Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)


Cầu đến
TERABITHIA

tera4.jpg


Tác giả: Katherine Paterson
Dịch giả: Kurz

Tình trạng sáng tác: Hoàn thành
Tình trạng đăng: Hoàn thành
Thể loại: Truyện ngắn/ Truyện thiếu nhi
Độ dài:13 chương
Giới hạn độ tuổi đọc: Không giới hạn độ tuổi
Nguồn: http://www.e-reading.club/bookreader.php/135126/Bridge_to_Terabithia.pdf

Bản dịch chưa được sự đồng ý của tác giả!

Mục lục

Lời đề tặng
1 - Jesse Oliver Aarons, Con
2 - Leslie Burke
3 - Đứa trẻ nhanh nhất khối Năm
4 - Luật của Terabithia
5 - Những sát thủ khổng lồ
6 - Sự xuất hiện của Hoàng tử Terrien
7 - Căn phòng vàng
8 - Lễ Phục sinh
9 - Lời nguyền độc
10 - Một ngày hoàn hảo
11 - Không!
12 - Bị bỏ lại
13 - Bắc cầu

 
Chỉnh sửa lần cuối:

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
CHÍN– Lời nguyền độc

Vào buổi sáng thứ Hai Phục sinh, trời lại mưa như trút. Dường như mọi thế lực đều đang cố gắng hợp tác để phá hoại tuần nghỉ lễ tự do ngắn ngủi của bọn trẻ. Jess và Leslie đang ngồi xếp bằng trên hiên trước nhà Burke, nhìn bánh những chiếc xe tải đi qua làm bắn một đống bùn sình về phía sau.

“Còn chả được năm mươi lăm dặm một giờ nữa.”, Jess lẩm bẩm.

Ngay lúc ấy một thứ gì đó bay ra từ cửa sổ một chiếc xe ta-xi. Leslie bật dậy. “Đồ đần!”, con bé hét với theo ánh đèn xe đã đi gần mất hút.

Jess cũng đứng dậy. “Cậu có muốn làm gì không?”

“Điều tớ muốn làm là đến Terabithia.”. Con bé nói, nhìn một cách buồn bã cơn mưa đang đổ xuống.

“Được, đi thôi.” Thằng bé đáp.

“Ừ,”, con bé nói, đột nhiên phấn khởi hẳn lên. “Tại sao không chứ?”

Con bé lấy ủng và áo mưa của mình, phân vân không biết có nên mang ô theo không. “Cậu có nghĩ là mình đu qua được mà vẫn cầm ô không?”

Thằng bé lắc đầu. “Không đâu.”

“Chúng mình nên qua nhà cậu để cậu lấy ủng và mấy thứ khác nữa.”

Thằng bé nhún vai. “Tớ không có mấy thứ như vậy đâu. Cứ đi thế này thôi.”

“Vậy để tớ lấy áo mưa cũ của Bill cho cậu.”. Con bé vừa bắt đầu đi lên cầu thàng thì Judy xuất hiện ở sảnh.

“Các con định làm gì thế?”. Cũng đúng những lời mà mẹ Jess có thể sẽ nói, nhưng cách nói thì khác hẳn. Mắt Judy dường như nhìn xa xăm khi bà nói, và giọng bà nghe như thể nó được phát sóng từ cách xa hàng dặm.

“Bọn con không muốn làm phiền đâu, Judy ạ.”

“Không sao đâu, dù gì mẹ cũng tắc tịt rồi. Chắc mẹ cũng dừng lại đây. Các con ăn trưa chưa?”

“Đừng lo, Judy. Chúng con tự lo được.”

Mắt Judy tập trung hơn một chút. “Con đang đi ủng đấy à?”

Leslie nhìn xuống chân mình. “À, vâng,”, con bé nói như thể nó vừa mới phát hiện ra điều ấy. “Chúng con định ra ngoài một chút.”

“Trời lại mưa rồi à?”

“Vâng.”

“Trước đây mẹ cũng thích đi dạo dưới mưa lắm.”. Judy nở nụ cười giống như May Belle thường cười trong khi ngủ. “Vậy, nếu các con có thể tự lo...”

“Chắc chắn rồi ạ.”

“Bill đã về chưa thế?”

“Chưa ạ. Bố bảo bố sẽ về muộn, đừng lo lắng.”

“Được rồi,”, Judy nói. “Ô”, bà bỗng thốt lên, hai mắt mở lớn. “Ồ!”. Judy gần như chạy về phòng mình, và tiếng gõ bàn phím lách tách vang lên gần như ngay lập tức.

Leslie bật cười. “Bà ấy hết tắc tị rồi.”

Thằng bé tự hỏi cảm giác sẽ thế nào khi có một bà mẹ mà những câu chuyện của bà cứ chỉ diễn ra trong đầu chứ không phải xuất hiện trên tivi suốt ngày. Nó theo Leslie lên tầng, nơi con bé kéo ra các thứ đồ từ một ngăn tủ. Con bé đưa cho nó một chiếc áo mưa màu be và một chiếc mũ len tròn màu đen.

“Không có ủng.”. Giọng con bé phát ra từ dưới đáy ngăn tủ và bị chẹn lại bởi vô số áp khoác. “Một cặp đế giầy thì sao?”

“Một cặp gì cơ?”

Con bé thò đầu ra khỏi đống áo khoác.

“Chêm đế giầy. Miếng lót đế giầy ấy.”. Con bé giơ một cặp ra. Nhìn chúng như là cỡ mười hai.

“Thôi. Tớ làm rơi xuống bùn cho xem. Tớ đi chân trần được rồi.”

“Ừ,”, con bé nói, giải thoát mình hoàn toàn khỏi đống áo khoác. “Vậy tớ cũng đi chân trần.”

Mặt đất lạnh lẽo. Cái lạnh từ lớp bùn bò lên bắp chân hai đứa trẻ, vì vậy chúng chạy, tạt qua những vũng nước và làm bùn bắn tung tóe khắp nơi. H.T.T chạy trước dẫn đường, nhảy như cá từ đại dương nâu thẫm này sang đại dương nâu thẫm khác, sau đó nó quay lại, dồn hai đứa từ phía trước, cắn gót chân và làm bùn bắn thêm vào những ống quần bò đã ướt sũng của chúng.

Khi đến được con nước, chúng dừng lại. Khung cảnh ở đây thật tuyệt. Giống như trong chương trình Mười điều răn trên tivi, khi dòng nước cuộn trào vào con đường Moses đã tạo ra và quét sạch những người Ai Cập, dòng nước đang gào rú trong con nước cũ rộng đến tám phút*, cuốn theo bao nhiêu là cành nhánh, khúc cây cùng rác rưởi và xoáy tròn chúng như binh đoàn xe ngựa của người Ai Cập, nước như con thú đói khát liếm vào bờ kè và thỉnh thoảng trào lên hai bên bờ con nước, thách thức bọn trẻ dám chinh phục nó.

“Tuyệt.”. Giọng Leslie đầy vẻ kính cẩn.

“Ừ,”, Jess đưa mắt tìm kiếm sợi dây thừng. Nó vẫn ở đó, buộc chắc trên cành cây táo gai. Thằng bé thấy bụng trống rỗng. “Có lẽ để hôm khác đi.”

“Thôi nào, Jess. Chúng mình làm được mà.”. Mũ chiếc áo mưa của Leslie đã trượt xuống, và tóc con bé bết chặt vào trán nó. Con bé đưa tay vuốt nước khỏi má rồi với lấy sợ dây thừng. Tay trái con bé cởi mấy cúc áo đầu chiếc áo mưa đang mặc. “Đây,”, con bé nói. “Cho H.T.T vào đây hộ tớ với.”

“Để tớ đưa nó sang, Leslie à.”

“Với cái áo mưa cậu đang mặc, nó sẽ rơi ngay.”. Con bé nóng lòng muốn sang lắm rồi, vậy là Jess bế chú cún con ướt sũng lên và nhét nó vào trong áo mưa của Leslie.

“Cậu phải giữ mông nó bằng tay trái và đu bằng tay phải, biết chưa.”

“Tớ biết. Biết rồi mà.” Con bé lùi lại để lấy đà.

“Giữ chặt nhé.”

“Được rồi mà, vì Chúa, Jess.”

Thằng bé ngậm miệng lại. Nó những muốn nhắm tịt mắt lại luôn. Nhưng nó bắt mình phải nhìn con bé lấy đà, chạy đến bờ kè, nhảy lên, đu trên dây, nhảy nữa, và đáp xuống một cách điệu nghệ trên hai chân ở bờ bên kia.

“Bắt lấy kìa!”

Thằng bé vô thức giơ tay ra, nhưng nó đang mải nhìn Leslie và H.T.T nên không chú ý đến sợi dây thừng, thứ trượt khỏi ngón tay nó và văng vào không trung một vòng cung thật rộng quá tầm tay với. Thằng bé nhảy đến và tóm lấy sợi dây thừng, cố gắng không suy nghĩ cũng như nhìn đến con nước chảy xiết, nó chạy lùi lại rồi tăng tốc lên phía trước. Dòng nước lạnh giá liếm gót chân thằng bé trong một khoảng khắc, nhưng thắng bé bay lên cao hơn rồi rơi xuống một cách ngượng nghịu và đáp đất trên mông của mình. H.T.T nhảy lên người thằng bé ngay lập tức, để lại những vết chân đầy bùn trên khắp chiếc áo mưa màu be, và chiếc lưỡi hồng hồng liếm rát khuôn mặt ướt sũng nước mưa của Jess.

Mắt Leslie lấp lánh sáng. “Nghênh đón” – thằng bé không thể không nghe lọt tiếng cười khúc khích – “Xin nghênh đón đức vua của Terabithia, và xin người hãy khởi giá tiến vào vương quốc của chúng ta thôi.”

Vị vua của Terabithia khụt khịt mũi và lấy tay lau mặt. “Ta sẽ khởi giá ngay thôi,”, thằng bé nói đầy trịnh trọng. “Ngay khi nàng bỏ con chó ngốc này khỏi bụng ta.”

Chúng đến Terabithia vào thứ Ba và cả thứ Tư nữa. Trời thỉnh thoảng vẫn mưa, nên đến hôm thứ Tư thì nước đã tràn đến gốc cây táo gai và bọn trẻ phải chạy trong làn nước ngập đến mắt cá chân để có thể đu qua bờ bên kia. Và khi sang bờ bên kia thì Jess đã cẩn thận hơn để đáp đất bằng chân của mình. Mặc một chiếc quần vừa ướt vừa lạnh trong một tiếng đồng hồ thì thật chẳng vui vẻ gì, kể cả khi bạn đang ở một vương quốc phép thuật.

Với Jess, nỗi sợ khi đu qua sợi dây tỉ lệ thuận với mức dâng của dòng nước. Nhưng Leslie thì chẳng bao giờ có vẻ gì là chần chừ cả, nên thằng bé cũng không thể rụt cổ lại được. Nhưng kể cả nó có thể bắt cơ thể mình theo đuôi con bé, thì trí óc nó vẫn muốn lùi lại, bám chặt lấy cây táo gai theo cái cách mà Joyce Ann thường bám lấy váy mẹ nó.

Hôm thứ Tư khi chúng đang ngồi trong tòa lâu đài, trời bỗng nhiên đổ mưa to đến nỗi nước chảy xuống từ mái lều thành từng dòng lạnh lẽo. Jess cố tránh những chỗ tệ nhất, nhưng chả có cách nào để thoát được cuộc tấn công kinh khủng này.

