Ác quỷ - Cập nhật - A Thụy

kẻ tự kỉ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
6/12/16
Bài viết
208
Gạo
0,0
CHƯƠNG 8


Nguyễn An vừa đẩy cửa bước vào phòng bệnh bên cạnh, một cái bóng màu đỏ như tia chớp phóng tới, ôm chầm lấy cậu. Cô bé đi chân trần, mặc một chiếc đầm đen dài qua gối. Làn da giống hệt Nguyễn An, trắng đến kì lạ. Cô bé ôm ngang hông cậu, ngẩng đầu reo lên:


“Der älterer Bruder”.


Mái tóc đỏ bồng bềnh xoăn tự nhiên vì chuyển động của cô bé trông như những con sóng nhuộm màu hoàng hôn. Đôi mắt như biển Baltic đóng băng, ba gam màu trắng, xám, xanh dung hợp một cách lạ lùng, đẹp đến mức phi tự nhiên. Nếu cô bé này sinh ra ở thế kỷ 16, Leonardo da Vinci không thể nào không bị cô mê hoặc.


Nguyễn An khó hiểu, cúi đầu hỏi:


“Em gọi tôi là anh trai? Chúng ta là anh em ư?”.


Cảm giác mà cô bé này mang đến cho cậu thật khó lý giải. Cậu cảm thấy cô bé dường như quen thuộc với mình, nhưng không phải là sự gắn bó thân thiết giữa những người có chung dòng máu. Thân nhiệt cô bé rất thấp, nơi da thịt bọn họ tiếp xúc có cảm giác mát lạnh như băng. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn An không cảm nhận được sự ấm áp hay gần gũi. Cậu chỉ thấy hoang mang…


“Anh không nhớ sao? Em là Arilda. Arilda Himmler”.

“Vậy còn tôi? Tôi tên là gì?”.


“Alarik Himmler, anh trai của Arilda Himmler”.


Cô bé cười rạng rỡ. Nguyễn An sực nhớ ra cái gì, xoay người cô bé lại, rẽ mái tóc đỏ. Nhưng cậu nhanh chóng thất vọng, sau cái gáy trắng nõn kia chẳng có chữ cái nào cả. Vậy thì “A. H” có thể nào giống như suy đoán của cậu, là tên viết tắt của Alarik Himmler? Hay chỉ là một sự trùng hợp? Nguyễn An có rất nhiều thắc mắc muốn hỏi cho tường tận, liền hướng về phía ba người đàn ông trong phòng nói:


“Tôi muốn nói chuyện riêng với cô bé này”.


Hai trong số ba người đàn ông mặc đồng phục cảnh sát, người còn lại là phiên dịch viên. Cảnh sát Dương Đông gật đầu, cùng đồng nghiệp rời khỏi phòng. Bọn họ đã lấy xong lời khai. Đã không phải là vụ án bắt cóc tống tiền, bọn họ cũng không cần thiết ở lại nữa. Trước khi khép cửa, Dương Đông liếc nhìn hai người kia một cái. Trực giác mách bảo với anh, hai người này không bình thường. Không chỉ vì họ có vẻ ngoài đặc biệt, hay là câu chuyện ly kỳ của họ, mà có một cái gì đó ở hai người khiến anh thấy bất an. Trực giác của anh chưa bao giờ sai. Chắc chắn có một sự thật được che giấu tinh vi bên dưới lớp màng bảo vệ.


Nguyễn An lại mỉm cười với cô gái bên cạnh, giọng nói dịu dàng mang theo áy náy:


“Xin lỗi em, anh muốn ở riêng với Arilda một lát”.


Nguyễn Đan sau khi nghe cô bé người Đức này gọi anh là anh trai thì rất đỗi ngạc nhiên và vui mừng. Cô rất muốn ở lại nghe câu chuyện của cô bé, muốn biết mọi điều về quá khứ của người đàn ông cô yêu. Nhưng Nguyễn Đan hiểu, hơn ai hết, anh mới là người muốn biết anh là ai. Cô hôn nhẹ lên môi anh.


“Em ở phòng bên cạnh đợi anh”.


Khoảnh khắc đó cô chỉ chú ý đến anh, còn Nguyễn An thì đứng quay lưng về phía Arilda. Không ai trong hai người nhìn thấy ánh mắt cô bé kia lóe sáng. Hơi lạnh nơi đáy mắt bủa ra như mặt biển vào mùa nước đóng băng.


Nguyễn Đan rời khỏi phòng, nhường lại không gian riêng tư cho hai anh em. Cô không hề có chút suy nghĩ khác lạ về lời nói của Arilda. Một cô bé chín tuổi có thể nói dối, nhưng không thể thêu dệt cả một câu chuyện được. Arilda đã nói mình là em gái của anh, cô không có lý do gì không tin vào điều đó. Hơn nữa, nếu bọn họ là anh em, thì có thể lý giải vì sao lúc cô dạy anh học tiếng Việt, anh đã rất thích hai tiếng “anh hai”.


Nguyễn An nhấc bổng Arilda lên giường.


“Em còn chưa khỏe, không nên để chân trần đi trên nền gạch lạnh như vậy. Nào, kể anh nghe xem. Bố mẹ chúng ta là ai, quá khứ của anh như thế nào, và làm sao em lại xuất hiện ở đây?”.


Arilda ngẩn người. Người đàn ông này, dịu dàng quá…


Theo lời cô bé kể. Nguyễn An, có tên tiếng Đức là Alarik Himmler, được gia đình Himmler nhận nuôi. Giống Alarik, Arilda cũng là một đứa trẻ mồ côi. Bọn họ là anh em nuôi. Không thể nói hai người lớn lên cùng nhau, vì khi Arilda được gia đình nhà Himmler đón về, Alarik lúc ấy đã hai mươi tuổi rồi. Bố nuôi của bọn họ là một người có lối sống khép kín. Cả nhà ba người sống trong một căn biệt thự nằm sâu trong một khu rừng miền Bắc nước Đức. Hai năm trước, Alarik đột nhiên biến mất. Cô bé Arilda bảy tuổi muốn đi tìm anh trai nhưng không được bố cho phép. Cho đến một tháng trước, Arilda lén xem tờ báo nhắc đến vụ bắt cóc ở Berlin mà bố cô khoanh tròn bằng mực đỏ, giấu trong ngăn bàn. Cô bé chưa kịp hỏi rõ thì người bố nuôi đúng lúc ấy bị tai nạn, rơi từ trên gác mái xuống, chết ngay tại chỗ. Arilda một mình tới Berlin, sau hai tuần hỏi thăm tin tức từ các bệnh viện, cô bé được một người phóng viên tự do đề nghị giúp đỡ. Arilda không rõ người đàn ông đó điều tra bằng cách nào. Ông ta chỉ nói anh trai cô đang ở một đất nước châu Á, rồi đưa cô đến đây. Arilda chỉ nhớ lần cuối cùng cô bé còn ở cùng người phóng viên ở sân bay, sau đó tỉnh lại đã là trong phòng bệnh này rồi.


Nguyễn An không thể hiểu nổi, tại sao cậu và Arilda lại bất tỉnh nằm trong một nhà kho. Sự việc lạ lùng đến mức khó tin. Và người đàn ông tự nhận là phóng viên kia là ai?


“Em có biết tại sao sau gáy anh có hình xăm không? Ai đã xăm nó?”.


Arilda nghiêng đầu, chớp chớp mắt đáp:


“Là bố xăm cho anh. Bố bảo dòng họ Himmler đều có tên bắt đầu bằng kí tự đầu tiên trong bảng chữ cái latinh. Đàn ông của dòng họ đều phải xăm tên mình lên người”.


“Em có từng nghe anh nhắc đến người nào tên là “IX” không?”.


“IX?”.


Arilda lắc đầu nguầy nguậy. Nguyễn An cười vuốt tóc cô bé. Còn có quá nhiều điều bí ẩn mà cậu muốn tra rõ. Nhưng ít nhất cậu có thể yên tâm hơn một chút. Nếu “A. H” chỉ là chữ viết tắt trong tên cậu, thì không có gì đáng sợ cả.


“Anh sẽ nhập tịch cho em, chúng ta sống cùng nhau ở Việt Nam. Đồng ý không?”.


“Vâng”.


Arilda reo lên, nhào vào lòng cậu. Ở trong ngực Nguyễn An, cô nhếch môi cười. IX? Cô chính là IX, người đã đưa tin cho cậu. Tất nhiên, chẳng có Alarik Himmler nào cả. Cho dù có người muốn điều tra cũng không tra ra được cái gì. Căn biệt thự nằm trong rừng kia đã được cô cho tắm trong biển lửa. Người đàn ông đi cùng cô đến Việt Nam, là “IV”. Tất nhiên, phóng viên chỉ là cái vỏ bọc mà thôi. Giờ gã ta đã ẩn mình đâu đó trong lòng thành phố này rồi. Những người khác sẽ đến, nếu A. H ra lệnh. Chỉ là Arilda không thích đất nước nhỏ bé này. Nơi đây quá yên bình, quá “sạch”. Tại sao A. H lại chọn cái mảnh đất này cơ chứ? Nếu muốn xóa đi quá khứ, thì Áo, Thụy Sĩ, Ba Lan, Séc… đâu mà chả được? Nhưng tất nhiên cô không dám hỏi, lời của A. H là mệnh lệnh tuyệt đối. Arilda đặt bàn tay nhỏ nhắn lên ngực trái, bên dưới lớp vải đen là hình xăm chữ số la mã “IX”. Mực xăm cùng màu với vết xăm của Nguyễn An. Được xăm từ hơn hai mươi năm trước. Đúng vậy, Arilda thân hình bé nhỏ, không phải là cô bé gái chín tuổi non nớt. Người phụ nữ này, cùng tuổi với Nguyễn Đan, đã hai mươi bảy tuổi rồi.
Càng đọc càng thấy hơi lạnh lại tăng lên!
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
Cậu bé đó, anh sẽ không để cậu biến mất trước mắt mình như vậy!
Đọc thêm một chút. Tôi nghĩ câu này bỏ chữ "cậu" ở phía sau đi thì hơn.
Vào chương 7, chương 8, có vẻ như đã bắt đầu vào truyện. Có vẻ hơi rờn rợn.
Truyện làm tôi nhớ đến một bộ truyện tranh từng đọc trước kia. Bộ Monster kể về hai anh em sinh đôi, thuộc một dự án tạo ra những con người hoàn hảo của phát xít Đức trong thế chiến thứ 2. Hồi ấy rất thích bộ này, nhưng giờ nghĩ lại thấy hơi kinh kinh.
 

kẻ tự kỉ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
6/12/16
Bài viết
208
Gạo
0,0
CHƯƠNG 10


Trong một căn biệt thự màu đen ở vùng ngoại ô, dưới ánh hoàng hôn mịn màng có hai người ngồi cạnh nhau bên bàn đá giữa sân, đẹp như tranh vẽ. Chàng trai ước chừng mười bảy tuổi, mái tóc đen khẽ lay động trong gió chiều. Bên phải cậu, một cô công chúa tóc đỏ xoăn dài đang chăm chú viết những con chữ nhỏ phủ kín trang giấy trước mặt. Bọn họ bắt đầu sống ở đây hơn một tháng rồi. Căn biệt thự này đứng tên Nguyễn An. Còn cô bé tóc đỏ là em gái chủ nhân ngôi nhà, Nguyễn Ánh.


Một chiếc Porsche đen chạy thẳng qua cổng. Nguyễn Đan bước xuống từ ghế lái, đi về phía hai người nọ. Cô nhìn cuốn tập trên bàn, mỉm cười.


“Bé Ánh thông minh thật đấy! Em đã nói, viết thành thạo tiếng Việt rồi nhỉ?”.


Arilda khoác tay anh trai, dùng ngôn ngữ mới học được tự hào nói:


“Em có thầy giáo giỏi mà”.


Nguyễn Đan gật đầu, lắc lắc chìa khóa trong tay.


“Thầy với trò đều giỏi cả. Có phần thưởng cho hai thầy trò đây”.


Nguyễn An nhìn chiếc xe thể thao mới cóng trong sân, nghiêng đầu cười.


“Anh còn chưa có bằng lái. Hơn nữa, nó là… xe đua mà…”.


Cô thoáng đỏ mặt. Chiếc 9ff GT9 R có giá hơn một triệu USD này là một trong những chiếc Porsche nhanh nhất, tốc độ tối đa lên đến 418 km/h. Vì muốn tặng quà cho anh mà cô bỏ ra không ít công sức mới có được chiếc xe nhập từ Đức này. Cô vốn có sở thích đua xe. Nhất thời quên mất đó không phải sở thích chung của tất cả mọi người…


Thấy thái độ lúng túng của cô, Nguyễn An cầm lấy chìa khóa.


“Cảm ơn em. Đúng lúc anh định mua xe để đưa Arilda đến trường. Cũng sắp khai giảng năm học mới rồi”.


Arilda đối với việc đi học cảm thấy rất khó chịu. Vì vỏ bọc là một bé gái chín tuổi, nên cô chưa bao giờ đến trường. Nếu không sẽ bại lộ thân phận. Nhưng hiện tại muốn ở cạnh A. H cô chỉ có thể ngoan ngoãn nghe lời. Cũng chẳng rõ tên khốn kia đang làm cái quái gì mà mất hút không thấy liên lạc. Gần đây thời sự có đưa tin trong thành phố liên tiếp có án mạng, ba người chết vì trúng đạn. Có khi gã đó lại ham vui rồi cũng nên.


“Bé Ánh đi học nếu thấy không quen thì cứ nói với chị nhé. Đa số thầy cô trong trường chị đều quen cả. À, cô đầu bếp của trường rất thích động vật, có nuôi một con mèo vàng dễ thương lắm. Bọn chị gọi nó là Alice. Bé Ánh có thích động vật không?”.


Arilda nhìn Nguyễn Đan vui vẻ gật đầu đáp:


“Có ạ. Chó mèo chuột chim ếch cá… em đều thích cả”.


Trong lòng cười lạnh. Thích nhất vẫn là con người. Hơn hai mươi năm, hầu như mỗi ngày cô đều chơi với động vật. Mỗi loài đều có tiếng kêu và đôi mắt khác nhau. Bắt đầu và kết thúc nỗi sợ hãi của chúng là công việc của cô. Chính A. H đã nói, thời khắc đôi tay nhỏ bé này cầm lên con dao mổ, là lúc cô xinh đẹp nhất. Bàn về giải phẫu, cô tự tin mình không thua bất kì ai. Người duy nhất giỏi hơn cô là “bố Himmler”, đúng hơn là Tiến sĩ Himmler đã bị “tai nạn” không còn trên cõi đời này nữa.


Khác với sự lo lắng của Nguyễn Đan, Arilda rất được chào đón ở trường. Không chỉ ngoại hình nổi bật, Arilda còn nói thạo tiếng Anh lẫn tiếng Việt nên việc hòa nhập với bạn học rất dễ dàng. Đây là ngôi trường đặc biệt, mỗi khối chỉ có một lớp. Cả trường vỏn vẹn có chín lớp, nhưng khuôn viên trường lại rộng vô cùng. Trường được xây dựng trên một mảnh đất ở vùng ngoại ô, tách biệt hẳn với những ngôi trường khác trong thành phố. Số lượng giáo viên rất đông đảo. Trường chỉ có hơn ba trăm học sinh, nhưng lại có gần một trăm giáo viên. Một nửa số học sinh là con lai, số còn lại vì nhiều lý do mà không thể theo học ở các trường khác. Điểm chung duy nhất của những đứa trẻ này là bố mẹ chúng đều có một thứ: tiền! Học sinh đến trường đều được đưa đón bằng xe riêng của gia đình. Nhưng có lẽ chỉ có Arilda là được đón bằng xe… đua.


“Ánh xinh thật ấy! Còn xinh hơn cả chị Hà Lan lớp bảy. Tan học Ánh ghé nhà tớ chơi nhé?”.


“Anh lúc sáng là anh trai của Ánh à? Đẹp trai cực! Còn đẹp hơn diễn viên phim Hàn nữa”.


“Bọn tớ đến nhà Ánh chơi được không?”.


Arilda trong bộ đồng phục, chiếc váy caro cùng màu tóc đi với chiếc sơ mi trắng cùng màu da giống như chủ nhân của bữa tiệc vừa khiến bạn học ghen tị vừa khiến những đứa trẻ này ngưỡng mộ không ngớt lời xuýt xoa. Ngôi trường này không biết rằng người bọn họ vừa đón vào nào phải là một cô công chúa…


Ngày 20 tháng 10.


