Max đẩy gọng kính mát sành điệu lên để gãi gãi sống mũi. Tay kia vịn lên cửa xe còn chưa đóng, đảo đầu ngắm nghía cảnh sắc xung quanh. Theo như địa chỉ mà Paul nhắn tin cho cậu, thì ngôi nhà gỗ sơn trắng với hàng thông cao vút đầu cổng kia chính là nơi cậu cần ấn chuông. Đó là nhà của nạn nhân thứ nhất, Eli Lilly.
Ngôi nhà màu trắng này trông qua như thể cố gắng tách biệt với những nhà xung quanh, bởi nó lọt thỏm giữa cơ man các loại hoa và dây leo, và cả cây cao. Trong khi những ngôi nhà còn lại chỉ cách nhau mỗi hàng rào gỗ thấp hoặc cây bụi lùn.
Max di di đầu ngón tay lên chiếc mũi đỏ của chú hề gỗ đang đứng một chân lên chiếc cột mảnh cao quá đầu gối Max. Chú hề đội nón vàng, miệng cười toe toét và trên tay bưng một cái rương gỗ sồi để mộc, không sơn phết gì cả. Max nhìn một lúc mới phát hiện cái rương chính là nơi để nhét thư tín vào.
“Chủ nhà này cũng vui tính đấy chứ.” Max gật gù nhận xét khi thấy địa chỉ nhà là do uốn cây leo tạo thành. Giữa một mảng xanh trơ ra một khung rỗng được nẹp sắt theo hình chữ nhật, lộ ra thân cây mảnh xoắn với nhau thành nhiều vòng tạo thành các con số, lá bị cắt trụi.
Kinh koong…
Max nhấn chuông, tay còn lại tranh thủ chỉnh cổ áo cho ngay ngắn. Hôm nay cậu mặc áo sơ mi trắng dài tay, rất ra dáng một nam sinh ưu tú.
Cửa nhà vẫn im lìm, không có dấu hiệu là có người trong nhà. Bởi không thì nghe tiếng chuông, ít nhất cũng phải đứng sau cửa ngó nghiêng ra phía ngoài chứ.
Nghĩ thế, Max ấn chuông thêm vài ba lần nữa cho chắc.
“Paul, em Max đây. Em có chút rắc rối với cảnh sát ở Winton nên trong hôm nay không về được. Chuyện là có hai xác chết trong ngôi nhà anh chỉ định em đến. Nhận dạng là một nam một nữ. Thế thôi em phải cúp máy đây.”
Max để lại lời nhắn trong thư thoại cho Paul, sau đó leo lên xe cảnh sát. Một người cắt cỏ gần đó cảm thấy Max rất khả nghi khi cứ đứng lì trước ngôi nhà trông có vẻ giàu có nên đã báo cảnh sát, ông ta cho là Max định trộm đồ. Không ngờ lúc cảnh sát ập tới, lại có thể phát hiện ra sự việc tồi tệ như vậy.
Cùng thời điểm đó, Paul đang lái xe từ Sunshire Coast trở về Gold Coast. Một ngày lái xe ròng rã khắp nơi khiến tay, cổ và chân anh đau nhức rã rời. Trước đó, trong bộ vest đen chỉn chu, Paul đã xuất hiện lịch lãm như một quý ngài thành đạt ngay bậc thềm nhà nạn nhân thứ hai, cô Sharon Canu. Mẹ cô gái ấy ra mở cửa với khuôn mặt đau buồn và bộ dáng dè chừng. Ban đầu bà ta nói cảnh sát dặn bà ta không nên tiếp xúc với người lạ, nhưng khi Paul giới thiệu mình công tác tại trường đại học Bond, nơi con gái bà ta đã theo học thì bà ta liền tưởng anh là thầy giáo. Nhờ đó mà Paul được vào trong nhà cùng như xem qua phòng của Sharon.
Lái xe trên cao tốc M3, hướng về cách Gold Coast tầm 80km thì mặt trời bắt đầu lặn, khiến một vùng trời đỏ lừ như gã đàn ông xấu tính say rượu.
Paul chợt nhớ đến Max, anh bật điện thoại kiểm tra danh sách các cuộc gọi và được báo có vài thư thoại đang chờ.