“Người biết ta đang nghĩ gì không, thưa bệ hạ?”, Leslie trút cạn những thứ trong một lon cà phê ra đất và để nó hứng dưới chỗ dột tệ nhất.

“Nghĩ gì?”

“Ta nghĩ có một thế lực đen tối đang nguyền rủa vương quốc thân yêu của chúng ta.”

“Đài khí tượng chết tiệt.”. Trong ánh sáng mờ nhạt thằng bé có thể thấy Leslie đã đeo lên gương mặt mang dáng vẻ nữ hoàng nhất của nó – cái kiểu biểu hiện mà con bé thường có khi đối diện với kẻ thù bại trận. Con bé không đùa. Và thằng bé ngay lập tức hối hận vì cách hành xử không ra dáng vua chúa của mình.

Leslie chọn cách lờ đi. “Chúng ta hãy đến Rừng thông và hỏi những Linh hồn canh giữ ở đó thế lực đen tối này là gì và chúng ta phải chiến đấu với chúng bằng cách nào. Nói thật là ta không tin cơn mưa đang đổ xuống vương quốc chúng ta đây là một cơn mưa thông thường.”

“Đương nhiên là vậy rồi, nữ hoàng của ta.”. Jess lẩm bẩm và cúi người đi ra lối vào tòa thành của chúng.

Dưới tán thông, ngay cả con mưa cũng mất đi sức mạnh của nó. Nơi đây gần như tối đen khi không có ánh sáng mặt trời, và âm thanh của cơn mưa dội lên những tầng lá phía trên đầu bọn trẻ tạo cho trảng rừng này một giai điệu kì lạ, lạc nhịp. Nỗi sợ đè nặng trong lòng Jess như một miếng bánh rán to đùng không tiêu hóa được.

Leslie giơ cánh tay của nó lên và đối mặt với tán cây xanh thẫm. “Hỡi những Linh hồn của Rừng thông,”, con bé bắt đầu một cách chậm rãi. “Chúng con đến đây, thay mặt cho vương quốc yêu quý của mình, vùng đất hiện đang phải chịu một lời nguyền độc địa từ những kẻ thủ ác, những thế lực đen tối chưa biết tên. Chúng con cầu xin Người, hãy cho chúng con sự thông tuệ để tìm ra cái ác ẩn giấu, và cho chúng con sức mạnh để vượt qua chúng.” Con bé huých Jess bằng khuỷu tay.

Thằng bé giơ tay mình lên. “Uhm. Ừ.”, lại một cú thúc khuỷu tay nữa. “Vâng. Đúng vậy. Xin hãy lắng nghe lời thỉnh cầu của chúng con, hỡi những Linh hồn của Rừng thông.”

Con bé có vẻ hài lòng. Ít nhất thì nó không huých thằng bé nữa. Con bé chỉ đứng đó, lặng yên như thể nó đang kính cẩn lắng nghe ai đó nói chuyện với mình. Jess run rẩy, vì lạnh hay do cái cảm giác nơi này mang lại, nó cũng không biết nữa. Nhưng thằng bé thấy mừng khi con bé quay lại và tiến ra khỏi trảng rừng. Tất cả những điều nó muốn bây giờ là quần áo khô và một tách cà phê nóng, và có lẽ không gì hơn là quẳng mình xuống trước tivi và nằm dài ở đó trong vài tiếng đồng hồ. Thằng bé rõ ràng không xứng đáng trở thành vua của Terabithia. Đã bao giờ có vị vua nào lại đi sợ mấy cái cây với một ít nước chứ?

Trong khi đu về bờ bên kia, thằng bé quá kinh tởm với bản thân mình đến nỗi không còn thấy sợ nữa. Nửa chừng vòng đu, ngay giữa con nước, thằng bé nhìn xuống và lè lưỡi với dòng nước đang gầm rú phía dưới. Ai thèm sợ con sói to lớn xấu xa nào? Tra-la-la-la-la, thằng bé ngâm nga với chính mình, rồi nhanh chóng nhìn lên, hướng về phía cây táo gai.

Lê bước nặng nề lên đồi,vượt qua những đám bùn lầy và những chỗ cỏ bật tung lên, thằng bé dẫm từng bước nặng chịch. Bỏ hết, bỏ lại hết, thằng bé nhẩm trong đầu theo từng nhịp bước của nó. Bỏ lại người vợ của tôi và bốn mươi chín đứa con mà không còn chút bánh gừng nào, tôi làm thế có đúng không? Đúng mà. Ở ngay miền đất...*

“Chúng mình có nên thay quần áo và xem tivi hay làm gì đấy ở nhà cậu không?”

Thằng bé thấy muốn ôm con bé ngay và luôn quá. “Tớ sẽ pha cà phê.”, giọng thằng bé đầy phấn khởi.

“Tuyệt.”, con bé vừa cười vừa nói và bắt đầu chạy về phía Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin, cái kiểu chạy đẹp đẽ và tao nhã của con bé mà không một thứ bùn hay nước nào có thể đánh bại nổi.

Khi Jess lên giường vào tối hôm thứ Tư ấy, nó nghĩ rằng nó có thể thư giãn được rồi, rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, nhưng đến nửa đêm thì thằng bé thức giấc và hốt hoảng nhận ra rằng trời vẫn đang mưa. Nó chỉ cần nói với Leslie là nó sẽ không đến Terabithia nữa thôi. Rõ ràng là con bé đã nói với nó y như thế khi con bé sửa sang lại căn nhà với Bill. Và thằng bé đã không hỏi gì hết. Thực sự thì thằng bé không ngại phải nói với Leslie là nó sợ phải đi; nhưng nó không thích chuyện chính nó lại đi sợ hãi. Cứ như thể là nó được tạo ra bằng những miếng ghép trong trò chơi xếp hình của May Belle, mà cái phần bị mất lại là chỗ đáng ra phải là mắt, má hay hàm của người ta. Chúa ơi, việc sinh ra mà không có tay có lẽ còn tốt hơn phải sống cả đời mà không có lòng can đảm. Thằng bé gần như mất ngủ đêm ấy, nằm yên lắng nghe âm thanh khủng khiếp của cơn mưa và nhận ra rằng dù con nước có dâng cao đến mức nào đi nữa, Leslie chắc chắn vẫn muốn vượt qua.


Chú thích:
*phút – foot: Đơn vị đo lường của Anh ( 1 foot = 0,3048 mét)
*Một khúc quân hành. Nguyên văn: (Left,left,left,right,left) Left, left. Left my wife and forty-nine children without any gingerbread, think I did right? Right. Right by my... (country, by golly I had a good job and I left, left...)
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
MƯỜI– Một ngày hoàn hảo

Thằng bé nghe tiếng Bố khởi động chiếc xe bán tải. Dù chẳng có gì để làm, Bố vẫn rời đi sớm mỗi ngày để tìm kiếm công việc. Thường thì ông chỉ loanh quanh ở Văn phòng tuyển dụng cả ngày; vào những hôm may mắn, ông sẽ được gọi đi để làm công việc dỡ hàng hóa hoặc lau dọn.

Jess đã tỉnh rồi. Có lẽ nó cũng nên dậy thôi. Thằng bé có thể vắt sữa và cho cô Bessie ăn, như thế thì sẽ trốn khỏi nhà được một lúc. Nó mặc áo phông và bộ áo liền quần ra ngoài bộ đồ lót mà nó mặc khi ngủ.

“Anh đi đâu thế?”

“Ngủ tiếp đi, May Belle.”

“Em không thể. Mưa ồn quá.”

“Vậy thì dậy đi.”

“Sao anh cứ xấu tính với em thế?”

“Em im đi được không May Belle? Em sẽ đánh thức cả nhà dậy nếu cứ bô bô cái mồm như thế.”. Nếu là Joyce Ann thì chắc đã hét toáng lên rồi, nhưng May Belle chỉ xịu mặt xuống.

“Ôi, thôi nào,”, Jess nói. “Anh chỉ đi vắt sữa cho cô Bessie thôi. Sau đấy mình có thể xem hoạt hình nếu em vặn thật nhỏ volumn của em lại.”

Brenda béo ú bao nhiêu thì May Belle gầy gò bấy nhiêu. Con bé đứng giữa phòng trong bộ đồ lót của nó, trắng bệch và nổi da gà. Mí mắt con bé vẫn cụp xuống vì giấc ngủ vừa qua, và mái tóc nâu nhợt nhạt của con bé lỉa chỉa khắp đầu như một cái tổ sóc trên cây vào mùa đông. Chắc đây phải là đứa trẻ xấu xí nhất thế giới, Jess nghĩ, trao con bé ánh nhìn thương cảm từ tận đáy lòng.

May Belle ném chiếc quần bò của mình vào mặt Jess. “Em sẽ mách Mẹ.” Thằng bé ném trả cái quần. “Mách Mẹ cái gì?”. “Mách là anh dám đứng nhìn em khi em chưa mặc quần áo vào.”

Lạy Chúa. Con bé nghĩ là thằng bé thích điều ấy. “Ừ, đương nhiên rồi,”, thằng bé trả lời, đi về phía cửa để con bé không ném thêm bất cứ thứ gì vào nó nữa. “Em xinh đẹp thế cơ mà. Anh với làm sao được chứ”. Và khi ra đến tận bếp nó vẫn nghe tiếng con bé khúc khích cười.

Lán bò ngập tràn thứ mùi quen thuộc của cô Bessie. Thằng bé chào một cách trìu mến rồi đặt chiếc ghế của nó xuống bên sườn con vật và hứng cái xô dưới bầu vú lốm đốm những chấm nhỏ. Mưa vẫn trút xuống trên mái che bằng kim loại khiến cho tiếng sữa bắn vào vách xô nghe như một bản nhạc. Ước gì trời ngừng mưa nhỉ. Thằng bé tựa đầu mình vào bộ da ấm áp của cô Bessie. Nó vu vơ tự hỏi liệu có bao giờ bò cũng sợ hãi – thực sự sợ hãi không. Nó từng thấy cô Bessie hốt hoảng tránh xa H.T.T, nhưng sự sợ hãi ấy không giống sự sợ hãi của nó. Một chú cún con cứ chực cắn vào chân đúng là một mối đe dọa tức thời thật đấy, như điều khác biệt là ở chỗ khi không nhìn thấy H.T.T thì cô Bessie lại thoải mái trở lại, mơ màng nhai lại đống cỏ của nó. Con vật không phải cứ chốc chốc lại ngó về phía Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin, vừa suy đoán vừa sợ sệt. Cũng không phải nhón gót bồn chồn trong khi lo lắng tiêu hóa hết đám cỏ trong mấy cái dạ dày của nó.