Thanh tra Dương Tây của tổ chuyên án vừa mới thành lập tay cầm con dao hung khí của vụ án. Anh nhíu chặt hai hàng chân mày. Vụ án này có rất nhiều điểm khó hiểu. Theo lời người bảo vệ, trường chỉ có một cổng duy nhất, trước cổng có gắn hai camera phạm vi quan sát là ba trăm sáu mươi độ. Theo băng ghi hình thì không có khả năng có kẻ lạ bên ngoài đột nhập vào. Thời điểm nạn nhân chết theo báo cáo khám nghiệm là một đến hai giờ chiều. Khi cảnh sát có mặt ở hiện trường 14 giờ 55 phút, nạn nhân đã chết được gần một tiếng đồng hồ. Người cuối cùng gặp nạn nhân là hiệu trưởng trường này cùng mấy giáo viên. Hiệu trưởng sau khi nhờ nạn nhân đến phòng dụng cụ kiểm tra thì có xem đồng hồ để chuẩn bị họp, lúc đó chính xác 12 giờ 59 phút. Cảnh sát sau khi đến thì lập tức phong tỏa tìm hung thủ gây án. Nhưng toàn trường không phát hiện kẻ khả nghi nào, chỉ có giáo viên và học sinh. Nghi ngờ được chuyển sang những giáo viên trong trường. Sau đó nghi vấn đó lại nhanh chóng sụp đổ. Bởi vì cuộc họp diễn ra trong vòng một giờ đồng hồ lại trùng khớp với thời điểm nạn nhân tử vong. Thế là tất cả giáo viên đều có bằng chứng ngoại phạm vững chắc. Chỉ còn lại người bảo vệ là không có nhân chứng. Tuy nhiên từ phòng bảo vệ gần cổng trường muốn đi đến phòng dụng cụ bắt buộc đi qua một khoảnh sân. Buổi sáng trời có mưa lớn, cảnh sát không tìm thấy bất cứ dấu chân nào tại “con đường duy nhất” đó. Người bảo vệ muốn đi qua mà không lưu dấu chân chỉ có cách dùng dây móc hoặc tấm ván dài đặt lên bậc thềm nối với khu phòng học sinh, sau đó xuyên qua hành lang tới phòng dụng cụ. Nhưng nếu ông ta có hành động kì quặc nào đã bị học sinh trông thấy. Khoảnh sân đó nằm ngay trong tầm quan sát của ít nhất bốn lớp học. Mà 12 giờ 30 phút, người này vẫn có mặt ở phòng bảo vệ để mở cổng cho một giáo viên vào trường. Nên không thể có chuyện ông ta nấp sẵn từ trước ở phòng dụng cụ trước khi trời mưa.


Điểm khó hiểu thứ hai của vụ án là vết thương chí mạng trên người nạn nhân. Người này bị sát hại ở một tư thế kì quái. Giống như anh ta đang lần mò tìm kiếm vật gì dưới đất ở một góc nghiêng. Tư thế như vậy rất khó xác định chiều cao của hung thủ. Vết đâm lại có độ chuẩn xác như dân chuyên nghiệp. Hung khí là một con dao không sắc bén lắm của phòng dụng cụ, thế mà hung thủ lại có thể khiến nạn nhân chết ngay lập tức. Con dao đâm chính xác vào vị trí điểm yếu của quả tim. Trong phòng không có bất kì vết máu hay dấu vết khả nghi nào. Phòng dụng cụ bình thường đều khóa lại, chỉ có hiệu trưởng giữ chìa khóa. Nên hai dấu vân tay tìm thấy trên tay nắm cửa là của chính nạn nhân và hiệu trưởng. Nhưng hung thủ làm thế nào để xóa đi dấu vân tay? Khi mà dấu tay của hai người kia vẫn còn lưu lại ở tay nắm cửa? Chỉ có một cách giải thích duy nhất là hắn đi vào phòng sau nạn nhân. Vậy sau đó hắn làm thế nào để rời khỏi phòng? Bởi vì điểm khó hiểu thứ ba chính là khi nạn nhân được tìm thấy, căn phòng bị khóa từ bên trong.


Một vụ án mạng trong phòng kín. Ngoài cửa ra vào duy nhất thì chỉ có một cửa sổ rất nhỏ, một đứa trẻ bảy, tám tuổi thì may ra mới chui lọt. Nhưng đây là căn phòng có trần cao, cửa sổ cách mặt đất hơn hai mét. Một đứa trẻ không có khả năng trèo lên được. Cho dù là có thì Dương Tây cũng không tin hung thủ là một đứa trẻ. Học sinh cấp một tuyệt đối không thể gây ra vết thương chí mạng trên người nạn nhân, sau đó cẩn thận lau sạch dấu vân tay trên hung khí rồi lại khóa cửa ra vào, trèo qua cửa sổ rời khỏi.


Cảnh sát Dương Đông nhận được điện thoại từ anh trai, lúc đi tới hiện trường thì nghe được một đoạn đối thoại.


“Vụ án này đúng là kì quái. Đừng nói chúng ta làm cảnh sát mấy năm, bố tôi ở trong ngành mấy chục năm cũng chưa từng gặp qua vụ án như vậy. Anh nói xem, liệu có phải thanh tra của chúng ta có vận khí xui xẻo, anh ta về nước thì liền xuất hiện liên tiếp mấy vụ án. Giết người hàng loạt, giết người trong phòng kín…”.


“Anh không để ý vết sẹo trên mặt anh ta à? Nghe nói là lúc ở Mĩ anh ta theo dõi hung thủ giết người hàng loạt. Hung thủ tóm được anh ta liền muốn rạch mặt, giống như hắn đã làm với các nạn nhân trước. Nhưng sau đó lại bị thanh tra Dương Tây của chúng ta cướp lấy con dao. Lúc hung thủ bị bắt, cả mặt hắn chằng chịt vết dao rạch, nát be bét. Anh nói xem, hung thủ đáng sợ hay người đó mới đáng sợ?”.


Người cảnh sát vừa nói vừa chỉ tay vào căn phòng dụng cụ. Dương Đông đứng sau lưng hai viên cảnh sát, hừ lạnh một tiếng. Hai người nọ nghe thấy giật mình, chột dạ cúi gằm mặt. Dương Đông bước qua đi thẳng vào trong phòng.


“Anh gọi em đến có chuyện gì không?”.


Dương Tây quay người lại nhìn em trai, sắc mặt khó coi kể lại tình hình vụ án mạng.


“Đúng là khó hiểu. Anh đã thẩm tra những giáo viên trong trường chưa? Liệu có người nào giữa chừng rời khỏi cuộc họp?”.


“Không có”. Dương Tây lạnh nhạt đáp.


Nhìn người đàn ông trước mặt hai mắt vằn vện tia máu, quầng mắt thâm đen. Dương Đông tặc lưỡi.


“Bên tổ chuyên án của anh không đủ người sao? Vừa nãy hai người bên ngoài còn rảnh rỗi bàn tán chuyện của anh. Tên sát nhân rạch mặt kia là tự hắn rạch nát mặt mình, còn vụ án giết người bằng súng trong thành phố là cấp trên cần anh mới thương lượng với cảnh sát Hoa Kì, điều anh về nước. Vậy mà bọn họ lại nói do anh về mới xảy ra án mạng. Thật tức chết người mà!”.


“Cậu để ý mấy cái đó làm gì. Tôi vừa về nước không lâu, tình hình ở đây cậu nắm rõ hơn. Giúp tôi điều tra xem có tìm được kẻ nào khả nghi không”.


“Anh ở bên ấy làm đặc phái riêng rất tốt, về nước làm gì cơ chứ?”.


Dương Tây quay phắt người lại, lừ mắt.


“Có thằng em trai nào như cậu? Anh về cậu còn muốn đuổi? Thiếu đòn hả?”.


Dương Đông bật cười ha hả.


“Thôi thôi, em không đánh lại anh. Giúp anh một tay là được chứ gì”.


Hai người cảnh sát bên ngoài nhìn nhau nuốt nước bọt. Không chỉ thanh tra mà em trai anh ta cũng thật khác người, còn có thể ở hiện trường ngoác miệng ra cười được. Bọn họ rợn hết tóc gáy rồi đây này…
Một cô gái 27 trong thân hình cô bé 9 tuổi, một vụ án mạng trong phòng kín không có manh mối nào của hung thủ... Conan đâu vào cuộc. Dự là sẽ có nhiều chết chóc nhỉ? Đã lạnh lại thêm rợn người nữa rồi!
 

A Thụy

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/10/16
Bài viết
358
Gạo
0,0
CHƯƠNG 11


Phía Nam thành phố, nơi một cây cầu lớn mới được xây dựng cách đây hai năm. Đêm đã về khuya, dưới ánh trăng nhợt nhạt, một người đàn ông trẻ vận áo choàng đen đứng lẫn trong bóng tối. Cổ áo dựng cao che khuất nửa khuôn mặt. Chỉ có đốm sáng đỏ trên điếu thuốc chỉ ra vị trí của anh ta.


Chiếc taxi đỗ lại ở một đầu cây cầu. Arilda xuống xe, bước đi không tiếng động tiến về chấm đỏ ở giữa cầu. Gã đàn ông lạnh lùng nhìn cô.


“IV đâu?”.


Nghe ra tâm trạng không vui trong giọng nói kia, Arilda vô thức run nhẹ. Cô cố giữ cho giọng mình tự nhiên, ngẩng đầu lên nhìn gã.


“Tôi không liên lạc được với hắn”.


Cạch. Tiếng lên cò súng làm Arilda rùng mình. Khẩu Smith & Wesson .500 S&W Magnum kê sát bên thái dương cô. Tay trái gã đàn ông vẫn đút trong túi áo choàng. Đôi đồng tử màu xám xoáy thẳng vào Arilda.


“Ta để các ngươi ở cạnh bảo vệ ngài ấy không phải cho các ngươi thoải mái muốn làm gì thì làm”.


Gã đàn ông này không nói chơi với mình, cái lạnh của kim loại truyền qua da như chạm đến toàn bộ tế bào trên người khiến Arilda tự nhắc nhở bản thân. Gã chỉ nạp đạn, chưa từng nạp vào cái gọi là khiếu hài hước. Trong đầu gã chỉ có một ý nghĩ duy nhất: phục tùng mọi mệnh lệnh của người đó. Và bất kì kẻ nào, kể cả những kẻ mang số hiệu, nếu gây ra trở ngại dù là nhỏ nhất cũng sẽ bị trừ khử. So với IV, Arilda càng ghét ba kẻ đứng đầu hơn. Nhưng dù có ghét đến mức muốn giết chết đối phương, cô cũng không bao giờ có can đảm để lộ ra sát khí. Bởi vì cô không có thậm chí chỉ 0,1% cơ hội giành phần thắng.


“Trên người ngươi có mùi chuột chết”. Gã đàn ông khịt mũi.


“Là con chuột đi lạc thôi, anh không cần để ý. Có thể cất súng của anh đi được không? Tôi không có cảm tình với cái vật đang hôn mình một cách lạnh lùng như vậy đâu”.


Gã đàn ông cất súng, song giọng nói vẫn lạnh lẽo như cũ:


“Chết một, hai con chuột chẳng sao. Nhưng đừng có ngu ngốc giết chóc bừa bãi. Cơn dịch hạch cuối cùng sẽ đem đến vận rủi không phải cho lũ chuột, mà là kẻ ngu ngốc ăn thịt chúng. Tại sao ngài ấy phải ẩn mình ở một đất nước nhỏ bé xa lạ, nếu ngươi không mất khôn thì hãy khắc ghi điều đó vào đầu”.


Bị xem thường khiến Arilda cảm thấy thật nhục nhã.


“Tôi không phải đứa con nít. Tôi sẽ nhắc nhở IV, nhưng nếu hắn không nghe thì không liên quan đến tôi”.

“Hừm. II sẽ sớm đến đây. Ngươi chỉ cần ngoan ngoãn phối hợp với hắn là được”. Gã đàn ông nói xong liền ẩn mình vào bóng đêm không để lại chút dấu vết.


Arilda cắn môi. Phải sớm liên lạc với IV. Cô đã dặn hắn đừng gây náo loạn song có vẻ hắn được tự do quá lâu nên quên mất ba kẻ kia đáng sợ thế nào. Đặc biệt là I – kẻ vừa chĩa súng vào đầu cô. Cái mũi của gã có thể đánh hơi thấy mọi thứ. Cô đã không để máu bắn lên người dù chỉ một giọt thế mà gã vẫn biết được cô vừa giết người. Nếu có thể cô cũng không muốn giết chóc. Vì chỉ cần thân phận có khả năng bị bại lộ, dù là để lại manh mối nhỏ nhặt đến đâu đi nữa, cô cũng sẽ bị trừ khử. Tên giáo viên trong trường đã nghe được cuộc nói chuyện điện thoại của cô với I, cô buộc lòng phải bịt miệng đối phương ngay lập tức. Không chắc chắn anh ta biết tiếng Đức, song thà giết nhầm còn hơn bỏ sót. Nếu I biết có người nghe được gì đó thông qua Arilda thì người chết là chính cô chứ không ai khác.


II sắp đến rồi. Những ngày tháng được ở riêng với A. H của cô đã không còn mấy bữa nữa. Arilda ngẩng đầu nhìn bầu trời u ám, có lẽ cô sinh ra đã được định sẵn là một con chuột bạch không hơn không kém.


Trong cơ thể của A. H và mười một người bọn cô đều mang một loại virut: FAH23.


Cô không phải là người được chọn. Là cô liều mạng để có được vị trí này. Người mang số IX đầu tiên đã chết vì phản ứng thuốc.

Thí nghiệm tiến hành lần đầu là khi A. H được năm tuổi nhưng không phải tiến hành trên người A. H. Lúc đó Arilda còn chưa được sinh ra. Từ FAH01 đến FAH22, mỗi lần đều có một trăm đứa trẻ trở thành đối tượng thí nghiệm. Loại thuốc được nghiên cứu không mới mẻ, chẳng qua trước đây không ai dám thử. Bởi vì bắt buộc phải tiến hành trên cơ thể con người, một khi thất bại đối tượng thí nghiệm nhất định sẽ chết. Đối tượng thí nghiệm càng nhỏ tuổi, tỉ lệ thành công càng cao. Hơn hai ngàn đứa trẻ trở thành vật hiến tế, nhưng kết quả vẫn không mấy khả quan. Năm A. H mười bảy tuổi, thí nghiệm bắt buộc phải thành công. Nếu cơ thể bước sang tuổi mười tám, cho dù thuốc có được cải tiến hoàn hảo đến đâu, tỉ lệ thành công sẽ giảm xuống còn một nửa. Loại thuốc này được đưa vào nghiên cứu, chỉ có một mục đích duy nhất: làm cho A. H bất tử.


FAH22 có thể làm tế bào ngừng phát triển, giảm tốc độ lão hóa xuống gần như bằng 0. Nhưng một trăm đưa trẻ rút cục sau sáu tháng được tiêm thuốc vẫn chết hơn một nửa. Số còn lại đã không chịu nổi đau đớn vì phản ứng phụ, cơ thể sinh ra hiện tượng kháng thuốc. Cuối cùng đã chết trong ba tháng kế tiếp. Arilda đã đề nghị được trở thành đối tượng thí nghiệm đặc biệt. Cô trải qua mười tháng được “chăm sóc cẩn thận” với năm lần thử nghiệm thuốc. Từ mũi tiêm thứ hai trở đi, mỗi ngày cô phải chịu đựng đau đớn liên tục hai mươi tư giờ. Cuối cùng nghiên cứu cũng thành công, FAH23 ra đời. “Mười một người được chọn” thử thuốc lần cuối trước khi FAH23 được đưa vào cơ thể A. H. Kết quả chỉ có IX chết vì cơ thể không thích hợp. Vì lập công, Arilda trở thành người thay thế cho IX đã chết. Nhưng không giống mười người kia hay A. H; cô đã phải trải qua năm lần thử thuốc. Quá trình phát triển của tế bào trong cơ thể vẫn diễn ra, chỉ là chậm hơn so với người thường. Cứ bảy năm, cô sẽ “lớn” thêm một tuổi.


Cô chưa bao giờ hối hận. Cho dù là mười tháng đau đớn hay quá trình huấn luyện như địa ngục suốt nhiều năm liền. A. H đã nói: Ta cần em. Một đứa trẻ ngay cả cha mẹ cũng không cần, đem ném ra đường còn có người cần đến. Lại là người đặc biệt như anh. Khoảnh khắc hạnh phúc đấy đủ khiến cô cam nguyện làm bất cứ chuyện gì. Nếu có ngày anh bảo cô chết, nhất định cái chết là thứ tốt nhất mà cô nên đón nhận.