Tin nhắn thoại thứ nhất:
“Paul, em Max đây. Em có chút rắc rối với cảnh sát ở Winton nên trong hôm nay không về được. Chuyện là có hai xác chết trong ngôi nhà anh chỉ định em đến. Nhận dạng là một nam một nữ. Thế thôi em phải cúp máy đây.”
Tin nhắn thoại thứ hai:
“Tôi là mẹ của Sharon đây thưa thầy. Tôi chợt nhớ ra là con bé hình như còn qua lại với một người đàn ông khác ngoài bạn trai của nó. Có vẻ như con bé bắt cá hai tay. Nhưng thầy đừng hỏi tôi người đàn ông đó trông ra sao bởi con bé chưa dẫn người đó về nhà bao giờ. Tôi có nghe lén con bé nói chuyện với bạn, nó bảo rằng người đàn ông mới quen rất đẹp trai, thích chơi bóng rổ. Con bé hẳn phát cuồng vì gã đó nên tháng lương đầu tiên nó đã mua tặng cho gã biết bao nhiêu là đồ. Tôi sẽ gửi kèm mấy tấm hình mà con bé đã chụp mấy món đồ đó khi nó mang về nhà để gói lại cho thầy sau tin nhắn này. Cuối cùng, cảm ơn thầy đã đến thăm tôi và nói tốt về con bé.”
Tin nhắn thoại thứ ba:
“Paul, Code đây, ngắn gọn cho cậu biết là sự nghi ngờ trong vụ ngộ độc của cô bé cùng phòng giam với thân chủ cậu vừa được bác bỏ. Cô bé đã tỉnh và cho lời khai trong phòng hồi sức. Lời khai dĩ nhiên có lợi hoàn toàn cho thân chủ cậu. Thế nhé.”
Paul đảo mắt nhìn bảng chỉ dẫn bên đường, anh thấy một lối thoát số 76 khỏi cao tốc, liền xi nhan cho xe rẽ vào.
Anh gọi điện thoại cho Code.
“Nếu cậu định cảm ơn về thông báo đó thì không cần đâu.” Code vui vẻ nói.
“Cậu còn liên lạc với gã thám tử ở Winton chứ?” Paul vào vấn đề ngay lập tức.
“Ý cậu là gã Jack bóng đó hả?” Giọng Code nhè ra như thể vừa rùng mình một cái.
“Jack, thám tử.” Paul nhấn mạnh.
“Gã đổi số liên tục, nhưng tớ vẫn có số của gã. Mà cậu có việc gì tận Winton lận?” Code hỏi.
“Một số chuyện mà khi nào nói điện thoại được với gã đó thì mới cho cậu biêt được.” Paul vòng vo đáp.
Code có chút rối mòng khi nghe cậu bạn trả lời. Một cuộc gọi khác cắt ngang cuộc gọi của Paul, Code ấn nút giữ rồi nghe cuộc điện thoại mới. Lúc sau anh quay lại nói với Paul.
“Ha, coi bộ Max có chút rắc rối nhỉ, tớ vừa nghe là cậu nhóc vẫn chưa được ra khỏi sở cảnh sát đâu.”
“À cái đó…”
“Cậu định nhờ gã bóng đó giúp à?”
“Hừm…”
“Này đừng thừa nhận, không tớ buồn cười chết mất. Cậu mà cũng có lúc như gà mắc tóc thế này cơ đấy.”
“Cậu gửi tớ số của Jack, thế nhé. Tớ phải đi ngủ chút.”
Paul ấn nút đỏ tắt điện thoại. Anh chưa về tới nhà, cũng không ghé văn phòng, chỉ tấp xe vào lề, hạ cửa kính xuống một chút, bật ghế ngả ra sau rồi vòng tay trước ngực, nhắm mắt ngủ. Cái anh cần bây giờ chỉ là một giấc ngủ ngắn để lấy lại sức.
…
Sau ba tiếng giải thích mỏi cả miệng tại sở cảnh sát Winton, cuối cùng Max cũng được cho về bởi đoạn băng thu được từ camera an ninh gần đó cho thấy Max không hề bước vào trong nhà tại thời điểm trước và sau khi nạn nhân tử vong.