Thằng bé di trán trên mạng sườn của con vật rồi thở dài. Nếu đến hè mà trong con nước cũ vẫn còn nước, nó sẽ bảo Leslie dạy nó bơi. Sao thế? Nó tự hỏi mình. Thằng bé sẽ nắm lấy vai nỗi sợ của mình và lôi cái đồ ấy ra ánh sáng cho xem. Có khi mình nên học cả lặn nữa.Thằng bé rùng mình. Có lẽ nó không sinh ra với lòng can đảm, nhưng chẳng lý do gì mà nó lại chết đi khi không có điều ấy cả. Này, hay là đến Trường Cao đẳng Y tế và làm một cuộc phẫu thuật cấy ghép ruột* nhỉ? Không, thưa bác sĩ, tim tôi hoàn toàn khỏe mạnh. Cái tôi cần là một cuộc phẫu thuật cấy ghép ruột. Thế có được không? Thằng bé mỉm cười. Nó phải nói với Leslie việc nó muốn được cấy ghép ruột. Đây là loại trò đùa vô nghĩa mà con bé thường đánh giá cao. Đương nhiên – thằng bé ngừng tay vắt sữa đủ lâu để gạt tóc ra khỏi mặt – đương nhiên loại phẫu thuật mà mình thực sự cần là cấy ghép một bộ não. Mình biết Leslie chứ. Mình biết bạn ấy sẽ không cắn rời đầu mình ra hay trêu chọc mình nếu mình nói rằng mình không muốn đu qua nếu nước chưa rút. Mình chỉ cần như vầy, “Leslie này, tớ không muốn đến đó hôm nay.” Chỉ cần thế thôi. Dễ như ăn bánh ấy mà. “Leslie, tớ không muốn đến đó hôm nay”. “Nhưng tại sao?”. “Tại sao à. Vì, vì, ồ bởi vì...”

“Em gọi anh ba lần rồi đấy”. May Belle bắt chước giọng khó chịu của Ellie.

“Gọi gì cơ?”

“Một cô nào đấy muốn nói chuyện điện thoại với anh. Em phải mặc đồ để đi gọi anh đấy.”

Thằng bé chưa bao giờ nhận được cuộc gọi nào cả. Thực ra Leslie từng gọi nó đúng một lần, và Brenda sáng tác hẳn một bài hát kèm vũ đạo về việc Jess nhận điện thoại từ cô gà bông yêu quý và Leslie quyết định rằng đơn giản nhất là cứ chạy qua nhà và tìm thằng bé lúc nào nó cần.

“Nghe giọng có vẻ giống cô Edmunds.”

Và đó đúng là cô Edmunds thật. “Jess à?”, giọng nói của cô tuôn chảy từ ống nghe. “Thời tiết tệ quá phải không?”

“Vâng, thưa cô”. Thằng bé không dám nói nhiều vì sợ cô giáo nghe thấy rằng nó đang run.

“Cô đang nghĩ về việc lái xe đến Washington – chắc là đến bảo tàng Smithsonian hoặc Bảo tàng Quốc gia. Em muốn đi cùng cô không?”

Người thằng bé đầm đìa mồ hôi lạnh.

“Jess à?”

Thằng bé liếm môi và vuốt tóc khỏi mặt.

“Em vẫn còn đó chứ Jess?”

“Vâng, em đây”. Hít một hơi sâu, thằng bé cố nói tiếp.

“Em có muốn đi cùng cô không?”

Chúa ơi. “Vâng, có thưa cô.”

“Em có cần xin phép ai không?”. Cô hỏi nhẹ nhàng.

“Vâng - dạ có thưa cô”. Bằng một cách nào đó thằng bé đã làm mình mắc kẹt trong đống dây điện thoại. “Thưa cô. Chỉ-chỉ một phút thôi ạ”. Thằng bé gỡ mình khỏi đống dây dợ, đặt điện thoại xuống thật khẽ khàng và nhón gót vào phòng ngủ của bố mẹ nó. Lưng Mẹ tạo thành một cái gò dài dưới tấm chăn bông. Thằng bé lay vai Mẹ thật khẽ. “Mẹ à?”, giọng thằng bé gần như thì thầm. Nó muốn xin phép trong lúc Mẹ chưa tỉnh táo hẳn. Rất có thể là bà sẽ từ chối nếu bà hoàn toàn tỉnh táo và cân nhắc về chuyện này.

Bà giật mình trước tiếng gọi nhưng rồi lại thoải mái ngay, không thực sự tỉnh giấc. “Cô giáo muốn con đến Washington thăm bảo tàng Smithsonian với cô.”

“Washington à?”. Giọng mẹ nhịu lại.

“Vâng. Công chuyện cho nhà trường ạ”. Thằng bé vuốt nhẹ tay mẹ nó.

“Nhớ về sớm nhé. Được chứ?”

“Mẹ đừng lo. Và con đã vắt sữa rồi đấy ạ.”

“Uhmm.” Mẹ kéo chăn lên tận tai và nằm sấp lại.

Jess tất tả chạy về chỗ đặt điện thoại. “Ổn rồi, thưa cô Edmunds. Em được phép đi.”

“Tuyệt. Cô sẽ đến đón em trong vòng hai mươi phút nữa. Chỉ cần chỉ cho cô đường đến nhà em là được rồi.”

Ngay khi vừa thấy bóng dáng chiếc xe của cô giáo, Jess chạy như bay từ nhà bếp ra ngoài dù trời đang mưa và gặp cô ở giữa đường. Mẹ có thể hỏi May Belle về các chi tiết sau khi nó đã lên đường an toàn. Thằng bé thấy mừng vì May Belle đang chìm đắm với cái tivi. Nó không muốn con bé đánh thức mẹ dậy trước khi nó đi hẳn. Thằng bé sợ phải nhìn lại phía sau kể cả khi xe đã ra đến đường cái, nó sợ nhìn thấy Mẹ vừa hú hét vừa đuổi theo.

Mãi đến khi xe đi qua Millsburg Jess mới nghĩ đáng lẽ nó nên hỏi cô Edmunds xem liệu Leslie có được đi cùng không. Nhưng khi nghĩ như thế, nó không thể không thấy vui thầm vì được ở trong chiếc xe nhỏ bé ấm áp này một mình với cô Edmunds. Cô lái xe thật chăm chú, hai tay nắm chặt vô lăng, mắt nhìn về phía trước. Các bánh xe ngân nga và cần gạt nước gõ nhịp vui vẻ. Không khí trong xe ấm áp và thoảng thoảng mùi hương của cô Edmunds. Jess ngồi đó, tay kẹp chặt trên hai đầu gối, dây bảo hiểm chẹn ngực nó chặt cứng.

“Mưa miếc chết tiệt,”, cô Edmunds nói. “Cô sắp phát điên mất thôi.”

“Vâng, thưa cô.”, thằng bé nói vui vẻ.

“Em cũng thấy thế hả?”, cô cười nhẹ với nó.

Sự gần gũi làm thằng bé thấy bủn rủn. Nó gật đầu.

“Em đã đến Bảo tàng Quốc gia bao giờ chưa?”

“Chưa ạ, thưa cô.”. Thằng bé chưa bao giờ đến Washington cả, nhưng nó mong là cô sẽ không hỏi nó điều ấy.

Cô lại cười với nó. “Đây là lần đầu tiên em đến một triển lãm nghệ thuật đúng không?”

“Vâng, thưa cô.”

“Tuyệt.”, cô nói. “Đời cô cuối cùng cũng có ý nghĩa.” Thằng bé không hiểu ý cô, nhưng nó cũng chả quan tâm. Nó biết cô vui khi có nó đi cùng, và thế là quá đủ rồi.

Ngay cả trong cơn mưa thì Jess vẫn nhìn thấy được cảnh sắc xung quanh, nó choáng ngợp trước những điều trước nay chỉ thấy trong sách – Nhà tưởng niệm Lee Mansion đứng sừng sững trên đồi, chiếc xe chạy qua cầu, lượn quanh hai lần, thế là thằng bé có cơ hội được chiêm ngưỡng Abraham Lincoln ngắm nhìn thành phố một cách rõ ràng hơn, cả Nhà Trắng và Đài tưởng niệm Washington cũng như hai phía của Điện Capitol. Leslie đã nhìn những cảnh này hàng triệu lần rồi. Con bé thậm chí còn từng học cùng con gái một nghị sĩ cơ. Thằng bé nghĩ lúc nào đấy nó sẽ kể với cô Edmunds rằng Leslie là bạn của một nghị sĩ thực thụ đấy. Cô Edmunds cũng thích Leslie lắm mà. Bước vào viện bảo tang cũng giống như đi vào Rừng thông vậy – những vòm đá cẩm thạch khổng lồ, đài phun nước tráng lệ, và cây xanh thì được trồng khắp nơi. Có hai đứa trẻ con thoát được sự kìm cặp của mẹ chúng vừa chạy qua, hét toáng lên với nhau. Jess phải cố gắng lắm mới không tóm lấy bọn chúng và dạy chúng biết cư xử cho phải phép ở một nơi rõ ràng là tôn nghiêm thế này.

Và những bức tranh – từ phòng này sang phòng khác, hết tầng này đến tầng khác. Thằng bé say sưa với đủ loại màu sắc, hình hài và dáng vẻ - cộng thêm cả giọng nói và hương nước hoa của cô Edmunds lúc nào cũng gần kề bên nó. Cô thường cúi xuống sát mặt thằng bé để giải thích hoặc hỏi nó một điều gì nó, mái tóc đen mượt của cô xõa xuống vai. Nhiều người đàn ông ngắm nhìn cô thay vì xem tranh, và Jess có cảm giác rằng chắc họ phải ghen tị với nó lắm vì được đồng hành cùng cô.

Họ ăn bữa trưa muộn ở căng-tin. Khi cô Edmunds nhắc đến chuyện ăn trưa, Jess phát hoảng khi nhận ra rằng nó cần tiền, và nó không biết làm cách nào để nói với cô rằng nó không đem theo chút tiền nào trong người – thực ra là vì nó không có để mà mang theo. Nhưng trước khi nó nghĩ ra được bất cứ điều gì thì cô đã nói, “Bây giờ cô sẽ không tranh cãi về việc ai trả tiền đâu nhé. Cô là một người phụ nữ độc lập, Jess Aarons ạ. Nên khi cô mời đàn ông đi chơi, cô sẽ trả.”

Thằng bé cố nghĩ ra một cách giải quyết mà không phải dính dáng đến chuyện hóa đơn, nhưng không thể, cuối cùng nó thấy mình đang ăn một bữa trưa trị giá ba đô-la, nhiều hơn nhiều những gì nó mong cô cho nó. Ngày mai nó sẽ hỏi Leslie rằng nó đáng lẽ ra nên giải quyết vấn đề này như thế nào.

Sau bữa trưa, hai người đội mưa sang Bảo tàng Smithsonian để ngắm khủng long và những người da đỏ. Ở đó họ bắt gặp một mô hình diễn tả cảnh những người dân da đỏ ngụy trang dưới tấm da trâu đang lùa một đàn trâu chạy tán loạn đến một vách đá tử thần, dưới đáy vực là nhiều người dân da đỏ khác chờ đợi để giết thịt và lột da chúng. Đó là một phiên bản ba chiều kinh dị của những bức vẽ của Jess. Thằng bé gần như phát hoảng khi thấy sự tương đồng giữa chúng.

“Đáng kinh ngạc đúng không?”. Cô Edmunds nói, tóc cô cù vào má thằng bé khi cô cúi xuống để nhìn rõ hơn. Thằng bé chạm vào má mình. “Vâng, thưa cô”. Rồi nó tự nhủ với bản thân, mình không nghĩ mình thích nó, nhưng thằng bé cũng không rời mắt đi được. Khi họ ra khỏi tòa nhà, đón chào họ là ánh nắng mặt trời rực rỡ của mùa xuân. Jess chớp mắt cho quen với sự sáng chói và lấp lánh này.

“Oao!”. Cô Edmunds kêu lên. “Đúng là một phép màu! Ôi mặt trời! Cô cứ nghĩ là cô ấy đã chui vào hang và thề không bao giờ trở ra nữa như trong thần thoại Nhật Bản ấy.”