Ngày 27 tháng 10.


Cảnh sát Dương Tây nhìn chằm chằm thi thể vừa được phát hiện. Mạch máu bên dưới thái dương anh co giật. Đã là nạn nhân thứ sáu rồi.

“Ọe…”.


Tiếng nôn mửa ngay phía bên ngoài khiến Dương Tây nổi cáu:


“Gọi Đăng Huy vào đây”.


Một cảnh sát trẻ chạy vào, mặt mày tái mét. Cậu ta liếc nhìn thi thể rồi lập tức đưa hai tay bịt chặt miệng ngăn cơn nôn tiếp theo chực phun ra.


“Về đi. Tôi không cần một kẻ nhát gan ở trong đội của mình”. Dương Tây lạnh lùng nhìn anh chàng cấp dưới nhỏ con đang đứng trước mặt.


“Không… Tôi ổn rồi. Tôi có thể bắt đầu…”. Thân hình cao lớn, ánh mắt sắc lạnh, lời nói không kiêng dè. Mọi thứ từ vị cấp trên khiến Đăng Huy túa ra mồ hôi lạnh.


“Tôi không phải đang thương lượng với cậu. Đây là mệnh lệnh”.


Dương Tây dứt khoát nói sau đó quay trở lại chỗ thi thể nạn nhân xấu số. Nếu là lúc thường anh cũng không nghiêm khắc với cấp dưới như vậy. Cảnh sát không phải thần thánh, cũng biết sợ hãi. Lần đầu tiên nhìn thấy xác chết, lại là một vụ án giết người hàng loạt. Tất nhiên là cơ thể sẽ sinh ra phản ứng thông thường. Sợ sệt, nôn mửa, ớn lạnh. Lúc ở Mỹ, lần đầu trông thấy thi thể của nạn nhân mà hung thủ là một tên Đồ Tể, anh cũng suýt nôn ngay tại chỗ đấy thôi. Nhưng hiện tại không phải thời điểm để anh an ủi cấp dưới hay ung dung từ tốn điều tra. Vụ án trong phòng kín vẫn không có chút tiến triển, đã qua bảy ngày rồi. Thời gian càng kéo dài, manh mối càng khó tìm kiếm. Lòng anh đã nóng như lửa đốt còn bị vụ giết người hàng loạt này chặn lại. Đã vậy phải hứng chịu thêm cảm giác thất vọng về năng lực đồng nghiệp từ khi về nước. Cảnh sát trong nước hầu như không đụng phải những vụ án hóc búa. Ở thành phố này, từ lúc anh rời đi đến khi anh trở về, ngần ấy năm không hề có vụ án mạng phức tạp nào cả. Không phải đấu trí để tìm ra hung thủ khiến những người được gọi là cảnh sát này quên dần việc vắt óc suy nghĩ. Không phải liên tục bị điện thoại gọi dậy nửa đêm để đến hiện trường vụ án khiến thần kinh họ trở nên trì trệ, lơ đễnh. Khoan nói đến bọn họ có năng lực hay không, trước hết bọn họ còn chả có tinh thần. Đã không có tinh thần phá án, truy bắt hung thủ thì kết quả tất nhiên là dậm chân tại chỗ.


Dương Tây cũng không phải ba đầu sáu tay. Một mình anh không thể giải quyết hết được, nếu có thể tự điều tra thì còn cần lập tổ chuyên án làm gì.


“Khỉ thật”.


Anh hằn học chửi thề. Không chỉ án mạng trong phòng kín, mà vụ án này cũng không có chút manh mối. Điểm duy nhất có thể xác định là năm nạn nhân trước không có quen biết nhau. Bọn họ nam, nữ đều có. Nghề nghiệp khác nhau. Thu nhập đều trên mức trung bình, có thể nói là khá giả. Nhưng cũng không đến mức giàu có, nên động cơ gây án không thể là trả thù vì tiền. Không hề có mối liên hệ nào giữa các nạn nhân. Theo kết quả điều tra, có thể nhận định chắc chắn bọn họ không có mối quan hệ thân thích hay xã giao nào với nhau. Thế nhưng lại không thể biết được nạn nhân có quen biết với hung thủ hay không. Nếu là không quen, lý do gì khiến bọn họ chịu đến gặp hắn ở một địa điểm hoang vắng cách xa chỗ ở của mình? Nếu quen, tại sao cảnh sát không tra ra nổi một kẻ nào là người quen biết chung của năm nạn nhân?


Nạn nhân thứ sáu này cũng bị giết y hệt các nạn nhân trước. Một phát súng duy nhất ngay giữa trán. Trên trán nạn nhân còn lưu lại vết cháy xém của thuốc súng. Hung thủ đã bắn ở cự ly gần nhất, hắn đứng ngay trước mặt, thản nhiên gí sát súng vào nạn nhân rồi bóp cò. Điều đó càng khiến Dương Tây thêm đau đầu. Tại sao nạn nhân không bỏ chạy? Một người bình thường bị kê súng vào đầu, mặt đối mặt với hung thủ, lại cam chịu đứng yên. Rút cục là vì sao? Còn một điểm kì quái nữa. Các nạn nhân đều không chống trả. Hiện trường vụ án không hề có dấu vết ẩu đả, nạn nhân không có vết thương nào khác dù là nhỏ nhất, quần áo không bị lấm bẩn nhăn nhúm, móng tay không có mẩu da nào của hung thủ. Thế nhưng gương mặt bọn họ đều có chung một vẻ. Chính là cái vẻ mặt khiến cảnh sát nhìn thấy cũng phải chạy ra khỏi phòng để nôn thốc nôn tháo. Đó là vẻ kinh hoàng không cách nào miêu tả nổi.


“Một chút manh mối cũng không có”. Dương Tây rầu rĩ thở dài.


“Không có manh mối là do anh đang nhìn chứ không phải đang quan sát”.


Giọng nói sau lưng vang lên làm Dương Tây xoay người lại. Anh cố gắng kìm cái cảm giác muốn đánh người.


“Tôi không cần nghe lời nói móc mỉa từ một kẻ vừa nôn mửa cách đây ít phút chỉ vì trông thấy xác chết, nhóc con ạ. Hay tôi nên gọi là quý-ngài-Sherlock-Holmes-dỏm?”.


Bị gọi một cách mỉa mai và nghe đối phương nhắc lại bộ dạng khó coi của mình trước đó khiến Đăng Huy thoáng đỏ mặt.


“Sao còn chưa về? Tôi đã bảo cậu rời đi cách đây mười phút rồi cơ mà!”. Dương Tây vẫn tiếp tục gay gắt nói.


“Tôi phát hiện một vài manh mối nên muốn báo cáo Tổ trưởng trước khi về…”. Đăng Huy cúi đầu lí nhí đáp.


Một vài? Dương Tây có cảm giác như vừa bị chọc tức. Anh không moi ra nổi một điểm khả nghi, tên nhóc yếu đuối trước mặt lại mạnh miệng nói phát hiện VÀI manh mối. Như là cảm giác nhiệt độ trong phòng đột nhiên giảm mạnh, Đăng Huy nuốt nước miếng đánh “ực” một tiếng.


“Hừ. Nói nghe xem, ngài H-o-l-m-e-s”. Dương Tây khoanh tay đứng bên cạnh, kéo dài giọng.


Nhưng lần này Đăng Huy không sợ hãi hay ngượng ngùng nữa. Cậu không muốn tên người đàn ông mình thần tượng bị người khác mang ra để trêu chọc cậu. Đăng Huy ngẩng đầu, nhìn thẳng vào cấp trên, ngón tay trỏ chỉ vào mắt mình:


“Tôi đã hỏi người của đội khám nghiệm. Đồng tử nạn nhân có dấu hiệu sợ hãi cực độ…”.


Còn đang ngạc nhiên vì ánh mắt sáng ngời của tên nhóc đang nhìn mình, nghe vậy Dương Tây nhếch môi. Cần gì xem khám nghiệm, nhìn sơ qua cũng đủ biết nạn nhân sợ hãi hung thủ. Nhưng Đăng Huy lại bình tĩnh nói tiếp:


“Tuy nhiên không phải nạn nhân sợ hãi hung thủ. Đúng hơn là nạn nhân sợ hãi lời nói của hung thủ. Đồng tử nạn nhân ban đầu có hiện tượng co lại, nhưng lúc chết đồng tử lại giãn nở hết cỡ. Diễn biến tâm lý nạn nhân là đi từ ngạc nhiên đến cực kì lo lắng, suy nghĩ tìm cách đối phó, cuối cùng là tuyệt vọng. Thế nhưng nạn nhân không hề quay lưng hay tìm cách trốn chạy. Điều đó nói lên cái gì?”.


Vừa bất ngờ vừa ảnh hưởng bởi sự tự tin của người hỏi, Dương Tây bị cuốn theo:


“Nói lên cái gì?”.


Dường như rất hài lòng trước thái độ của vị cấp trên, người mà ban nãy còn la hét chế giễu mình, giờ lại rất “ngoan ngoãn”. Đăng Huy mỉm cười đáp lời:


“Nói lên nạn nhân biết có trốn chạy cũng vô ích. Một người bình thường bị uy hiếp tính mạng nhất định sẽ bỏ chạy, không trước thì sau. Cho dù có người phản ứng chậm, nhưng cả sáu nạn nhân đều không ai bỏ chạy. Chứng tỏ: hung thủ không uy hiếp tính mạng nạn nhân mà là người thân của nạn nhân!”.


Dương Tây giật mình trước lời nói tràn đầy tự tin đó. Anh đã không quan sát kĩ, giống như tên nhóc này đã nói. Sự sợ hãi của sáu nạn nhân là thứ mắt thường có thể nhìn thấy, chính vì vậy mà anh đã bỏ qua không chú tâm vào chi tiết này. Cho nên cũng không hề nghi ngờ mà sai lầm nhận định nạn nhân chỉ đơn thuần sợ hãi hung thủ giết mình. Dương Tây hít sâu một hơi làm bản thân bình tĩnh lại. Anh nghiêm túc nhìn Đăng Huy:


“Cậu còn phát hiện gì nữa?”.


Câu hỏi này đồng nghĩa với việc anh ta tin tưởng lời nói và năng lực của mình, Đăng Huy rộn ràng nghĩ. Cậu tiếp tục phân tích:


“Phát hiện ở trên khiến tôi chú ý đến giao tiếp giữa hung thủ và các nạn nhân. Nhờ đó tôi đã tìm ra được điểm chung của cả sáu nạn nhân, cũng chính là lý do bọn họ bị hung thủ lựa chọn trở thành mục tiêu”.


Manh mối này không hề nhỏ, nó khiến Dương Tây thiếu chút nữa thì trở nên kích động. Cả hai vụ trọng án đều bị đứt manh mối, sự tự tin khi về nước có thể phát huy năng lực của mình bị dập tắt dần, sự thất vọng bởi tình hình cảnh sát trong nước trì trệ… Những thứ đó đã khiến Dương Tây nghẹt thở, anh stress đến không ngủ nổi. Hiện tại lần đầu tiên sau nhiều tháng anh có thể nhìn thấy mặt trời ló ra khỏi tầng tầng lớp lớp mây mù.


“Là điểm chung gì, cậu mau nói đi!”.


Ánh mắt nóng hổi của người đối diện khiến Đăng Huy lúng túng. Cậu từng nghe không ít lời đồn rất-đáng-quan-ngại về vị Tổ trưởng về nước không lâu này. Lần đầu hợp tác lại bị anh ta mắng thẳng mặt khiến Đăng Huy càng không có nổi một chút ấn tượng tốt. Vậy mà Dương Tây lúc này lại có vẻ mặt vui mừng, ánh mắt sáng bừng hệt như một đứa trẻ được bố mẹ bảo sẽ tặng món quà nó thích nhất chỉ cần nó thắng giải cuộc thi nào đó. Đăng Huy chợt nhận ra người đàn ông to xác trước mặt không hề đáng sợ. Ngược lại còn cho cậu cảm giác anh ta có chút đáng thương, quan hệ với đồng nghiệp không tốt nên anh ta toàn tự mình giải quyết khó khăn. Cho dù anh ta có tài giỏi đến đâu chăng nữa cũng đâu thể xử lý hết mọi việc một mình. So với đâm đầu vào ngõ cụt, thì nêu ra ý kiến rồi cùng ai đó tranh luận sẽ có được kết quả dễ dàng và nhanh chóng hơn rất nhiều.


“Nghề nghiệp của sáu nạn nhân đều có một điểm chung duy nhất. Bọn họ biết ngoại ngữ. Cả sáu người đều nói được tiếng Anh”. Đăng Huy mỉm cười nói tiếp: “Tổ tưởng ở nước ngoài nhiều năm nên không chú ý, nhưng tôi lại thấy chi tiết này rất đặc biệt. Số người có thể thành thạo tiếng Anh ở trong nước không có mấy đâu. Không thể có chuyện đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu liên hệ với phát hiện lúc nãy, chúng ta có thể khẳng định…”.


“HUNG THỦ LÀ NGƯỜI NGOẠI QUỐC!”. Dương Tây la to.


Đăng Huy gật đầu:


“Phải. Hơn nữa hắn tự tin đối mặt chĩa thẳng súng vào nạn nhân. Chính sự tự tin này đã tố cáo hắn. Tất cả sáu nạn nhân đều bị đứng bắn, theo góc độ thì hung thủ cao trên mét tám. Tìm một người cao trên mét tám giữa mấy triệu người không dễ, chứ tìm một người cao trên mét tám trong đám người ngoại quốc trong thành phố này thì không hề khó”.


Dương Tây sôi sục nhiệt huyết. Anh gọi điện thoại liên tục, phân công cấp dưới đang có mặt ở hiện trường đi điều tra. Mãi đến khi sắp bước lên xe rời khỏi hiện trường anh mới phát hiện tên nhóc kia nãy giờ vẫn lẽo đẽo đi theo bên cạnh.


“Cậu theo tôi làm cái gì?”.


“Tổ trưởng vẫn chưa phân công nhiệm vụ cho tôi”.


“Cậu giỏi cái gì?”.


“Tôi thích Sherlock Holmes lắm”.


“Tôi hỏi cậu giỏi cái gì, đâu có hỏi cậu thích cái gì”.


“Thì vốn là như nhau mà. Lúc nãy Tổ trưởng cũng thấy rồi đấy. Mang theo người như em bên cạnh rất có ích còn gì. Mà anh cũng thích Sherlock Holmes đúng không? Em vừa trích lời nói của Holmes với bác sĩ Watson, anh liền hiểu ngay. Nhất định là anh cũng mê SH giống em…”.


“Ồn ào quá! Đừng có đột ngột thay đổi cách xưng hô như vậy. Cũng đừng có tùy ý đặt tên gọi viết tắt, SH chẳng phải tên của một dòng xe Honda à?”.


Dương Tây không nhận ra thái độ của anh dành cho tên nhóc kia đã thay đổi. Tuy anh khó gần nhưng đối với người khác, đặc biệt là đồng nghiệp, anh chưa bao giờ bảo đối phương đừng thế này, đừng thế nọ. Sự thẳng thắn đó trước nay chỉ dành cho mỗi một người là Dương Đông - em trai của anh.


“Có sao đâu chứ. Đi thôi, em biết một quán phở gần đây ngon lắm, cạnh đó cũng có chỗ đậu xe nữa”. Đăng Huy chui tọt vào ghế lái phụ, tươi cười hất hất cằm với Dương Tây vẫn đứng bên ngoài xe.


“Đừng có mà ‘Đi thôi’ rồi leo lên xe người khác thản nhiên như vậy. Tôi không thích đi ăn với ai cả”. Dương Tây giận điên lên.


“Anh nói gì vậy chứ? Em đã giúp anh phát hiện nhiều manh mối lớn như thế, đương nhiên anh phải mời em một bữa rồi. Nhanh lên, em đã nôn sạch bữa sáng, bụng đói ngấu lên rồi”.


Dương Tây phì cười. Tên nhóc này trước đó còn chật vật đến mất mặt, hiện tại đã có thể bình thản nhắc đến việc khiến bản thân xấu hổ. Có thể đối diện với điểm yếu của bản thân thì mới có bản lĩnh đối đầu với tội phạm. Tên nhóc này không đến nỗi tệ, Dương Tây cong môi nghĩ.

"Coi như cậu gặp may, chỉ đường đi".
 