“Bà ấy chết ở tư thế ngồi, trên bàn có chai rượu uống dở.” Max nói qua điện thoại.
“Em có vô tình nghe được nguyên nhân chết không?” Paul hỏi.
“Hừm, để xem… Hình như họ có nói về ngộ độc.” Max chần chừ đáp.
“Thế còn người đàn ông kia?”
“Cảnh sát đang bận xác định danh tính, nguyên nhân chết có lẽ giống như người phụ nữ. Em không chắc có phải là tự tử vì tình không, vì có một bà béo tự nhận là hàng xóm đã khai với cảnh sát là người phụ nữ này là góa phụ, sau vài năm chồng mất thì có qua lại mập mờ với một gã nào đó.”
“Em làm tốt lắm, về nhà tắm mát, ăn chút gì rồi nghỉ ngơi đi nhé.” Paul đột nhiên hạ giọng, nói một cách đầy quan tâm.
“Em đang lái xe đây, thế còn Linh, cô ấy thế nào rồi?”
“Có vẻ suy sụp, nhưng đừng lo, cô ấy sẽ sớm được thả thôi… Anh sẽ tìm cách khiến bên cảnh sát thả cô ấy mà không phải ra tòa.”
“Có khi nào phán đoán của anh sai không Paul, lỡ cô ấy thực sự có liên quan tới vụ án mạng đó?”
“Cô ấy đúng là có liên quan tới vụ án Max à. Nhưng theo hướng tích cực. Thế nhé, em lái xe cẩn thận, về tới nhà thì gửi cho anh một tin nhắn.”
“Vâng.”
“Tút… tút…”
Paul đã cúp máy.
Max tháo tai nghe bluetooth đeo trên tai, bỏ vào hộc đựng đồ nhỏ gần cần số. Hôm nay cậu chạy chiếc Audi hai cửa màu bạc sang trọng, bởi chiếc xe bị kéo từ hôm kia nhờ công mách lẻo của Paul, cậu vẫn chưa có thời gian đi lấy về.
Max đi đi lại lại quanh phòng, hút bụi thảm, lau nhà rồi giặt khăn trải giường, vỏ gối cùng một số thứ linh tinh khác. Khi phơi còn cẩn thận giũ cho phẳng, xịt nước thơm lên.
Hai chậu xương rồng mà Linh mang theo khi đến, được Max mang ra ngoài hiên, đặt ở nơi có nhiều nắng nhất. Cậu xịt ít nước lên thân cây, sau đó chăm chú nhìn cái vật nhú ra ở cây xương rồng Pincusshion. Không chỉ một mà là cả vòng tròn lốm đốm. Ban đầu Max cho rằng đó là nấm, nhưng sau đó cậu nghĩ lại, có thể là những nụ hoa.
Một lần Linh nói với Max về ý nghĩa của xương rồng, cô còn tin khi xương rồng nở hoa, người trồng sẽ gặp nhiều may mắn.
“Hi vọng khi hoa xương rồng nở, cậu sẽ ở đây để ngắm nó.” Max nói một mình.
Trước khi đi ngủ, Max quá bộ vài bước ra hòm thư kiểm tra. Ngoài báo thường nhật và mấy tờ rơi quảng cáo, Max tìm thấy một thư từ bưu điện và một thư từ sở giao thông, cả hai đều gửi cho Linh.
Chần chừ một lúc, Max quyết định xé cả hai lá thư ra đọc, sau đó chụp hình gửi cho Paul. Một cô gái có hẳn kế hoạch giết người vào ngày hôm trước chắc sẽ không đóng ba trăm đô để thi bằng lái xe ô tô vào ngay hôm sau, cũng như đặt mua cả kiện hàng thời trang trên mạng đâu, Max chắc thế và cậu nghĩ mấy lá thư này sẽ có lợi cho Linh.
…
Ở ngoại ô phía Đông Gold Coast, nơi những dãy núi xanh ngắt trùng điệp nối đuôi nhau ẩn mình dưới sắc trắng vởn vơ của mây trời, là thủ phủ của loài Flying Fox, một loại dơi được Chính phủ Úc ban bố sắc lệnh bảo tồn. Loài dơi này có tầm quan sát và khả năng nhận biết mùi nhạy bén hơn các cá thể cùng loài khác, đặc biệt là Flying Fox đầu đỏ và chúng chỉ ăn hoa quả.