Thằng bé cảm thấy tốt lành trở lại. Trong suốt chặng đường về ngập tràn ánh nắng, cô Edmunds kể những câu chuyện hài hước về một năm học đại học ở Nhật Bản của cô, nơi tất cả bọn con trai đều thấp hơn cô và cô không biết phải sử dụng nhà vệ sinh như thế nào.”

Thằng bé thấy thư giãn. Nó có quá nhiều điều để kể và để hỏi Leslie. Mẹ nó có tức giận thế nào thì cũng chả hề gì. Bà ấy sẽ quên đi thôi. Và thực sự rất đáng. Thằng bé sẵn sàng trả bất cứ giá nào cho ngày hôm nay, một ngày thật hoàn hảo.

Trên con đường dẫn đến Ngôi nhà cũ của nhà Perkin, thằng bé nói: “Cô cứ thả em ở đây đi cô Edmunds ạ. Đừng cố vào thêm làm gì. Cô sẽ bị kẹt trong bùn mất.”

“Được thôi Jess,”, cô nói và đỗ xe trên đường vào nhà nó. “Cảm ơn em vì một ngày tuyệt vời nhé.”

Ánh mặt trời đằng tây đang nhảy múa trên kính chắn gió phản chiếu trong mắt thằng bé. Nó quay lại để nhìn thẳng vào mắt cô Edmunds. “Không, thưa cô.”. Giọng thằng bé cao vút một cách kỳ cục. Nó hắng giọng. “Không, thưa cô, em xin cảm ơn cô. Và - ”. Nó ghét phải đi khi chưa thực sự có thể cảm ơn cô, nhưng bây giờ thì nó không nghĩ ra được cái gì để nói cả. Rồi nó chắc chắn sẽ nghĩ ra thôi, khi nằm trên giường hoặc ngồi trong tòa lâu đài ấy. “Và - ”. Thằng bé mở cửa xe rồi bước ra ngoài. “Hẹn gặp cô thứ Sáu tuần tới.”

Cô giáo gật đầu và mỉm cười. “Hẹn gặp em sau.”

Thằng bé nhìn chiếc xe đi xa dần, rồi quay lưng lại và chạy hết tốc lực về nhà, niềm hạnh phúc trong thằng bé tràn ngập đến nỗi nó sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu chân nó bay lên khỏi mặt đất và đưa nó thẳng lên mái nhà như nó vẫn thỉnh thoảng thấy trong giấc mơ của mình.

Phải đến lúc vào tới bếp thằng bé mới nhận ra có điều gì đó không ổn. Chiếc xe bán tải của Bố đang đậu ngoài cửa, nhưng nó không để ý đến điều đó cho đến khi vào trong phòng và thấy tất cả mọi người đang ngồi ở đó: bố mẹ và hai đứa em gái ở bàn bếp, còn Ellie và Brenda ngồi trên ghế sô pha. Không phải ăn. Trên bàn ăn không có gì cả. Cũng không xem tivi. Thậm chí tivi còn không bật. Thằng bé đứng như trời trồng mất một giây trong khi tất cả mọi người nhìn nó chằm chằm.

Đột nhiên Mẹ òa ra khóc thút thít. “Lạy Chúa. Ôi Chúa tôi.”. Bà cứ nhắc đi nhắc lại như thế, đầu gục xuống hai cánh tay. Bố quàng tay qua vai Mẹ một cách ngượng nghịu, nhưng mắt thì không rời thằng bé.

“Con đã bảo là anh ấy chỉ đi đâu đó thôi mà”. May Belle nói nhỏ một cách bướng bỉnh, dường như con bé đã nói đi nói lại điều ấy những chẳng ai tin nó cả.

Thằng bé nheo mắt như thể đang cố nhìn qua một cái ống tối đen. Nó còn chẳng biết phải hỏi mọi người cái gì nữa. “Cái gì – “, nó thử mở lời.

Brenda trề môi ra cắt ngang lời nó, “Bạn gái mày chết rồi, và Mẹ nghĩ là mày cũng chết nốt.”


Chú thích:
*lòng can đảm/ruột – guts/gut: (chơi chữ)
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
MƯỜI MỘT– Không!

Một điều gì đó xoay tròn trong đầu Jess; Thằng bé há mồm ra nhưng miệng nó khô rang và chẳng lời nào thoát ra cả. Thằng bé nhìn hết người này đến người kia, mong nhận được một sự giúp đỡ.

Cuối cùng bố nó lên tiếng, bàn tay to lớn thô ráp của ông vuốt nhẹ mái tóc vợ và đôi mắt ông theo dõi từng cử chỉ của bà. “Người ta tìm thấy đứa con gái nhà Burke sáng nay trong con lạch.”

“Không,”, thằng bé nói, cố lấy lại giọng của mình. “Leslie không thể chết đuối được. Bạn ấy bơi giỏi lắm mà.”

“Sợi dây thừng cũ mà hai đứa con vẫn hay đu qua bị đứt”. Bố nói đều đều không ngừng nghỉ. “Người ta bảo có lẽ con bé đã đập đầu vào đâu đấy khi ngã xuống.”

“Không”. Thằng bé lắc đầu. “Không.”

Bố nhìn lên. “Bố rất tiếc, con trai.”

“Không!”, Jess hét lên. “Con không tin. Bố lừa con!”. Thằng bé nhìn quanh, điên cuồng tìm sự đồng tình từ những người khác. Nhưng tất cả mọi người đều cúi đầu xuống trừ May Belle, mắt con bé mở lớn đầy sợ hãi. Nhưng chị Leslie, nếu chị chết thì sao?

“Không,”, thằng bé nói với May Belle. “Nói dối. Leslie chưa chết.”. Rồi nó quay người lại và chạy ra cửa, để cánh cửa đóng rầm lại sau lưng. Thằng bé chạy xuống lối đi rải sỏi ra đường chính rồi bắt đầu chạy về phía tây, tránh xa khỏi Washington, khỏi Millsburg – và khỏi Ngôi nhà cũ của nhà Perkin. Một chiếc xe đang chờ tới bấm còi, bẻ lái rồi lại bám còi nữa, nhưng thằng bé không hề nhận ra.

Leslie-chết-con gái-bạn-dây-đứt-ngã-con-con-con. Từ ngữ nổ bùng trong đầu Jess như ngô trong chảo nóng. Chúa-chết-chị-Leslie-chết-chị. Thằng bé chạy mãi cho đến khi vấp ngã, nhưng nó lại đứng dậy và chạy tiếp, không dám dừng lại. Một điều gì đó bảo nó rằng chạy là cách duy nhất giúp nó kéo Leslie tránh xa khỏi cái chết. Điều này phụ thuộc vào nó. Nó phải tiếp tục chạy.

Từ đằng sau vang lên tiếng lục cục của chiếc xe bán tải, nhưng Jess không quay lại. Thằng bé cố chạy nhanh hơn, nhưng Bố lái chiếc xe vượt qua và đỗ lại ngay trước mặt nó, rồi ông nhảy xuống và chạy về phía thằng bé. Ông bế Jess lên trong vòng tay mình như thể nó là một em bé. Trong một lúc Jess quẫy đạp và giẫy giũa cố thoát khỏi đôi tay rắn chắc. Rồi thằng bé đầu hàng sự tê dại từ lâu đã chực chờ thoát ra từ một góc não bộ nó.

Thằng bé tựa người vào cửa chiếc xe bán tải và để đầu nó gõ nhịp trên kính cửa sổ. Bố thằng bé lái xe chăm chú và không nói lời nào, có một khoảnh khắc Bố hắng giọng như thể ông chuẩn bị nói gì đó, nhưng rồi ông liếc nhìn Jess và lại không nói gì nữa.

Khi chiếc xe đỗ lại trước nhà họ, Bố ngồi im lặng, và Jess có thể cảm nhận được sự bối rối của ông, thằng bé mở cửa và xuống xe, và trong khi vẫn chưa hết tê dại, nó vào nhà và thả mình xuống giường.

Thằng bé tỉnh rồi, thực ra là giật mình tỉnh giấc trong cái bóng tối nặng nề của ngôi nhà. Nó ngồi dậy, người cứng đơ và run rẩy dù nó vẫn mặc nguyên đồ của mình từ quần áo đến giày thể thao. Thằng bé có thể nghe được tiếng thở của hai đứa em từ giường bên cạnh, to và gấp gáp một cách kỳ lạ trong đêm tối. Chắc một giấc mơ nào đó đã làm nó thức giấc. Nhưng thằng bé không nhớ nổi nó là gì. Nó chỉ nhớ được cảm giác kinh hãi mà giấc mơ đem lại. Qua khung cửa sổ không có rèm che, thằng bé thấy mảnh trăng lưỡi liềm và hàng trăm ngôi sao đang nhảy múa trong cuộc họp mặt của ánh sáng.

Thằng bé bỗng nhớ ra là ai đó đã bảo nó rằng Leslie đã chết. Giờ thì nó biết đó chỉ là một phần của cơn ác mộng mà thôi. Leslie chẳng thể nào chết được, con bé cũng khỏe mạnh y như nó vậy. Nhưng những lời lẽ ấy vang lên trong đầu thằng bé khó khăn như khi một cơn gió cố lật chiếc lá khô lại. Nếu bây giờ thằng bé đi xuống Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin và gõ cửa, Leslie sẽ ra mở và H.T.T sẽ chạy nhảy quanh con bé như những ngôi sao khiêu vũ quanh mặt trăng vậy. Đêm nay trời thật đẹp. Có lẽ chúng có thể chạy lên đồi, băng qua cánh đồng đến con nước cũ và đu người đến Terabithia.

Chúng chưa bao giờ đến đó vào buổi đêm cả. Nhưng mặt trăng đủ sáng để chúng có thể tìm đường vào lâu đài, và thằng bé có thể kể cho con bé nghe về cả ngày dài nó ở Washington. Và xin lỗi nữa. Thằng bé thật ngốc khi đã không hỏi liệu Leslie có thể đi cùng không. Nó và Leslie và cô Edmunds đã có thể có một ngày tuyệt vời cùng nhau – đương nhiên là khác với ngày mà nó với cô Edmunds đã có – nhưng vẫn tốt đẹp và hoàn hảo. Cô Edmunds và Leslie quý nhau nhiều lắm. Có Leslie đi cùng sẽ thật là vui. Tớ vô cùng xin lỗi, Leslie. Thằng bé cởi áo khoác và giầy thể thao ra, chui xuống dưới tấm mền. Tớ thật ngốc vì đã không nghĩ đến chuyện hỏi.

Không sao đâu. Leslie sẽ nói. Tớ đến Washington hàng ngàn lần rồi mà.

Cậu đã bao giờ xem chuyến đi săn bò tót chưa?

Bằng một cách nào đó, đây là thứ duy nhất ở Washington mà Leslie chưa thấy bao giờ, và thằng bé có thể kể cho con bé nghe về nó, miêu tả nhưng con quái vật tí hon đâm đầu vào chỗ chết.

Bụng thằng bé bỗng dưng lạnh toát. Có vấn đề gì đó với những con bò, với việc ngã, với cái chết. Với lý do thằng bé đã không hỏi liệu Leslie có thể đi cùng đến Washington sáng nay không.

Cậu biết điều gì buồn cười không?

Gì? Leslie hỏi.

Tớ đã sợ phải đến Terabithia buổi sáng nay.

Cơn ớn lạnh từ bụng cứ chực trào lên. Thằng bé lật người lại và nằm đè lên nó. Có lẽ tốt hơn là không nghĩ về Leslie vào lúc này. Sáng mai việc đầu tiên nó làm sẽ là đi gặp con bé và giải thích tất cả mọi chuyện. Nó sẽ giải thích tốt hơn trong ánh sáng ban ngày, khi nó đã quên hết những ảnh hưởng của cơn ác mộng không thể nhớ ra.