Chỉnh sửa lần cuối:

chuyencuangan

Duyệt quyền tác giả
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/3/16
Bài viết
1.202
Gạo
0,0
Dạo này cũng đang nghĩ lâu rồi chưa thấy cậu đăng truyện.

Mình thấy chương này hay, giải thích nhiều điều nhưng vẫn gây tò mò về các thành viên khác trong nhóm. Mình thích cả suy luận của vụ án. Việc thử nghiệm thuốc nghe rợn rợn. :-ss

Lúc ở , lần đầu trông thấy thi thể của nạn nhân mà hung thủ là một tên Đồ Tể,
"Mỹ" mình thấy hay dùng hơn.
 

A Thụy

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/10/16
Bài viết
358
Gạo
0,0
CHƯƠNG 12

Sau khi dùng mật mã gửi mail cho IV, Arilda vẫn không ngừng được cảm giác bất an trong lòng. Cô không lo lắng IV xảy ra chuyện. Việc hắn sống chết thế nào với cô không có chút ý nghĩa. Nhưng lời đe dọa của I hôm trước, Arilda biết, kẻ đó không nói suông bao giờ. Cô không muốn bị liên lụy vì IV hành động ngu xuẩn. Lúc này chỉ có thể đợi IV hồi âm, hy vọng hắn biết điều dừng việc giết chóc lại. Cô chẳng mong gì khác ngoài việc được tiếp tục ở cạnh A. H.


12 giờ, Nguyễn An và người giúp việc đã say ngủ. Arilda đi bằng đầu ngón chân, di chuyển không một tiếng động, rời khỏi phòng ngủ. Bên ngoài khoảnh sân rộng là bức tường cao hơn 2 mét. Arilda lộn trái áo khoác mềm, buộc một cái móc kim loại vào ống tay áo, ném qua gờ tường. Vật kia đã được quấn vải từ trước, không hề phát ra âm thanh đánh động người khác. Thân hình nhỏ bé của Arilda nhanh nhẹn như con sóc, chân giẫm lên áo thoắt cái đã đáp xuống bên kia bức tường. Arilda cẩn thận thu lại dụng cụ, không lưu lại bất kì dấu chân hay vết bẩn nào. Cô nhẹ nhàng phủi áo, mặc lại lên người. Chất vải của áo này rất tốt, có thể co giãn đến mức đáng kinh ngạc.


Một tiếng đồng hồ sau, Arilda cẩn thận quan sát xung quanh căn nhà hoang rồi nhanh chóng đi vào. Vừa đặt một chân lên bậc cầu thang đầu tiên dẫn lên lầu 2, cơ thể Arilda phản ứng lại với nguy hiểm. Từ nhỏ đã tiếp xúc với máu tươi khiến cho khứu giác của cô trở nên đặc biệt mẫn cảm. Mà hiện tại, thứ mùi không thể lầm lẫn được bốc ra từ lầu trên chính là máu người. Arilda nắm chặt con dao giải phẫu, từng bước từng bước dè chừng tiến lên cầu thang. Cánh cửa căn phòng đầu tiên mở toang, mùi máu theo đó phát tán ra bên ngoài, đi kèm là mùi thuốc súng khiến người ngửi cảm thấy ớn lạnh.


"Chậm chạp quá đấy. Cô làm tôi đợi hơn nửa tiếng rồi".


Nhận ra giọng nói đối phương, Arilda chỉ vừa thoáng thả lỏng, lập tức sững người nhìn "vật" nằm bất động dưới chân IV. Là thi thể một người đàn ông. Ánh trăng xuyên qua khung cửa sổ lờ nhờ rọi lên mặt cái xác, lồng ngực Arilda cuộn lên cơn giận. Cô phóng mạnh con dao trong tay. Kẻ kia chỉ khẽ nghiêng nửa thân trên né đòn. IV dùng ngón tay cái quệt ngang gò má lau đi vết máu, rít lên:


"Cô điên rồi chắc?".


"Anh mới là kẻ điên. Tôi đã bảo anh dừng cái việc vô nghĩa này lại rồi. Đó là lệnh của I đấy!".


Gã đàn ông nhếch môi vẻ khinh miệt thấy rõ.


"Lệnh của I? Hắn là cái thá gì mà có quyền ra lệnh cho người khác. Chả hiểu sao cả đám mấy người lại sợ hắn như vậy. Cô sợ, chứ tôi thì không".


Arilda siết chặt tay. Không giống như cô may mắn được cùng với ba người kia ở cạnh A. H, thời gian IV tiếp xúc với A. H lẫn ba người kia đều không nhiều. Thế nên kẻ này hoàn toàn không hiểu sự ngu xuẩn và tự đắc có thể khiến hắn chết không kịp phòng bị. Trong lòng Arilda thầm suy tính, cô không muốn bị liên lụy trong việc này. Nhiệm vụ duy nhất của cô là thông báo. Cô đã đưa tin rồi, kẻ làm trái mệnh lệnh là IV chứ không phải cô.


"Nể tình anh giúp tôi đến đất nước này, tôi tặng cho anh một câu: Muốn giữ mạng thì tuyệt đối đừng chống lại I".


Cô đi tới thu hồi lại con dao của mình. Trước khi quay lưng rời khỏi căn phòng tanh mùi máu, cô cáu kỉnh nói:


"Tôi không muốn dấu chân mình lưu lại hiện trường một vụ án mạng, anh biết phải làm thế nào rồi đấy. Tạm biệt!".


Arilda cụp mắt sửa lại trong đầu. Không, là vĩnh biệt. Cô tin chắc đây là lần cuối cùng cô gặp gã đàn ông này.


Hai ngày sau, chính trong căn nhà hoang Arilda hẹn gặp IV, mười mấy viên cảnh sát dựng rào chắn, sắc mặt ai nấy đều nghiêm trọng. Cảnh sát Dương Tây ở bên cạnh gốc cây bên ngoài lối vào, đôi mắt đỏ ngầu như thú dữ.


Một anh chàng cấp dưới bên đội giám định đi đến chỗ Dương Tây báo cáo:


"Tổ trưởng, cả hai thi thể đều trúng đạn sau đó bị thiêu cháy, không lấy được mẫu ADN. Không tìm thấy giấy tờ chứng minh thân phận của hai nạn nhân".


Dương Tây khẽ gật đầu. Quả nhiên là dân chuyên nghiệp. Anh đưa đôi mắt vằn tia máu vì thiếu ngủ nhìn khắp khu vườn, hi vọng những đồng nghiệp đang tìm kiếm xung quanh hiện trường có thể phát hiện được manh mối gì đấy khả quan. Mà chắc là không rồi... Anh thở dài, gọi Đăng Huy đến.


"Nói cách nghĩ của cậu đi".


Đối diện với đôi mắt hổ của Dương Tây là đôi mắt gấu trúc thâm đen sưng húp của cậu cảnh sát trẻ. Đăng Huy ngồi xuống bên cạnh hai thi thể vừa được khiêng ra bên ngoài, nhăn mặt đáp:


"So với những vụ án liên hoàn trước thì vụ án này càng khó hiểu", Đăng Huy chỉ vào thi thể ngắn hơn nằm bên trái, nói tiếp: "Đầu đạn tìm thấy trong thi thể này trùng khớp với sáu nạn nhân trước, phỏng đoán người này có thể là nạn nhân thứ 7. Điều tra về những người mất tích mấy ngày gần đây, có thể tra ra được thân phận người này. Còn thi thể bên cạnh, chiều cao trùng khớp với mô tả của hung thủ chúng ta đang truy tìm. Nhưng nếu người này là hung thủ, vậy ai giết anh ta? Trong đầu thi thể lẫn hiện trường đều không lưu lại đầu đạn. Em không nghĩ người thân của sáu nạn nhân tìm hung thủ báo thù lại có người có khả năng này".


Dương Tây cũng có cùng suy nghĩ. Tổ chuyên án của bọn họ vẫn phong tỏa tin tức, không hề tiết lộ cho thân nhân của các nạn nhân về việc hung thủ có khả năng là người nước ngoài. Cảnh sát bọn họ vất vả lắm mới tra ra được thông tin đó, người nhà nạn nhân không có khả năng điều tra được kết quả. Hơn nữa khoan nói việc trong nước có người sử dụng súng trái phép hay không, chỉ riêng sự chuyên nghiệp từ thủ đoạn giết người đến xóa đi dấu vết đã nói lên kẻ gây án không phải dân nghiệp dư.


"Chỉ là...", Đăng Huy có chút ngập ngừng, "em thật sự không đoán được động cơ của hung thủ. So với hung thủ của sáu vụ án liên hoàn thì kẻ này còn cao tay hơn. Hoàn toàn không lưu lại cho chúng ta manh mối nào".


Dương Tây cau mày.


"Có lẽ bọn chúng có quen biết. Tôi đoán kẻ nọ ra tay giết người diệt khẩu vì muốn bảo vệ bí mật nào đó. Chúng ta chỉ mới có được tin tức về hung thủ giết người hàng loạt, tên hung thủ thứ hai này lại vừa kịp lúc nhanh hơn chúng ta một bước. Hắn theo dõi tên kia thì khả năng rất cao là hắn biết cảnh sát đã phát hiện hành tung tên kia. Nếu đơn thuần là có thù oán cá nhân thì chỉ việc báo tin cho cảnh sát hoặc đợi xem tên kia bị bắt. Nhưng hắn lại nóng vội ra tay thủ tiêu đối phương. Ngoài lý do bịt đầu mối ra, tôi không nghĩ còn có khả năng nào khác".


"Nếu bọn chúng quen biết nhau, vậy hung thủ vụ án này phải chăng cũng là người nước ngoài? Vậy chúng ta chỉ cần điều tra...".


Dương Tây mệt mỏi xua tay, ngắt lời:


"Chi phí điều tra vụ án liên hoàn đã vượt quá mức cho phép rồi. Chỉ có đầu mối duy nhất là người nước ngoài thì không thể lao đầu vào tìm kiếm được. Tôi sẽ báo cáo với cấp trên kết quả điều tra, khép lại vụ án liên hoàn. Chuyện còn lại giao cho cậu xử lý. Bên phía phóng viên đã rùm beng hết lên rồi. Chậc".


"Ơ... thế không điều tra nữa ạ? Hung thủ thứ hai còn chưa bị bắt, em...".


"Cậu cũng vất vả mấy ngày rồi. Lần này cậu làm rất tốt, tôi cũng sẽ báo cáo lại lên trên. Còn chuyện điều tra, tạm thời không nóng vội được".


Dương Tây lên xe rời khỏi. Không phải anh không muốn tìm ra kẻ giết người, mà vụ án ở trường học lâm vào bế tắc, hung thủ vụ án giết người hàng loạt lại bị thủ tiêu. Thời hạn cấp trên lệnh cho anh phá án đã hết. Chịu áp lực căng thẳng từ dư luận, bên trên không muốn công bố thêm tin tức chấn động rằng có hơn một kẻ cầm súng nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, mà muốn nhanh chóng khép lại hồ sơ vụ án. Dương Tây cúi nhìn quần áo nhăn nhúm trên người, cằm lỉa chỉa những râu đã lâu ngày không cạo mà nhếch môi. Không nghĩ đến về nước còn có thể trông thấy bộ dạng này của bản thân. Anh cứ ngỡ chỉ có những tên sát nhân ở Mỹ mới đủ khả năng "hành hạ" anh đến mức quên ăn quên ngủ.


"Thế giới này thật chẳng yên bình chút nào". Anh lẩm bẩm.


Trong ngôi biệt thự của nhà họ Nguyễn, bà Lan vừa bày biện thức ăn lên bàn vừa lo lắng nói với Nguyễn Đan:


"Sao cô không bảo cậu An dọn về đây ở, xã hội bây giờ đáng sợ quá. Biệt thự bên đó hẻo lánh, hai anh em cậu ấy ở đó không an toàn chút nào".


Nguyễn Đan mỉm cười trấn an:


"Chẳng phải tin tức vừa thông báo tên giết người đã chết rồi à, cô đừng lo nữa. Bé Ánh ở bên ấy đi học gần hơn, mà anh An với cháu chưa kết hôn, ở chung nhà cũng không tiện lắm".


"Giờ là thời đại nào rồi, hơn nữa hai cô cậu cũng đã đính hôn đàng hoàng. Ai dám nói gì xem tôi có mắng cho không. Chỉ khổ cho cậu An, ở bên đó không biết ăn uống thế nào. Từ lúc cậu ấy chuyển ra ngoài, bà chủ lại như cũ đi đi về về mãi. Hai cô cậu nhanh chóng cưới đi, để hai anh em cậu An dọn về đây lại. Em gái cậu ấy đang tuổi ăn tuổi chơi, ở bên đó làm gì có bạn bè, hàng xóm. Haizz...".


Cùng với tiếng thở dài của bà Lan, chân mày Nguyễn Đan cũng cau lại. Nếu không phải có kẻ phá rối, thì rất nhanh đám cưới của cô sẽ diễn ra rồi. Diêu Tân, tên khó ưa đó!


...


"Hắt... xì...".


"Giám đốc hắt hơi nãy giờ, có cần tôi đi mua thuốc?". Thư kí Ngô Phong e ngại nhìn Diêu Tân đang xoa xoa mũi, hỏi.


"Không cần. Gần đây người đó có động tĩnh gì không?".


"Anh ta tan làm chỉ về nhà, thỉnh thoảng ra ngoài ăn tối với Nguyễn tiểu thư, ngoài ra không có gì đặc biệt".


Diêu Tân gật đầu, cho thư kí ra ngoài. Mắt anh vẫn không rời khỏi tấm ảnh và tư liệu trước mặt. Thám tử bên Đức của anh báo về, bọn họ không thu được tin tức nào đáng kể. Người sống sờ sờ trước mắt lại không tra được thông tin? Diêu Tân cười mỉa mai. Quả nhiên là người bên cạnh cậu ta. Ấn tượng về lần đầu tiên gặp Nguyễn An là ánh mắt khó phán đoán, còn cả cái bắt tay lần trước, nhiệt độ thấp khác thường truyền từ da thịt cậu tới tay anh khiến Diêu Tân càng thêm hiếu kỳ. Ấn tượng về cô em gái nhỏ của cậu ta là hôm anh đến bệnh viện thăm cậu. Mái tóc đỏ, đôi mắt sắc lạnh khác xa dáng vẻ một đứa bé cùng với hơi lạnh tỏa ra từ người cô bé bủa vây lấy anh khiến Diêu Tân lập tức cho người đi điều tra. Kết quả là anh chẳng thu được thông tin nào khả dĩ để tháo gỡ dần những sợi chỉ rối dẫn đến chân tướng sự thật.


"Cậu càng bí ẩn, tôi lại càng có hứng thú với cậu".


Diêu Tân lướt nhẹ ngón tay lên gương mặt Nguyễn An chụp nghiêng bởi ống kín máy ảnh. Bên cạnh bức ảnh Nguyễn An, không gì khác chính là bức ảnh Arilda mặc đồng phục học sinh đứng ở cổng trường, tóc đỏ như lửa. Có lẽ vì màu tóc người trong bức ảnh quá nổi bật, khiến ngôi trường đằng sau cùng những học sinh bên cạnh giống như bị phủ lên một lớp plastic trong suốt hơi mờ. Sắc thái trong ảnh gây ra cảm giác thật kì quặc. Lại như báo hiệu một điềm không may sắp sửa xảy ra...
 

A Thụy

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/10/16
Bài viết
358
Gạo
0,0
CHƯƠNG 13

Trời bắt đầu nổi gió, dường như sắp có một cơn mưa bất thường đổ bộ xuống khu vực này. Trên gờ tường, đàn kiến nghệ đang gấp gáp rút quân về nơi trú ngụ trên cây. Gần phía cuối hàng, chú kiến vóc dáng nhỏ bé nhất đang cõng món chiến lợi phẩm có kích thước khá là... quan ngại so với tầm vóc của mình. Mấy cái chân nhỏ bắt đầu díu vào nhau, kiến ta loạng choạng như kẻ say rượu, cuối cùng ngả ngửa rơi một hơi thẳng tắp xuống mặt đất bên dưới. Nguyễn An phì cười, thật là đứa bé vụng về. Với cử chỉ duyên dáng tao nhã như một nghệ sĩ, cậu nhấc chú kiến đặt lên trên ngón tay thon dài chính giữa, cánh tay vươn ra thẳng tắp thành một cây cầu. Đột nhiên động tác Nguyễn An khựng lại, cả người bất động như bức tượng thạch cao được điêu khắc tỉ mỉ.