Trong đàn Flying Fox đầu đỏ đang được chăm nuôi tại cơ sở, có một con cái vừa sinh con. Thế nhưng điều này khiến nhân viên trong khu bảo tồn cảm thấy lo lắng, bởi mùa sinh sản của loài dơi đầu đỏ này thường rơi vào tầm tháng 4 đến tháng 5.
“Đó có thể là sự lai trong một chi. Con dơi đầu đỏ cái đã giao phối với một con dơi đực khác cùng chi.” Naomi nói qua điện thoại. “Nhưng còn phải chờ kết quả phân tích, em đã gửi mẫu tới trung tâm rồi.”
“Em làm tốt đó Naomi, thế tình hình của con non thế nào rồi?” Paul vừa nói vừa đánh lái cho xe rẽ hướng về ngoại ô.
“Em không chắc, nó khá yếu và em đã cố cho nó uống vài giọt nước ép.”
“San còn ở đó không? Nếu còn thì bảo cậu ấy…”
“San về nhà rồi, cậu ấy đã đỡ đẻ cho ờ, con dơi mẹ ấy, thật không nghĩ lần đầu mà cậu ấy làm tuyệt đến thế Paul à. Em cũng ủ ấm cho nhóc dơi theo lời dặn dò của San rồi.” Naomi nói.
“San xử lí tốt đấy.” Paul cười hài lòng. “Khoảng mười lăm phút nữa anh có mặt ở cơ sở và anh sẽ xem kĩ tình trạng của con dơi con ngay khi tới. Trong thời gian đó nếu em tranh thủ cho nó uống thêm vài giọt nước ép nữa thì thật tốt, à, cho nó uống nước ép lê nhé.”
“Em sẽ dỗ nó uống Paul à.” Naomi cười. “Em cũng có vài câu hỏi cho sự vắng mặt của anh mấy ngày qua đấy. À đừng nghĩ nhiều quá, chỉ là em tò mò thôi.”
“Chà, nếu thế thì chắc anh nên mua một ít bánh nướng và Flat White không đường nhỉ? Chỗ ông bà Peter ở dưới chân núi thì sao?”
“Thế thì quá tuyệt anh ạ, em rất thích bánh nướng của ông bà Peter.”
“Được, vậy nhé. Hẹn gặp em sau.”
“Vâng, Paul.”
Đường ra ngoại ô đã vắng, khi quẹo vào đường lên núi lại càng vắng hơn, chỉ có vài ba chiếc đi chiều ngược lại vào thành phố. Paul điều khiển xe Aurion bạc nhẹ nhàng lướt bóng mát của những tán lá phong xanh mướt. Nắng rọi qua khoảng hở giữa các kẽ lá, lóng lánh hắt lên mui xe. Vài quả phong khô rơi lộp bộp xuống mặt đường nhựa rồi lại bị bánh xe cán lên bắn vào vệ đường, nơi những đám cỏ bồ công anh đương nở rộ những hoa là hoa.
Paul hạ cửa kính, khoan khoái hít thật sâu mùi thơm của cây cỏ tự nhiên, mùi hoang dã của rừng già và tận hưởng âm thanh líu lo vui tai của mấy chú chim chuyền cành.
“Tôi chợt nhớ ra là con bé hình như còn qua lại với một người đàn ông khác ngoài bạn trai của nó. Có vẻ như con bé bắt cá hai tay.”
Lời nhắn trong hộp thư thoại của mẹ nạn nhân thứ hai đột nhiên xuất hiện trong đầu Paul, xua tan những thư thái vừa nhóm lên được một chút. Paul thở dài.
Anh chỉ có một tiếng để giải quyết việc ở khu bảo tồn, sau đó sẽ tiếp tục với nội dung trong thư thoại này.
Paul thay đồ rồi bước vào phòng nhỏ, nơi có nhiều lồng kính và bên trong có những chú dơi sơ sinh đang nằm ngủ. Chẳng khó để nhận ra chú dơi đầu đỏ nằm cô độc trong lồng kính phía trong cùng. Những con dơi mới sinh khác đều sẽ được trả về với mẹ sau vài tiếng chăm sóc, nhưng con dơi đầu đỏ này có thể không được như thế, bởi nó quá yếu.