Thằng bé ép mình nhớ lại thời gian ở Washington, gợi lại những chi tiết của các bức tranh và các bức tượng, lắng nghe âm điệu giọng nói của cô Edmunds, nhớ lại chính xác từng câu từng chữ nó đã nói và cả những câu trả lời của cô Edmunds. Thỉnh thoảng trong đầu thằng bé lại nổi lên cảm giác của một cú ngã, nhưng thằng bé lại khỏa lấp nó bằng một bức tranh khác hay một cuộc trò chuyện khác. Ngày mai nó sẽ kể tất cả với Leslie.

Điều tiếp theo thằng bé nhớ được là ánh nắng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Trên giường của hai đứa con gái chỉ toàn chăn mền nhàu nhĩ, từ bếp vọng ra tiếng chuyển động và tiếng trò chuyện khẽ khàng.

Ôi Chúa ơi! Cô Bessie tội nghiệp. Tối qua thằng bé quên khuấy mất con vật, và giờ thì muộn quá rồi. Thằng bé chụp lấy đôi giầy thể thao và nhét chân vào mà không thèm buộc dây.

Mẹ ngước mắt lên nhìn từ bếp lò ngay khi nghe thấy tiếng thằng bé. Khuôn mặt bà lộ rõ sự thắc mắc, nhưng bà chỉ gật đầu với nó.

Cơn ớn lạnh lại trở lại. “Con quên mất cô Bessie.”

“Bố con đang vắt sữa cho nó rồi.”

“Tối qua con cũng quên nữa.”

Mẹ vẫn gật đầu. “Bố làm giúp con rồi.”. Đó không phải là một lời khiển trách. “Con ăn chút gì nhé?”

Có lẽ đó là lý do mà bụng nó cứ thấy kỳ kỳ. Nó chưa được ăn gì hết ngoài cái kem cô Edmunds mua cho nó ở Millsburg trên đường về nhà. Brenda và Ellie nhìn nó chằm chằm từ phía bàn ăn. Cả hai đứa nhỏ cũng quay lại ngó nó thật nhanh rồi lại trở về với chương trình hoạt hình của chúng.

Jess thả mình xuống ghế. Mẹ đặt một đĩa đầy bánh kếp trước mặt nó. Thằng bé không nhớ nổi lần cuối Mẹ làm bánh kếp là khi nào. Nó tưới ngập si-rô lên chồng bánh và bắt đầu ăn. Ngon tuyệt.

“Mày còn chả bận tâm đúng không?”. Brenda theo dõi từng cử chỉ của thằng bé từ bên kia bàn ăn.

Thằng bé ngước lên nhìn bối rối, miệng nó đầy bánh.

“Nếu Jimmy Dicks chết, tao chả ăn nổi mất.”

Cơn ớn lạnh trào lên trong người thằng bé rồi vỡ òa.

“Con im đi được không, Brenda Aarons?”. Mẹ bọn trẻ nhảy xổ lại, cái thìa để lật bánh kếp giơ cao một cách đáng ngại.

“Nhưng mà Mẹ à, nó cứ ngồi đó và ăn bánh kếp như thể chẳng có chuyện gì xảy ra hết. Nếu là con thì đã khóc chết đi sống lại rồi.”

Ellie hết nhìn Mẹ lại nhìn Brenda, rồi nó nói. “Con trai thường không khóc trong những lúc thế này. Đúng không hả Mẹ?”

“Nhưng việc nó cứ ngồi đấy mà hốc như một con lợn cứ kỳ kỳ sao ấy.”

“Mẹ nói rồi đấy Brenda, nếu con không chịu im đi...”. Thằng bé nghe mọi người nói chuyện, nhưng với nó họ còn có vẻ xa xôi hơn cả ký ức về giấc mơ đêm qua. Thằng bé cứ cắn, nhai rồi nuốt, và khi Mẹ trút thêm ba chiếc bánh vào đĩa của nó, nó cũng ăn nốt.

Bố bọn trẻ đi vào xách theo xô sữa. Ông đổ chúng cẩn thận vào một cái bình rỗng rồi cho vào tủ lạnh. Sau đó ông rửa tay và ngồi vào bàn. Khi đi qua Jess, ông khẽ đặt tay lên vai thằng bé. Bố không giận vì phải vắt sữa.

Jess chỉ lờ mờ nhận thức được bố mẹ nó trao đổi ánh mắt với nhau rồi cùng nhìn nó. Bà Aarons lườm Brenda và trao cho ông Aarons một cái nhìn mang ý nghĩa rõ ràng là Brenda phải bị giữ im lặng, nhưng điều duy nhất Jess có thể nghĩ đến là sự ngon lành của mấy chiếc bánh kếp và nó ước gì mẹ cho nó thêm mấy cái nữa. Thằng bé biết nó không nên đòi hỏi nữa, nhưng vẫn không khỏi thấy thất vọng khi không được ăn thêm. Sau đấy thằng bé nghĩ nó nên rời khỏi bàn ăn, nhưng nó không chắc nên đi đâu hay làm gì.

“Mẹ con và bố nghĩ là chúng ta nên qua nhà hàng xóm và bày tỏ lòng tiếc thương”. Bố thằng bé hắng giọng. “Và bố nghĩ là con cũng nên đi cùng”. Ông ngừng lại một lúc. “Vì con có vẻ là người biết rõ cô bé nhất.”

Jess cố hiểu những lời Bố nói, nhưng nó thấy mình thật ngu ngốc. “Cô bé nào cơ ạ?”. Thằng bé lẩm bẩm, dù biết mình không nên hỏi câu này. Cả Ellie và Brenda thở hổn hển.

Bố bọn trẻ tựa vào bàn và đặt bàn tay to lớn của ông phủ lên tay Jess. Ông trao nhanh cho vợ một cái nhìn khó hiểu. Nhưng bà chỉ đứng đó, không nói một lời, trong mắt chất chứa nỗi đau.

“Bạn con Leslie đã chết rồi, Jesse. Con phải chấp nhận điều ấy.”

Jess rút tay ra khỏi tay bố nó. Thằng bé đứng dậy.

“Bố biết điều này rất khó để chấp nhận - ”, Jess nghe tiếng bố nó khi nó đi vào phòng ngủ. Thằng bé trở ra với chiếc áo gió của nó.

“Con sẵn sàng đi chưa?”. Bố bọn trẻ đứng ngay dậy. Mẹ cởi tạp dề ra và vuốt lại mái tóc của bà.

May Belle bật dậy từ tấm thảm. “Con cũng muốn đi nữa”, con bé nói. “Con chưa bao giờ thấy người chết cả.”

“Không!”. May Belle thả người lại xuống tấm thảm như thể bị tát bởi giọng nói của mẹ nó.

“Bố mẹ cũng không biết người ta đặt chị ấy ở đâu, May Belle à”. Ông Aarons nói một cách nhẹ nhàng hơn.
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
MƯỜI HAI– Bị bỏ lại

Ba người họ bước chậm rãi qua cánh đồng và xuống đồi để đi đến Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin. Có bốn năm chiếc xe đậu phía ngoài ngôi nhà. Bố thằng bé gõ cửa. Jess có thể nghe tiếng H.T.T sủa từ phía đầu kia tòa nhà và nghe tiếng con vật chạy về phía này.

“Nào, H.T.T,”, một giọng nói Jess không biết là của ai cất lên. “Ngồi xuống”. Và cánh cửa được mở ra bởi một người đàn ông đang nghiêng nửa người sang bên để giữ con chó lại. Khi nhìn thấy Jess, H.T.T tự giải thoát cho mình và nhảy ào đến thằng bé một cách vui vẻ. Jess bế con vật lên và gãi cổ nó như thằng bé vẫn làm hồi H.T.T vẫn còn là một chú cún con.

“Bác thấy là nó biết cháu”. Người đàn ông vừa mở cửa nói với một nụ cười nửa miệng kỳ cục. “Nào, vào nhà đi chứ mọi người”. Và ông lùi lại để tránh đường cho họ vào.

Họ tiến vào căn phòng vàng, trông căn phòng vẫn y như trước, trừ việc có vẻ đẹp hơn thì phải vì ánh mặt trời đang tuổn chảy vào phòng từ cửa sổ phía nam. Bốn hay năm người Jess chưa gặp bao giờ đang ngồi xung quanh phòng, một số thì thầm trao đổi, nhưng phần lớn bọn họ đều im lặng. Trong phòng không còn chỗ ngồi, nhưng người đàn ông lạ lúc trước bê ba chiếc ghế từ phòng ăn sang. Ba người ngồi xuống, lưng thẳng đơ và chờ đợi, nhưng không biết phải chờ đợi điều gì.

Một người phụ nữ lớn tuổi đứng lên một chậm chạp từ trường kỷ rồi đi về phía mẹ của Jess. Dưới mái tóc bạc hoàn hảo là đôi mắt đỏ mọng. “Bác là bà ngoại của Leslie”, người đàn bà nói và chìa tay ra.

Mẹ thằng bé cầm lấy nó một cách ngượng nghịu. “Chúng cháu là nhà Aarons,”, bà trả lời thật khẽ. “Sống ở trên đồi ạ.”

Bà của Leslie bắt tay bố mẹ thằng bé. “Cảm ơn cả nhà đã đến,”, rồi quay sang Jess, bà nói. “Cháu chắc hẳn phải là Jess”. Thằng bé gật đầu. “Leslie - ” Nước mắt dâng đầy trong mắt bà lão. “Leslie đã kể với bà về cháu.”

Trong một lúc Jess nghĩ rằng bà sẽ nói thêm điều gì đó. Thằng bé không muốn nhìn bà thêm nữa, nên nó cho phép bản thân tập trung vào việc vuốt ve H.T.T, con vật đang nằm dài trên lòng nó. “Bà xin lỗi,”, giọng bà lão vỡ òa ra. “Bà không thể chịu được”. Người đàn ông mở cửa cho họ đứng dậy và choàng tay qua người bà lão. Khi ông ta dẫn bà ra ngoài, Jess có thể nghe thấy tiếng bà đang khóc.

Thằng bé thấy mừng vì bà lão đã đi khỏi. Việc một người phụ nữ như vậy khóc lóc có vẻ không đúng lắm. Cứ như thể là cô diễn viên vừa quảng cáo thuốc Polident trên tivi đột nhiên bật khóc vậy. Chỉ là nó không hợp lý cho lắm. Jess nhìn quanh khắp lượt những người lớn với đôi mắt đỏ hoe trong phòng. Nhìn cháu này, thằng bé muốn gào lên với họ. Cháu đâu có khóc. Một phần trong thằng bé lùi lại và nghiên cứu các suy nghĩ của nó. Nó là người duy nhất ở tuổi này mà nó biết có bạn thân qua đời. Điều đó làm nó trở nên quan trọng. Đến thứ Hai thì bọn trẻ ở trường sẽ xì xào quanh nó và đối xử với nó một cách kính nể - đúng như cái cách mà chúng đã đối xử với Billy Joe Weems năm ngoái khi bố thằng ấy qua đời trong một vụ tai nạn giao thông. Jess sẽ không phải nói chuyện với bất kỳ ai nếu nó không muốn, và tất cả giáo viên sẽ đối xử với nó tốt một cách đặc biệt, thậm chí Mẹ còn có thể bắt mấy đứa chị em gái lịch sự với nó nữa.