Ngay trước tầm mắt cậu, một bóng đen đứng trên đầu tường thẳng tắp, cơ thể kẻ nọ không chút lung lay, chỉ có mái tóc vàng như vị thần Apollo lay động trong gió. Sau lưng anh ta là khoảng trời xám xịt đầy những mây đen tầng tầng lớp lớp dày đặc. Đôi giày đen từ trên đầu tường nhẹ nhàng đáp xuống, người đàn ông trẻ cúi mình cung kính, một tay đặt trước ngực như đang trong một nghi thức của kẻ bề tôi diện kiến chủ nhân. Người đàn ông có đôi mắt xanh như viên saphhire ngẩng đầu mỉm cười.

"Mừng quay trở lại, ngài Adolf".

Cây cầu dưới chân chú kiến nhỏ rung lên, ngón tay giữa đột ngột gập lại. Chỉ giây sau, cái bóng màu vàng cam rơi thẳng xuống. Trên mặt đất là xác kiến đã đứt lìa thành từng mẩu vụn li ti.

Ban công lầu 2, thân hình bé nhỏ của Arilda run lên. Người đàn ông mới xuất hiện đánh ánh mắt về phía trên ngôi biệt thự, khóe môi khẽ nhếch tạo thành một vòng cung tuyệt đẹp.

Tối ngày hôm đó, Nguyễn Đan như thường lệ đánh xe vào trong sân căn biệt thự đen. Cô nhìn khoảng tối bao trùm xung quanh, nhăn mũi vẻ không vui. Không ngờ ở ngoại ô lại bị mất điện. Thời tiết bất thường khiến giao thông tắc nghẽn, hại cô đến đây trễ giờ, không biết anh và bé Ánh đợi lâu có đói bụng lắm không.

Khi cô bước vào, phòng khách yên tĩnh không một tiếng động. Nguyễn Đan nương theo ánh sáng hắt ra từ phòng ăn, đôi giày cao gót xuyên qua hành lang hướng về phía đó. Nguyễn Đan khựng lại ngay trước cửa phòng. Bên bàn có ba người đang dùng bữa dưới ánh nến. Họ không hề trò chuyện, chỉ có âm thanh dao nỉa va chạm vang lên tiếng lách cách nho nhỏ.

Chồng chưa cưới của cô đứng dậy, nhưng không đi đến bên cô như mọi ngày mà bước về phía tủ kệ, lấy ra một bộ dao nỉa và chiếc đĩa mới. Nguyễn Đan mang theo tâm trạng hiếu kỳ khác lạ ngồi xuống chiếc ghế cạnh Nguyễn Ánh. Người đàn ông lạ mặt lên tiếng chào hỏi bằng thứ tiếng Anh rất chuẩn và đầy từ tính sau khi mỉm cười thân thiện với cô.

"Tôi là William Kirwan, bác sĩ riêng đồng thời là người nhận ủy thác từ ngài Himmler chăm sóc cho Adolf. Rất tiếc vì sự xuất hiện đường đột của mình đã gây cho quý cô đây sự kinh ngạc ngoài ý muốn".

Nguyễn Đan mở to mắt nhìn đối phương. Người đàn ông đối diện cô có vẻ ngoài rất thu hút, nhưng điều khiến cô thấy kì lạ là kiểu cách nói chuyện hơi lịch thiệp quá mức mang nét cổ điển cùng với cái tên Adolf mà anh ta vừa gọi ra.

"Anh ấy không khỏe ư, tại sao lại cần bác sĩ riêng? Mà khoan đã, anh vừa mới gọi An là Adolf?".

"Ồ, xin lỗi. Tôi vẫn hay buột miệng một cách ngớ ngẩn như vậy đấy. Ý tôi là Alarik. Thời gian chúng tôi quen biết khá là lâu, lâu đến mức tôi cứ không quen gọi anh ấy bằng cái tên được đặt sau này. Adolf có chứng bệnh mất trí nhớ trùng lặp, mỗi khi phát bệnh là anh ấy lại quên sạch những chuyện trước kia".

Bàn tay cầm dao của Arilda run lên khe khẽ, cô không dám ngước mặt nhìn người vừa ngồi lại xuống đối diện. A. H đã quay trở lại, Nguyễn An đã không còn ở đây nữa. Điều này tất nhiên khiến cô vui mừng, nhưng không hiểu sao lại có chút cảm giác mất mát, lo sợ.

Nguyễn Đan nhìn hai người đàn ông trước mặt, không nhịn được thắc mắc:

"Nếu anh đã nhận sự ủy thác tại sao không tìm thấy An sớm hơn? Lúc tôi gặp, anh ấy đang ở trong một ngôi nhà bỏ hoang tồi tàn, chẳng ai biết anh ấy là ai. Tôi không có ý quy trách nhiệm nhưng mà...".

William vẻ mặt bối rối và vô cùng buồn bã thốt lên:

"Tôi thật sự rất áy náy về điều này. Quả thực là một sự cố xui rủi đáng nguyền rủa khi mà tôi phải nằm bẹp dí trong một bệnh viện, hôn mê đến sáu tháng mới tỉnh lại. Mong cô hãy tin tưởng, rằng tôi chưa bao giờ có ý muốn bỏ mặc Adolf. Và từ nay về sau, tôi xin hứa sẽ không bao giờ xa rời anh ấy dù chỉ là nửa bước chân".

Người ngồi cạnh William lúc này mới lên tiếng:

"Tất cả chỉ là chuyện ngoài ý muốn. Em không đói bụng ư? Tay nghề nấu nướng của Kir rất đáng thưởng thức, em nếm thử xem".

Cô chăm chú nhìn anh. Vậy là anh đã nhớ ra tất cả mọi chuyện trong quá khứ ư, nhưng sao vẻ mặt anh lại có thể bình thản như thế? Cô thật sự muốn hỏi anh rất nhiều chuyện, nhưng ánh mắt dửng dưng của anh khiến cô ngập ngừng. Nguyễn Đan cắt nhỏ miếng thịt bò đưa lên miệng.

"Ngon lắm! Mùi vị thật sự rất tuyệt!".

Cô mỉm cười khen. Anh cũng cười với cô. Đôi mắt và khóe môi kia vẫn dáng vẻ thanh nhã xuất chúng, cử chỉ trễ nải mà mê đắm người đối diện, nhưng có cái gì đó khang khác với trước đây. Gương mặt anh khuất một góc nhìn dưới ánh nến mông lung khiến nụ cười trông hơi lạ. Có lẽ tại ánh sáng, cô nhủ thầm, cố xua đi nghi hoặc trong lòng.

Trời lại bắt đầu mưa, kèm theo cả sấm chớp như báo bão. Chỉ e không thể có điện trở lại trong đêm nay. Gần nửa đêm, Nguyễn Đan rời giường. Căn phòng bên cạnh cô là của bé Ánh. Những ngày trước, khi trong thành phố liên tiếp có án mạng xảy ra, cô đã đề nghị hai anh em họ về căn biệt thự bên kia ở cùng cô nhưng Nguyễn An chỉ điềm đạm từ chối. Cô còn thấy thắc mắc hai anh em bọn họ ở cạnh nhau rất vui vẻ, song cứ có cảm giác mơ hồ kì lạ. Phòng ngủ hai người lại cách khá xa. Ngay cả khi bên ngoài có nguy hiểm thì chẳng ai trong hai người tỏ vẻ lo lắng, bất an chút nào. Bé Ánh khi ngủ đều chốt cửa từ bên trong, điều đó khá lạ so với một đứa trẻ. Có thể gia đình Himmler có thói quen không giống nhà khác, dù sao bọn họ cũng ở một nơi biệt lập tách hẳn với bên ngoài. Nguyễn Đan đành từ bỏ ý định vào phòng xem cô bé ngủ có ngoan không. Cô đi chân trần bước dọc theo hành lang.

Trong căn phòng lớn nhất tầng 2, Adolf đứng trước cửa sổ. Một tia chớp rạch trên nền trời rọi sáng gương mặt hoàn mỹ không thể hiện bất cứ cảm xúc gì. Sau lưng Adolf, William đang báo cáo lại những chuyện ở Anh quốc.

"Theresa vẫn càu nhàu, thí nghiệm đã có chút tiến triển nhưng phòng khám của cô ta cứ đầy ắp bệnh nhân từ sáng đến tối. Mặc dù đám vật thí nghiệm đấy rất có ích nhưng lại rút hết thời gian khiến cô nàng không thể đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu".

"Bảo Four đợi đi. IX vẫn còn tác dụng ở nơi này. Vài tháng nữa có thể đưa tới bên cạnh làm phụ tá cho cô ta".

Adolf gọi người được nhắc đến là Four, người này thật ra là kẻ mang số hiệu III, tên đầy đủ là Theresa Fournaye. Chỉ có ba người thân cận nhất là I, II, III mới có tư cách được Adolf gọi tên, những kẻ khác, kể cả Arilda, chỉ được nhắc đến dựa trên số thứ tự đã đánh dấu trên người.

"Ngài đã nói thế thì cô nàng chỉ còn cách ngoan ngoãn mà đợi thôi. Nhân tiện, thái độ Arilda có điểm không giống trước kia. Có thể là tôi đa nghi, tuy nhiên nếu cô ả không nhận thức rõ "hắn" là kẻ nguy hiểm thì...".

Adolf quay người lại.

"IX là người duy nhất tiếp cận mà không khiến hắn sinh ra cảnh giác".

William âm thầm hiểu rõ. Tác dụng của Arilda không phải là vỏ bọc đối phó với bên ngoài, mà là... Còn giả như có một ngày cô ả lún quá sâu, anh ta sẽ thay Adolf chú ý, trừ khử trước khi cô ả kịp làm chuyện phản bội.

"Còn chuyện của IV, Heidegger đang bận đối phó với lũ chó nhà ở Berlin nhưng có nhắn sau khi xong việc sẽ đến nhận mọi bản án cho tội tự ý xử lý IV...".

Adolf đánh ánh mắt ra hiệu, William lập tức dừng lời. Đợi đến khi tiếng bước chân nhỏ dần và im bặt, Adolf mới gật đầu ý bảo William nói tiếp.

"Người phụ nữ này có quan hệ thế nào với hắn? Vừa rồi ả không nghe được lời tôi nói đấy chứ?".

"Không sao. Phòng này có cách âm".

William ánh mắt tràn đầy sự thán phục nhưng không hề ngạc nhiên, bản thân anh ta đã không phát giác ra tiếng chân rón rén bên ngoài cho đến tận khi hơi thở của Nguyễn Đan dừng lại ngay trước cửa phòng. Người trước mặt anh ta lại nói:

"IV đã không còn tác dụng, để hắn sống cũng không có việc cho hắn làm. Bảo Hei không cần bận tâm. Ta đã cho ba người các anh toàn quyền quyết định mọi chuyện khi ta không có mặt, ngoại trừ hai người anh và Four, những kẻ còn lại đều không quan trọng, Hei tự biết phán đoán".

Còn về mối quan hệ giữa Nguyễn Đan và kẻ nọ, Adolf vẫn chưa thể làm rõ. Những chuyện xảy ra trong lúc bản thân "ngủ say", Adolf vẫn có thể nghe thấy, nhìn thấy toàn bộ. Nhưng chỉ riêng hình ảnh Nguyễn Đan và "hắn" trao đổi trong căn nhà hoang ở Berlin lại bị xóa đi một cách cố ý.

Sẽ có một ngày ta cho mi biến mất vĩnh viễn. Adolf lạnh lùng hừ một tiếng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

A Thụy

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/10/16
Bài viết
358
Gạo
0,0
CHƯƠNG 14

Trong một gian phòng không nhìn rõ được đồ vật, chỉ có ánh nến khẽ đung đưa vì chuyển động của người đàn ông đi qua đi lại giữa phòng. Xen kẽ tiếng giày lộp cộp gõ lên nền đá là âm thanh rên rỉ nho nhỏ. Đột nhiên người đàn ông nọ dừng lại như một chiếc xe phanh gấp, cái bóng cao lớn phóng tới chộp lấy đứa bé co ro đang ôm đầu, bàn tay to bè nhằm vào cái cổ trắng nõn nhỏ bé, bóp chặt như muốn bẻ gãy nó. Toàn thân đứa bé run rẩy, ra sức giãy giụa, hai bàn tay ngắn ngủn khua khoắn loạn xạ trong không khí.

Điện thoại di động trên đầu giường đổ chuông.

Diêu Tân bật dậy, mồ hôi mướt trán. Anh lẩm bẩm chửi thề mấy tiếng, lại là giấc mơ kì quái khốn kiếp đó.

Nhìn màn hình điện thoại hiển thị tên người gọi đến, Diêu Tân cau mày tự hỏi sao tay thám tử lại gọi anh vào sáng sớm thế này? Bình thường anh ta đều trực tiếp gửi tư liệu điều tra đến tận tay thư kí của anh. Diêu Tân cảm giác cổ họng khô khốc, anh khẽ liếm môi, khào giọng hỏi:

"Có chuyện gấp sao?".

Đầu bên kia thoáng im lặng, chỉ có âm thanh thở dốc nặng nề vọng đến. Diêu Tân càng lấy làm lạ.

"Alo?".

"Tôi đây... Chuyện là... giám đốc Diêu, nhà tôi có chút việc đột xuất. Tôi phải về quê gấp. Tiền anh ứng trước, tôi sẽ gửi trả lại cho thư kí của anh. Xin lỗi, vậy nhé!".

"Khoan đã! Người tôi nhờ anh theo dõi có động tĩnh gì sao?".

"Không. Không có... động tĩnh gì", viên thám tử ngừng lại như đang đắn đo suy nghĩ, sau đó tiếng thở hổn hển lại vang lên. "Tôi khuyên anh đừng điều tra người đó nữa".

"Cái gì? Alo? Này, alo?".

Diêu Tân gọi lại nhưng người kia đã khóa máy.

Ở khu vực ngoại ô, viên thám tử tư liếc nhìn căn biệt thự màu đen thấp thoáng phía xa, khẽ rùng mình không rõ vì cái lạnh buổi sáng hay vì nỗi sợ dâng lên trong lòng. Anh ta làm nghề này đã hơn chục năm, từ điều tra vợ (chồng) thân chủ ngoại tình đến những doanh nhân làm ăn phi pháp, dây vào không ít kẻ đáng sợ, gặp không ít tình huống nguy hiểm. Nhưng hai ngày nay liên tiếp những việc "trùng hợp" quái gở cứ nhằm vào anh ta. Một lần suýt vỡ đầu vì mấy viên gạch từ trên tầng cao của một tòa nhà đang thi công rớt xuống ngay trước mũi. Hai lần xe gặp sự cố, động cơ bốc khói khi anh ta đang trên đường. Nếu không phải mạng anh ta lớn chỉ e giờ này đã nằm trong nhà xác của bệnh viện nào đó rồi. Công nhân xây dựng rối rít xin lỗi anh vì hệ thống ròng rọc bị mòn, rỉ. Nhân viên bảo hành ô tô nói xe anh cũ rồi, một hai chỗ bị trục trặc cũng là bình thường, còn tươi cười muốn giới thiệu cho anh mấy con xe đời mới. Nhưng anh không tin, rõ ràng có kẻ đang cảnh cáo anh. Mấy tháng nay anh chỉ nhận một vụ theo dõi duy nhất. Trước đó anh còn nghĩ đây là mối làm ăn béo bở, vừa nhàn hạ vừa được món tiền công hậu hĩnh. Việc duy nhất cần làm là báo cáo cho thân chủ: người đàn ông trong căn biệt thự kia đi đâu, gặp gỡ ai, có hành động gì đáng ngờ hay không.

Người mà anh theo dõi, có vẻ ngoài rất đặc biệt. Người đàn ông trẻ hơn hẳn so với cái tuổi 28 kia thật sự rất đẹp, nhưng ngoài ra chẳng có gì đáng để vị giám đốc nọ bỏ tiền ra cho người theo dõi nhất cử nhất động. Khác hẳn với những người trước, đối tượng theo dõi lần này trông rất hiền lành tử tế, trừ việc đến công ty, thỉnh thoảng cùng vị hôn phu ra ngoài ăn tối, cũng chỉ ở nhà tưới cây cảnh, chơi với em gái nhỏ.

Nhưng mới ban nãy, anh ngồi trong xe dùng ống nhòm quan sát từ xa, người đàn ông đó đột ngột quay mặt lại, ánh mắt bắn thẳng về hướng này. Cả đời anh cũng không bao giờ quên đôi mắt đó, khuôn mặt đó. Hệt như một con quỷ chui ra từ tầng sâu nhất của Địa Ngục.