Naomi đã đi thăm trại dơi trưởng thành khi Paul đến, thế nên anh để bánh và cà phê ở phòng làm việc của cô rồi tranh thủ thăm khám cho chú dơi đầu đỏ tội nghiệp.
Paul đeo găng tay, sau đó nhẹ nhàng nhấc con dơi non ra, đặt lên tấm vải mềm trải sẵn trên bàn. Con dơi hơi cựa quậy, nhưng vẫn nhắm mắt ngủ. Bằng động tác hết sức từ tốn, anh kéo hai cánh của con dơi ra, đo nhịp tim, kiểm tra sơ bộ răng miệng cũng như vành tai. Tiếp đến, cũng bằng động tác nhẹ nhàng, anh mát xa một chút ở hai cánh dơi rồi quấn lần lượt từng cánh một ôm theo cơ thể bé nhỏ của con dơi. Sau đó Paul lấy tấm vải mỏng quấn quanh thân dơi nhỏ rồi đặt nó nằm ngửa xuống bàn. Lúc này nom con dơi đầu đỏ dễ thương như em bé vậy.
Paul nhét cái phễu nhựa dẻo nhỏ bằng hạt lạc vào miệng dơi con, rồi lấy xi lanh hút nước ép nhỏ từng giọt vào phễu.
Naomi đã vào phòng từ trước đó, nhưng thấy Paul chăm chú quá nên cô không lên tiếng. Dáng áo blue trắng khoác ngoài áo sơ mi xanh nhạt không cà vạt, cũng không được mặc đúng cách, nhìn qua thấy có chút buông thả nhưng càng nhìn lại càng thấy hấp dẫn. Sau khi ngắm anh chán chê, cô mới tiến đến và nói.
“Bên trung tâm mới điện báo, ba ngày sau mới có kết quả xét nghiệm nước bọt và máu.”
“Ừm, chúng ta qua văn phòng đi, ở đó có cà phê và bánh đang chờ.” Paul cười dịu dàng.
“Paul này, cuối tuần này anh đi dự đám cưới với em chứ? Một người bạn cũ của em sẽ tổ chức lễ tại nhà thở ở South Pot.” Naomi vừa nói vừa nhẹ nhàng vịn lên cánh tay Paul.
“Chắc hẳn là một đám cưới trên du thuyền? Biển ở đấy về chiều thật đẹp.” Paul cười. “Anh sẽ trả lời em vào ngày mai nhé?”
“Anh không được từ chối đâu đấy, em không muốn đến đó mà, ừm, một mình, kiểu thế.” Naomi nhún vai.
“Nếu thế em chỉ cần một người đàn ông tháp tùng thôi Naomi.” Paul nói.
Naomi dừng chân. Lưỡng lự vài giây, cô ngẩng lên, thu hết can đảm để đối diện với ánh mắt điềm tĩnh của Paul.
“Em cần anh.”
“Chà…” Paul nghiêng đầu, môi vẫn mỉm cười và đôi mắt thì không rời khỏi khuôn mặt xinh đẹp của Naomi.
“Em nghĩ anh cũng biết là em thích anh, phải không?” Naomi đan hai tay ra phía sau, cố làm như không bối rối.
Tiếp theo, Naomi gần như nín thở, mắt cô mở to còn môi thì mím chặt. Cô chờ đợi Paul sẽ hành động hoặc nói vài câu gì đó để giải quyết tình huống ngượng ngùng này, ngay cả khi đó là một lời từ chối. Thế nhưng một phút trôi qua, Paul chẳng có động tĩnh gì cả…
Hai vai Naomi rũ xuống, cô thất vọng tới mức không làm chủ được nét mặt nữa.
“Ồ, Paul, em xin lỗi vì khiến anh khó xử…”
Sở dĩ Paul không phản ứng là vì anh thấy sự thẹn thùng của Naomi quá đỗi đáng yêu, nhưng khi thấy cô sắp phát khóc thì anh nghĩ mình đã để cô đợi quá lâu.