Bỗng dưng thằng bé muốn nhìn thấy Leslie. Thằng bé tự hỏi người ta đặt con bé trong phòng đọc ở nhà này hay con bé đang nằm ở Millsburg trong một nhà tang lễ nào đó. Người ta sẽ cho con bé mặc chiếc quần bò xanh của nó chứ? Hay là cái váy bò với chiếc áo sơ mi họa tiết hoa nhí mà con bé mặc vào dịp lễ Phục sinh. Như thế thì sẽ tốt hơn. Người ta hay trêu chọc con bé vì cái quần bò của nó, và thằng bé không muốn bất kỳ ai cười nhạo Leslie khi con bé đã qua đời cả.

Bill bước vào phòng, H.T.T tụt khỏi đùi Jess và chạy đến chỗ ông. Người đàn ông cúi xuống và gãi lưng con vật. Jess liền đứng dậy.

“Jess”. Bill bước tới và ôm thằng bé như thế nó là Leslie chứ không còn là chính nó nữa. Bill ôm Jess rất chặt, và khuy chiếc áo len của ông ép một cách đau đớn lên trán thằng bé, nhưng dù có khó chịu, Jess cũng không di chuyển. Thằng bé có thể cảm nhận thấy Bill đang run rẩy, và thằng bé sợ nếu nhìn lên thì nó sẽ thấy Bill cũng đang khóc. Nó không muốn nhìn thấy Bill khóc. Nó muốn thoát khỏi ngôi nhà này. Không khí nơi đây đang bóp nghẹt thằng bé. Tại sao Leslie không ở đây và cứu nó khỏi cái khung cảnh này? Sao con bé không chạy vào và làm tất cả mọi người cười trở lại? Cậu nghĩ ra đi và để lại mọi người cứ thế khóc lóc là hay ho lắm à? Không vui một chút nào đâu, Leslie.

“Con bé yêu con, con biết không”. Thằng bé nhận ra từ giọng Bill là ông đang khóc. “Một lần con bé nói với bác rằng nếu không phải vì con...”. Giọng ông vỡ òa. “Cảm ơn con,”, một lúc sau ông nói. “Cảm ơn con vì đã là một người bạn tuyệt vời của con bé.”

Bill nghe không giống ông chút nào. Giọng ông nghe như một nhân vật trong một bộ phim cũ kỹ sướt mướt. Kiểu nhân vật mà Leslie và Jess sẽ cười nhạo và bắt chước sau đó. U hu hu hu, con đúng là một người bạn tuyệt vời của con bé. Thằng bé không thể ngăn mình lùi lại, vừa đủ để tránh khỏi cái cúc áo ngu ngốc. Và nó thấy nhẹ nhõm khi Bill thả nó ra. Bố thằng bé hỏi Bill một cách khẽ khàng qua đầu nó về các “dịch vụ”.

Và Bill trả lời cũng khẽ không kém bằng chất giọng gần bình thường của ông rằng họ đã quyết định hỏa táng con bé và đưa tro về nhà họ ở Pennsylvania vào ngày mai.

Hỏa táng. Điều gì đấy nảy lên trong đầu Jess. Điều đó nghĩa là Leslie đã đi rồi. Trở thành cát bụi. Nó sẽ không bao giờ được nhìn thấy con bé nữa. Dù chỉ là cái xác vô hồn. Không bao giờ nữa. Sao họ dám? Leslie là của nó. Con bé thuộc về nó nhiều hơn bất cứ ai trên thế giới này. Nhưng chẳng ai thèm hỏi ý kiến nó cả. Chẳng ai thèm nói gì với nó hết. Từ giờ thằng bé sẽ không còn được nhìn thấy Leslie nữa, và tất cả những điều người ta có thể làm là khóc. Không phải vì Leslie. Họ đâu có khóc vì Leslie. Họ đang khóc cho chính họ. Chỉ cho riêng họ thôi. Nếu họ quan tâm đến Leslie dù chỉ một chút, họ đã không bao giờ đem con bé đến cái nơi cũ kỹ này. Thằng bé phải nắm tay lại thật chặt vì sợ nó sẽ đấm vào mặt Bill.

Nó, Jess, là người duy nhất thực sự quan tâm đến Leslie. Nhưng Leslie đã phản bội nó. Con bé bỏ đi và qua đời khi nó cần con bé nhất. Con bé bỏ đi và để nó lại. Con bé đánh đu trên sợi dây ấy chỉ để chứng minh với thằng bé là nó không sợ hãi gì hết. Và nó ở đó, Jess Aarons. Con bé chắc chắn đang ở một nơi nào đó cười nhạo nó. Lấy nó ra làm trò cười như thể nó là cô Myers. Leslie đã lừa dối thằng bé. Nó khiến thằng bé bỏ lại con người cũ của mình và tiến vào thế giới của con bé, và trước khi thằng bé thực sự quen với nếp sống ở đây nhưng đã quá muộn để quay trở lại, con bé bỏ nó lại ở đó như một phi hành gia lang thang trên mặt trăng. Một mình.

Đến tận sau này thằng bé vẫn không bao giờ chắc là nó đã rời khỏi Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin như thế nào, nhưng nó nhớ mình đã chạy lên đồi, về phía ngôi nhà của mình, nước mắt nóng hổi chảy thành dòng trên mặt nó. Thằng bé chạy ào qua cửa. May Belle đứng đó, đôi mắt nâu mở lớn. “Anh có thấy chị ấy không?, con bé hỏi một cách xúc động. “Anh có thấy chị ấy nằm đó không?”

Thằng bé đánh con bé. Ngay giữa mặt. Mạnh hơn nó từng tát bất kỳ ai trong đời. Con bé vấp ngã về phía sau với một tiếng ré nhỏ. Thằng bé chạy vào phòng ngủ và lục tung đống chăn nệm lên cho đến khi nó moi được hết đống giấy và màu vẽ Leslie tặng nó dịp Giáng Sinh ra.

Ellie đứng ở cửa phòng ngủ mắng mỏ thằng bé. Nó đẩy con bé ra. Từ ghế sô pha Brenda cũng lên tiếng phàn nàn, nhưng âm thanh duy nhất lọt được vào tai thằng bé là tiếng khóc thổn thức của May Belle.

Thằng bé chạy ra khỏi bếp, thẳng xuống đồi và băng qua cánh đồng cho đến khi đến được con nước mà không một lần quay đầu lại. Mực nước thấp hơn so với lần cuối thằng bé nhìn thấy. Phía trên cây táo gai, đoạn cuối của sợi dây thừng đung đưa nhè nhẹ. Bây giờ mình là đứa trẻ nhanh nhất khối Năm.

Thằng bé hét lên câm lặng và ném toàn bộ giấy cùng màu vẽ xuống dòng nước đục ngầu phía dưới. Những tuýp màu nổi lên và trôi lềnh bềnh như những con thuyền, nhưng giấy thì xoay tròn, chìm vào đống bùn và bị nhấn chìm, biến mất dần. Thằng bé nhìn chúng dần biến mất. Tiếng thở của thằng bé nhỏ dần, và tim nó đập chậm lại. Mặt đất vẫn đầy bùn sình sau cơn mưa, nhưng thằng bé vẫn ngồi xuống. Chẳng có nơi nào để đi cả. Không một nơi nào. Không bao giờ nữa. Thằng bé gục đầu xuống hai đầu gối.

“Đúng là một việc làm ngu ngốc đấy”. Bố thằng bé ngồi xuống đống bùn bên cạnh nó.

“Con không quan tâm. Không quan tâm”. Giờ thì thằng bé khóc, nó khóc dữ đến nỗi khó mà thở được.

Bố kéo nó vào lòng ông như thể thằng bé là Joyce Ann. “Nào. Nào,”, ông nói, vỗ nhè nhẹ lên tóc thằng bé. “Không sao đâu. Không sao.”

“Con ghét bạn ấy,”, thằng bé nói trong tiếng thổn thức. “Con ghét bạn ấy. Con ước chưa từng gặp bạn ấy trong đời mình.”

Bố vuốt tóc thằng bé nhưng không nói lời nào. Jess dần im lặng. Cả hai cùng ngắm nhìn dòng nước.

Cuối cùng bố nó nói, “Đúng là địa ngục, phải không?”, đó là kiểu câu mà Jess thường nghe Bố nói với những người đàn ông khác. Thằng bé thấy dễ chịu một cách kỳ lạ, và điều ấy làm nó mạnh mẽ hơn.

“Bố có tin rằng người ta xuống địa ngục không, thực sự xuống địa ngục ấy?”

“Con không lo lắng cho Leslie Burke đấy chứ?”

Điều này nghe có vẻ kỳ cục, nhưng thằng bé vẫn nói – “Thì May Belle nói...”

“May Belle á? May Belle đâu phải là Chúa.”

“Vâng đúng vậy, nhưng làm sao Bố biết Chúa làm gì được?”

“Chúa ơi, đừng ngốc thế chàng trai. Chúa sẽ chẳng đày cô gái nhỏ nào xuống địa ngục đâu.”

Chưa bao giờ thằng bé nghĩ Leslie Burke là một cô gái nhỏ, nhưng chắc là Chúa thì có. Con bé vẫn chưa được mười một tuổi cho đến tháng Mười Một này. Thằng bé muốn nói lời xin lỗi với con bé, nhưng nó không thể. Thằng bé không thể nói ra từ ấy được. Nó phải đền bù cho con bé, nhưng giờ thì nó quá mệt để nghĩ xem phải làm thế nào.

Chiều hôm đó Bill đến nhà. Họ chuẩn bị về Pennsylvania và ông không biết liệu Jess có thể chăm sóc chú chó cho đến lúc họ quay về không.

“Tất nhiên là được ạ”. Thằng bé thấy vui vì Bill muốn nó giúp. Nó sợ rằng mình đã làm tổn thương Bill khi bỏ chạy lúc sáng nay. Nó cũng muốn biết liệu Bill có trách cứ nó vì bất cứ điều gì không. Nhưng đó không phải kiểu câu hỏi mà người ta có thể nói thành lời.

Thằng bé ôm H.T.T và vẫy tay theo chiếc xe Ý nhỏ bé bụi bặm đang hướng ra đường lớn. Nó nghĩ nó thấy họ vẫy lại, nhưng khoảng cách giữa họ quá xa để có thể lấy điều ấy làm chắc chắn.

Mẹ chưa bao giờ cho phép thằng bé nuôi chó, nhưng bà không phản đối chuyện cho H.T.T vào nhà. H.T.T nhảy lên giường Jess, và thằng bé ngủ suốt đêm với H.T.T gối lên ngực nó.
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
MƯỜI BA– Bắc cầu

Thằng bé thức dậy vào sáng thứ Bảy, đầu nhức bưng bưng. Trời vẫn còn sớm nhưng thằng bé vẫn ngồi dậy. Nó muốn đi vắt sữa. Bố đã đảm nhận công việc đó từ tối hôm thứ Năm, nhưng thằng bé vẫn muốn làm, và bằng một cách nào đó khiến mọi việc bình thường trở lại. Nó nhốt H.T.T vào chuồng, và tiếng rên rỉ của con vật khiến nó nhớ đến May Belle, và điều này làm cơn đau đầu của nó càng tệ thêm. Nhưng nó không thể để H.T.T cắn cô Bessie trong khi nó cố vắt sữa được.

Khi thằng bé đem sữa vào thì mọi người vẫn còn ngủ, nên nó tự rót cho mình một ly sữa ấm và ăn bữa sáng với hai lát bánh mỳ. Thằng bé muốn lấy lại mấy tuýp màu, vì vậy nó quyết định đi xuống và xem liệu nó có thể tìm được chúng không. Thằng bé thả H.T.T ra và đưa con vật nửa miếng bánh mỳ.

Đó là một buổi sáng mùa xuân tuyệt đẹp. Những bông hoa đồng nội nở sớm lấm chấm điểm tô trên bãi cỏ xanh mướt, bầu trời trong và xanh thẳm. Nước trong con lạch đã rút đi và không còn đáng sợ như trước nữa. Một khúc cây rất lớn mắc cạn trên bờ, thằng bé lôi nó đến chỗ hẹp nhất và chèn nó giữa hai bờ. Rồi thằng bé dẫm lên khúc cây, có vẻ chắc chắn, và nó bắt đầu đi qua phía bên kia, chân này nối tiếp chân kia, tay bám lấy những cành nhánh mọc ra từ khúc cây để giữ thăng bằng. Không có dấu hiệu nào của mấy tuýp màu của nó cả.

Thằng bé bước một cách nhẹ nhàng vào Terabithia. Nếu nơi đây vẫn còn là Terabithia. Nếu người ta có thể vào được vương quốc bằng cách đi qua một khúc cây chứ không phải đu dây qua. H.T.T bị bỏ lại kêu một cách thảm thương ở bên bờ bên kia. Cuối cùng, lấy hết can đảm, con vật bơi qua con lạch. Dòng nước cuốn con chó qua chỗ Jess, nhưng nó vẫn lên được bờ một cách an toàn và chạy ngược lại, rũ vô số tia nước lạnh lên người Jess.

Chúng tiến vào lâu đài. Ở đó ẩm thấp và tối tăm, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy là hoàng hậu của nó đã qua đời. Thằng bé thấy cần phải làm một điều gì đó. Nhưng Leslie không có ở đây để nói cho nó biết điều đó là gì. Cơn giận bùng lên trong thằng bé ngày hôm qua giờ lại dâng trào. Leslie, tớ chỉ là một thằng ngốc, cậu biết thế mà. Tớ phải làm gì đây? Cơn ớn lạnh trong nó dâng lên và chẹn lấy cổ họng thằng bé. Cố nuốt nước bọt nhiều lần, thằng bé nghĩ chắc chắn nó bị ung thư cổ họng rồi. Đó có phải một trong bảy dấu hiệu chết người không? Khó để nuốt ấy. Thằng bé bắt đầu toát mồ hôi, nó không muốn chết. Chúa ơi, nó mới có mười tuổi. Nó còn chưa thực sự bắt đầu bước vào đời nữa là.

Leslie, cậu có sợ không? Cậu có biết rằng mình sắp chết không? Cậu có sợ như tớ bây giờ không? Khung cảnh Leslie bị hút xuống dòng nước giá lạnh nhá lên trong đầu nó.

“Đi nào, Hoàng tử Terrien,”, thằng bé nói to. “Chúng mình phải làm một vòng hoa tang cho hoàng hậu.”

Thằng bé ngồi ở chỗ đất trống giữa bờ kè và hàng cây đầu tiên của khu rừng, uốn một cành thông thành vòng tròn và buộc lại bằng một sợi day ướt nhoẹt lấy từ lâu đài. Thấy có vẻ xanh xao và lạnh lẽo quá, thằng hái những bông hoa mùa xuân từ thảm cỏ trong rừng và tết vào vòng hoa bằng chỉ.

Thằng bé đặt vòng hoa xuống trước mặt mình. Một chú chim đỏ thắm sà xuống bờ kè, vểnh cái đầu xinh đẹp của nó lên và nhìn chằm chằm vào vòng hoa. H.T.T phát ra một tiếng gầm gừ nghe rừ rừ. Jess đặt tay lên đầu con vật để làm nó bình tĩnh lại.

Chú chim lóc chóc nhảy quanh một hồi rồi nhàn nhã cất cánh bay đi.

“Đó là dấu hiệu từ các Linh hồn,”, Jess nói khẽ. “Chúng mình đã làm đúng rồi.”

Thằng bé bước thật chậm rãi, như một phần của nghi lễ, mặc dù không ai nhìn thấy nó ngoài chú cún con, nó bước từng bước mang theo vòng hoa của nữ hoàng, tiến về phía khu Rừng thiêng. Thằng bé ép mình tiến vào vùng trung tâm tăm tối của khu rừng và quỳ xuống, đặt vòng hoa lên thảm lá dày vàng óng.

“Hỡi Đức cha, con xin hiến dâng linh hồn của nàng vào vùng đất của người”. Thằng bé biết Leslie sẽ thích những từ ngữ thế này. Chúng mang âm hưởng của Rừng thiêng trong từng âm tiết.

Đám rước long trọng tiến thật chậm về tòa thành. Như một chú chim đơn độc chao liệng trên nền trời giông bão, một chút bình yên dần len lỏi qua những hỗn loạn trong thằng bé.

“Cứu với! Jesse! Cứu em với!”. Một tiếng hét xé tan thinh lặng. Jess chạy về hướng có tiếng hét của May Belle. Con bé đã đi được nửa đường trên khúc cây lớn và giờ đang bám chặt lấy thân cây, phát hoảng với cả ý tưởng phải đi tiếp hay quay trở lại.

“Được rồi, May Belle”. Từ ngữ phát ra tự nhiên hơn thằng bé tưởng. “Cứ giữ chặt lấy. Anh sẽ đón em”. Thằng bé không chắc lắm liệu khúc cây có chịu được sức nặng của cả hai đứa nó hay không. Nó đưa mắt nhìn dòng nước phía dưới. Đủ nông để thằng bé có thể lội qua, nhưng vẫn chảy xiết. Rất có thể là nó sẽ quật ngã thằng bé. Jess quyết định chọn khúc cây. Nó nhích từng phân một trên khúc cây cho đến khi đủ gần để với được tới em gái . Nó sẽ phải đưa con bé về bờ bên kia. “Được rồi,”, thằng bé nói. “Đứng lên nào.”

“Em không thể!”

“Anh ở ngay đây mà May Belle. Em nghĩ anh sẽ để em ngã sao? Đây”. Thằng bé với tay ra. “Bám chặt lấy anh và đứng dậy nào.”

Con bé thả tay trái của nó ra rồi lại bám chặt lấy cành cây ngay lập tức.

“Em sợ, Jesse. Em sợ lắm.”

“Đương nhiên là em sợ rồi. Ai cũng sợ hết. Nhưng em phải tin anh, được không? Anh sẽ không để em ngã đâu May Belle. Anh hứa đấy.”

Con bé gật đầu, mắt vẫn mở to sợ hãi, nhưng nó thả tay ra và nắm lấy tay thằng bé, rồi đứng thẳng lên một chút và run rẩy vì chóng mặt.

“Được rồi. Cũng không xa lắm đâu – Cứ di chân phải của em lên một chút đi, rồi đặt chân trái ngay sau đấy.”

“Em quên mất bên nào là bên phải rồi.”

“Chân phía trước ấy,”, thằng bé kiên nhẫn nói. “Chân gần phía nhà hơn ấy.”

Con bé lại gật đầu và làm theo, di chuyển chân phải thêm vài phân về phía trước.

“Bây gì thì thả nốt tay còn lại ra và bám chặt lấy anh này.”

Con bé thả cành cây ra và túm chặt lấy tay thằng bé.

“Tốt. Em đang làm rất tốt đấy. Bây giờ di chuyển thêm một chút đi”. Con bé nghiêng đi nhưng không hét lên, chỉ bấm chặt móng tay vào lòng bàn tay thằng bé. “Tuyệt. Ổn đấy. Em không sao rồi”. Vẫn nói cái giọng nhẹ nhàng, cổ vũ của người trực tổng đài Cấp cứu, nhưng tim thằng bé dộng thình thình vào lồng ngực nó. “Nào, được rồi, thêm một chút nữa đi nào.”

Cuối cùng khi bàn chân phải của May Belle chạm đến phần khúc cây gối lên bờ kè, con bé ngã về phía trước, kéo theo thằng anh nó.

“Cẩn thận chứ May Belle!”. Thằng bé mất thằng bằng, và nó ngã, nhưng không phải ngã xuống dòng nước, mà ngã đè lên chân May Belle và chân thằng bé vũng vẫy trong không khí ngay phía trên dòng nước. “Hà!”. Thằng bé bật cười nhẹ nhõm. “Em định làm gì thế hả, cố giết anh sao?”

Con bé lắc đầu một cách trịnh trọng, “Em biết em đã thề trên Kinh thánh là sẽ không theo dõi anh nữa, nhưng sáng nay lúc em dậy thì anh đã đi rồi.”

“Anh có việc phải làm.”

Con bé cạo bùn trên đôi chân trần của mình. “Em chỉ muốn đi tìm anh để anh không bị cô đơn quá.”. Nó ôm lấy đầu. “Nhưng em sợ chết đi được.”

Thằng bé dịch người đến ngồi cạnh con bé. Chúng cùng nhìn H.T.T bơi ngang qua, dòng nước như muốn cuốn trôi con vật, nhưng dường như nó chả bận tâm mấy. Nó bò lên bờ ở ngay dưới chỗ cây táo gai rồi chạy về phía bọn trẻ.

“Ai cũng có lúc phải sợ hãi, May Belle à. Em không cần phải thấy xấu hổ đâu”. Thằng bé nhớ lại cái ánh nhìn thoảng qua đôi mắt Leslie khi con bé bước vào phòng vệ sinh nữ để nói chuyện với Janice Avery. “Ai cũng có nỗi sợ của riêng mình hết.”

“H.T.T đâu có sợ, nó thậm chí còn nhìn thấy chị Leslie nữa.”

“Với loài chó thì khác. Kiểu như là em càng thông minh thì càng nhiều thứ có thể làm em sợ ấy.”

Con bé nhìn anh nó vẻ không tin. “Nhưng anh đâu có sợ đâu.”

“Chúa ơi, May Belle, anh run như cầy sấy ấy.”

“Anh chỉ nói thế thôi.”

Thằng bé bật cười. Nó không thể không thấy vui vì con bé không tin nó. Thằng bé nhổm dậy và kéo con bé đứng lên. “Đi ăn nào”. Và nó để con bé đánh bại nó trong cuộc đua về nhà.

Khi thằng bé bước vào phòng học, nó thấy rằng cô Myers đã cho chiếc bàn của Leslie ra ngoài rồi. Đương nhiên sáng thứ Hai hôm ấy nó đã biết rồi; nhưng, nhưng nó vẫn không thể không nhìn quanh chờ đợi khi đứng ở bến xe buýt, mong chờ được nhìn thấy con bé chạy đến, băng ngang qua cánh đồng với nhịp chạy đẹp đẽ, đều đặn và đầy nhạc tính của nó. Có thể con bé đã đến trường trước rồi – Bill đã đưa nó đi, như ông thường làm vào những hôm con bé bị muộn xe – nhưng khi Jess tiến vào lớp học, bàn của con bé đã không còn ở đấy nữa. Tại sao mọi người lại muốn xóa con bé đi nhanh vậy? Thằng bé gục đầu xuống bàn, cơ thể nó nặng nề và lạnh giá.

Thằng bé nghe thấy tiếng thì thầm nhưng không thực sự nghe ra một từ nào. Nó cũng đâu có muốn nghe thấy bất cứ từ nào. Bỗng nhiên nó thấy xấu hổ vì đã nghĩ rằng những đứa trẻ khác sẽ đối xử với nó một cách kính cẩn. Sao nó lại lợi dụng cái chết của Leslie như thế chứ. Nó đã từng muốn là đứa trẻ nhanh nhất trường và giờ thì nó có được điều ấy rồi đấy. Chúa ơi, thằng bé làm chính nó phát buồn nôn. Nó cũng không quan tâm đến điều những đứa khác nói hay nghĩ, miễn là bọn chúng đừng làm phiền đến nó – miễn là chúng đừng bắt nó nói chuyện với chúng hay bắt gặp ánh nhìn chằm chằm của chúng. Tất cả chúng nó đều ghét Leslie. Chắc là trừ Janice ra. Kể cả khi chúng nó không còn cố chọc ngoáy Leslie nữa thì chúng vẫn cứ làm cho con bé phiền muộn – làm như bất cứ đứa nào trong số chúng so được với cái móng chân út của Leslie vậy. Ngay cả nó, Jess, cũng đã thấy thích thú trước cái ý tưởng bội bạc rằng nó đã trở thành đứa chạy nhanh nhất.

Cô Myers yêu cầu cả lớp đứng dậy để dành một phút mặc niệm. Thằng bé không nhúc nhích. Dù là do nó không thể hay không muốn, nó cũng chả quan tâm. Cuối cùng thì bà giáo có thể làm gì nó cơ chứ?

“Jesse Aarons. Em làm ơn đi ra hành lang được không?”

Thằng bé nhấc thân thể nặng chịch của mình lên và vấp váp đi ra khỏi phòng. Nó nghĩ rằng mình nghe thấy tiếng Gary Fulcher cười khúc khích, nhưng nó cũng không chắc nữa. Thằng bé dựa vào tường, chờ Quái vật Mồm rộng Myers hát hết bài “Ôi bạn có thấy điều đó không?”* rồi bước ra chỗ nó. Thằng bé có nghe bà giáo giao bài tập số học cho cả lớp trước khi bước ra và đóng cánh cửa khẽ khàng sau lưng bà.

Rồi. Mắng đi. Tôi chả quan tâm.

Bà giáo tiến gần đến nỗi thằng bé ngửi được cả mùi phấn má rẻ tiền.

“Jesse”. Giọng bà giáo mềm mại hơn tất cả những lần thằng bé từng nghe trước đây, nhưng nó không trả lời. Cứ để bà ấy mắng. Nó quen rồi.

“Jesse,”, bà giáo nhắc lại. “Cô chỉ muốn bày tỏ sự đồng cảm chân thành nhất”. Lời nói của bà giáo nghe như trích nguyên văn từ một tấm thiệp Hallmark, nhưng giọng điệu thì thằng bé chưa gặp bao giờ.

Thằng bé ngước lên nhìn cô giáo nó, thấy xấu hổ vì bản thân mình. Đằng sau cặp kính, mắt cô Myers đầy nước. Trong một khoảng khắc thằng bé nghĩ nó cũng sẽ khóc mất. Nó và cô Myers đứng trên hành lang tầng hầm, khóc than cho Leslie Burke. Ý tưởng này kỳ cục đến mức thằng bé suýt nữa thì phá lên cười.

“Khi chồng cô qua đời,” – Jess không thể tưởng tượng nổi một người như cô Myers từng có được một tấm chồng – “mọi người đều bảo cô không được khóc, họ cứ cố giúp cô quên đi”. Cô Myers yêu và khóc than ư. Có ai tưởng tượng nổi không chứ? “Nhưng cô đâu có muốn quên đi”. Bà giáo rút chiếc khăn tay từ ống tay áo và xì mũi. “Cô xin lỗi,”, bà nói tiếp. “Sáng nay khi cô đến lớp thì ai đó đã chuyển bàn của con bé đi mất rồi”. Bà ngừng lời và lại xì mũi nữa. “Điều này-nó-chúng ta-cô chưa từng có một học sinh nào như thế cả. Trong suốt quãng đời đi dạy của mình. Cô sẽ luôn thấy thật may mắn - ”.

Thằng bé muốn an ủi bà giáo. Nó muốn rút lại tất cả những lời mà nó từng nói về bà – cả những lời Leslie từng nói nữa. Chúa ơi, xin người đừng để bà ấy phát hiện ra.

“Và – cô nhận ra rằng điều này khó khăn với cô bao nhiêu thì chắc chắn còn khó khăn với em hơn nhiều lần. Chúng ta hãy giúp đỡ nhau, được chứ?”

“Vâng, thưa cô”. Thằng bé không biết phải nói gì khác cả. Có lẽ sau này khi lớn lên, thừng bé sẽ viết một bức thư để kể với bà rằng Leslie Burke nghĩ bà là một giáo viên tuyệt vời hay sao đó. Leslie sẽ không lấy đó làm phiền đâu. Đôi khi, giống như con búp bê ấy, chúng ta phải tặng người khác món quà gì phù hợp với họ, chứ không phải chỉ để chúng ta cảm thấy vui vì đã tặng quà cho người ta. Và cũng bởi vì cô Myers đã giúp nó khi hiểu rằng nó sẽ không bao giờ quên được Leslie.

Thằng bé nghĩ về điều đó cả ngày, về việc trước khi Leslie xuất hiện, nó chả là gì hết – một thằng nhóc ngốc ngếch, kỳ cục hay vẽ những thứ vớ vẩn và chạy quanh bãi chăn bò, cố gắng diễn sâu – cố giấu nhẹm tất cả những nỗi sợ hãi nho nhỏ cứ chạy loạn lên trong bụng nó.

Chính Leslie là người đã đưa nó từ bãi chăn thả đến Terabithia và biến nó thành một vị vua. Thằng bé nghĩ rằng chính là như thế. Không phải vua là thứ tốt nhất mà người ta có thể trở thành sao? Giờ thì thằng bé nghĩ rằng Terabithia giống như một tòa thành nơi người ta đến để được huấn luyện. Sau khi ở đó một thời gian và đã trở nên mạnh mẽ thì người ta phải tiếp tục lên đường. Chẳng phải Leslie, ngay cả khi ở Terabithia, luôn cố gắng kéo đổ những bức tường bao quanh đầu óc thằng bé và giúp nó nhìn xa hơn vào thế giới rực rỡ ngoài kia sao – một thế giới rộng lớn và kinh khủng và tuyệt đẹp và vô cùng mỏng manh? (Hãy đối xử thật nhẹ nhàng – với mọi thứ - kể cả những với những kẻ săn mồi.)

Bây giờ là lúc thằng bé phải lên đường thôi. Con bé không còn ở đây nữa, nên nó sẽ phải đi cho cả hai. Thằng bé phải trả lại cho thế giới này vẻ đẹp và sự ân cần mà Leslie đã cho nó mượn dưới dạng tầm nhìn và sức mạnh.

Đối với những kẻ thù phía trước – bởi thằng bé không muốn tự lừa dối mình rằng tất cả bọn chúng đã tụt lại phía sau - ừ thì, nó phải đối mặt với chúng và với nỗi sợ của chính nó, không để chúng dọa nó sợ chết khiếp nữa. Đúng không hả Leslie?

Đúng vậy.

Bill và Judy trở về từ Pennsylvania vào thứ Tư trên một chiếc xe tải U-Haul. Không một ai sống được lâu trong Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin cả. “Chúng ta đến đây vì Leslie. Nhưng bây giờ con bé đã đi rồi...”. Họ tặng Jess tất cả số sách mà Leslie có cùng với bộ màu của con bé và ba tập giấy vẽ màu nước thực thụ. “Con bé sẽ muốn con giữ nó.”, Bill nói.

Jess và Bố giúp họ chất đồ lên chiếc U-Haul, và đến trưa thì Mẹ bọn trẻ đem bánh mỳ kẹp thịt nguội và cà phê đến, bà khá lo rằng nhà Burke sẽ không ăn đồ minh nấu nhưng vẫn làm vì thấy cần phải làm gì đó, Jess biết vậy. Cuối cùng khi chiếc xe đã được chất đầy, nhà Aarons và nhà Burke đứng đó ngượng nghịu, không ai biết phải chào tạm biệt thế nào cả.

“Ờ,”, Bill lên tiếng. “Nếu chúng tôi có để lại bất cứ thứ gì có thể giúp ích cho các bạn thì xin cứ tự nhiên.”

“Cháu lấy mấy tấm ván ở hiên sau được không ạ?”, Jess hỏi.

“Ồ, đương nhiên rồi. Bất cứ thứ gì con muốn”. Bill chần chừ một lúc rồi tiếp tục. “Bác cũng muốn tặng H.T.T cho con,”, ông nói. “Nhưng” – ông nhìn Jess và đôi mắt ông hiện lên vẻ nài nỉ của một đứa trẻ - “nhưng bác không tài nào chia xa nó được.”

“Vâng, không sao đâu mà thưa bác. Leslie cũng sẽ muốn bác giữ cậu chàng thôi.”

Ngày hôm sau, sau khi tan trường, Jess đi xuống đồi và lấy những tấm ván nó cần, đem vài tấm một lượt xuống chỗ con nước cũ. Thằng bé đặt chéo hai tấm dài nhất ở một chỗ hẹp giữa cây táo gai và phía thượng nguồn, và khi thằng bé đảm bảo rằng nó đã đặt chúng chắn chắn và thăng bằng hết sức có thể, nó bắt đầu đóng đinh chỗ hai tấm ván bắt chéo nhau.

“Anh đang làm gì thế anh Jess?”. May Belle theo thằng bé xuống đây đúng như nó đã dự đoán.

“Bí mật, May Belle à.”

“Nói cho em biết đi.”

“Khi nào anh xong đã, được chứ?”

“Em thề với Kinh thánh là em sẽ không nói với ai đâu. Kể cả Billy Jean, kể cả Joyce Ann, kể cả Mẹ - ”. Con bé gật gù đầu trong lúc nhấn mạnh một cách trịnh trọng.

“Ồ anh không chắc về vụ Joyce Ann đâu. Đến lúc nào đấy em lại muốn kể với Joyce Ann thì sao.”

“Kể với Joyce Ann điều bí mật giữa hai chúng mình á?”. Ý tưởng đó làm con bé phát hoảng.

“Ừ, ý anh là thế đấy.”

Mặt con bé nghệt ra. “Joyce Ann chỉ là đứa trẻ con thôi mà.”

“Ừ thì, con bé không thể cứ tự dưng mà thành hoàng hậu được đâu. Em phải huấn luyện nó và các thứ khác nữa.”

“Hoàng hậu á? Ai trở thành hoàng hậu cơ?”

“Anh sẽ giải thích khi xong việc, được chứ?”

Khi tất cả đã xong, thằng bé cài những bông hoa lên tóc em gái nó và dẫn con bé qua cầu – cây cầu vĩ đại dẫn đến Terabithia – cây cầu mà nếu người trần mắt thịt nhìn vào sẽ chỉ thấy một vài tấm ván bắc ngang qua một con lạch gần cạn nước.

“Suỵt,”, thằng bé nói. “Nhìn kìa.”

“Đâu cơ?”

“Em có thấy họ không?, thằng bé thì thầm. “Tất cả cư dân của Terabithia đang nhón chân nhìn em đấy.”

“Em ư?”

“Ừ đúng vậy. Người ta đồn đại rằng cô bé xinh đẹp đến đây hôm nay chính là nữ hoàng mà họ đang tìm kiếm.”


Chú thích:
*Bài hát: “O Say Can you see?”

HẾT
 
Bên trên