"Chúa phù hộ con". Viên thám tử mặt trắng bệch như sáp thốt lên, nổ máy lăn xe rời đi.

Chiều ngày hôm đó, Diêu Tân trực tiếp lái xe đến căn biệt thự đen. Những giấc mơ cứ bám riết lấy anh, cả thái độ thay đổi đột ngột của tay thám tử khiến anh muốn mau chóng gặp lại Nguyễn An. Rút cục đã xảy ra chuyện gì?

Ở nơi cao nhất của căn biệt thự, William nhìn chiếc xe hơi dần phóng đại trên con đường hẻo lánh dưới ánh hoàng hôn, nhếch nhếch khóe môi cười nói với người bên cạnh:

"Xem ra chúng ta có khách".

"Hừ, một vị khách không mời mà tới".

William nhún vai, bước tới hai bước, nhảy thẳng từ mái nhà xuống dưới.

Chiếc Accord chạy qua cánh cổng mở sẵn. Diêu Tân bước xuống từ ghế lái, ngẩng đầu nhìn căn biệt thự mà anh đã từng xem qua ảnh trong tập tư liệu mà thám tử chụp từ mấy tháng trước. Ngoại trừ các ô cửa kính, từ tường bao đến mái nhà đều thuần một màu đen khiến ngôi nhà trông như một con thú khổng lồ tỏa ra thứ hơi thở khiến vị khách trở nên cảnh giác. Ánh hoàng hôn đỏ ối cũng không khiến nơi này sáng sủa hay ấm áp lên chút nào, đặc biệt là trong tiết trời cuối tháng 11 đang se lạnh lúc này. Ngược lại, màu đỏ của mặt trời trên mái nhà nom cứ như một đám cháy, những đám mây nơi chân trời hệt như vệt khói lại càng khiến sự liên tưởng kia trở thành một bức tranh sống động.

Cửa lớn chính diện cũng như cánh cổng bên ngoài, đều đã mở rộng từ trước y như rằng chủ nhân nơi đây đã biết trước sẽ có khách ghé thăm. Diêu Tân bước chân qua ngưỡng cửa. Bao quanh anh vẫn là một sự im lặng cô đặc, cho dù anh vểnh tai nghe ngóng song chẳng hề đón bắt được chút âm thanh gì giống như ngôi nhà này đã bị bỏ hoang không có người sinh sống bên trong.

Diêu Tân đứng giữa phòng khách rộng lớn, đưa mắt ngắm nghía xung quanh. Khi ánh mắt đánh tới chân cầu thang, Diêu Tân giật mình nhìn người đàn ông đứng đấy tự lúc nào. Anh hoàn toàn không nghe được tiếng bước chân đi xuống. Đối phương nhìn anh với nét mặt ngạc nhiên. Diêu Tân lần đầu tiên trong đời cảm thấy bối rối. Anh đã quên mất nghĩ ra lý do cho cuộc viếng thăm bất ngờ của mình. Mối quan hệ giữa anh và cậu ta hoàn toàn không phải bạn bè, cũng chẳng phải đối tác để có thể dùng công việc làm cái cớ.

"Giám đốc Diêu? Cơn gió nào đưa anh đến đây vậy? Tôi không nhớ trên danh thiếp của mình có in địa chỉ nhà riêng".

Mặc dù đang đặt câu hỏi nhưng người vừa xuống cầu thang đi đến trước mặt anh trông không có vẻ khó chịu, Diêu Tân như trút được gánh nặng, nhẹ nhõm cười đáp lời:

"Xin lỗi, tôi đến đường đột quá. Tôi ra ngoại ô hóng gió, đến gần đây thì nhớ ra có đối tác từng nhắc qua nơi này. Rất nhiều người có mong muốn được làm khách của anh, không biết hôm nay tôi có thể may mắn hơn họ hay không?".

"À, ra vậy".

Đối phương nhướn mày cười. Diêu Tân nhìn kĩ người trước mặt. Cậu ta vận chiếc quần âu đen với áo thun tay dài cùng màu, khá phong phanh so với thời tiết mùa này. Gương mặt vẫn trẻ trung với những đường nét hoàn mỹ đến từng chi tiết, chỉ là... Diêu Tân có chút thất thần. Đôi con ngươi kia hơi ánh lên màu xám, anh đã quan sát cậu rất nhiều nhưng không hề nhận ra điểm ấy trước kia. Dù cho lúc này đây, hai người mặt đối mặt đứng rất gần nhau nhưng anh lại không đoán được đối phương đang nghĩ gì, cái cảm giác bí hiểm như bị vây trong đám sương mù lần nữa trỗi dậy, cuộn trào trong lòng anh. Ngay cả khi cậu ta quay người đi, đôi mắt sâu hun hút như hai cái vực không đáy vẫn khiến anh đứng chôn chân tại chỗ.

Adolf ngoái đầu lại.

"Tôi tuân thủ giờ giấc dùng bữa rất nghiêm ngặt. Nếu giám đốc Diêu không chê, mời anh cùng dùng bữa tối với chúng tôi".

"Rất vui lòng, tôi phải thú nhận là cả ngày nay mình chưa ăn gì cả".

Diêu Tân theo sau, bước về phía phòng ăn. Anh đoán có lẽ người đang ở bên trong là Nguyễn Đan, không ngờ lại trông thấy một người đàn ông tóc vàng đang bày biện đồ ăn ra bàn.

"Đây là đầu bếp của nhà anh à?".

William bật cười.

"Phải. Đau lòng thay là tôi lại không được đồng thù lao nào cho công việc này. Tôi là William Kirwan, anh có thể xem như tôi là quản gia ở đây. Xin mời ngồi".

Ngay khi Diêu Tân vừa ngồi xuống, một cái bóng màu đỏ thình lình xuất hiện ở cửa phòng ăn. Cô phù thủy bé nhỏ anh từng gặp trong bệnh viện và cho người điều tra mà chẳng có tí ti thông tin đây mà. Ngôi nhà này quả thật quá yên ắng, từng người sống trong này đều giống hệt như nhau, bước đi cứ như bóng ma vậy. Diêu Tân cảm khái nghĩ. Anh chợt lóe lên ý định, biết đâu có thể thăm dò điều gì đó thông qua đứa trẻ này.

"Chào buổi tối. Tôi là bạn của anh trai em. Có thể cho tôi biết tên em không?". Diêu Tân mỉm cười chào hỏi bằng tiếng Đức.

Bạn? Arilda cười khẩy trong bụng. Cái gã từng xuất hiện bên ngoài phòng bệnh dạo trước, tưởng cô không nhớ chắc. Arilda ngồi vào vị trí của mình, híp mắt cười tinh nghịch, đáp bằng tiếng Việt:

"Tên tiếng Việt của em là Nguyễn Ánh. Anh cứ trò chuyện bằng tiếng Việt thoải mái, ngay cả anh William cũng nói được tiếng Việt".

"Mặc dù không được tốt lắm", William tươi cười bổ sung.

Diêu Tân khẽ ồ một tiếng.

"Tôi thậm chí có thể tin sái cổ rằng ba người sinh ra ở Việt Nam ấy chứ!".

William đặt đĩa thức ăn sau cùng lên bàn rồi ngồi xuống, nói với vẻ khiêm tốn pha nét bông đùa:

"Nhập gia tùy tục mà".

"Khả năng học ngôn ngữ mới của mọi người còn hơn cả xuất sắc đấy. Anh Kirwan học trường đại học nào ở Anh vậy? Anh là người Anh đúng không?", Diêu Tân bắt đầu thăm dò.

"Gọi tôi William được rồi. Tôi lớn lên ở Đức, theo học một trường đại học địa phương chẳng có gì đặc biệt cả".

"Vậy à, còn anh An thì sao? Tôi còn chưa biết anh từng học ở ngôi trường nào?".

Arilda làm động tác đưa ngón tay lên môi.

"Anh trai em khi dùng bữa không thích nói chuyện đâu. Anh ấy chưa từng đến trường, chỉ ở nhà đọc sách và học từ bố thôi".

Câu nói của Arilda đã chặn lại toàn bộ các câu hỏi sắp sẵn trên đầu lưỡi Diêu Tân, anh đành thất vọng từ bỏ ý định "do thám" trực tiếp. Trong lòng lại nghi ngờ. Một người chưa từng học qua trường lớp và sự đào tạo chuyên môn lại có bản lĩnh đến vậy ư? Chỉ riêng lĩnh vực chứng khoán đã thu về con số lợi nhuận cao ngất ngưỡng cho Minh Đan, khiến người đàn bà thép Lý Từ Dung hào phóng chuyển nhượng cho cậu ta 10% cổ phần công ty. Thật là làm người ta giật mình sửng sốt khi nghe cậu chưa từng đến những cơ sở giáo dục.

Không khí bữa ăn khá thoải mái. Arilda và William trò chuyện cùng vị khách với sự niềm nở tự nhiên không chút gượng gạo, nụ cười luôn rạng rỡ trên môi hai người cho thấy họ rất vui vẻ vì có thêm người cùng chia sẻ bữa tối. Nhưng rút cục thì Diêu Tân vẫn ra về với kết quả trắng tay. Không chỉ hai người lớn, mà ngay cả đứa bé gái xinh xắn kia, anh cũng chẳng moi được chút thông tin gì từ bọn họ. Thậm chí anh đã cố ý gài bẫy trong lời nói thì ánh mắt trong veo hồn nhiên của Arilda lẫn nụ cười lịch thiệp của chàng trai gốc Anh có phong thái như một quý tộc kia đều đối đáp hết sức thản nhiên như thể anh đã hỏi hai người trời hôm qua đã nắng hay mưa. Diêu Tân có cảm giác mình như một tên ngốc vậy. Anh đã lăn lộn trên thương trường ngần ấy năm, chưa từng có người nào anh không đối phó được. Nhưng cái cảm giác hệt như bản thân dùng toàn lực đấm vào một tấm chăn bông thế này làm anh choáng váng cả mặt mày. Anh thậm chí còn không dám tin đối phương nói dối. Đứa bé gái đó rõ rành rành chỉ là một đứa con nít tiểu học mà thôi.

Phải, có lẽ nếu không có những giấc mơ khó hiểu cùng những cuộc điều tra lâm vào ngõ cụt, có lẽ anh đã nhận định như thế. Nhưng không! Anh vẫn còn nhớ cái nhìn sắc lạnh của cậu ta ở Hamburg, ánh mắt sắc như dao cạo của cô bé tóc đỏ ở bệnh viện. Hai anh em bọn họ nhất định che giấu một bí mật nào đó. Bọn họ càng khôn khéo che đậy, càng chứng tỏ bí mật kia kinh khiếp đến mức họ cố hết sức chôn vùi nó vào nơi sâu nhất.

Mùi vị của sự cám dỗ và thách thức khiến bàn tay giữ vô lăng của Diêu Tân run lên vì thích thú.

"Cậu còn thú vị hơn cả sự mong đợi của tôi, A. H ạ".
 
Chỉnh sửa lần cuối:

A Thụy

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/10/16
Bài viết
358
Gạo
0,0
CHƯƠNG 15

Lại là một ngày mưa.

Adolf ngồi phía sau bàn đọc sách, còn William thì đứng bên ô cửa sổ mở rộng hết cỡ. Gió thổi bạt mạng khiến mưa bắn đầy mặt anh ta.

"Nếu thích tắm mưa như thế thì ra hẳn ngoài sân đi".

William quay mặt lại, tóc mái anh ta dính nước rũ xuống như bó cải bị héo bết vào hai gò má, nước từ ngọn tóc chảy xuống môi. William vuốt ngược chỗ tóc trên mặt ra sau đầu, há miệng nhả ra hơi lạnh.

"Thời tiết kiểu này lại làm tôi nhớ tới cái ngày ngài tiễn cha tôi lên thiên đàng".

"Ta không tiễn, mà...".

"... mà là đá đít lão khọm ấy lên trển".

"Anh đang nhớ ông ta à?".

"Không. Nhưng hôm ấy đúng là một ngày đáng nhớ. Ngài thì đói sắp chết, còn tôi thì bị đánh suýt chết. Ấy thế mà thằng chả lại chết trước cả chúng ta. Ha, lão súc vật ấy lúc còn sống mỗi lần xáp tới định dần cho tôi một trận là tôi lại đưa tay lên, không phải che mặt hay ôm đầu mà bịt mũi trước tiên. Cái mùi bả bãi nôn dính trên khắp ngực lão quyện với mùi mồ hôi thum thủm, ngai ngái như nước đái ngựa thật đúng là tởm không chịu được".

Mùi bài tiết của lũ ngựa à? Adolf nhăn mũi, thứ mùi đó đúng là đáng nguyền rủa.

Rất lâu rất lâu về trước.

Tiếng hét thất thanh của phụ nữ giữa đêm hôm khuya khoắt gọi giật dậy tất cả những người hàng xóm xung quanh căn nhà phát ra âm thanh kinh hoàng bạt vía đó. Đàn ông tóm lấy rìu và gậy gộc, đàn bà thì vớ lấy dao trong bếp. Bọn họ chạy rầm rập ra khỏi nhà trong khi mồm miệng không quên nguyền rủa quân trộm cướp, quân ăn hại, quân phá hoại. Còn gì đáng phẫn nộ và rủa xả hơn việc bị phá tan giấc mộng đẹp khi trăng đã treo cao chót vót cơ chứ!

Nhưng khi những người đầu tiên chạy tới nơi lại phát hiện một điểm kì quái và chết tiệt! Căn nhà bị khóa xừ nó rồi! Thằng ăn trộm nào mà đi khóa cửa nhà người ta? Quân ăn trộm chúng nó chỉ chọn phá cửa phá khóa chứ chẳng đời nào ngu tới nỗi khóa cửa tự nhốt mình lại trong nhà. Thế là đám đàn ông bắt đầu đấm thùm thụp gọi cửa. Không có ai trả lời. Hai, ba người quyết định hùn sức tông mạnh cửa.

Thứ đầu tiên xông tới chỗ họ là mùi máu tươi tanh ngòm.

Những người gan dạ nhất cầm chắc vũ khí trên tay đánh mắt ra hiệu với nhau rồi từng bước tiến vào bên trong.

Chăn gối nằm la liệt dưới đất, máu từ trên giường vẫn đang lan rộng chảy xuống như cái bệ rửa mặt bị bỏ quên không đóng van vòi nước xả. Người phụ nữ trẻ lõa lồ nằm trên giường, hai mắt lồi ra, miệng há to, dường như đến tận lúc tắt thở cô ta vẫn đang gào thét. Cái bụng bầu của người phụ nữ đáng thương giờ đã trống hoác, mở toang như miệng hang. Ruột gan, nội tạng cũng bị lôi cả ra ngoài, nằm vắt vẻo trên hai bầu ngực.

Người duy nhất không bị cảnh tượng trước mắt làm cho chết khiếp tiến tới kiểm tra cái xác thứ hai gục đầu bên cạnh giường. Ông ta đẩy nhẹ, thân người đàn ông đã ngã ngửa ra đất, trên tay chồng của người phụ nữ còn nắm chặt con dao đỏ lòm.

Đám người phía sau ôm ngực thốt lên:

"Quỷ dữ!".

Người đàn ông gan dạ nhất bế cái cục đỏ hỏn từ trong vũng máu ra, run run nhìn nó.

"Thằng con của con quỷ này còn sống".

Cả ngôi làng xúm lại tức tốc mở cuộc họp. Bọn họ tranh cãi ồn ào như cái chợ, nhưng cuối cùng toàn bộ các hộ gia đình đều có cùng ý nghĩ. Không ai trong số họ muốn nhận nuôi đứa trẻ. Đứa con của quỷ sẽ đem tới tai vạ, cách tốt nhất là đưa nó tới tu viện.

Trời vừa sáng, người đàn ông gan dạ đêm qua nhận trách nhiệm chuyển đứa trẻ đi. Trời sắp tắt nắng, còn ông ta sắp tắt thở vì đi bộ thì cuối cùng cũng tới được trước cổng tu viện. Người đứng đầu tu viện nhỏ của cái vùng hẻo lánh này là cha Daniela, cũng là người giàu lòng nhân từ và hiền hậu nhất xứ. Ông không nỡ từ chối một đứa trẻ sơ sinh.