Paul cười, anh vòng tay ra phía sau eo Naomi, kéo cô sát về phía mình và cắt ngang câu nói của cô bằng nụ hôn ngọt ngào.
“Có lẽ em không biết là anh cũng thích em, nhỉ?”
Lời Paul như mật rót vào tai, Naomi cảm giác tim mình như vỡ tung. Chỉ chưa đầy hai phút mà cô trải qua nhiều cung bậc cảm xúc quá.
“Giờ thì em biết rồi.” Naomi ôm chầm lấy Paul.
Paul liếc đồng hồ, anh chỉ còn năm phút nữa theo dự định, nhưng trong tình huống này, anh nên cùng Naomi hàn huyên đôi chút, có thể là trong hai mươi phút, hoặc hai lăm phút?
“Chúng ta qua văn phòng nhé?” Naomi nói với nụ cười tươi rói và ánh mắt lấp lánh hạnh phúc. “Em có nhiều chuyện muốn kể anh nghe lắm.”
“Em làm như thể chúng ta không gặp nhau cả thế kỉ vậy.” Paul cười bao dung. “Thực ra anh có vài chuyện quan trọng, anh chỉ có thể ở đây thêm, ừm, ba mươi phút nữa.” Paul nói.
“Ồ…” Naomi cụt hứng, nhưng sau đó lại vui vẻ liền. “Thế cũng được, em sẽ nói ít lại, và để dành cho lần sau.”
“Em quả là một cô gái thông minh và tốt bụng.” Paul nháy mắt.
Khi cửa phòng đóng lại sau lưng hai người, con dơi nhỏ yếu ớt kêu lên vài tiếng, đó có thể là tiếng kêu tìm mẹ, hoặc là tiếng than thở cuối cùng… Con dơi nhỏ mở mắt rồi khép lại, vài lần như thế thì nhắm hẳn. Ngực cũng thôi phập phồng và cánh cũng không cựa quậy nữa. Con dơi nhỏ nằm trong lồng kính một mình, bao lấy nó là bóng tối tịch mịch.
Đêm ấy, người dân quanh khu vực nghe thấy tiếng kêu inh ỏi của cả đàn dơi bay tán loạn, chúng kêu thảm thiết khác hẳn mọi ngày. Âm thanh rầu rĩ da riết như muốn xé toạc cả vùng trời.
Người không hiểu thì lại nghĩ đàn dơi đang cấu xé lẫn nhau, đàn dơi tới mùa động dục… Người có chút kiến thức thì chỉ nói, đó là một nghi lễ được gọi là “đám tang dơi.”
Paul đậu xe bên vệ đường, ấn nút cảnh báo nguy hiểm trên xe, sau đó nhắn tin cho Naomi.
Anh hạ cửa kính, thò đầu ra ngoài quan sát. Những con dơi lớn sải cánh dài tới cả hai mét bay từ cây này sang cây khác, không phải để tìm mồi, mà chỉ để kêu gào.
“Đúng như anh lo lắng, con dơi con chết và… và con dơi mẹ cũng chết rồi Paul. Con dơi mẹ tự tử, nó chết do kiệt sức. Hẳn là nó đã bay vòng vòng rất nhiều.” Naomi gửi tin nhắn cho Paul. “Điều này thật lạ lùng, dơi không có tập quán này.”
“Naomi, em gọi cho San tới nhé, anh sẽ cố giải quyết xong chuyện rồi quay lại.” Paul nhắn tin trả lời. Lúc này, Paul lại nhớ tới ánh mắt trống rỗng và nụ cười nhạt của Linh.
“Mình phải nhanh chóng kết thúc vụ án này.” Paul thầm nghĩ.
Paul chạy xe thật chậm, anh sợ sẽ tông phải con vật nào đó băng qua đường hoặc mấy con dơi đang bay loạn kia không kiểm soát được độ cao mà sà xuống xe anh.
Cứ như thế, một tiếng sau Paul mới về tới thành phố. Anh tới văn phòng ngay tức thì và gọi điện thoại cho Code. Cuộc nói chuyện kéo dài hơn nửa tiếng sau đó Paul gọi cho tay thám tử tên Jack hẹn một cuộc gặp mặt. Xong xuôi anh đặt vé máy bay hai chiều tới Townsville trong cùng ngày.