên, rồi thì thào, “Ở khách sạn Holiday Inn.”
Tôi nghe thấy một tiếng gầm gừ. “Em ở lại khách sạn, chứ không phải
ở đây?”
Tôi thở hắt ra một hơi mệt mỏi. “Đừng làm thế bây giờ, Lochlan. Làm ơn.”
Anh ấy không nghe thấy.
“Em
không ở trong một khách sạn nhỏ--”
“Lochlan.” Giọng nói nghiêm khắc của Layton cắt ngang tiếng nói của Lochlan. “Chúng ta sẽ nói chuyện này
sau.”
Yên lặng.
Tôi nhắm mắt lại khi nghe thấy tiếng giậm chân trình trịch của Lochlan khi anh ấy giận dữ lao ra khỏi phòng và đi dọc theo hành lang về phòng khách, đóng sập cửa lại sau lưng. Tôi không ngạc nhiên khi anh bỏ đi. Lochlan có thể là một ông anh bốc đồng, nhưng lời nói của Layton là luật lệ. Anh ấy là người duy nhất áp đảo được Lochlan khi Lochlan vượt quá ranh giới. Tôi cố không để anh trai tôi, hay cơn giận dữ của anh, làm phiền tôi, vì thế tôi hoàn toàn tập trung vào bác tôi.
“Cháu đã chờ email của bác,” tôi ngâm nga nói với bác và chờ bác trả lời, cho dù biết rằng chuyện đó sẽ chẳng thể xảy ra.
Bố ôm chặt tôi. “Mọi chuyện quá bất ngờ, con yêu.”
Tôi cảm thấy mệt mỏi.
“Nó xảy ra như thế nào?” Tôi hỏi một câu đáng sợ đã ở trong đầu tôi ngay từ giây phút tôi đọc được lá thư của Lochlan hai ngày trước.
“Một trận nhồi máu cơ tim,” bố thốt lên. “Bác không phải chịu đau đớn. Nó đến trong giấc ngủ của bác.”
Một trận nhồi máu cơ tim, tôi lặng lẽ lặp lại. Đó là thứ đã mang bác tôi đi.
Tôi cắn môi dưới khi nhìn vào trang phục của bác. Tôi không nhịn được ngoác miệng ra cười khi tôi chui vào cái áo lông cừu chui đầu dày cộp mà tôi đã đan cho bác lúc tôi mười sáu tuổi. Bác rất thích nó, và cho dù không biết bao nhiêu lần tôi bảo bác bỏ nó đi, bác vẫn từ chối. Bác nói đó là món quà tuyệt nhất mà bác từng nhận, nó khiến tôi cảm thấy buồn thay bác vì trông nó rõ ràng rất kinh khủng. Tôi không thể đan lát để cứu vãn cuộc đời mình.
Bà đã bắt tôi làm một việc kinh khủng đó là đan lát trong suốt cả mùa hè năm tôi mười sáu tuổi. Tôi đã đan còn hơn cả xấu, nhưng bà chẳng thèm quan tâm. Bà bắt tôi đan mỗi cuối tuần với bà và các bạn của bà, những người tính tổng ra phải già hơn tôi những ba trăm năm tuổi. Nếu bà nghe thấy thế, bà chắc sẽ đánh tôi thật đau. Tôi thầm cười khúc khích chính mình ngay phút giây yên tĩnh đó và nhẹ lúc lắc đầu.
“Bác ấy và cái áo khoác chết tiệt đó,” tôi lẩm bẩm.
Những tiếng cười thầm nhẹ nhàng lấp đầy căn phòng, và nó giúp mang đi những nỗi đau và sự căng thẳng trong thoáng chốc.
Khi đã sẵn sàng, tôi hít thở thật sâu rồi quay lại nhìn vào những khuôn mặt mà tôi đã không trực tiếp gặp mặt trong suốt sáu năm qua. Người đầu tiên tôi trông thấy là mẹ. Mẹ trông già hơn tuổi bốn mươi tư của mình, nhưng chẳng có gì phải thắc mắc khi cái chết của bác tôi đã làm khuôn mặt vẫn còn xinh đẹp của mẹ hằn lên nếp nhăn. Bà tôi, đứng bên cạnh mẹ, trông bà vẫn như cái ngày mà tôi rời đi. Anh trai thứ hai thì đã khác. Anh ấy thật là cơ bắp. . .
rất cơ bắp. Lần trước tôi gặp anh ấy, anh ấy bị thừa cân, nhưng bây giờ thì đã khác rồi.
“Chúa ơi, Lay, ai đó đã mua cho anh thẻ thành viên tập thể hình à?” Tôi hỏi, choáng váng cả người.
Bố tôi bật cười đằng sau tôi trong khi mẹ và bà che miệng mà cố gắng chặn tiếng cười rúc rích lại. Anh ấy cười duyên với tôi, nhưng đôi mắt xanh lục sáng rực lấp lánh.
“Anh không thể là thằng béo ị mãi được, phải chứ?” anh châm biếm hỏi.
Tôi nhe răng cười toe toét. “Em đoán là không. Anh trông tuyệt lắm.”
Layton nháy mắt. “Em cũng thế, em gái.”
Môi tôi cong lên một chốc, rồi tôi quay người nhìn vào bố. Khuôn mặt đẹp trai của ông vẫn thế, chỉ là râu ria rậm rạp hơn thôi. Cơ thể ông thì lại tròn hơn.
Tôi nháy mắt. “Trong khi Layton tập thể hình thì bố đi quán rượu và gặp gỡ phụ nữ. Phải không?”
Bố véo nhẹ tai tôi. “Con bé hỗn láo này. Bố sẽ cho con thấy vài tầng mỡ chẳng làm hại ai cả. Nó giúp bố ấm hơn vào những đêm đông lạnh lẽo này.”
“Con đùa thôi,” tôi cười phá lên và ôm ông.
Tôi thích thú khi ông béo lên, có nhiều chỗ để rúc vào hơn.
Anh, mẹ và bà cười rộ lên với trò chọc tức của tôi, và nó mang đến cho họ vài giây phút bình tâm. Bà tiến lại phía tôi khi bà cảm thấy thoải mái hơn và kéo tôi vào vòng ôm ấm áp của mình.
“Chào cháu, cháu iu.” bà ngâm nga.
Tôi nhắm mắt lại và ôm bà thật chặt khi tôi đắm mình trong giọng nói êm dịu của bà. Bà đến từ vùng Crumlin của Dublin, Ai-len. Khẩu âm của bà vẫn nặng như thường -- cho dù bà đã sống ở Anh trong năm mươi năm qua, bà vẫn chưa bao giờ đánh mất giọng nói của quê hương Ai-len và tôi yêu điều đó ở bà.
Tôi cười âu yếm. “Bà ơi.”
Khi bà bỏ tôi ra, Layton đã ở ngay bên cạnh, bao bọc lấy tôi trong đôi tay dày cộp, cơ bắp của mình. Tôi rít lên khi anh ấy nhấc bổng tôi lên khỏi sàn nhà và giữ tôi trên cao như thể tôi nhẹ tênh vậy.
“Không thở được,” tôi thều thào một cách hài hước.
Anh ấy đặt tôi xuống và khụt khịt mũi, “Kẻ khủng bố bé nhỏ.”
Tôi nhe răng cười trêu chọc, rồi thay vào đó bằng một nụ cười rạng rỡ cho mẹ tôi khi bà đến gần. Tôi đã mong chờ bà cười với tôi và có lẽ sẽ rơi nước mắt một chút, nhưng tôi hoàn toàn không mong đợi mẹ sẽ bật khóc nức nở khi bà ôm tôi, đó chính xác là những gì bà đã làm.
“Chào mừng về nhà, con yêu,” mẹ nghẹn ngào. “Mẹ nhớ con
rất nhiều.”
Tôi vòng tay ôm cơ thể nhỏ bé của mẹ và siết chặt. “Con cũng nhớ mẹ lắm.”
Thề với Chúa đó hoàn toàn là sự thật. Tôi thực sự nhớ mẹ. Chúng tôi không thỏa thuận được việc tôi sống xa nhà, nhưng bà vẫn là mẹ tôi, và tôi yêu bà tha thiết. Mẹ vừa ôm tôi vừa khóc rất lâu. Mẹ buông tôi ra, nhìn ngắm gương mặt tôi rồi lại vòng tay quanh người tôi và siết chặt tôi hết sức. Như thể bà không thể tin được rằng tôi đang đứng trước mặt bà vậy Điều đó khiến tôi vừa vui vừa buồn. Vui vì mẹ hạnh phúc khi nhìn thấy tôi, và buồn vì vì tôi mà mẹ hiếm khi có cơ hội được gặp tôi thế này.
Mày có những lý do của mày, tôi nhắc nhở bản thân.
Tôi vuốt ve lưng bà. “Ổn rồi, mẹ ơi.”
Chẳng có gì ổn cả, nhưng nói như vậy có vẻ ổn hơn.
Cuối cùng khi chúng tôi rời nhau ra, tôi dời mắt từ gia đình đến bác tôi và cau mày. “Con đoán người duy nhất còn lại để con chào hỏi là Lochlan.”
Một giọng nói phát ra từ sau lưng tôi. “Không hẳn thế.”
“Ôi, không, tôi cầu xin. Làm ơn, Chúa ơi, không.
Tôi cảm thấy đôi mắt mình như mở to ra khi giọng nói của anh ấy cứ bao quanh tôi như một chiếc chăn ấm áp vậy. Cho dù bao năm có trôi qua, tôi cũng sẽ nhận ra giọng của anh ấy cho dù đó chỉ là một tiếng thì thầm. Tôi chầm chậm quay lại, nhưng tôi hóa đá khi nhìn thấy anh ấy đứng ở cửa phòng, dựa vào ô cửa và đôi tay áp chặt trong túi trước quần jeans.
Đôi mắt của anh ấy, tâm trí tôi thì thào. Có chuyện gì xảy ra với đôi mắt của anh ấy thế?
Có rất nhiều điều mà tôi yêu ở người đàn ông đang đứng trước mặt tôi, nhưng đôi mắt của anh đã từng là niềm yêu thích của tôi. Đó là những thứ đầu tiên tôi nhìn bất cứ khi nào tôi trông thấy anh. Luôn có những tia sáng lấp lánh tinh nghịch nhảy nhót trong đôi mắt màu whisky của anh và đó là thứ duy chỉ có tôi mới nhìn thấy được bởi vì tôi đã nhìn đủ sâu vào đôi mắt đó. Đó là tia sáng lấp lánh nói với tôi rằng linh hồn anh vẫn còn tồn tại và khỏe mạnh, nhưng điều tôi nhìn thấy bây giờ lại khiến tôi rùng mình.
Không còn tia sáng lấp lánh, tia sáng lập lòe hay bất cứ dạng tia sáng nào khác trong đôi mắt anh. Chúng chết chóc và phản chiếu bầu trời đầy mây xám xịt thường lơ lửng phía trên York. Chúng như quyến rũ cũng như ám ảnh.
Cho dù tôi đã đi hàng nghìn dặm để trốn chạy anh, mỗi ngày trong suốt sáu năm qua tôi đã thức giấc khi nhìn thấy đôi mắt màu nâu nhạt đó và cảm thấy buồn ngủ khi nghe giọng nói êm dịu ấy. Tôi đã không thể giũ bỏ anh khi tôi đã ở nửa bên kia của trái đất hay ở trong căn phòng bên cạnh.
Tôi sống và hít thở Kale Hunt, và điều đó đang giết tôi.
“Kale,” Tôi cố gắng thì thào khi chăm chú nhìn người đàn ông đầu tiên đã làm tan vỡ trái tim mình.
Anh ấy nhìn chằm chằm vào tôi, rồi không có chút cảm xúc nào, anh ấy cứng nhắc nháy mắt và gật đầu chào. “Chào mừng em về nhà, Laney Baby.”