"Ôi, đứa trẻ tội nghiệp. Chúa sẽ ban phước lành cho con!". Ông thốt lên và đón lấy đứa bé. Cái cục đỏ hỏn đêm qua đã được người trong làng lau sạch sẽ, bọn họ lo sợ rằng ngay cả "người giàu lòng nhân từ và hiền hậu nhất xứ" nếu nhìn thấy đống máu trên khắp mình thằng bé cũng sẽ giật mình mà ném nó đi mất.

Người đàn ông tạ ơn cha Daniela rồi nhẹ nhõm ra về.

Trong tu viện có một đứa trẻ khác cần được chăm sóc nên cha Daniela có mời về một bà vú. Ông lập tức bế đứa trẻ trên tay đi tới trao cho bà vú nọ, nhờ bà ta cho nó uống sữa, đứa trẻ này đã đói lắm rồi. Và ông quyết định đợi nó khỏe lên sẽ làm lễ rửa tội và ban cho nó một cái tên thật lành.

Hai ngày sau, bà vú bắt đầu lo lắng chạy tới báo với cha Daniela.

"Đứa trẻ này có vấn đề, thưa cha".

Cha Daniela vạch khăn kiểm tra mình mẩy đứa trẻ một lượt, nó đâu có vấn đề gì đâu! So với lúc mới đến rõ ràng là hồng hào, mạnh khỏe hơn đấy chứ!

"Nó ốm ư?".

"Không, nó không bệnh tật gì cả".

"Vậy thì có vấn đề gì ở đây?".

"Nó không khóc! Hai ngày rồi, tôi đã thử đánh mông nó nhưng nó vẫn im re. Sợ nó bị nghẹn nên ngạt thở, nhưng không! Nó ăn ngủ khỏe re".

Cha Daniela đưa ngón tay dịu dàng cọ cọ má đứa trẻ, vô tư nói:

"Tốt quá còn gì. Nó ngoan hơn khối đứa trẻ khác", rồi ông thì thầm trước ngực bà vú, "nơi này khiến con thấy vui phải không, ta cũng vậy, nhìn xem, trông con như một thiên sứ. Ai lại muốn xem thiên sứ khóc lóc kia chứ!".

Và rồi ông để mặc bà vú với cái lo lắng dở hơi của bà ta, chuyên tâm chuẩn bị cho lễ Thanh Tẩy.

Mọi sự đều đâu vào đó, cho đến khi cha Daniela vừa sắp sửa bắt đầu nghi thức thì đứa trẻ lại khóc ré lên. Suýt chút thì ông đánh rơi nó khỏi tay vì giật mình. Cha Daniela cười hiền từ vỗ về đứa trẻ:

"Đấy, con có vấn đề gì đâu nào, cũng biết khóc như những đứa khác đấy thôi".

Ông còn cảm thấy vui vẻ, đứa trẻ này không khóc lúc chào đời, mà cất tiếng khóc đầu tiên vào đúng thời điểm này. Điều đó chẳng phải là có ý nghĩa và đặc biệt lắm ư! Ông lại chuẩn bị tiến hành nghi thức thiêng liêng.

Đứa trẻ đã nín lần nữa ré lên. Nó còn quá nhỏ để vùng vẫy nhưng tiếng kêu khóc của nó hệt như một con thú dữ, nó gào thét liên thanh như hét vào mặt cha Daniela. Nó chỉ ré chứ không nhỏ một giọt nước mắt nào. Cuối cùng thì cha Daniela cũng tin rằng đứa trẻ này đang phản đối. Ông đành ngưng lại buổi lễ.

Bà vú nhìn xuống vật nhỏ trong tay với ánh mắt khó chịu hơn hẳn, dường như bà còn chả muốn tiếp tục ẵm bế gì nó nữa.

"Nó là đứa con của quỷ, trong người nó có mầm mống của quỷ dữ, nên Chúa đã từ chối nó".

"Không. Người từ chối không phải là Chúa".

Cha Daniela ánh mắt trở nên buồn rầu và mệt mỏi. Nhưng ông là người giàu lòng nhân hậu và hiền từ nhất xứ, ngoài ra còn có thừa sự kiên nhẫn và quyết tâm. Đứa trẻ này phải được rửa tội, nó cần một cái tên để được nhận nuôi. Nó chẳng còn cha mẹ để nuôi nấng.

Hôm sau, cha Daniela lại chuẩn bị cho lễ Thanh Tẩy với hy vọng tốt đẹp rằng đứa trẻ sẽ thay đổi ý định. Mặc dầu riêng cái ý nghĩ rằng một đứa trẻ sơ sinh có cái gọi là ý định trong đầu rõ là ngớ ngẩn. Nhưng nói gì đi nữa, ông mong rằng sự việc ngày hôm qua chỉ là trùng hợp. Mà sự trùng hợp thì đâu có tái diễn chỉ sau một ngày.

Nhưng đứa trẻ lại ré lên y hệt lần trước. Cha Daniela đành dừng lại, nhưng ông vẫn còn lại rất nhiều sự kiên nhẫn và quyết tâm mà ông tin là sẽ đủ dùng cho đến khi hoàn tất được nghi thức.

Đáng tiếc, đến ngày thứ 9, quyết tâm của ông đã lung lay dữ dội và đầy vết nứt, còn sự kiên nhẫn của ông bị tiếng khóc thét inh tai làm cho hao kiệt, gần như bị bào mòn sắp cạn sạch. Tiếng ré vang vọng ở nơi linh thiêng nhất như tiếng kêu gào vọng lên từ chốn đen tối nhất, âm thanh đó khiến cha Daniela dần cảm thấy sợ hãi và tuyệt vọng. Ông quyết định, dùng hết số kiên nhẫn và quyết tâm sót lại cho lần cuối cùng.

Ngày thứ 10, đứa trẻ không khóc, nó cười.

Cha Daniela vô cùng vui mừng, thế mới là bé ngoan chứ. Ông cúi xuống để bế nó, nhưng khi vừa nhìn thấy gương mặt đang nở nụ cười của đứa trẻ, cha Daniela hãi hùng, cả người lạnh toát. Cái miệng chưa mọc răng đang ngoạc ra cười với ông, nụ cười trống hoác và ghê rợn, kinh tởm, gớm ghiếc nhất trên đời. Không, chỉ có quỷ nơi địa ngục mới mang vẻ mặt ô uế và đáng sợ nhường này. Đôi mắt đen của nó nhìn ông không chớp trong khi vẫn giữ nguyên nụ cười kia. Cái cười vô thanh của nó còn đáng sợ hơn tiếng khóc ré ban đầu. Cha Daniela tin rằng chỉ nhìn thêm một giây vào cái miệng mở rộng tới tận cùng của nó sẽ khiến ông chết mất!

Và ông chết thật. Tim ông ngừng đập, cơ thể già nua của ông ngã lăn ra, vĩnh viễn không bao giờ cử động lại được nữa. Sự kiên nhẫn và quyết tâm của ông cuối cùng đã trở nên công cốc, chẳng được tích sự gì.

Cha Daniela quá tốt bụng, lòng nhân hậu của ông lấn át hết những người khác. Đặc biệt là bà vú. Bà ta không nhìn thấy nụ cười của đứa trẻ, khi bà đến nó đang ngủ, và cha Daniela cũng đang ngủ, chỉ có khác biệt nho nhỏ là ông sẽ không thể tỉnh dậy để làm lễ rửa tội cho ai được nữa. Bà vú bế đứa trẻ với niềm giận dữ và động tác thô bạo. Bà ném nó vào trong chuồng ngựa. Và thầm mong nó chết quách đi cho rồi.

Trong chuồng chỉ có hai con ngựa vừa già vừa ốm yếu, gầy trơ xương. Nhưng đứa trẻ này không bị ngựa giẫm chết thì cũng sẽ chết vì đói. Bà vú quẳng nó lên đống phân ngựa. Trong vòng hai tuần nó đã được chuyển từ vũng máu tanh sang vũng lầy nhầy nhụa của chất bài tiết hôi thối. Đến ngày thứ ba sau khi đứa trẻ chuyển vào ở trong chuồng ngựa, một thằng trộm chạy vào tu viện. Thằng trộm này không phải thằng trộm cắp bình thường.

Thằng chả bị dở hơi! Thằng trộm không có kĩ năng đặc biệt hơn những thằng trộm khác, mà có cái đầu bị thần kinh. Nhìn thấy đứa trẻ nằm trong đống phân, hắn vô cùng sửng sốt. Hai con ngựa già của cái viện này không ngờ vẫn còn có thể đẻ được! Đúng là kì diệu, nhất định là Chúa thương xót và ban phép nhiệm màu này cho hắn. Thằng trộm trộm nghĩ và nhấc "con ngựa non" ra khỏi đống phân. Đứa trẻ bị bỏ đói, tay chân nó xìu xuống lỏng tỏng và thằng trộm chặc lưỡi, con ngựa non này yếu quá, bốn chân của nó mềm tới đứng không nổi. Hắn không bế ẵm mà cắp nách đứa trẻ, tay luồn qua bụng nó như cắp một con dê con, hứng chí chạy về nhà.

Thằng trộm rất sáng suốt nhận định ngay rằng con ngựa đang bị đói. Hắn lập tức chạy đi cắt trộm cỏ rồi về cho ngựa ăn. Nhưng con ngựa không hề nhúc nhích, bởi vì con ngựa này là con người, nó không bị mùi cỏ non hấp dẫn. Cho dù mùi cỏ có dễ chịu hơn trăm ngàn lần so với mùi phân thì cũng không khiến nó thèm ăn.

Con ngựa này chết mất! Thằng trộm ôm đầu đi qua đi lại trước cửa nhà. Hàng xóm của hắn là Leyla trông thấy bèn băng qua đường mòn hỏi thằng trộm:

"Có chuyện gì vậy Doren?".

"Con ngựa của tôi sắp chết rồi". Thằng trộm đáp và chỉ tay vào trong nhà, mắt hắn đỏ cả lên.

Ngựa ở trong nhà? Leyla chẳng hiểu mô tê gì cả, song cô không hiểu nội dung câu nói thì cũng quá quen với mấy câu trên trời dưới đất của gã hàng xóm này rồi.

"Tôi vào trong xem được không?".

Thằng trộm gật gật cái đầu với mái tóc không rõ vì sao lại cháy xém đằng trước.

Leyla đi vào nhà và thấy ngay đứa trẻ. Cô ôm ngực gọi tên Chúa rồi nhào tới chỗ thằng bé. Tạ ơn Chúa, nó vẫn còn sống. Nhưng nó sắp chết rồi. Da nó tím tái, người nó bốc mùi hôi rình, và cái miệng nó thì đang thở như thể nó đang ho mà bị nghẹn giữa chừng. Leyla vội vàng ôm lấy đứa trẻ chạy ra ngoài. Thằng trộm la lên:

"Ngựa của tôi! Phép màu của tôi!".

Leyla liền hét vào mặt thằng trộm:

"Doren, đồ chết giẫm! Ngựa cái giống nhà anh. Anh trộm con nhà người ta mà bỏ mặc cho nó sắp chết đói".

Thằng trộm lắc đầu như bị động kinh, giơ nắm cỏ trong tay chìa tới trước.

"Tôi không bỏ đói nó. Do nó không chịu ăn".

"Nó không ăn cỏ, đồ chết giẫm!".

Leyla không thèm chửi tay hàng xóm nữa, ôm theo đứa trẻ, ba chân bốn cẳng chạy về nhà mình.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

A Thụy

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/10/16
Bài viết
358
Gạo
0,0
CHƯƠNG 16

Hàng xóm của thằng trộm dở hơi là một người phụ nữ thông minh. Leyla có người chồng đi lính đã hai năm chưa ghé về thăm nhà. Mong ước có được đứa con để ẵm bồng cùng với người bạn duy nhất là sự tịch mịch thôi thúc cô giữ lại đứa trẻ thay vì mang nó đến tu viện hay trại mồ côi nào đó quanh vùng. Nhà cô nằm giữa lưng chừng đồi, nhìn đi ngó lại cũng chỉ có duy nhất một gã hàng xóm là thằng cha Doren chết giẫm, chẳng thể trông đợi ở gã một mối quan hệ hàng xóm lành mạnh cùng nhau uống trà nói chuyện thời tiết.

Leyla đi lên đồi trở về nhà mà bước chân nhanh như chạy, cô không yên tâm khi để đứa trẻ ở một mình với gã hàng xóm. Mặc dù không yên tâm nhưng cô không thể không rời nhà đi lên trấn mua sữa và tã cho thằng bé, cũng là đi nghe ngóng tin tức. Cô có người bạn ở làng bên, vài ngày trước có nghe cô ta kể về chuyện "con quỷ giết vợ" và đứa con của họ được đưa tới tu viện của cha Daniela. Rõ rành rành thằng bé con đáng thương là đứa trẻ bị ruồng bỏ. Không ai muốn nhận nuôi nó. Điều đó không khiến Leyla cảm thấy ủ dột, không chút nào. Thằng bé giờ là con của cô. Thật là phước điềm lành!

Từ bên trong vọng ra tiếng búa đóng đinh khô khốc, Leyla hốt hoảng nhấc cao váy lao ngay vào nhà. Bóng lưng thằng trộm ngồi giữa phòng khách đang cúi đầu, tay liên tục cầm búa gõ mạnh. Leyla chạy tới quát lên:

"Anh đã làm gì thằng bé...", và cô khựng lại. Thì ra thằng trộm đang làm một cái giường nôi bằng gỗ, chẳng biết là gã đã chôm số nguyên vật liệu này ở chốn nào. Miệng gã còn đương ngậm mấy cây đinh sắt. Doren ngẩng đầu cười với cô bằng điệu cười ngờ nghệch và ngô nghê đến phát ghét, răng gã cắn chặt đinh trong khi cặp môi ngoác ra rộng như cả thung lũng sau ngọn đồi. Gã nhướn cổ về chỗ đứa trẻ đang nằm ngửa trong phòng ngủ, rồi cầm búa gõ cộc cộc mấy cái lên "tác phẩm" của mình. Leyla lườm gã, bĩu môi cười:

"Cũng được việc gớm".

Cô đi vào phòng xem thằng bé, nó vẫn đang ngủ rất ngoan. Leyla quỳ xuống bên giường, cúi đầu kề sát mặt nó, dùng ngón tay dịu dàng xoa trán thằng bé. Bỗng đứa trẻ mở bừng mắt, bàn tay bé tí xíu của nó kéo kéo lọn tóc của cô, giống như muốn kéo mặt cô lại gần hơn. Thằng bé nhìn chăm chú vào mắt cô như đang quan sát một sinh vật lạ lẫm. Đôi đồng tử của nó có màu xám thật kì lạ, hôm qua cô nhớ rằng trông thấy mắt nó đen lay láy cơ. Không biết có phải là do di truyền không nhỉ, nghe bảo mẹ ruột của thằng bé là một người phụ nữ phương Đông rất đẹp.

"Con đói rồi phải không?", Leyla cười lắc lắc tay nó.

Thằng bé chớp mắt một cái như đáp lời cô. Leyla bật cười khúc khích. Cô đứng dậy đi ra phòng khách pha sữa và nghiêm mặt gọi thằng trộm:

"Doren, không được để ai biết thằng bé ở đây, nhớ chưa?".

Thằng trộm cào cào mái đầu lởm chởm của mình.

"Tại sao?".

"Người ta sẽ bắt nó đi, sẽ bỏ đói rồi vứt nó vào chuồng ngựa. Nó ở đây, tôi sẽ chăm sóc nó. Đợi nó lớn lên tí nữa, anh sẽ có bạn để chơi cùng".

Thằng trộm cười như một đứa con nít.

"Tôi sẽ không nói với ai đâu".

Chớp mắt đã sáu tháng trôi qua, vẫn không một ai hay biết Leyla bí mật nuôi một đứa trẻ. Lần nào đi mua sữa và tã, cô đều mua rất nhiều. Mỗi lần lại mua ở một sạp hàng khác nhau quanh vùng, còn nói dối rằng đồ mua là để mang đi thăm người bà con mới vừa sinh nở.

Thế giới của thằng bé thật an tĩnh. Nó không khóc quấy, không cười. Tuy nhiên thật đáng mừng là nó khỏe mạnh mỗi ngày. Leyla đã lo lắng nó bị ảnh hưởng vì những khốn khổ mà nó phải chịu trước khi Chúa ban nó cho cô, nhưng sức sống của thằng bé thật mãnh liệt và diệu kì làm sao. Ngay cả điều cơ bản là nỗi sợ mà mọi đứa trẻ khác đều có mang trong mình thì thằng bé của cô cũng không có nốt. Cho dù bên ngoài là tiếng mưa to sấm chớp trong một cơn bão tố hay tiếng kêu la dọa dẫm của lũ thú hoang cũng không khiến vẻ mặt nó biến đổi. Cho dù thức giấc giữa đêm, bóng tối bao trùm xung quanh cũng không làm nó khóc ré lên như phần còn lại của thế giới con nít. Nó chỉ ăn và ngủ, ngắm Leyla khi cô thay tã cho nó và nghe Leyla hoặc hát hoặc "trò chuyện" với nó trong khi cô làm việc.

Leyla là một thợ may tay nghề không chỉ khá khẩm, mọi sản phẩm cô làm ra đều được một cửa hiệu trên trấn nhận mua và bày bán nên cô không phải vất vả tìm cách bán từng cái ở chợ như những người thợ may nhỏ bé khác. Mỗi tháng một lần sẽ có cậu bé học việc từ cửa hiệu đến nhà cô lấy hàng trước, hai ngày sau tự cô sẽ đến nhận tiền hàng và chọn thêm vải mới nhập về.

Một buổi chiều mùa hè, tính từ lúc Leyla đón thằng bé về nuôi đã qua được bốn lần sáu tháng. Hôm nay là ngày cô lên trấn nhận tiền công và sắm sửa đồ dùng, và như mọi lần, bước chân của Leyla nhanh thoăn thoắt, gấp gáp để về nhà. Khi đến dưới chân ngọn đồi, cảnh tượng và tiếng huyên náo của đám đông tụ tập khiến người phụ nữ trẻ vô cùng hoảng hốt. Bình thường ngoài mấy tay thợ săn thỉnh thoảng qua đường thì chẳng ai bén mảng đến ngọn đồi hẻo lánh này. Điều duy nhất làm dấy lên nỗi lo lắng trong cô là ý nghĩ phải chăng thằng bé xảy ra chuyện, hay dân làng đã biết chuyện cô giấu giếm nuôi "đứa con của quỷ"?.

Leyla từng bước đến gần, đám đông không chú ý đến cô mà đang tập trung vào một vật gì đó ở giữa cái vòng tròn người này, bọn họ xì xà xì xầm:

"Cảnh sát sao còn chưa đến?".

"Có đến cũng chỉ có mỗi việc là dọn xác, nhìn là biết ngay bà ta ngã từ trên cao xuống rồi".

"Tội nghiệp quá!".

"Xui xẻo quá...".

Bỗng đằng sau có tiếng thở hổn hển và tiếng quát tháo, đám đông vội dạt ra nhường đường. Mấy viên cảnh sát già có trẻ có, mặc quân phục có, thường phục cũng có; xem dáng vẻ là vội vàng chạy tới đây. Đúng là làm khó cho bọn họ, con đường mòn duy nhất quá nhỏ hẹp và gồ ghề để phương tiện giao thông khác ngoài đôi chân có thể băng qua, khiến mồ hôi trên người bọn họ vã ra như mới chui đầu khỏi bể tắm hơi công cộng.

Cảnh sát bắt đầu phân công làm nhiệm vụ. Người kiểm tra hiện trường, người lấy lời khai của đám đông, rất nhanh chóng đã có kết luận. Một cảnh sát trẻ tới bên cạnh cấp trên báo cáo:

"Người chết là Maritza Konstancy, 34 tuổi, người làng Cây Sồi. Nguyên nhân dẫn đến cái chết có lẽ là do trượt chân té xuống khỏi vách núi", anh ta chỉ tay lên phía trên, một nhánh cây đã gãy sum suê lá mắc lại giữa lưng chừng đồi, rồi chỉ vào xác người phụ nữ, trên tóc và áo ngoài của bà ta có không ít lá cây dính vào.

Viên chỉ huy gật gù ra chiều hiểu rõ, rồi hỏi dân làng:

"Có ai chứng kiến vụ việc không?".

Đám đông lắc đầu nguầy nguậy. Một người phụ nữ nói:

"Thằng Ale đi bắt chim nghe tiếng hét nên chạy về gọi người. Khi chúng tôi tìm thấy thì bà ta đã sớm tắt thở rồi".

Bên cạnh người phụ nữ là thằng bé chín, mười tuổi gật đầu phụ họa.

Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chỉ là một vụ tai nạn đáng tiếc. Nhưng để chắc chắn, viên chỉ huy vẫn hỏi thêm:

"Ai ở gần đây nhất? Trên đồi có người không?".

Leyla đang định lủi đi, nghe thế thì khựng lại. Từ lúc nghe tên người chết, cô đã giật thót tim. Cái xác nát bét phần đầu đang trợn trừng hai mắt kia cô chưa từng gặp nhưng có nghe tên rồi, chính là bà vú ở tu viện, người đã độc ác ném con cô vào chuồng ngựa. Leyla thầm run lên nghĩ đến Doren, không biết tên dở người đó có phải nổi điên xô bà vú từ trên kia xuống hay không?

Mẹ của thằng bé Ale trông thấy Leyla đứng đó thì chỉ vào cô, kêu lên:

"Leyla ở trên đồi, còn có thằng Doren nữa".

Viên chỉ huy nheo mắt tiến lại gần, nhìn kĩ thì thấy đối phương là một phụ nữ trẻ xinh đẹp, hắng giọng hỏi:

"Cô có biết người bị tai nạn kia không? Có nghe thấy tiếng hét không?".

Leyla vội lắc đầu.

"Tôi lên trấn từ trưa, không có ở nhà".

Ông ta nhìn đống đồ trong tay cô, không nghi ngờ gì song vẫn hỏi tiếp:

"Có ai làm chứng cho cô không?".

Leyla kể lại những nơi cô đã đi, và những người cô đã gặp một cách cẩn thận. Trông cô rất bình tĩnh, chỉ hơi sợ sệt vì bị tra hỏi. Nhưng thực ra lúc này bụng cô đã loạn hết cả lên. Nếu đám cảnh sát này tới nhà điều tra, sẽ trông thấy thằng bé mất thôi!

Viên chỉ huy sai một cảnh sát trẻ đi điều tra chứng thực lời khai của Leyla rồi ra lệnh cho đám đông giải tán. Mấy tay cảnh sát còn lại lo thu dọn cái xác của bà vú. Chỉ còn viên chỉ huy cùng một cảnh sát ở lại, ông ta bảo Leyla dẫn đường tới nhà.

Bước chân Leyla chậm rì rì, vừa đi vừa thở khó nhọc, cố gắng tỏ vẻ cất bước không nổi. Nhưng dù cố trì hoãn đến đâu, cuối cùng ba người cũng tới trước nhà cô. Tay cảnh sát trẻ sắp sửa đẩy cổng đi vào thì Leyla kêu hô:

"Này!".

"Đừng lo, anh ta chỉ vào kiểm tra cho an toàn. Nhỡ đâu có kẻ giết người trốn trong nhà, thì người gặp nguy hiểm là cô đó!", Viên chỉ huy mỉm cười, ánh mắt lại như đang ra lệnh.

"Chẳng phải các ông đã nói là tai nạn ư? Làm gì có kẻ giết người nào ở đây!?". Tim Leyla đập thình thịch.

"Ôi, ai mà biết được. Vẫn nên kiểm tra một lượt, trách nhiệm của cảnh sát bọn tôi mà", ông ta gật đầu với tay cấp dưới một cái. Người kia liền đẩy cổng đi vào, còn rút súng bên hông ra rón rén nhìn qua cửa sổ mới đẩy cánh cửa khép hờ mà đi vào phòng khách.

Viên chỉ huy chặc lưỡi.

"Dù ở nơi vắng vẻ thế này thì cô cũng nên khóa cửa chứ, nhỡ có trộm thì sao?".

Leyla chỉ cúi đầu nhìn mũi giày. Cầu trời cho tay cảnh sát kia không chạy vô phòng ngủ, nếu không gã sẽ thấy thằng bé mất. Nhưng rất nhanh, người kia đã đi ra.

"Không có gì khả nghi thưa ngài".

Ồ? Không phải không có ai, mà không có gì khả nghi ư? Leyla tròn mắt. Cảnh sát điều tra kiểu gì vậy? Hay chắc anh chàng này sợ nên chỉ xem cho có lệ cũng nên. Dù sao thì may phước, Leyla thở phào nhẹ nhõm.

Chợt tay cảnh sát trẻ thì thầm điều gì đó vào tai vị cấp trên, tim Leyla lại nhảy tưng tưng như thỏ rừng động dục, bàn tay nắm chặt chiếc giỏ của cô trắng bệch. Nhưng viên chỉ huy lại gãi đầu có chút lúng túng:

"Có thể phiền cô dẫn chúng tôi sang nhà tay hàng xóm được không? Nghe nói anh ta...", ông ta cười một tiếng, gõ gõ ngón tay vào đầu mình một cách ngụ ý sâu xa, "hai người bọn tôi đột ngột xuất hiện, sợ dọa anh ta, thế thì khó mà hỏi chuyện được".

Bà ngoại ơi, đừng bảo với cô gã hàng xóm chết tiệt có dính líu tới vụ này thật đấy!

Leyla đành đáp ứng cảnh sát.

Nhà của thằng trộm khiến người ta nhìn mà hết muốn vào. Hàng rào có cũng như không, sứt hẳn một bên cửa. Cỏ mọc um tùm như nhà bỏ hoang. Mạng nhện giăng đầy khắp nơi. Nhà nhỏ như cái hũ, chả có phân chia phòng, mà nghĩ kĩ thì cũng chả cần. Có ai quanh vùng thèm bén mảng tới nhà tên này làm khách đâu?

Ba người không cần gõ cửa, vì nó đã mở sẵn rồi. Và họ thấy ngay một người đàn ông đang nằm im như tượng ở trên giường. Tay cảnh sát trẻ bước tới gần định gọi dậy thì phát hiện người nọ trắng bệch như cái xác, không phải chết rồi chứ? Một ngày hai mạng thì quá là xui xẻo! Nhưng người trên giường bỗng mở bừng mắt, dọa cho tay cảnh sát giật mình nhảy dựng lên, loạng choạng lùi lại.

Viên chỉ huy bước qua cấp dưới mà tới cạnh giường.

"Chúng tôi là cảnh sát, có việc muốn hỏi. Anh có thể ngồi dậy không?".

Thằng trộm không trả lời. Hai người cảnh sát nhíu mày, quay lại nhìn Leyla. Cô gật đầu với họ rồi tới bên giường, nhìn dáng vẻ yếu ớt của gã, hốt hoảng hỏi:

"Doren, làm sao vậy?".

"Rắn cắn", thằng trộm thều thào đáp.

Cả ba người hoảng hồn, thảng thốt nhìn quanh mới phát hiện dưới chiếc bàn (gãy một chân) có một con rắn xanh lè nằm bất động. Tay cảnh sát trẻ rụt rè bước lại đó, rút súng nhìn chằm chằm vào con vật. Tới gần thì nhận ra con rắn đã chết queo rồi, một cái nỉa bạc cắm trên đầu xuyên qua cuống họng con vật ghim vào nền nhà. Mí mắt cảnh sát trẻ giật liên hồi vì ớn lạnh. Cái nhà rách nát này moi đâu ra đồ dùng bằng bạc, quá nửa là gã nằm trên giường kia chôm chỉa mà có. Nhưng, chuyện nhỏ này nên bỏ qua... Một gã giết rắn bằng một cái nỉa như thế này, thì lạy hồn, anh chả muốn dây vào gã đâu.

Viên chỉ huy nhìn trên mu bàn tay thằng trộm có đắp thứ gì như xác lá, cúi đầu nhìn xuống thì dưới nền nhà ngay chỗ chân họ đứng có ít máu đã khô cứng lại. Trong lòng liền thấy an tâm, gã này bị rắn cắn thành ra như thế, không có khả năng đẩy ngã người phụ nữ bất hạnh kia. Ông ta cười cười chép miệng:

"Tự hút độc, còn biết đắp thuốc chữa thương nữa. Vậy mà đám người kia dám bảo anh chàng này khờ khạo. Anh ta còn tài hơn khối người".

Leyla chỉ biết cười đáp lại mấy câu, rồi tiễn hai người cảnh sát ra về. Bọn họ vừa đi khuất, cô liền phóng thẳng về nhà. Vào trong phòng ngủ thì hồn vía lập tức lên mây. Thằng bé, thằng bé con cô không thấy nữa? Đôi giày cô may nửa chừng cho nó, cả đồ dùng như quần áo, sữa... các thứ bé bé xinh xinh đều không còn thấy bóng dáng. Tim cô như ngừng đập, lại hộc tốc chạy sang nhà thằng trộm để hỏi gã.

Thân hình cô khựng ngay ngưỡng cửa, hô hấp đình trệ. Cô nhìn thấy thằng bé đang đứng trước giường, nhả đám lá thuốc trong miệng ra, đắp lên vết thương của gã Doren. Chưa bao giờ cô thấy thằng bé đứng trên hai chân. Mặc dù rất lo lắng, nhưng cô chưa từng sinh con, chỉ nghe đứa trẻ nào sinh non thì sẽ biết đi chậm, học nói chậm hơn đứa khác. Thế nên đây là lần đầu cô thấy nó cử động tay chân, mà không, đâu chỉ là đi đứng, cơ thể bé xíu của nó đang chăm sóc cơ thể cồng kềnh kia với sự bình tĩnh và thuần thục đến mức Leyla mở to mắt không chớp lấy một cái, nhìn trân trân vào trong phòng.

Thằng bé đột ngột quay phắt đầu lại.

"Leyla, đứng im".

Môi nó mấp máy rất khẽ, giọng nó trong vắt như suối, thanh lạnh như chuông bạc, êm tai như tiếng đàn dưới ánh trăng. Không bi bô như một đứa trẻ mới học nói, không phát âm ngọng nghịu khó hiểu. Rõ ràng, và chính xác. Nó bước lại chỗ chiếc bàn, mắt vẫn không rời khỏi cô, dù không hề liếc mắt nhìn nó vẫn vươn tay cầm chính xác ngay cán con dao nhọn hoắt trên bàn. Nó đi về phía cô một cách chậm rãi, nhưng chắc chắn, khẽ khàng nhưng không hề ngập ngừng nửa bước. Mắt Leyla mở to hết cỡ. Song không phải là cô sợ hãi. Cảm xúc duy nhất trong cô lúc này là khó hiểu. Cô chẳng hiểu gì ráo. Cho dù thằng bé đang cầm dao bạc nhìn trừng trừng vào cô không chớp mắt thì cô vẫn chỉ đứng im như tượng. Có lẽ vì nhìn thấy thằng bé cứu sống Doren, có lẽ vì tình yêu của cô dành cho nó đã chiếm lấy cả linh hồn cô rồi. Leyla ngây ra nhìn thân hình bé nhỏ càng lúc càng gần.

Ngay khi thằng bé chỉ cách cô mấy bước chân, bên tai Leyla vang lên tiếng "khè" khiến cô thót tim quay đầu ra sau, cùng lúc đó một ánh sáng bạc lóe lên ngay tầm mắt, sượt qua vai cô. Bàng hoàng mở mắt, một con rắn đang lắc lư trên tấm cửa gỗ. Đầu nó bị con dao ghim dính cứng ngắc lên cánh cửa ọp ẹp, thân mình dài cả mét của nó vẫn đang đung đưa qua lại như con lắc đồng hồ.

Phản xạ đầu tiên của Leyla là hét lên, lùi ngay về sau, ôm lấy thằng bé lùi tít về chỗ Doren.

Xác con rắn cuối cùng cũng ngừng đung đưa. Trong phòng không một tiếng động, ngoài tiếng hít thở dồn dập của Leyla. Cô nuốt nước bọt, chớp chớp mắt, hình như... chỉ có một mình cô sợ thôi? Cô buông thằng bé ra. Chuyển mắt từ con rắn dưới cái bàn rách nát, tới thằng bé, tới con rắn úp mặt trên cánh cửa (cũng rách nát nốt), lại dời mắt sang nhìn thằng bé. Dáng vẻ cô lúc này so ra còn ngốc nghếch gấp mấy lần so với thằng cha dở hơi trong căn nhà rách nát này.

"Leyla, đừng sợ".

Hai tay của Leyla ngừng run rẩy. Bởi vì thằng bé đang cười với cô. Hệt như tia nắng đầu tiên của ngày mới, như cầu vồng trong ngày mưa. Nếu thiên sứ có hình hài, nụ cười của của thiên sứ phải chăng sẽ trông giống thế này? Bàn tay nhỏ bé đối diện vươn tới áp lên má cô, một giọt nước mắt trong suốt rơi lên ngón tay thằng bé.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên