Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn

BIG TROUBLE


Tác giả: Dave Barry.


Dịch từ nguyên bản tiếng Anh

Big Trouble

của Dave Barry

(Berkley Books Edition 2001)

Bản dịch của Việt An.



***


DÀNH TẶNG MICHELLE




LỜI CẢM ƠN VÀ KHUYẾN CÁO



Tôi xin mở đầu với lời khuyến cáo: Sách này không dành cho các bạn tuổi ô mai. Sở dĩ phải rào trước vậy là bởi qua những thư từ nhận được, tôi biết các sách hài hước và các chuyên mục trên báo của mình được khá nhiều bạn đọc tuổi ô mai theo dõi, và tôi sướng rơn vì điều đó. Duy đây không phải cuốn sách dành cho họ, bởi lẽ một số nhân vật sử dụng Ngôn Ngữ Người Lớn khá nhiều. Nào phải tôi ham hố gì cho các nhân vật thốt ra những “lời vàng ý ngọc” ấy; họ cứ tự biên tự diễn ấy chứ. Một số nhân vật ngang xương vậy đấy.

Và giờ đến phần tri ân:

Trước tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn đến biên tập viên của mình ở Putnam, Neil Nyren, người đã khơi mào ý tưởng tôi hãy đặt bút viết một cuốn tiểu thuyết, và làm cho nó mắc cười vào. Neil luôn động viên và trao cho tôi những lời khuyên vàng ngọc, nên tôi du di cho anh chuyện anh đã không hé với tôi nửa lời, ngay từ bước khởi đầu, rằng tôi cần tìm nhân vật và cốt truyện trước cái đã.

Cảm ơn Al Hart, người đại diện đã hết mình cổ võ tôi xông pha vào lĩnh vực hư cấu. Tôi lúc nào cũng lắng nghe Al, người đã bình tĩnh lèo lái con thuyền văn chương của tôi qua bao cuồng phong bão vũ, với một tay giữ chắc bánh lái và tay còn lại giữ chắc chai bia.

Tôi rất may mắn khi có được những bạn hữu tiểu thuyết gia tuyệt vời, những người đã hào phóng sẻ chia sự thông thái của họ với tôi vào những ngày đầu tôi viết cuốn sách này, và ngộ ra mình hoàn toàn mù tịt về cốt truyện. Tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Carl Hiaasen, một bậc thầy của thể loại mà tôi đã thử sức – thể loại Một Đám Khùng ở Nam Folrida – cũng như với Stephen King, Elmore Leonard, Paul Levine, Ridley Pearson, và Les Standiford. Nhìn chung thì tất thảy họ đều khuyên tôi đừng quá lo nghĩ về cốt truyện khi mới khởi sự viết, ngoại trừ Ridley, một con người siêu lập trình và đã biết trước mình sẽ có gì cho bữa điểm tâm vào ngày 12 tháng Năm, năm 2011 (trà và bánh nướng xốp kiểu Anh, không bơ). Tôi cũng cảm ơn Jeff Arch vì những dòng động viên quí báu của anh, dù có những từ bằng tiếng Yiddish tôi chịu không hiểu được.

Cảm ơn người trợ lý nghiên cứu tuyệt vời ông mặt trời của tôi, Judi Smith. Cứ ba hồi là tôi lại nhấc máy điện cho nàng và hỏi nàng những câu kiểu như, “Bình thường một trái dừa Tahiti chứa bao nhiêu sữa vậy cô?” Và nội mười phút thôi, bằng cách nào đó nàng đã liên lạc được với cơ quan có thẩm quyền tối thượng với những trái dừa Tahiti, và nàng sẽ điện cho tôi với cả ram giấy thông tin hờm sẵn, và tôi sẽ nói, “Ai dà, hóa ra tôi chẳng hề cần đến mấy thứ ấy,” vậy mà nàng lại chẳng giận bao giờ mới hay.

Cảm ơn Luis Albuerne và Bobby D’Angelo, những người đã cho tôi các tư liệu hữu ích về nghiệp vụ cảnh sát và phi cơ chiến đấu, theo thứ tự đề cập. Sợ tôi đã hiểu sai hết về chúng hết trơn quá, nhưng đấy không phải lỗi của họ nghen.

Sau cùng, cảm ơn tất cả quý bạn đã ủng hộ tôi suốt bao năm qua nhờ việc đọc các mục báo và sách của tôi, cũng như quý bạn lúc này đây (trừ các bạn tuổi ô mai) đang theo tôi bước vào Địa Hạt của Hư Cấu. Hi vọng bạn thấy vui khi đọc nó cũng nhiều như tôi thấy vui khi viết nó vậy. Ý tôi là, khi tôi đã tìm ra cốt truyện rồi ấy.





ĐẠI RẮC RỐI







MỘT



Puggy giữ được việc làm ở quán Bar và Thịt Nướng Jolly Jackal, một quán có gì chứ không có thịt nướng, đã ngót nghét ba tuần. Nếu coi lao động là vinh quang thì đây ắt là vinh hiển đầu tiên trong đời Puggy. Kì thực, sau quãng đời lang bạt kỳ hồ với nghiệp hành khất bán chuyên, nó đang cân nhắc ý định cắm rễ ở Miami, dừng bước giang hồ, xa hơn là tìm lấy một nơi trong nhà nào đó để ngủ nghê. Dù nó rất ưng cái cây của mình.

Puggy ưng mọi thứ ở Miami. Nó ưng tiết trời ấm áp. Nó ưng việc cảnh sát ở đây tỏ ra quảng đại bất ngờ với hạng người như nó – hạng người mà, chỉ bằng sự hiện diện trên đời, đã có khuynh hướng chà đạp lên các phép tắc mà những công dân mẫu mực chẳng ai nghĩ tới, như chuyện cứ ngồi đồng ở đâu đó mà không mua sắm gì, chẳng hạn. Thái độ của các thầy chú ở đây lại dễ chịu lạ, kiểu như: ầy, đằng ấy cứ ngồi thoải mái, miễn đừng bắn ai là được rồi.

Puggy còn khoái chuyện ở Miami, bạn tha hồ nghe thiên hạ kháo tiếng Tây Ban Nha mệt nghỉ. Nó khiến Puggy có cảm giác như đang sống ở nước ngoài, ước nguyện của đời nó. Dù cho lần duy nhất nó đặt chân ra khỏi biên giới, vào bốn năm trước sau một cuối tuần thất điên bát đảo khởi sự từ Buffalo, nó đã bị giam giữ trong thời gian ngắn vì tội tiểu bậy ở bảo tàng Ripley's Believe It or Not.

Kể cũng ngộ, Puggy chưa từng ve vuốt ý định đến Miami. Nó đã rời chốn nương náu cho dân bụi đời ở Cleveland, rồi cứ rong ruổi về nam theo lối vẫy xe đi nhờ, như một loài chim di trú tìm nơi ấm áp để sống qua mùa đông. Run rủi thế nào, bác tài bốc nó lên xe đang thẳng đường tới Hải Cảng Miami, ngay trung tâm thành phố.

Chưa chi đã thấy hạp phong thủy, Puggy đến vào đúng ngày bầu cử. Lang thang trên đường độ một giờ thì bất chợt một chiếc xe van ghé lại bên nó. Gã lái xe xổ một tràng tiếng Tây Ban Nha đoạn phe phẩy tờ mười đô trước mặt Puggy. Nghĩ bụng gã này muốn làm cuốc thổi kèn, Puggy bèn lắc đầu: "Hổng hứng." Thế là gã đổi cái rẹt sang tiếng Anh, cắt nghĩa chuyện nó cần làm để lấy được mười đô, là đi bầu cử.

"Ủa, tui đâu phải dân ở đây," Puggy nói.

"Dân đâu mà chả được," gã nói.

Puggy chịu liền, hồ hởi tót vào chiếc xe van. Trên đường tới điểm bỏ phiếu, gã lái xe đón thêm bảy cử tri nữa, toàn mày râu, vài cha còn sực nức mùi dầu thơm. Tới điểm bỏ phiếu, cả bọn lò dò bước vô và làm theo răm rắp những gì gã lái xe đã dặn từ trước. Đám công chức phòng phiếu ngó bộ chẳng màng gì tới chuyện đó.

Đến lượt bỏ phiếu của Puggy, nó trọ trẹ đọc tện mình, như chỉ dẫn từ trước, là Albert Green, nó đọc thành "Albert Gren." Albert Green thật đã quy tiên vào năm 1991, nhưng vẫn đi bầu đều đều ở Miami. Puggy bỏ lá phiếu của mình dưới tên Ô. Green cho một ứng viên thị trưởng tên Carlos gì gì đó, xong ra ngoài và lĩnh mười đô. Chao ôi, mười đô mà in hình như cả bạc triệu trong bàn tay nó.

Tự nào giờ Puggy chưa một lần bình bầu cho bất cứ thứ gì. Nhưng trong cái ngày thần diệu ấy, vi vu trong chiếc van trắng, nó đã bỏ phiếu cho chức thị trưởng Miami bốn lần tại bốn địa điểm khác nhau. Ba lần đầu, mỗi lần nó được mười đô, duy tới lần thứ tư, gã lái xe nói giá bây giờ còn năm đô thôi, Puggy ô kê luôn. Nó nghĩ bụng thành phố Miami đã quá thơm thảo với mình rồi, có phiền chi nếu phải đáp đền nó chút đỉnh.

Puggy bỏ lá phiếu cuối cùng tại một khu vực của Miami có tên là Coconut Grove, cũng là nơi gã lái xe thả nó xuống đường. Nó thích thú ngắm nhìn những hàng cọ, làn nước, những cột buồm đong đưa giữa xanh biếc bầu trời. Cứ như bồng lai tiên cảnh. Puggy thấy lòng phơi phới. Nó được ấm áp này, được ba lăm đô tiền mặt này, cha sanh mẹ đẻ tới giờ Puggy mới trông thấy một số tiền lớn nhường vậy. Nó quyết định đem hết đi uống bia.

Puggy cất công lùng sục một tửu quán tốt, loại trừ ngay kiểu bar cho khách du lịch ở trung tâm Coconut Grove, nơi một cốc bia có giá năm đô, mắc quá, ngay cả với người vừa kiếm được mười đô cho một lần bỏ phiếu như Puggy. Và rồi, sau một hồi xàng xê cùng khắp vùng ngoại vi xơ xác của Coconut Grove, Puggy thấy mình đang lững thững bước vào Bar và Thịt Nướng Jolly Jackal.

Jolly Jackal không phải một cơ sở khang trang. Nói cho ngay, nó cần bỏ vài nghìn đô để tu tạo mặc may mới đạt tới tầm của một quán cùi bắp. Biển đèn nê-ông chỗ cửa sổ đã tạch quá nửa, nên chỉ còn sáng lên mỗi chữ “ACKAL.” Từ cửa bước vô, hiện lên qua ánh sáng lờ nhờ là cái nhà cầu khuyết cửa mấy năm nay của bổn tiệm, kể từ cái bận một vị khách quen, tức mình vì xoay nắm cửa mãi không ăn thua, đã công phá nó bằng cái bình chữa cháy. Quầy bar tối hù ngầy ngật mùi ôi thiu của bia cũ. TV đang chiếu đua xe mô tô. Và loằng ngoằng chi chít trên tường là những tên người và các hình vẽ cơ quan sinh dục thô lậu. Puggy có cảm giác như được về nhà.

Nó ngồi xuống cạnh quầy bar trống trơn, trừ một gã râu xồm ngồi cuối quầy đang tán dóc với tay bán bar, không phải bằng tiếng Anh mà Puggy nghe cũng chẳng ra tiếng Tây Ban Nha. Tay bán bar là một gã mặt bư với thân hình hộ pháp, hắn liếc xéo Puggy song không tiến lại.

“Lấy tui chai Budweiser nhen,” Puggy nói.

“Có tiền không đó?” gã bartender hỏi.

Puggy không cảm thấy bị xúc phạm. Nó biết mình trông như kẻ không xu dính túi. Mà bình thường thì đúng vậy thật.

“Có chớ,” nó nói và dốc hết lên mặt quầy, ba tờ mười và một tờ năm. Gã bán bar làm thinh, khui nắp một chai cổ dài rồi để trước mặt Puggy. Hắn nhón lấy tờ năm đô của Puggy rồi thối lại ba đô rưỡi. Xong xuôi, hắn quay lại chỗ gã râu rậm, hai thằng xí xa xí xồ gì đó rồi cùng cười lên ha hả.

Puggy chẳng bận tâm. Nó đang nhẩm tính, coi với giá một đô rưỡi một chai thì kêu được nhiêu chai hết. Nó không xác định được con số cụ thể, nhưng chắc nhiều. Hơn chục chai là có. Còn dư thì lấy vài gói Slim Jims, nếu ở đây có bán.

Tu đến chai thứ tư thì Puggy thấy có hai thằng lom dom bước vào quán, một thằng là Snake, mặc áo thun in chữ Cá Sấu Mỹ, thằng kia là Eddie, mặc áo thun in chữ Đừng Nhờn Với Dick. Hai thằng đều mặc quần jean rách rưới, mấy bàn chân dận dép lào đóng sình đất đen thui, nên nhìn như thể chúng đang mang tất.

Snake và Eddie tự xưng là những ngư dân, duy tụi nó chẳng đánh tôm đánh cá gì ráo. Song quả thực chúng có lưu trú trên một chiếc thuyền; một thứ đồ lạc xoong bị chủ nhân hợp pháp của nó vứt đi bởi động cơ đã đi tong, và nó sẽ chìm ngay nếu bị xê dịch. Thu nhập hiện thời của Snake và Eddie trông cả vào việc lởn vởn ở mấy bãi đỗ xe khu Coconut Grove, canh me chiếc ô tô du lịch nào trờ tới là xáp vô, mau mắn hướng dẫn tài xế đỗ xe, khoa tay khí thế như thể đó là những ám hiệu phức tạp cần phải được thực hiện tuyệt đối chính xác, như hạ cánh tàu con thoi không bằng. Đoạn Snake và Eddie sẽ xán lại các du khách, xun xoe chờ tiền típ, thứ mà họ lúc nào cũng xì ra cho tụi nó, nhất là vào những lúc tối trời.

Puggy đoán Snake và Eddie là khách quen ở Jolly Jackal, bởi bọn chúng vừa mò vào là gã bán bar đã sấn sổ tiến tới, chỉ tay ra cửa, nói: “Cút! Tao đã cảnh cáo bây rồi! Cút!”

“Không, không, ông bạn, không,” Eddie giơ hai tay lên trước ngực, ra điệu đến trong hòa bình. “Gì mà căng thế, tụi này chỉ muốn giải khát thôi mà. Tiền có đây chớ không đâu.” Đoạn nó dò dẫm trong cái quần soóc rách bem, moi ra mấy đồng một phần tư đô, mấy đồng cắc và xu, thả rỏn rẻng lên quầy bar.

Gã bartender lừ mắt nhìn đống bạc, không ừ hử gì.

“OK?” Eddie nói, rục rịch đặt đít xuống cạnh quầy bar, cách Puggy một ghế về phía tay mặt. “OK,” nó lặp lại, yên chí gã bartender sẽ cho tụi nó ở lại. Snake ngồi xuống cái ghế bên tay mặt Eddie. Eddie trỏ vào mớ xu và nói, “Tụi tui uống hết chỗ này.”

Gã bartender lẳng lặng kiểm tiền, vuốt những đồng bạc trên quầy vào bàn tay. Hắn quày quả lấy ra hai ly thủy tinh và làm đầy chúng với một thứ chất lỏng trong suốt rót từ một cái chai không nhãn mác, xong việc hắn trở lại chỗ gã râu xồm.

“Chó đẻ,” Eddie bình phẩm, chỉ vừa đủ để Snake nghe.

Sau khi xác định tình hình không đòi hỏi phải lánh nạn gấp, Puggy tiếp tục với chương trình đua xe bán tải trên TV. Puggy chưa bao giờ coi đó là một môn thể thao, nhưng chính sách của nó với TV là: TV chiếu cái gì nó coi cái đó.

Chừng hai mươi phút sau thì nó nhổm dậy tính đi tè. Nó nhặt chỗ giấy bạc của mình lên, phát hiện vài tờ đã không cánh mà bay. Nó không biết đích xác bao nhiêu, nhưng ít nhất phải mười đô.

Puggy đưa mắt sang phải. Eddie và Snake đang nhìn châm bẫm vào TV, coi bộ nhập tâm lắm, làm quá nó đang chiếu phụ nữ khỏa thân thay vì xe bán tải.

“Ê nè,” Puggy nói.

Eddie và Snake vẫn dí mắt vô màn hình.

“Ê nè,” Puggy lặp lại.

Thằng Snake vẫn ngồi im. Thằng Eddie quay qua, quắc mắt nhìn Puggy.

“Chuyện gì đó, đại ca?” Nó nói.

“Trả tui,” Puggy nói.

“Trả gì?” Eddie nhăn mặt, ra bộ cóc hiểu Puggy đang nói gì, duy nó diễn hơi sâu.

“Tui nói là, trả nó lại cho tui,” Puggy nói.

“Mà trả cái đéo gì mới được chớ?” Eddie gắt. Coi, tới phiên thằng Snake ngóc đầu qua, hai thằng lục tục từ ghế đẩu xoay về phía Puggy.

Bằng kinh nghiệm, Puggy biết điệu này dễ có nguy cơ ôm đầu máu lắm. Nó biết mình nên bấm bụng cho qua. Nó biết chớ, nhưng mà, thiệt tình ... mười đô.

“Tui nói là,” Nó tiếp tục, “trả nó ...”

Quả đấm của thằng Eddie không có sức sát thương mấy, bởi vẫn còn một ghế ngăn ở giữa, và nó chỉ trúng vào vai Puggy. Song cú ngã sau đó mới làm Puggy đau thấy mồ nội. Thôi xong, thằng Snake nhập cuộc: từ sau lưng Eddie nó vòng qua với bàn chân xỏ dép lào dậm huỳnh huỵch, cố nhắm vào mặt Puggy. Puggy thu tròn người lại, áp mặt vào chỗ tiếp giáp giữa quầy bar với sàn nhà, không có ý kháng cự, chỉ gắng chờ cho bão tố qua đi. Cái sàn nhà có mùi như một bãi nôn.

Vừa lúc thằng Snake đang co cẳng lên trong nỗ lự thứ tư để dậm vào mặt Puggy, thì một tiếng “bong” chát chúa vang lên, Snake “á” lên một tiếng rồi đổ gục xuống sàn nhà. Ra gã bán bar vừa phang vào đầu nó bằng cái gậy bóng chày bằng nhôm. Đã chơi bóng chày bao giờ đâu, song cú vụt vừa rồi của hắn đâu thua gì tuyển thủ! Hắn ưa dùng chày nhôm hơn, bởi mấy cái bằng gỗ hay gãy quá, thay hoài mắc mệt.

Snake nằm ngay đơ kể như yên, gã bán bar quay sang thằng Eddie, kẻ đang vừa lùi về phía cửa vừa đưa hai tay lên, bật lại chế độ sứ giả hòa bình.

“Ông anh,” Eddie lắp bắp, “Có phải vấn đề của ông đâu nào.”

“TỤI BAY chính là vấn đề,” gã bartender nồ, nhứ tới một bước. Rõ ràng hắn đang chờ Eddie bỏ chạy, ngặt nỗi thằng này không tính chạy. Bởi lẽ Eddie đã nhác thấy Snake – cái thằng rất có khiếu trong chuyện đập đầu người khác – đang lom khom gượng dậy từ sau lưng gã bartender, tay quơ lấy một chai bia của Puggy. Gã bán bar đâu có mắt sau lưng mà thấy được chuyện đó, nhưng Puggy thì có thấy, và chả hiểu nguyên do nào xui khiến, đến giờ cũng không, nó nhoài người đến vung chân trái quét một cú chí mạng vào chân phải Snake, chỗ ngay trên mắt cá chân nó. Một tiếng “rắc” rùng rợn vang lên, Snake rú lên thảm thiết và một lần nữa đọ sàn, chai bia rơi khỏi tay lăn lông lốc. Gã bán bar quay lại - thấy Snake đang quằn quại trên sàn, quay lại nữa - thấy Eddie đang quáng quàng chạy khỏi cửa, quay lại nữa - chuẩn bị xử lý Snake. Hắn khom người tới trước, hai bàn tay nắm cái chày đang cầm xẻng, thục một phát vào mạng sườn Snake.

“Cút ngay!” Hắn nói.

“Nó phang gãy chân tao rồi!” Snake léo nhéo.

“Còn tao, tao phang nát gáo mày luôn,” Dứt lời gã bán bar siết chặt đầu chày, vụt một cú phong long, chờ đợi.

“OK OK OK,” Snake đáp lia. Bám vào cái ghế đẩu để lấy điểm tựa, mắt vẫn nhìn chừng gã bán bar, nó gượng dậy rồi tập tễnh bước về phía cửa. Chặp ra đến ngưỡng cửa, nó quay lại chỉ tay vào Puggy, kẻ bấy giờ vẫn còn xãi lai dưới quầy bar.

“Liệu hồn mày nghen,” Snake gầm gừ, “tao mà thấy cái mặt mày là tao giết.” Đoạn nó đẩy cửa, đi cà nhắc ra ngoài. Puggy thấy trời đã sập tối.

Gã bán bar chờ thằng Snake đi khuất rồi quay sang Puggy.

“Mày, cút luôn cho tao,” hắn nói.

“Anh này,” Puggy lắp bắp phân bua, “Tui ...”

“Cút,” hắn lại vụt hờ cái chày.

Puggy nhổm dậy, mới hay đã tè luôn ra quần. Nó ngó lên quầy bar. Rồi xong, số tiền bầu cử của nó đã biến mất, sạch banh! Thằng Eddie ắt đã hốt hết trong lúc thằng Snake thực hiện màn dậm chân dậm cẳng kia, trật đường nào nữa.

Trời hỡi,” Puggy than thở.

“Còn chưa đi nữa?” gã bartender giục.

Puggy đang thất thểu bước về phía cửa thì thốt nhiên, từ cuối quầy bar, gã râu xồm, kẻ đã theo dõi từ đầu chí cuối trận ẩu đả, ề à cất giọng bằng tiếng Anh: “Chú cứ ở lại chơi.”

Gã bán bar liếc mắt sang gã râu xồm, khẽ nhún vai và nới lỏng cái chày.

Puggy rầu rĩ nói, “Tui nhẵn túi rồi. Tụi nó lấy hết rồi.”

Gã râu xồm phất tay, “OK mà. Quán đãi.”

Nghe vậy Puggy nhỏn nhoẻn cười, “OK.”

Chặp đang tu đến chai bia miễn phí thứ hai, lòng lại hoan hỉ với cách mọi sự diễn ra trong ngày hôm nay, trừ chuyện tè ra quần, thì Puggy lại nghe tiếng cửa xịch mở. Giật bắn người, nó đoán thằng Snake đang trở lại để giết mình, song đó lại là một gã vận com-lê, tay xách cặp táp. Gã com-lê thủng thỉnh đi đến cuối quầy bar và khởi sự trao đổi với hai gã kia bằng tiếng nước ngoài. Chợt gã râu rậm cất tiếng gọi Puggy.

“Ê, muốn kiếm năm đô không?”

“Muốn chớ,” Puggy đáp. Một đô thị đáng sống làm sao, Miami.

Hóa ra công việc là khuân một thùng gỗ ra khỏi cốp xe của con Mẹc đang đỗ ngoài quán. Cái thùng nặng trời thần, nhưng Râu xồm và Com-lê chỉ lấy mắt ngó. Puggy và gã bán bar hai thằng hì hục khuân thùng vào nhà, qua quầy bar, qua cái nhà cầu, men theo hành lang đến một gian phòng mà gã râu xồm lày quày một chặp mới mở được, bởi có đến ba ổ khóa. Gian phòng lớn hơn Puggy tưởng, và có ba thùng gỗ nữa với kích cỡ khác nhau ở đó. Bọn nó đặt cái thùng xuống rồi trở ra ngoài. Gã râu xồm khóa cửa, rồi móc ra năm đô đưa cho Puggy.

“Coi vậy mà khỏe gớm nhỉ,” gã tấm tắc.

“Hình như vậy,” Puggy đáp. Mà đúng vậy thật, dù không nhiều người nhận ra điều đó, nó tuy lùn nhưng khỏe như trâu.

“Mai ghé quán hen,” gã râu xồm nói. “Có thể anh lại có việc cho chú.”

Và đó là ngày công đầu tiên của Puggy ở Jolly Jackal. Nó luôn đến vào buổi chiều và ở lại cho đến khi Leo (tên gã bán bar) hoặc John (tên gã râu rậm) cho nó về nghỉ. Những hôm không có việc, họ vẫn để nó ở lại quán ngồi chơi không. Khi cần nó lao động, đó luôn là việc khuân vác những cái thùng gỗ - lúc thì từ con Mẹc vô phòng; lúc thì từ phòng ra con Mẹc. Cứ mỗi lần xong việc, John lại đưa nó năm đô. Một lần, Puggy buột miệng hỏi có gì bên trong mấy cái thùng đó vậy. John đáp gọn lỏn: “Đồ nghề.”


Phần lớn thì giờ, Puggy ngồi coi TV và uống bia, Leo không bao giờ tính tiền chỗ bia đó. Ta nói cứ như một giấc mơ vậy. Puggy mà biết có kiểu công việc như này, nó đã đi làm từ đời tám hoánh rồi.

Về đêm, khi họ cho nó lui, nó lại cu ky lầm lũi trở về cái cây của mình. Nó đã tìm thấy cái cây này vào đêm thứ ba ở Coconut Grove. Hai đêm đầu nó ngủ chỗ công viên cạnh bờ biển, bị bọn kiến ác độc nào đó cắn bầm mình bầm mẩy. Chưa hết, vào đêm thứ hai, từ xa xa nó thấy bóng dáng cô hồn của Eddie và Snake tiến về chỗ neo đậu cái xuồng ba lá của tụi nó. Thằng Snake vẫn bước tập tễnh.

Thành thử Puggy phải tìm một nơi lưu trú khác. Nó khám phá ra, chỉ cần bách bộ một quãng ngắn ở Coconut Grove, bạn đã lọt thỏm trong một khu dân cư hoàn toàn khác, khu của người giàu, với những ngôi nhà uy nghi bề thế bao bọc bởi tường cao, và cổng vào đóng mở bởi máy móc. Cây cối nhiều đến hoa cả mắt, những cái cây đồ sộ cầu kỳ với rễ tua tủa như những xúc tu, dây leo chằng chịt, và các cành cây như những cánh tay dài ngoằng vươn ra tận đường phố. Puggy ngỡ như đang lạc trong rừng rậm.

Nó tìm được một cái cây hoàn hảo để tá túc. Lừng lững sau bức tường của một nhà giàu, ngăn cách giữa cái cây và ngôi nhà là một khoảng sân vườn rộng lớn um tùm, nên sự riêng tư nhờ đó được bảo đảm. Puggy tiếp cận cái cây bằng cách leo qua bức tường; nó là một tay leo trèo bẩm sinh, kể cả sau khi đã nốc bia ứ hự. Ở độ cao sáu mét so với mặt đất, tại nơi mà ba cành to gộc trổ ra từ thân cây, có một sàn gỗ ọp ẹp đóng đầy rêu mà nhiều năm trước từng là nhà trên cây của tụi con nít. Puggy sửa sang tệ xá với vài mảnh cạc tông xếp lên sàn gỗ, và một tấm nhựa dẻo lấy từ công trường, phòng khi trời mưa còn có cái đắp. Đôi khi nó nghe thoang thoáng tiếng người nói chuyện trong nhà, nhưng dù có là ai, họ cũng không khi nào léo hánh đến chỗ cuối sân này.

Vào đêm khuya, luôn có tiếng nhạc vọng ra từ phía cuối ngôi nhà. Nghe như một tiếng sáo êm dịu len lỏi qua cánh rừng để đến với Puggy. Nó thích nằm dài và lắng nghe tiếng nhạc ấy. Lòng dạt dào hoan hỉ với cách mọi sự đang diễn ra, với công việc và với cái cây của nó. Đó là sự tồn tại an toàn nhất, quy củ nhất, êm lắng nhất mà nó từng được nếm trải. Cảnh đời an yên đó kéo dài xấp xỉ ba tuần.



“Tôi NHÌN LÒI MẮT cái quảng cáo này,” Khách Hàng Âm Binh Phì Lũ nói, “cóc thấy Bia Đầu Búa ở đâu hết.”

Eliot Arnold, thuộc phòng Quảng Cáo và Quan Hệ Công Chúng Eliot Arnold (nhân sự chỉ độc nhất Eliot Arnold), gật đầu với vẻ trầm ngâm, như thể cho rằng quan điểm Khách Hàng Âm Binh vừa nêu cũng có lý. Sự thực Eliot đang thấy may vì mình thuộc nhóm thiểu số ở Miami không bọc sẵn súng đạn theo người, bởi ngay lúc này anh chỉ muốn nổ vài phát vô cái thằng Khách Hàng Âm Binh này, ngay cái trán mập láng vo của nó.

Những lúc như lúc này – và không hiếm gì những lúc như lúc này – Eliot lại tự vấn lòng: phải chăng mình đã quá bốc đồng, chuyện chia tay nghề báo ấy? Mà cái cách anh chia tay thiệt hổng giống ai - vung chân đạp xuyên máy tính của thư ký tòa soạn. Quả thực anh đã thiêu rụi một cây cầu ở đó.

Eliot đã dành hăm mốt năm đời mình cho nghề báo. Dự định của anh sau khi ra trường là đấu tranh cho Công Lý, với vốn liếng là kỹ năng Anh Ngữ của mình để tìm và diệt tham nhũng. Anh tìm được việc tại một nhật báo nhỏ, lãnh phận sự viết cáo phó và ghi lại diễn biến các buổi họp thành phố, nơi các quan chức dân cử sở tại cùng các tư vấn viên kỹ thuật thao thao bất tuyệt hàng giờ về đường kính cần thiết cho loại ống cống mới. Eliot vừa dỏng tai nghe, vừa chúi mặt vào cuốn sổ tay nhà báo có gáy lò xo và hình bìa nhí nhố, đồ rằng tham nhũng ắt đang diễn ra ở đâu đây, song phải khởi sự truy lùng từ đâu thì anh mù tịt.

Đến khi trở thành ký giả của một tờ báo đô thị tầm cỡ, anh đã xếp xó ý định lùng diệt này kia và xây được chỗ đứng dễ chịu với việc viết truyện phóng sự, thứ mà hóa ra anh rất mát tay. Xuân Hạ Thu Đông, anh viết lách quần quật như thợ hồ đắp gạch. Thường toàn về những thứ mà các sếp ở tòa soạn, bằng giọng điệu bố đời, gọi là những câu chuyện “đặc tuyển.” Phóng sự văn học là thể loại họ cổ súy mạnh, những câu chuyên với lu bù người thật việc thật, được viết theo nhóm, đăng thành năm hoặc sáu kỳ với nhan đề không bao giờ thiếu từ “khủng hoảng”. Này “Khủng hoảng trong các gia đình,” này “Khủng hoảng trong các trường học,” “Khủng hoảng nguồn nước,” muôn trùng khủng hoảng. Những loạt bài này rất được o bế và thường ăn giải ở các cuộc thi báo chí, dù đám thảo dân ở tòa soạn quen gọi chúng là ba cái thứ “cứt trâu”. Duy các sếp thì mê mẩn chúng. Báo chí vận động, họ xướng tên nó như thế. Xu hướng nóng hổi nhất của ngành báo. Làm nên khác biệt! Kết nối với độc giả!

Eliot nghĩ làm gì có độc giả nào để kết nối ngoài mấy cha trong ban giám khảo ra. Ấy thế mà nghiệt thay, những thứ cứt trâu đó đổ xuống đầu anh càng lúc càng nhiều, và chẳng còn mấy thời gian để anh viết nên những câu chuyện mà theo anh sẽ có người muốn đọc.

Niệm khúc cuối đến vào cái ngày anh được gọi lên văn phòng của thư ký tòa soạn, Ken Deeber, kém Eliot bảy tuổi. Eliot nhớ hồi Deeber còn là một phóng viên chịu chỉ định bình thường, vừa ra khỏi lò Princeton. Nó nói chuyện dẻo đeo và phong thái thì lịch duyệt miễn chê. Và trăm lần như một, luôn có một chi tiết sai sự thật thè lè trong mọi thứ nó viết, dù có ngắn đến đâu đi nữa. Duy thằng Deeber không viết nhiều lắm; nó bận tối mắt để đi giăng mạng lưới quan hệ rồi. Deeber thăng tiến với tốc độ của ngư lôi Polaris, vỗ ngực xưng danh là thư ký tòa soạn trẻ nhất trong lịch sử báo chí. Thằng này tôn thờ phóng sự văn học. Đó là lí do nó cho gọi Eddie lên văn phòng.

“Khỏe chứ, Eliot?” Deeber mào đầu. “Hổm rày sao rồi?”

“À,” Eliot nói, “Tôi cũng ...”

“Sở dĩ tôi hỏi vậy,” Deeber ngắt lời, nó hơi đâu đi lo tình hình sức khỏe của Eliot, “là vì John Croton bảo tôi anh chưa nộp bài cho dự án nhà trẻ.”

Nhà trẻ là đống cứt trâu đang triển khai. Nó sẽ trình bày cặn kẽ với độc giả trong năm kỳ với mười bốn biểu đồ màu, ấy là đang có một cuộc khủng hoảng ở các nhà trẻ.

“Ken này,” Eliot nói, “Hình như đã có năm người khác đang làm ...”

“Eliot,” Deeber nghiêm giọng, như một bậc phụ huynh đang răn dạy đứa con ngỗ ngược, “Đó là phần sự của anh mà.”

Phần sự của Eliot là viết một khung báo nêu lên góc nhìn của cộng đồng người Haiti về các nhà trẻ. Debeer tin rằng mọi câu chuyện đều nên chứa đựng mọi góc nhìn của mọi nhóm sắc tộc. Cầm tờ báo trên tay, nó không thực sự đọc gì đâu, nó đếm các nhóm sắc tộc. Lúc nào cũng thấy nó lăng xăng đi phát các tờ giấy nhắc nhớ, kiểu như: Xét câu chuyện ‘cá sấu tấn công người chơi golf ngày một nhiều’ đang rất thức thời và chứa nhiều thông tin bổ ích, tôi kiến nghị nên đưa vào đó góc nhìn của dân Mỹ Latinh. Lí do xe ô tô của Deeber chưa bị gài bom là bởi bọn ký giả dở ẹc về kỹ năng đó.

“Công nhận, tôi đã được phân công,” Eliot nói. “Ngặt là tôi còn đang kẹt câu chuyện ...”

“Câu chuyện bồ nông?” Deeber cười mỉa. Eliot tự hỏi ở Princeton họ có khóa dạy cười mỉa không, bởi thằng Deeber cực xuất chúng khoản đó.

“Ken,” Eliot nói, “đây là câu chuyện tuyệt đỉnh, và không ai khác có nó đâu. Ông cụ này, một cụ già người Cuba ở Key West, ổng huấn luyện bồ nông để...’

“Đánh bom,” Deeber cười khinh bỉ. “Đó là thứ ngu ngốc nhất tôi từng nghe.”

“Ken,” Eliot kiên nhẫn. “Ông già này cháy lắm. Ổng huấn luyện bồ nông để ám sát Castro, dóc làm chó. Ừ thì kế hoạch thất bại, chắc quả bom bị trục trặc hoặc con bồ nông bấn loạn sao ấy, nhưng sự thật cái thứ đó đã nổ tung ngoài một khách sạn ở trung tâm Havana. Các mẩu mảnh của con bồ nông bắn ra, rớt lụi đụi xuống một đoàn du khách Pháp. Và chính phủ Cuba đổ thừa cho biến đổi khí ...”

“Eliot,” Ken phẩy tay, “Tôi không nghĩ chúng ta phục vụ bạn đọc những loại chuyện đó.”

“Nhưng nó có thật,” Eliot hổn hển, máu nóng dồn lên mặt, những muốn chồm dậy thộp cổ thằng Deeber. “Đó là một câu chuyện vĩ đại. Ông cụ đã nói chuyện với tôi, và ổng ...”

“Eliot,” Deeber nói, “Anh có biết dự án nhà trẻ quan trọng thế nào với bạn đọc của ta không? Anh có biết bao nhiêu bạn đọc của ta gửi con trẻ ở nhà trẻ, có biết không?”

Một thoáng im lặng.

“Ken,” Eliot nói, “anh có biết bao nhiêu bạn đọc của ta có lỗ đít không?”

Deeber ậm ừ, “Tôi không thấy có ...”

“Tất cả họ!” Eliot rống lên. “Tất cả họ đều có có lỗ đít!”

Lớp tường kính văn phòng Deeber sức mấy ngăn nổi mấy cái tai hóng hớt trong tòa soạn. Những cái đầu cùng ngoái về chỗ tiếng hét vọng ra.

“Eliot,” Deeber đanh giọng, “Tôi lệnh cho anh, ngay bây giờ ...”

“Làm luôn loạt bài về nó coi sao!” Eliot rống lên. “KHỦNG HOẢNG HẬU MÔN!”

Deeber, ý thức được quần thần đang nhòm ngó, cố nặn ra vẻ mặt nghiêm khắc nhất có thể.

“Eliot,” nó dõng dạc. “Anh làm việc cho tôi. Tôi bảo gì anh làm nấy. Tôi đã giao bài cho anh. Nếu còn muốn làm việc tại tòa soạn này, liệu mà hoàn thành nó và để nó vô đây” – nó chỉ vào cái máy tính bàn – “không xong thì đừng có về nhà đêm nay.”

“Tốt thôi!” Eliot nhún vai, đoạn đứng phắt dậy rồi đùng đùng tiến đến chỗ bàn giấy của Deeber. Deeber hết hồn, lật cập thụt ghế lại, va phải cái tủ credenza sau lưng làm đổ tháo tùm lum mớ bằng khen từ các cuộc thi lều báo.

Eliot nói: “Hay để tao gửi nó qua BÂY GIỜ luôn cho khỏe!”

Dứt lời, anh vung chân trái nhắm thẳng màn hình máy tính của Deeber, đạp một phát. Bàn chân kẹt luôn trong đó, thành thử khi anh cố rút nó ra là nguyên cái màn hình đi theo luôn, đánh rầm xuống nền nhà. Rộ lên trong tòa soạn những tiếng vỗ tay tán thưởng, ngắn ngủi nhưng không kém phần nồng nhiệt.

Trừ lần một thằng nhân viên vận tải say xỉn lái chiếc xe nâng 43 nghìn đô xuống đầm phá Biscayne Bay, chưa ai bị tờ báo sa thải chóng vánh như Eliot. Các đồng nghiệp bày tỏ sự cảm thông và ủng hộ; Eliot đã trở thành một kẻ sĩ được kính phục trong dư luận giới ký giả toàn quốc. Nhưng cũng khá chắc là tên anh bị liệt vô sổ đen của mọi cơ quan báo chí, nhất là ở Miami. Ngặt nỗi anh muốn ở lại đây để có thể gần bên thằng con trai, Matt, nó hiện ở với vợ cũ của Eliot.

Vậy là Eliot ký giả trở thành Eliot Quảng Cáo và Quan Hệ Công Chúng, hành nghề trong một văn phòng còm hom ở Coconut Grove. Thời kì đầu, Eliot phải loanh quanh sớm tối để năn nỉ thiên hạ làm khách hàng của mình. Sau nhiều năm phấn đấu không ngừng, Eliot có tấn tới chút đỉnh, giờ thì anh sớm tối loanh quanh để năn nỉ thiên hạ trả nợ. Hoặc chuyện đó, hoặc ngồi nghe họ lý giải vì sao công sức của anh không được chấp nhận. Đó chính là điều Khách Hàng Âm Binh đang làm.

Sáng kiến mới đây nhất của Khách Hàng Âm Binh là Bia Đầu Búa, thứ mà lần đầu tiên và duy nhất Eliot nếm thử, anh đã phải khạc ngay lên bàn giấy bởi mùi vị kinh tởm của nó. Bia Đầu Búa là sáng kiến còn tệ hơn cả dự án trước đó của Khách Hàng Âm Binh, một loại công viên chủ đề cho người cao tuổi có tên Răng Giả Phiêu Lưu Ký.

Mà thôi, nói gì nói thằng này lâu lâu cũng chịu trả tiền, vậy nên Eliot đã lọ mọ triển khai một ý tưởng quảng cáo cho thứ bia này. Khách Hàng Âm Binh quan sát nó, và như thường lệ đưa ra lời phê bình rất có tâm.

“Như cái buồi,” hắn nói.

“Ây dà, Bruce,” Eliot nói, “tôi đã cố...”

“Nghe đây,” Khách Hàng Âm Binh ngắt ngang, hắn không tin vào việc để người khác nói hết câu, một khi vẫn còn ý tưởng nào nổi trôi trong đầu mình. “Anh biết triết lí kinh doanh của tôi là gì không?”

Biết chớ, Eliot nhủ thầm. Triết lí kinh doanh của mày là bào tiền từ lão cha giàu sụ của mày và xả nó vào mấy cái ý tưởng tào lao xịt bộp.

“Không, Bruce,” anh ậm ừ, “Triết lí của anh ...”

“Triết lí kinh doanh của tôi,” Khách Hàng Âm Binh dõng dạc, “đó là có rất nhiều người trên thế giới này.”

Để minh họa cho quan điểm, Khách Hàng Âm Binh phác cử chỉ hướng về phía thế giới. Không có động tĩnh gì tiếp theo. Eliot kiên nhẫn chờ đợi phần mở rộng nào đó.

“Chà,” sau cùng Eliot lên tiếng, “hẳn là...”

“Và,” Khách Hàng Âm Binh tiếp tục, hắn đã me đúng lúc Eliot mở miệng để cắt lời, “tất cả bọn họ đều MUỐN gì đó. Anh biết họ muốn gì không?”

“Không,” Eliot đáp. Đối sách của anh là đi với những câu ngắn.

“Họ muốn cảm thấy sướng,” Khách Hàng Âm Binh phán.

Lại im lặng nguy hiểm.

“Ồ,” Eliot nói.

“Anh hiểu tôi muốn nói gì chớ?” Khách Hàng Âm Binh nhìn trừng trừng Eliot.

“Ờ,” Eliot giả lả, “Chắc là ...”

“KHÔNG, ANH ĐẾCH HIỂU TÔI NÓI GÌ ĐÂU!”, Khách Hàng Âm Binh gầm lên, thấy vui trở lại vì đang được dịp bắt nạt một con người đang cần đến tiền của hắn, với hắn đó là thú vui không gì sánh nổi của sự giàu sang. “Bởi tôi đã dâng tận miệng anh cái ý tưởng hoàn hảo cho Bia Đầu Búa. Ý tưởng hoàn hảo! Không phải thứ cứt đái này.” Hắn phẩy tay xì xì, như thể đang đuổi ruồi, vào bản phác thảo mà Eliot đã thức đêm thức hôm để làm. Nó được đính trên một tấm bảng, bức hình cận cảnh một con cá mập đầu búa, với cái mồm há rộng giữa hai nhãn cầu cổ quái nằm cách xa nhau một cách phi lý. Dưới bức hình là hai hàng chữ đen và đậm:


Cá xấu.

Bia ngon.


“Cái quần què đây?” Khách Hàng Âm Binh xẵng giọng. “Xấu? Mắc gì có xấu ở đây hả cha?”

“À cái đó,” Eliot chống chế, “Thì tôi dùng phép tương phản ấy mà, nhưng theo hướng hài hước ...”

“Nghe đây,” Khách Hàng Âm Binh nói, với hắn khái niệm về hài hước - hắn có luôn băng video gối đầu giường về nó - là cảnh nửa chân dưới lủng lẳng sắp đứt lìa của Joe Theisman. “Tôi không muốn cái xấu. Xấu không phải cảm giác mà tôi mong chờ. Tôi đã cho anh ý tưởng! Tôi đã cho anh ý tưởng hoàn hảo!”

“Bruce, tôi đã bàn với luật sư về ý tưởng của anh, ổng bảo chúng ta khéo bị kiện sấp mặt vì ...”

“PHÊ VỚI ĐẦU BÚA!” Khách Hàng Âm Binh rống lên, nắm tay tròn vo đeo Rolex nện bụp bụp lên bàn giấy. “Đó chính là ý tưởng!”

Chợt hắn vùng phắt dậy, giang rộng hai cánh tay nung núc để giúp Eliot tiện hình dung. “Anh có một đôi nam nữ trên một chiếc thuyền. Con nhỏ mặc bikini, vú bự, hai đứa đang trên thuyền, và hai đứa đang phê lòi càng. Với bia Đầu Búa! Cảm giác nó mang lại là gì? Là có kẻ sắp sửa được chịch chớ gì nữa! Hậu cảnh là một con cá mập đang bơi quanh! Con nhỏ có vếu to VẬT. Bá cháy bọ chét. Tôi dâng cho anh ý tưởng bá cháy, anh thảy cái xấu cho tôi! Đừng mơ tôi trả đồng nào cho thứ này, gì chứ xấu là đây miễn trả tiền. Đây có thể có cái xấu miễn phí.”

Thì mày là hiện thân của nó mà! Eliot rủa thầm. Điều anh nói là: “OK, tôi sẽ cố gắng ...”

“Đừng! Đừng cố gắng với tôi. Đừng cố gắng. Tôi ghét cố gắng. Cố gắng chỉ dành cho lũ thất bại,” Khách Hàng Âm Binh, người có toàn bộ triết lí sống thuổng từ các quảng cáo của Nike, nói như đang hát. “Để tôi cho anh biết.” Hắn gõ gõ ngón tay lên bàn (đến mấy cái móng tay của hắn trông cũng béo nguậy). “Anh không phải phòng quảng cáo duy nhất ở thành phố này đâu.”

Ông nội cha thằng nào dám quảng cáo cho mày ngoài tao ra nữa, kẻ đã mấy tháng rồi chưa nộp tiền cấp dưỡng, Eliot rủa thầm.

“OK, Bruce,” anh nói.

“Tôi muốn thấy nó VÀO NGÀY MAI,” Khách Hàng Âm Binh nói.

Mình có thể kiếm được súng vào ngày mai, Eliot trù tính. Với cả mấy viên đạn đầu rỗng.

“OK, Bruce,” anh nói.

Chợt điện thoại reo. Eliot nhấc máy.

“Eliot Arnold nghe.” Anh nói.

“Tối con qua lấy xe nha ba,” Matt nói, nó là con trai Eliot và nó mười bảy tuổi, nghĩa là nó quá bận để nói một tiếng chào.

“Chào Nigel!” Eliot nói rổn rảng. “London vui không? Chờ tôi xíu nghen?”

“Nigel?” Matt nói.

“Bruce này,” Eliot nói với Khách Hàng Âm Binh, “Tôi phải tiếp chuyện với một khách hàng ở London về ...”

“Nhớ mai là có cho tôi đó, lần này làm cho đàng hoàng vào,” Khách Hàng Âm Binh nói, đoạn lấy tay hất cánh cửa văn phòng Eliot và thủng thẳng bước ra, chả buồn khép lại. Đoạn từ hành lang – sát ngoài văn phòng kế bên của gã kiểm toán viên luôn càm ràm mỗi lần Eliot bật nhạc – hắn hét vô ông ổng: “NHỚ KIẾM CON NÀO VÚ BỰ NHEN!”

“Cảm ơn đã ghé qua, Bruce!” Eliot nói về phía cánh cửa mở. “Của anh coi như xong rồi đó!” Đoạn anh nói vô ống nghe: “Matt?”

“Ai vú bự vậy ba?” Matt hỏi.

“Ai đâu,” Eliot nói.

“Ủa mà Nigel là ai?”

“Không ai hết, ba phịa ra Nigel để khách hàng khỏi nói mình vì chuyện riêng mà xao lãng đó thôi.”

“Thằng cha vụ bia bọt gì đó đúng không ba?”

“Thì nó chớ ai nữa.”

“Sao ba không tống phứt ổng đi cho rồi?” Matt nói.

“Matt,” Eliot hắng giọng, “con biết là tiền đâu có ở trên ...”

“Vậy ha,” Matt vội cắt lời, nó đâu muốn lãng phí thì giờ không đi học quí báu của mình để nghe giảng đạo, nhất là mấy bài quá nhàm kiểu này, “con mượn xe ba tối nay nha?”

“Chi vậy?” Eliot hỏi.

“Con và Anrew phải đi giết một con nhỏ,” Matt nói.

“OK,” Eliot nói, “làm gì làm nhớ mười rưỡi về trả xe cho ba, và con phải hứa lái cho thật ...”

“OK cám ơn ba,” Matt cúp máy. Một người đàn ông bận rộn.

“... cẩn thận,” Eliot nói, với cái điện thoại lặng câm.



DỌN RỬA XONG XUÔI sau bữa cơm tối, Nina thoái lui về phòng mình - gọi là “không gian của người giúp việc” cho oai, chứ nó chỉ là một gian phòng nhỏ với buồng tắm bé tí. Cô thận trọng khóa cửa lại, đã ba tháng nay cô luôn cảnh giác chuyện cửa nẻo, từ cái bận lão Herk đêm hôm sinh chứng bất tử mò vào phòng cô. Đúng lúc cô đang thay đồ nữa mới nghiệt, trên người chỉ tòn ten hai mảnh đồ lót. Phòng mình mà lão cứ khơi khơi đẩy cửa, bước vô như đúng rồi.

Nói chuyện lúc ấy lão đứng giữa phòng với ly vang đỏ trên tay, miệng cười cười. Nina chụp vội cái áo choàng trên giường, che trước người.

“Ày, không có gì đâu, Nina,” lão trấn an. “Tôi chợt nghĩ cô có muốn làm tí vang thư giãn không thôi ấy mà. Thấy cô làm cực quá, tội nghiệp.”

Nina biết lão quỉ này đâu có tốt bụng sảng vậy. Cô dư biết lão muốn gì qua cái cách lão địa cô, nhất là những khi rượu vào. Lão còn cái tật thích ló vào bếp khi cô chỉ có một mình, tò tò xáp lại gần cô một cách lãng xẹt, rồi chẳng nói chẳng rằng, cứ đứng ì ra đấy mà nhìn cô.

Áp chặt chiếc áo choàng vào người, cô nói, “Dạ thôi, cảm ơn ông, ông Herk. Tôi mệt lắm.”

Lão khép cửa lại, lững thững bước về phía cô. “Thư giãn tí mà,” lão nói, ấp bàn tay lên bờ vai trần của cô, rồi thình lình để nó trôi tuột xuống ngực cô. Bàn tay lão nhèm nhẹp mồ hôi.

Nina thụp người né khỏi bàn tay nhám nhúa, đoạn thụt lui về phía phòng tắm.

“Ông Herk,” cô nói, “Tôi không nghĩ bà Anna sẽ vui khi biết ông đang ở đây đâu.”

Chợt khuôn mặt lão trở nên nghiệt ngã. “Bả ngủ rồi,” lão nói. “Và tôi không tính chạy đi báo cáo bả biết mình ở đây. cũng sẽ không báo cáo chớ, Nina?”

Không, cô sẽ không báo cáo. Bề gì lão cũng là chủ ngôi nhà này, và cô chỉ là phận đầy tớ, và sự hiện diện của cô ở quốc gia này là trái pháp luật, và cô không có nơi nào để nương náu cả.

“Cảm phiền ông,” vừa dứt lời Nina quay phắt người lại, chạy ù vào buồng tắm, dập cửa bấm chốt.

Cái nắm cửa rung lên cành cạch khi lão Herk ra sức vặn nó.

“Nina,” lão xẵng giọng, “ra coi.”

Nina nhìn cái nắm cửa, nín thở. Cảm thấy mồ hôi của lão còn nhơn nhớt trên cơ thể mình, chỗ mà lão sờ cô.

“Nina,” lão tăng âm lượng, “đây là nhà tao, mày làm công cho tao, tao muốn mày bước ra ngay.”

Nina nhìn cái nắm cửa.

“Con giặc cái,” lão rủa.

Nina nghe tiếng thủy tinh vỡ, rồi đến tiếng cánh cửa hành lang bật tung. Cô đợi thêm một lát rồi mở cửa buồng tắm bước ra. Coi, một vết đỏ sẫm lồ lộ chính giữa tấm ga giường, chỗ mà lão đã đổ ly rượu vang xuống. Cái ly thì lão đã giáng cho vỡ vụn trên sàn nhà. Cô bị xước chân khi dọn dẹp các mảnh thủy tinh.

Ngày hôm sau, khi cô bưng cà phê cho lão, với bà Anna ở đó, lão làm mặt tỉnh bơ như không có gì xảy ra. Duy cô vẫn thấy lão tranh thủ địa mình. Và cô giữ cho cửa phòng luôn khóa. Cô không mê gì lão Herk, song cô cần công việc này. Cô cần kiếm đủ tiền mướn luật sư để có thể trở nên chính danh, và sau đó cô sẽ đưa mẹ và em trai mình đến Mỹ.

Nói chớ làm việc ở đây cũng không đến nỗi nào. Ngôi nhà như một tòa lâu đài, và bà Anna rất tốt bụng, rất dễ thương. Nina không hiểu nổi vì cớ gì lão Herk lại đối xử tàn tệ với một phu nhân cao quí nhường vậy. Nina đã từng nghe lão quát nạt bà, gọi bà bằng những cái tên tục tĩu, làm bà khóc. Nina biết đôi lúc lão còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với bà.

Bà Anna đối xử với Nina tốt khỏi nói. Jenny, con gái bà cũng vậy, dù chủ yếu cổ cứ ru rú trong phòng mình, nấu cháo điện thoại, nghe thứ âm nhạc của cổ, thứ mà Nina nghe như tiếng la hét của những con người giận dữ. Cô không mường tượng nổi vì cớ gì người ta lại thích nghe tiếng la hét của đồng loại.

Nina thích nghe tiếng sáo của quê hương cô, qua những cuộn băng cát-xét cô mở bằng cái máy Fisher-Price của Jenny hồi cổ còn nhỏ. Vào buổi đêm, Nina mở cửa sổ phòng (cô không ưa máy điều hòa không khí), tắt đèn và nằm dài xuống giường, thả hồn theo tiếng nhạc. Nó giúp cô cảm thấy bớt cô đơn.

Phía bên kia sân vườn, trong cái cây của nó, chìm đắm trong tiếng nhạc của Nina, Puggy cũng cảm thấy niềm cô độc như dịu dàng hơn.



MATT ĐÓN Andrew lúc 8 giờ 40.

“Em chó lửa đâu mày?” Andrew hỏi.

“Trong cốp xe,” Matt nói. “Ế. Tao khoái bài này.” Nó vặn volume dàn stereo lên hết nấc, bài đang được bật là “Sex Pootie,” của một ban nhạc có tên Seminal Fluids. Lời bài hát như sau:


Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Và cứ thế.

“Sex pootie là cái gì vậy?” Andrew hỏi.

“Chứ mày nghĩ nó là cái gì?” Matt khinh khỉnh, dù thực tình nó cũng chả biết sex pootie là cái quái quỉ gì. Nó lảng sang chuyện khác: “Dàn âm thanh này như hạch.” Matt có sự khinh bỉ không hề nhẹ cho bất cứ dàn âm thanh nào không đủ lớn để khiến trâu bò bất tỉnh.

“Sao ông ba mày lại tậu một con Kia nhỉ?” Andrew thắc mắc.

“Bởi ổng bị cù lần chớ sao nữa,” Matt giải thích.

Andrew gật đầu thông cảm. Bởi ba nó cũng là một gã cù lần. Hỏi ra mới biết hầu như cha đứa nào cũng cù lần một cây hết. Matt và Andrew không khỏi kinh ngạc khi thế hệ của tụi nó lại chất đến vậy.

“Hi vọng nhỏ Jenny không thấy cái xe này,” Matt nói.

Jenny là đứa con gái mà tụi nó sắp hạ thủ. Matt nghĩ cô nàng thật quyến rũ. Cô học chung lớp sinh học với nó ở Trung Học Southeast, và nó dành gần hết thì giờ trên lớp để ngắm cô trong khi làm bộ ngó biểu đồ tuyến tụy hay mấy thứ nội tạng khác. Nó đã vặn óc đủ cách để bắt chuyện với cô, song vẫn chưa tìm được phương kế nào khả thi. Nhưng chỉ lát nữa thôi, nó sẽ chính tay hạ sát cô, nó nghĩ điều này có thể phá vỡ được lớp băng.

Matt được chỉ định giết Jenny bởi Evan Hanratty, một nam sinh Trung Học Southeast, người chủ trì phiên bản năm đó của trò Killer. Killer là trò chơi đến hẹn lại lên ở nhiều trường trung học; bị ban giám hiệu các trường kịch liệt lên án và cấm ngặt, nên khỏi nói là tụi học sinh đứa nào chả thích chơi.

Có nhiều phiên bản khác nhau của trò chơi, nhưng chung qui là vầy: Bạn trả cho người chủ trì một khoản tiền (ở trường của Matt là mười đô để trở thành người chơi). Người chủ trì sau đó bí mật tiết lộ với bạn tên của một người chơi khác; và bạn phải đi tìm giết kẻ đó. Cùng lúc, bạn trở thành mục tiêu săn lùng của một kẻ không rõ danh tính khác.

Vào thời điểm được ấn định, trò chơi sẽ chính thức khai màn, và cuộc tàn sát bắt đầu. Sau mỗi vòng, những kẻ sống sót sẽ được giao những mục tiêu mới; cứ thế cho đến khi sát thủ cuối cùng còn sống sót nhận được phần thưởng bằng tiền mặt của người chủ trì.

Các vụ sát nhân được thực hiện bởi súng nước. Để vụ sát nhân được công nhận, bạn phải phun nước vào nạn nhân với sự hiện diện của một nhân chứng – nhưng chỉ một nhân chứng thôi. Nghĩa là gần như không có cửa hạ thủ ở trường, hoặc nơi công cộng như trung tâm mua sắm. Phải đánh lén, đánh du kích, thường thì ngay tại nhà nạn nhân luôn.

Nhiều đứa lôi kéo phụ huynh vào trò này. Nó sẽ nhờ mẹ chở mình đến nhà nạn nhân; rồi phục sẵn trong bụi cây, trong khi bà mẹ điềm nhiên bấm chuông cửa và hỏi nạn nhân có nhà không. Khi nạn nhân mở cửa cũng là lúc sát thủ vọt ra khỏi bụi cây, khai hỏa, à quên, khai thủy khẩu súng.

Matt và hội bạn của nó cho rằng quá đê tiện khi sử dụng mẹ mình để giết ai đó. Tụi nó thích phục kích về đêm hơn, hành động dưới sự chở che của bóng tối, khi bạn có yếu tố bất ngờ, và có khả năng (ai biết được) bắt gặp mục tiêu đang khỏa thân.

Matt đỗ chiếc Kia của bố nó cách nhà Jenny hai con đường. Nó mở cốp xe và lấy ra khẩu SquirtMaster Model 9000, loại đỉnh của dòng súng nước, 33.95 đô ở cửa hàng Toys R Us. Nhìn nó in hệt vũ khí giết người thứ thiệt, chứa tới bốn lít nước; và có thể bắn một tia nước đi xa mười lăm mét.

Matt và Andrew sải những bước dài xuyên qua màn đêm ẩm ướt, đến trước lối vào nhà Jenny. Tụi nó không chạm trán bất cứ ai trừ bọn muỗi; đây là khu đắt đỏ của Coconut Grove, đêm lại là ai ở yên nhà nấy.

Nhà Jenny to phải biết, duy từ đường phố nhìn vào chỉ thấy nó lấp ló sau đám cây lá rậm rịt. Một tường gạch cao hai mét bao quanh tư gia, và án ngữ trước lối vào là một cổng thép cơ giới. Một máy nội đàm được đặt sát bên cổng.

“Kế hoạch ra sao?” Thằng Andrew thì thầm. “Mày có định bấm chuông?”

“Lãng xẹt,” Matt gạt phắt. “Muốn tao nói gì? ‘Chào cô! Con là Matt Arnold, tới để giết Jenny ạ?’ Phải leo tường thôi.”

“Lỡ họ nuôi chó sao mày?” Andrew lo lắng.

“Tao thích chó,” Matt nói, nhưng bụng thì bảo dạ: chết cha, lạy trời họ không nuôi chó.

Hai đứa đi men theo bức tường ra đến mặt sau của tư gia. Tại đó, cạnh một cây lớn, tụi nó tìm được một chỗ gần với bức tường coi bộ cũng dễ leo. Matt đưa khẩu SquirtMaster cho thằng Andrew rồi leo qua tường trước; Andrew liệng khẩu súng qua rồi làm theo Matt. Đột nhập thành công, chúng đứng im một lát, dỏng tai hóng tiếng chó sủa, nhưng chỉ nghe văng vẳng tiếng nhạc sáo. Với Matt dẫn đường, hai thằng rón rén tiến bước về phía ngôi nhà.

Phía trên đó sáu thước, Puggy dõi theo bóng dáng hai kẻ cầm súng mất hút trong đám thực vật um tùm. Vụ gì đây không biết. Đây là cặp đôi có vũ trang thứ hai nó bắt gặp đã leo qua bức tường này, trong nửa giờ qua.

---
 
Chỉnh sửa lần cuối:

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
CHÍN




“Tôi có các quyền của mình,” Dũng Sĩ Trừ Gian Jack Pendick tuyên bố, có lẽ là lần thứ bốn mươi kể từ lúc được các bạn dân rước về đồn.

“Hẳn rồi, ông Pendick,” Thám tử Harvey Baker ôn tồn nói. “Gì chứ quyền thì ông có cả sớ ấy chứ. Và tôi chắc ông sẽ được xài không thiếu cái nào đâu, khỏi lo. Nhưng trước tiên tôi cần ông đi theo các thầy chú này, họ sẽ dìu ông đến một căn phòng ấm cúng đặng ông có thể nghỉ lưng, và nghĩ xem có cách nào giảm độ cồn trong máu xuống dưới 300 phần trăm không, OK?”

“Tôi sẽ được trả lại súng chớ?” Pendick hỏi.

“Cố nhiên!” Baker đáp. “Ngay sau khi chúng tôi làm vài bài test, và một viên kẹo dẻo biết nói đắc cử tổng thống.”

“OK,” Pendick nói với vẻ hài lòng. “Bởi tôi có các quyền của mình mà.”

Sau khi Pendick được dẫn đi, Baker điện lên phòng trực tin, lần thứ ba tối hôm ấy, để hỏi xem Ramirez và Kramitz đã báo cáo gì về chưa. Chưa luôn. Baker đâm lo. Ông đã toan cử một xe cảnh sát khác đến chỗ họ để kiểm tra. Nhưng rồi, chính ông cũng chẳng biết tại sao, Baker quyết định sẽ tự mình lái xe đến nhà Herk.



Ngay khi chắc mẩm bọn người xấu đã đi khỏi, Nina liền bước ra khỏi phòng mình. Ban nãy khi nghe tiếng thét, cô đã hé cửa nhìn ra và tá hỏa khi thấy một thằng không biết yêu quái phương nào ở cuối hành lang, cạnh tiền sảnh. Nó đang trùm bít tất hay thứ gì tương tự kín bưng mặt, khiến nó trông thuôn đuột như một con rắn. Nó cầm một khẩu súng và đang nạt nộ ai đó. May thay nó không thấy cô. Cô rón rén đóng và chốt cửa lại. Ba hồi cô lại nghe ai đó rú lên và súng nổ đì đoàng, trời ơi sợ muốn chết. Cũng nghĩ tới chuyện gọi cảnh sát chớ, mà trong phòng có cái điện thoại nào đâu. Cô đành ngồi im ru trên giường, úp mặt vào hai bàn tay, thắc thỏm chờ đợi tới khi có tiếng cửa đóng dội vào, và cô không còn nghe tăm hơi bọn người xấu nữa.

Ra khỏi phòng, cô chạy huỳnh huỵch dọc theo hành lang, về hướng phát ra tiếng khóc của bà Anna. Vòng qua vách ngăn đến phòng khách, cô đứng sững như trời trồng và đưa tay lên che miệng. Coi, bà Anna đang nằm tênh hênh trên sàn, với đôi tay quặp bên dưới thân người. Chiếc blouse của bà mở ra hoang hoác và nịt ngực thì bị kéo lên; và đôi mắt bà nom hoang dã như mắt của một người điên. Phía sau bà là người nữ cảnh sát đã ở đây vào tối hôm nọ; cô ấy đang vật lộn với thứ gì đó ở sau lưng. Phía sau cô ấy là Matt, một người bạn của cô Jenny, máu me loang lổ từ mũi anh ta và anh ta cũng đang vùng vằng với thứ gì đó sau lưng. Rồi nữa, sát bên cái kệ audio mà Nina lau chùi tuần một lần, người cảnh sát vạm vỡ tối nọ đang vừa chửi đổng vừa hùng hục lay mạnh thứ gì đó. Ở đầu kia của kệ audio, ông Herk cũng đang làm in hệt vậy.

Nina lật đật chạy đến bên Anna. “Bà Anna!” cô nói, kéo nịt ngực của Anna xuống.

“Nina ơi, tụi nó bắt Jenny đi rồi,” Anna mếu máo. “Tụi nó bắt con bé rồi.”

“Nina,” Monica nói, xoay người sang và chìa đôi bàn tay bị trói của cô ra. “Cởi trói cho tôi. Desatame.

Nina thoăn thoắt gỡ những nút thắt trên cổ tay của Monica rồi tháo lỏng nó. Tới phiên Nina cởi trói cho Anna, trong khi Monica giải thoát cho Matt.

“Tôi cần một chiếc xe,” Monica nói.

“Xe của ba em ngoài kia,” Matt nói, lục túi lấy ra xâu chìa khóa. “Con Kia.”

“Cảm ơn nghen,” Monica nói, vơ lấy chùm chìa khóa.

“Cô tính làm gì vậy, Monica?” Từ kệ audio, Walter cất tiếng hỏi.

“Rượt theo thằng biến thái đó trước khi nó đi quá xa,” Monica nói.

“Biết nó đi đâu mà rượt?” Walter hỏi.

“Nó nói cần bắt kịp chuyến bay,” Monica nói. “Tôi đồ nó đang ra sân bay Miami.”

“Tháo còng cho tôi đã rồi đi đâu đi,” Walter nói, giật giật cánh tay bị còng của hắn.

“Walter,” Monica nói, “Tôi không có chìa khóa còng, và cũng không rảnh để ngồi cưa cái kệ đó. Cố gắng tự giải thoát rồi phôn về sở, bảo họ điều quân đến sân bay liền nghen.”

“Cô không thể để tôi kẹt ở đây!” Walter giãy nảy. “Tự giải thoát cái con ...”

“Walter,” Monica nói, hối hả bước về phía cửa, “Tôi phải đi ngay bây giờ.”

“CỨT,” Walter điên cuồng lắc cái kệ audio, khiến khung hình của Jenny và Anna chao đảo rồi rơi xuống sàn nhà. “CỨT!”

Anna bắt kịp Monica trong tiền sảnh. “Tôi sẽ đi với cô,” nàng nói.

“Thôi, chị cứ ở nhà đi mà,” Monica đặt tay lên nắm cửa.

Anna siết mạnh cánh tay Monica bằng cả hai bàn tay nàng. “Đó là con gái tôi,” giọng nàng đanh thép, “và tôi sẽ đi với cô.”

Monica thấy rõ nếu muốn bỏ người đàn bà này lại, cô chỉ có nước choảng nhau với bà ta.

“OK,” cô nói và đẩy cửa.

“Em đi nữa!” Matt lên tiếng khi vừa đặt chân vào tiền sảnh.

Monica ngoái cổ nhìn nó.

“Xe của ba em mà,” nó lý sự.

“Trời đất,” Monica vỗ trán đoạn bước qua cửa, Anna và Matt luýnh xuýnh theo sau.


TRÊN HÀNG HIÊN, con Roger đang cào cửa kính và sủa ăng ẳng. Thỉnh thoảng khi nó làm thế, có người sẽ ra mở cửa, dắt nó vào nhà và đem thức ăn cho nó. Duy lần này chẳng thấy ma nào ló mặt. Roger nghe có tiếng lao nhao trong nhà. Nó cào vào cửa kính vài lần nữa. Cũng không ăn thua. Roger thở dài, quay lại với công chuyện gầm gừ Cóc Thù Địch.



ELIOT CHÍNH LÀ người suýt bị chiếc xe cảnh sát lụi trúng, nếu không nhờ pha nhảy tránh trong đường tơ kẽ tóc, chậm chút xíu là rồi. Sau khi chửi đã, anh đứng gập người trên vỉa hè một chặp, tay chống lên đầu gối, cố lấy lại bình tĩnh. Điệu này không kiện sở cảnh sát cũng uổng . Thằng điên này phóng bạt mạng ra đường, đã vậy còn gài số de. Xô đổ mẹ nó cánh cổng!

Eliot hít vào thở ra vài cái, xốc lại tinh thần, đoạn bước qua cánh cổng đổ và lẹ làng rảo bước trên lối vào nhà. Eliot vừa sờ vào quả đấm thì cánh cửa trước đã tự động bật tung ra, và anh suýt bị nốc ao bởi một nữ cảnh sát, người mà anh nhận ra sau một giây hoàn hồn, chính là nữ cảnh sát anh đã gặp tối hôm nọ. Trông cô có vẻ rất kích động. Cô túm ngay cổ áo Eliot.

“Chúng đi ngõ nào rồi?” cô hỏi.

“Cảnh sát ấy hả?” Eliot ú ớ. “Bọn ngu ấy suýt thì ...”

“Cảnh sát cái đách gì,” Monica xẵng giọng. “Chúng là cướp.”

“Hả?” Eliot ngơ ngác. Đoạn anh thấy Anna, trông còn kích động hơn cả Monica, và Matt, với máu me lấm lem trên mặt lẫn trên áo.

“Matt!” anh hỏi quính. “Con có sao không?”

“Chúng bắt Jenny rồi!” Matt nói. “Mình phải đuổi theo bạn ấy!”

“Bắt Jenny hả?” Eliot trố mắt. “Chúng làm cái ...”

“CHÚNG ĐI NGÕ NÀO HẢ?” Monica quát, giật mạnh áo phông của Eliot.

“Ngõ kia,” Eliot nói, “thẳng xuống đường Garbanzo. Ta có thể đuổi theo chúng bằng ...”

Song Monica, Matt, và Anna đã phóng đến con Kia rồi. Eliot đuổi theo vừa kịp để nhảy vào băng sau cùng Anna. Anh vừa đóng cửa thì có ai đó đã giật ra lại. Đó là Nina.

“Nina!” Anna nói. “Thôi em ơi ...”

“Cô phải ở lại đây,” Monica nói và rồ máy. “Quedate!”

“Không,” Nina đáp xẵng, chui tót vào ngồi cạnh Eliot đoạn dập mạnh cửa. Không đời nào cô chịu ở lại trong cái nhà điên khùng này, nhất là với lão Herk.

“Ôi trời,” Monica chắt lưỡi than thở, đoạn rồ máy và phóng chiếc Kia ra khỏi tư gia.



“GIỜ SAO NỮA?” Snake hỏi Jenny. Chiếc xe tuần tiễu đang bon bon theo hướng bắc Le Jeune Road.

“Cứ đi thẳng,” giọng Jenny lạnh tanh.

“Giỏi lắm em bé,” Snake cợt nhả, bàn tay nó đang mơn trớn gáy Jenny. Cô vùng vằng đẩy nó ra. Nó kéo cô lại sát hơn. Mùi thối hoăng từ người nó xông ra nồng nặc con xe bít bùng.

Ở ghế trước, Eddie đang bám lấy vô lăng như kẻ sắp chết đuối bám lấy chiếc phao cứu sinh. Nó đang điều khiển con xe theo cách cực kì khó lường, song đó cũng chẳng phải chuyện lạ ở Miami, nơi mà bà con mạnh ai nấy chạy theo luật giao thông và tập quán ở quê mình. Huống hồ Eddie đang lái một chiếc xe cảnh sát, nên dẫu có vượt đèn đỏ – điều nó đã làm, hai lần – cũng không có dân nào bóp còi phản đối.

“Snake,” nó nói, “ở sân bay thiên hạ đông đen, có cớm nữa đó mày.”

“Thì sao?” Snake cười khẩy. Cớm mà ăn thua gì. Nó vừa xích một thằng cớm vào kệ audio đấy thôi.

“Thì,” Eddie cố để không gắt lên, “mình đang ở trong một chiếc xe cảnh sát, và trong trường hợp mày quên, mình hổng phải cảnh sát. Hay thôi cứ tấp đại vào đâu đó, bỏ lại chiếc xe, bỏ lại con nhỏ, bỏ lại thằng khứa trong cốp xe, lấy tiền rồi cút mẹ khỏi đây cho rồi.”

Snake thở dài. “Đó là luận điệu của bọn thua cuộc, Eddie à,” nó giở giọng kẻ cả. “Bộ mày không thấy mình vừa làm gì sao? Mình hạ tụi chó đẻ ở quán, mình hạ bọn cớm, mình hạ thằng trùm ma túy. Mình đang thắng như chẻ tre, Eddie à. Và mình sẽ còn thắng tiếp, thắng to.” Snake không thể tin nó đã phí hoài cả một quãng đời chỉ để ăn mày thiên hạ chút tiền còm. Cho từng đồng xu chết dẫm. Đã đến lúc rũ bùn đứng dậy. Mà đâu chỉ đứng dậy không thôi, nó đang tiến phăng phăng, đến một tương lai ngời sáng đang vẫy gọi qua tấm kính chắn gió, phía trên đôi tay cứng đờ của cái thằng nay mai chỉ còn là cựu thuộc hạ của nó.



WALTER RUN LÊN vì điên tiết, tuồng như muốn rứt đứt cánh tay mình ra khỏi ổ cắm. Cộng sự của hắn đang trong một cuộc đuổi bắt bằng ô tô. Can hệ đến bọn cướp có vũ trang. Đó là giấc mơ từ ngày vào ngành của Walter, và giờ coi, hắn đang bị còng vào một cái kệ audio. Bởi chính còng tay của hắn!

Vận hết mọi thành công lực có được qua bao ngày khổ luyện ở phòng gym, Walter giựt mạnh cái kệ audio, khiến nó chúi nhụi ra trước và kéo ghì Walter lẫn Arthur phủ phục xuống sàn nhà. Chiếc kệ kềnh càng đổ uỳnh, vỡ toang những giá đỡ bằng kính và lăn lông lốc quanh phòng các thành phần của dàn stereo. Song vẫn nguyên xi là bộ khung của nó; với những ống thép dày được hàn với nhau một cách kiên cố.

“Ông làm cái chó chết gì vậy?” Arthur sửng cồ.

“Cố đập bể nó chứ gì nữa,” Walter đáp. “Bộ ông không muốn ra khỏi đây sao? Không muốn giúp gia đình mình sao?”

Arthur nín thinh. Câu trả lời từ đáy lòng là: không.

“Cứt,” Walter lại giật cặp còng một cách vô nghĩa. Hắn nói với Arthur, “Ta cần gọi điện.”

“Tụi nó rứt mẹ hết dây nhợ rồi còn đâu,” Arthur nói.

“Ông có điện thoại trong phòng ngủ chứ?” Walter hỏi. “Cuối hàng lang đúng không?”

“Ờ,” Arthur nói, “nhưng mà làm thế nào ...”

“Phụ tôi dựng cái này lên trước đã,” Walter nói, ra sức nhấc cái kệ đứng thẳng trở lại.

“Sức mấy mà kéo nó đi xa chừng đó?” Arthur làu bàu.

“Cứ thử xem,” Walter nói.

“Ông không thể ép tôi,” Arthur nói.

Walter xô mạnh cái kệ về phía Arthur; nó đập vào vai lão.

“Úi da!” Arthur ré lên.

“Mau phụ tôi dựng nó lên,” Walter đanh giọng, “lèm bèm nữa tôi ủi ông vô tường cho dẹp lép.”

Với những nỗ lực tột bực, phần lớn đến từ Walter, họ dựng cái kệ đứng thẳng trở lại rồi hì hục lớp kéo lớp đẩy nó ra hành lang, nơi Walter nhận ra nó quá cao so với trần nhà ở đó.

“Cứt!” hắn nói. “Phải ra ngoài thôi.”

“Hở?” Arthur há hốc.

“Phải ra ngoài, hô to để hàng xóm tới giúp,” Walter cắt nghĩa.

“Ra ngoài?” Arthur trợn mắt. “Với cái đồ thiên lôi này? Bộ ông hết chuyện chơi rồi hả?”

Song Walter đâu còn nghe gì nữa. Hắn lướt mắt về phía tiền sảnh; không cách gì cái kệ này có thể lọt qua cửa trước. Vậy hồi đầu họ đưa nó vào nhà bằng cách nào? Hắn nhìn sang phòng khách, câu trả lời đây rồi.

“Lối này,” dứt lời hắn hùng hổ kéo mạnh cái kệ audio, lần này thì có mục đích hẳn hoi.



“THẦY GÌ KHÔNG?” Leonard lên tiếng hỏi. Hắn với Henry đang ẩn mình trong vườn thực vật um tùm trổ ra từ hàng hiên nhà Herk.

“Không,” Henry nói. “Nhưng nghe thì có.”

“Ờ,” Leonard nói. “Nghe như chúng đang đập bàn đập ghế ở trỏng. Hoặc vậy, hoặc đang mở nhạc rap.”

“Sao cũng được,” Henry nói, “tao đã sẵn sàng để ... Ê, coi kìa.”

“Trời đất quỷ thần ơi,” Leonard bàng hoàng thốt lên, khi hiện ra trước mắt hắn là bộ dáng nhăn nhó bái xái bài xai của Walter Kramitz, đang kéo lê cái kệ audio như một loại khổ hình dưới âm ty. “Cớm hả?”

“Sở cảnh sát Miami,” Henry nói. “Cái thằng đô con gớm. Mà nó làm quái gì ở đây nhỉ?”

“Hình như nó bị xích vào một cái ... Chắc tao chết,” Leonard thảng thốt, khi dáng hình của Arthur hiện ra.

“Ông bạn mình kìa,” Henry nói. “Đời hắn sôi động gớm nhỉ?”

Cả hai cùng quan sát gã sĩ quan cảnh sát to lớn mặt mày đỏ gay, đang ra sức kéo lê một cái kệ còn to lớn hơn, theo sau là Arthur Herk mặt nhăn như khỉ ăn ớt, lặc lè tiến về phía cánh cửa kính mà Henry đã bắn thủng đêm hôm nọ. Cái lỗ đã được ai đó dán lại bằng băng keo.

Khi họ còn cách cánh cửa tầm một thước, Henry nói, “Tao có quyết định rồi.”

“Và đó là?” Leonard hỏi.

“Dứt điểm ông bạn mình.”

Bây giờ luôn hả?” Leonard hỏi. “Với thằng cớm kè kè bên cạnh?”

“Ừa,” Henry nói. “Thằng cớm mà kể số gì nữa, bị xích vô của nợ đó rồi. Và tao muốn làm xong phứt vụ này rồi dông lẹ. Ở đây lâu chắc sanh bệnh quá.”

“Mày nói chí lí,” Leonard đồng tình. “Cứ như Thị Trấn Kinh Dị Mỹ.”

“Xong vụ này,” Henry vừa nói vừa nâng khẩu súng trường lên, “rồi mình điện ra sân bay đặt vé luôn.”

“Amen,” Leonard nói, phẩy tay vu vơ vào một con muỗi. “Nghe hai tiếng sân bay sao mà mát lòng mát dạ.



ROGER PHÂN VÂN. Một bên, nó có Cóc Thù Địch để thị uy. Một bên, nó có hai người từ trong nhà đi ra, và họ có thể mang theo thức ăn. Đâu đã hết, lại còn hai con người khác nữa, những người vừa nãy nó đã chào đón ở cuối sân vườn, đang tiến lại gần hơn. Roger hồi tưởng, đâu đó trong những mạch não nguyên thủy của nó, những con người này có vị rất ngon. Có lẽ nó nên thử qua họ lần nữa! Nhưng còn con cóc thì sao? Rồi mấy người trong nhà? Nhiều lựa chọn quá cũng khổ!



WALTER CỐ MỞ cánh cửa sân hiên; nó đã bị khóa, kiểu khóa cần một cái chìa để mở.

“Chìa khóa đâu?” hắn hỏi Arthur.

“Không biết,” Arthur đáp cộc. Lão đang điên tiết. Máu đang ứa ra từ cổ tay lão, chỗ mà cái còng cọ vào.

“OK, vậy chơi kiểu này,” Walter nhích cái kệ audio cho nó song song với cánh cửa sân hiên. “Đếm tới ba, ta sẽ đập thứ này vào cửa.”

“Dẹp mẹ đi,” Arthur nói.

Walter bắt đầu, “Một.”



“CHÚNG ĐANG LÀM gì thế?” Leonard hỏi.

“Chúng đang tạo ra một mục tiêu tuyệt hảo,” Henry đáp, điều chỉnh thước ngắm.



“HAI,” Walter hô.

Thủy tinh đó, đồ điên!” Arthur phát hoảng. “Đừng kéo tao chết chung chớ!”

“Ba,” Walter hô, vận hết sức bình sinh quật cái kệ về phía trước. Chính trong khoảnh khắc đó, có hai sự kiện diễn ra đồng thời. Một: Henry siết cò. Hai: Roger, quyết định xoay sở trong thời gian biểu chật kín của mình để chiếu cố những người bạn mới, đã sục mõm vào háng Henry. Kết quả là viên đạn, thay vì xuyên qua sọ Arthur, chỉ lướt qua nó trong gang tấc. Thật khó kết luận đó là phúc hay họa cho Arthur, chiếu trong ánh sáng của những gì xảy ra sau đó: Bị lôi đi dưới sức nặng của cái kệ thép, Arthur bổ nhào qua cánh cửa vỡ, mặt cắm ngập vào tô cơm của Roger, môi và mũi lão dính chặt vào đó, ngay trước mũi con Cóc Thù Địch.

Con cóc, không có ý định san sẻ phần cơm của Roger, cấp kỳ trút tuyến lệ đằng sau mắt nó, bắn phọt hai tia lớn trắng đục dồi dào bufotenine, chất gây ảo giác, vào mặt Arthur. Arthur hét toáng lên và lồng lộn giựt cái tô ra khỏi đầu. Con cóc lại tiếp tục bữa ăn của nó.


HENRY VÀ LEONARD tiến về phía bức tường, không chạy, nhưng đi thoăn thoắt trong bóng đêm.

“Mày bắn trúng chớ?” Leonard hỏi.

“Chắc vậy,” Henry nói. “Con chó nhảy sảng vô tao, nhưng tao thấy rõ ông bạn mình đã gục rồi.”

“Thằng cớm cũng gục,” Leonard tiếp lời.

“Ừ,” Henry nói. “Tao nghĩ nó thụp xuống khi nghe tiếng súng.”

“Mày nghĩ hai đứa nó đốc chứng mà lại kéo lê một cái kệ tổ bố quanh nhà kia chứ?” Leonard hỏi.

“Thua,” Henry lắc đầu.

“Thị Trấn Kinh Dị Mỹ,” Leonard chắt lưỡi.



“ĐƯỜNG GÌ TÊN Garbanzo trời?” Greer cười lạt. Y đang đọc bản đồ trong khi Seitz lái xe. “Nghe thử mấy tên đường ở đây nè. Loquat. Kumquat. Tin nổi không? Kumquat. Rẽ trái chỗ này. Anh nghĩ cái va-li ta cần tìm có đó không?”

“Dám lắm,” Seitz gật gù. “Ừ thì ta bị việt vị cũng nhiều rồi, nhưng tôi đang nghiêng về việc bạn già Ivan nói thật.”

“Tôi cũng vậy,” Greer nói. “Nó chắc không muốn chiếc giày còn lại cũng có lỗ thông gió. Tới rồi, 238 Garbanzo, trên ... Ủa cái cổng bị sao vậy?”

“Coi bộ ai đó đã đùng đùng bỏ đi,” Seitz nói.

“Ai? Mà đi đâu?” Greer thắc mắc.

“Hi vọng người nhà có thể cho ta biết,” Seitz nói.



WALTER LOM KHOM giữa ngổn ngang thủy tinh vỡ, cố xoay sở để dỡ cái kệ lên. Không có trợ giúp nào từ Arthur, kẻ vẫn đang nằm sấp ở đầu kia, kêu la oai oái và chà lấy chà để mặt mình với bàn tay không bị còng.

“THÔI mà,” Walter vừa nói vừa lắc cái kệ. “ĐỨNG DẬY coi.”

“Mặt tôi!” Arthur nói. “Nó xịt lên mặt tôi!”

“Thây kệ nó đi,” Walter nói, “tìm y tế cho ông cái một à, nếu ta bỏ được cái ...”

“XÊ RA!” Arthur bỗng hét sảng. “ÔI CHỜI ƠI, ĐỪNG LẠI ĐÂY!”

Arthur đang hét quáng vào Roger đang đứng cách lão chừng năm tấc, khịt khịt mấy mẩu thức ăn bắn ra khỏi tô lúc Arthur cắm mặt vào. Nghe tiếng hét Roger ngóc đầu lên và phất đuôi tíu tít, ý bảo Arthur chờ xíu nó qua liền à, sau khi hoàn tất công chuyện quan trọng này đã.

“Trời đất,” Walter nói. “Là con chó thôi mà. Mà chó của ông chớ ai.”

Arthur quay sang Walter, gương mặt lão móp méo bởi nỗi kinh hoàng. “Ông không thấy hả?” lão hỏi. “Ông không thấy bả hả?”

“Thấy cái gì?” Walter ngơ ngác. “Ông đang nói gì thế?”

“BÀ TA!” Arthur nói. “ĐÚNG BÀ TA RỒI!!”

“Ai cơ?” Walter hỏi.

“MỤ ĐÀN BÀ ĐÓ!” Arthur nói, chỉ vào con Roger vẫn đang vẫy đuôi lia. “Mụ đàn bà ở cùng lão ấy, ông biết mà ... Bob Dole! Chính mụ vợ lão!”

Walter nhìn Arthur, rồi nhìn Roger, rồi lại nhìn Arthur. “Ông nghĩ nó là Elizabeth Dole?”

“PHẢI!” Arthur nói. “BẢ CHỚ AI NỮA!” Lão đang nhìn thẳng vào mụ ta, và mụ ta đích thị là Elizabeth Dole, người đàn bà luôn gây nên cho lão một nỗi khiếp sợ mơ hồ. Mụ đang ở ngay trước mặt lão, trên thềm nhà này. Nhưng cùng lúc đó mụ lại không phải Elizabeth Dole. Mụ có gương mặt của Elizabeth Dole với mái tóc chải chuốt kỳ khu, song ở vào chỗ đôi mắt mụ là hai quả cầu bỏng rực một màu đỏ tà ác, còn răng cộ của mụ thì to và nhọn hoắt như của loài dã thú. Và mụ đang chóp chép thức ăn cho chó mèo. Arthur biết – lão biết – rằng đó là Elizabeth Dole trong hình hài một con quỷ, và mụ đến đây để cướp lấy linh hồn lão.

“CÚT ĐI!” Arthur hét vào con quỷ Elizabeth Dole. Mụ ta trừng trừng nhìn lão, cặp mắt mụ lóe sáng, cái đuôi quỷ ngúc ngoắc liên hồi. Mụ há cái mồm với những chiếc nanh sắc nhọn và bắt chuyện với lão, gọi tên lão bằng một giọng nghe rợn tóc gáy.

“Herk!” Elizabeth Dole nói. “Herk! Herk!”

“KHÔNG!” Arthur hét, điên cuồng giãy giụa mặc cho bàn tay bị cùm, cố bò lui lại. “KHÔNG!”

“TỐP NGAY!” Walter quát. “Nó là một CON CHÓ, quỷ thần ơi!” Không có phản ứng nào từ Arthur, ánh mắt lão khóa chặt vào Roger và miệng lão lầm bầm rên rỉ. Tệ hơn, lão đang khởi sự sùi bọt mép. Walter biết không còn hi vọng gì được trợ giúp, nắm lấy cái kệ audio và ra sức dựng nó lên, với sinh vật mang tên Arthur ở đầu bên kia. Hắn hừ hự giở nó lên vỏn vẹn ba tấc, chỉ để buông ra ngay khi nghe một giọng nói vang lên sau lưng.

“Anh vẫn ổn chứ sĩ quan?”

Walter quay phắt lại và thấy hai gã vận com lê, một cao một thấp, đang đứng trong một cái lỗ toang hoác đã từng là tấm cửa kính.

“Các ông là ai?” hắn cất tiếng hỏi.

Người cao xòe cái ví đựng phù hiệu ra.

“FBI,” y nói. “Tôi là Đặc vụ Pat Greer. Còn đây là Alan Seitz.”

“Tạ ơn trời đất,” Walter thở phào. “Nghe này, tôi cần ông ...”

“Bọn tôi đang tìm một người có tên Arthur Herk,” Greer nói.

“Ông ta đó,” Walter chỉ vào Arthur. “Nhưng nghe này, tôi cần ông ...”

“Bây giờ không tiện,” Greer phẩy tay.

“Nhưng cộng sự của tôi đang ...”

Đã nói là bây giờ không tiện,” Greer nghiêm giọng.

Walter tức ứa ruột ứa gan, nhưng xét tình hình bản thân đang bị xích, và mấy cha này là FBI, hắn nghĩ nên tạm thời ngậm mồm thì hơn.

Greer xán lại chỗ Arthur, lão vẫn đang nhìn châm bẫm con Roger. Sau khi xơi tái những hạt hạ nguyên tử cuối cùng của chỗ thức ăn rơi vãi, nó đang liếm lên mặt đất nơi chúng từng hiện diện với một vẻ thành kính.

“Ông Herk,” Greer nói.

Arthur chầm chậm quay đầu về phía Greer. Đồng tử của lão giờ có kích cỡ của một đồng xu.

“Ông Herk này,” Greer nói, “Tôi ở bên FBI, và tôi cần ông cho biết cái va-li đang ở đâu.”

Arthur mở miệng, một suối dãi ngầu bọt tràn xuống cổ áo lão.

“Ông Herk,” Greer nói, “ông nghe tôi chứ? Chuyện này quan trọng lắm.”

Arthur chầm chậm khép miệng, rồi lại mở nó ra và nói, “Bả muốn linh hồn tôi. Đừng để bả cướp linh hồn tôi.”

“Đừng để ai cướp linh hồn ông?” Greer hỏi.

“Bà ta,” Arthur chỉ vào Roger. Roger phe phẩy đuôi đáp lại.

“Con chó hả?” Greer nhíu mày.

“Ổng nghĩ con chó là Elizabeth Dole,” Walter cắt nghĩa.

“Trời đất,” Greer xoa mặt. Y hỏi Seitz, “Anh nghĩ sao?”

Seitz nhìn vào cặp mắt hãi hùng của Herk. “Hắn bay rồi,” y nói, “và chắc cũng còn lâu mới về lại trái đất.”

Greer quay sang Walter, “Nghe này, chúng tôi có lí do để tin rằng ông Herk đã giữ một cái va-li, có thể bằng kim khí, khá nặng. Anh có thấy nó không?”

Walter nghĩ ngợi một chặp. “Có,” hắn nói, “bọn chúng có một cái va-li. Chúng đem nó đi rồi.”

“Chúng là ai?” Greer hỏi, dù y khá chắc mình đã biết qua lời kể của John.

“Một thằng cô hồn nào đó, gọi là “Snake,” Walter nói. “Nó và một thằng cô hồn khác đã ở đây từ trước khi chúng tôi đến, tôi và cộng sự của tôi ấy. Nó có súng, bởi vậy nên ... Ý tôi là, chúng đã phủ đầu bọn tôi. Chúng bắt cô con gái của gã này” – hắn chỉ Arthur – “và một tên lùn râu ria. Tên lùn xách va-li. Chúng lấy xe của bọn tôi. Cộng sự của tôi đuổi theo chúng với bà vợ của gã này.”

“Chúng đi đâu biết không?” Greer hỏi.

“Sân bay,” Walter nói. “MIA. Thằng cô hồn nói nó phải bắt một chuyến bay.”

“Nó có nói đi đâu không?” Seitz hỏi.

“Không,” Walter nói. “Thú thực là Monica, cộng sự của tôi, chỉ đoán mò đó là MIA thôi.”

Greer và Seitz nhìn nhau.

“Anh nghĩ sao?” Greer nói.

“Tôi nghĩ ta nên đến MIA,” Seitz nói.

“Tôi cũng nghĩ thế,” Greer nói, đoạn vỗ vai Walter, “Trông chừng gã này dùm bọn tôi nghen.” Đoạn y quay gót bước đi.

“Ơ kìa!” Walter thốt lên. “Ông đâu thể để tôi ở đây như vầy!”

“Anh thông cảm cho,” Greer nói, “chúng tôi đang gấp lắm.”

“NHƯNG TÔI LÀ MỘT SĨ QUAN CẢNH SÁT,” Walter nói.

“Tôi biết chứ,” Greer dìu giọng. “Anh thậm chí còn là một cảnh sát kỳ tài nữa kia, bởi tôi không tìm thấy cách nào khác để cắt nghĩa chuyện anh đang bị xích vào một cái kệ audio, chung với một cha nội nhìn con chó thành Elizabeth Dole. Nhưng bọn tôi cần phải lên đường ngay lập tức, ở lại mạnh giỏi nghen.” Dứt lời, y và Seitz thoăn thoắt rảo bước vô nhà.

“QUAY LẠI ĐÂY COI! BÀ MẸ NÓ!” Walter hét với theo.

Arthur vẫn nhìn Roger chăm chăm, miệng lảm nhảm: “Bả sẽ đưa tôi đi, bả sẽ đưa tôi đi.” Thình lình, lão quay sang Walter. “Rồi bả sẽ đưa ông đi luôn.”

“Herk! Herk!” giọng Elizabeth Dole lanh lảnh.



“QUẸO TRÁI MAU!” Snake quát. “Bộ đéo thấy cái bảng hả mày?”

Chiếc xe nhà nước giặc lái đang tiến về hướng bắc Le Jeune Road, trên làn ngoài cùng bên trái. Eddie nội lo nhìn đường cũng đủ mụ người, sức mấy để ý đến tấm bảng Miami International Airport. Nó đánh lút vô-lăng sang phải, lao xẹt qua ba làn giao thông, tạt đầu một chiếc taxi phanh gấp khiến bánh xe của nó nghiến đường ren rét. Chiếc taxi lạng vào phần đường của một chiếc bán tải Ford 1963 cọc cạch đang chở theo một thùng gỗ lớn. Chiếc bán tải huých vào sườn chiếc taxi, liểng xiểng về phía trước vài mét trước khi tốp hẳn, khói bốc mù mịt. Cú va chạm khiến thùng gỗ lật khỏi khoang xe và đáp xuống Le Jeune Road, nơi nó bị một con Toyota Tercel quẹt qua làm bật nắp, phóng thích những tù binh bên trong: tám con dê. Phần số của bầy dê này đã được định đoạt để rao bán ở Hialeah, hầu để sử dụng trong các nghi lễ hiến tế của các tín đồ giáo phái Santeria, song giờ đây chúng đang là những con dê tự do, thảnh thơi dạo bước giữa dòng xe cộ tấp nập huyên náo.

Chẳng mảy may hay biết sự hỗn loạn chính mình châm ngòi ở phía sau, Eddie ngoặt xe vào đoạn đường dẫn vô sân bay, mắt nó hoa lên trước cả một đoàn diễu hành những bảng chỉ dẫn. Nào điểm đỗ xe, nào điểm trả xe thuê, nào nhà ga sân bay, và hà rầm những thứ mà Eddie chẳng có chút khái niệm nào.

“Đi đường nào tiếp hả mày?” nó hỏi.

Coi, thằng Snake cũng đi máy bay mấy đâu mà kêu nó bày. Nó căng mắt điều nghiên những bảng chỉ dẫn, hòng tìm ra thứ gì có dây mơ rễ má với Bahamas. Chẳng thấy gì.

“Thì cứ đi tiếp,” nó nói.

“OK,” Eddie nói, “có điều tới đây nó bắt mình phải chọn một trong hai, Cửa Đến hoặc Cửa Khởi Hành.”

Với Snake, đó chẳng khác nào một câu hỏi bẫy. Một mặt, nó nghĩ nên chọn Cửa Đến, bởi tụi nó đang đến sân bay còn gì. Một mặt, nó lại đang muốn khởi hành từ sân bay, nên chắc Khởi Hành mới đúng quá. Snake định hỏi con nhỏ, nhưng làm vậy khác nào tự nhận mình dốt, huống hồ nhìn con nhỏ hồn xiêu phách lạc tới nơi rồi. Sau cùng, nó bèn quyết định năm ăn năm thua.

“Khởi Hành,” nó nói.

“Khởi Hành bên này,” Eddie nói và xoay vô lăng.



KHI THÁM TỬ Harvey Baker đến địa chỉ nhà Herk, ông thấy cái cổng vào nằm vắt ngang vỉa hè, và không có bóng dáng chiếc xe cảnh sát nào. Ông đỗ xe trên đường cái rồi lẹ làng rảo bước về phía ngôi nhà. Cửa trước đã mở sẵn. Ông dừng trên bậc tam cấp một chặp và nghe ngóng; có tiếng bước chân hướng về phía ông từ trong nhà. Rút khẩu súng giắt ở vai ra, ông nép mình qua một bên cửa và chờ đợi. Hai người đàn ông phới ra từ căn nhà, bước đi gấp gáp.

“Đứng lại,” Baker nói. “Cảnh sát đây.”

Hai người đàn ông khựng lại và cùng quay về phía Baker. Người cao lêu ngêu thở dài.

“Bọn tôi là FBI,” y nói.

“Chứng minh được không?” Baker hỏi.

“Được chứ, nếu ông cho phép tôi lấy phù hiệu ra,” Greer nói.

“Từ từ thôi nghen,” Baker nói.

Greer rút cái ví đựng phù hiệu và xòe nó ra. Baker nhìn qua rồi tra súng vào bao.

“Tôi là Thám Tử Harvey Baker, Sở Cảnh Sát Miami,” ông nói.

“Tôi là Đặc vụ Greer,” Greer nói. “Đây là Đặc vụ Seitz. Thôi hẹn ông thám tử bữa nào rảnh nói chuyện chơi, giờ bọn tôi phải đi gấp.”

“Cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra được không?” Baker hỏi.

“Thú thật là,” Greer chắt lưỡi, “không.”

Greer và Seitz khởi sự rảo bước. Baker rượt theo họ.

“Này, chờ chút đã,” ông gọi.

“Một chút cũng không có ông ơi,” Greer ngoái cổ nói.

Baker chụp tay Greer kéo lại.

“Không có thì làm cho có,” Baker trừng mắt.

“Thám tử ơi,” Greer nói. “bọn tôi đang xử lí một vấn đề cấp liên bang cực kì nghiêm trọng, rất tiếc nhưng bọn tôi không có thì giờ để giải thích cho ông.” Dứt lời y và Seitz quay ngoắt lại và hối hả bước tiếp.

“Dừng lại ngay,” Baker nói.

Greer và Baker ngoái đầu và ngừng bước, bởi Baker lại lôi súng ra khè nữa.

Greer lắc đầu, “Ông đang phạm sai lầm lớn đấy, Thám tử.”

“Nghe đây,” Baker nghiêm giọng. “Các ông tới đây làm gì tôi không biết. Nhưng tôi tới đây bởi đã cắt cử hai sĩ quan tới đây, và họ vẫn bặt vô âm tín. Và khi tôi đến nơi thì thấy gì? Cổng bị phá, cửa nẻo hoang hoác và hai ông xuất hiện. Tôi muốn biết rõ sự tình, ngay tức khắc. Thử thiên cơ bất khả lộ nữa coi, tôi câu lưu các ông liền, chừng ấy thì tha hồ mà móc cái vấn đề liên bang nghiêm trọng từ đít mấy ông ra mà ngửi.”

Greer liếc nhìn Seitz. Seitz nhún vai chiếu lệ.

“OK,” Greer nói. “Bọn tôi cho ông biết cũng được. Nhưng là trên đường ra sân bay. Ông có thể đi cùng bọn tôi.”

“Thuộc cấp của tôi đang ở sân bay ư?” Baker hỏi.

“Một người thôi,” Greer nói. “Người mà ông nên quan tâm ấy.”



CON KIA, VỚI Monica sau tay lái, đang phi về hướng bắc Le Jeune Road với vận tốc 128km/h, gần gấp đôi tốc độ qui định. Monica bấm còi như ma làm và sổ toẹt mọi thể loại tín hiệu giao thông. Matt ngồi cạnh cô với hai bàn chân như được đóng cứng trên sàn, cố làm mặt lạnh dù đang sợ chết khiếp. Dưới băng sau, Nina đang chắp tay cầu nguyện bằng tiếng Tây Ban Nha, trong khi Anna run rẩy trong từng tiếng nấc. Eliot đánh bạo choàng tay lên vai nàng, tự hỏi liệu có phải mình đang thừa nước đục thả câu không.

“Con bé sẽ ổn thôi mà,” anh cố trấn an nàng.

“Anh không biết đâu,” Anna rấm rứt nói. “Tại anh chưa thấy thằng đó đấy thôi, nó ... nó ...” Anna cạn lời, tưởng tượng thằng Snake đang đặt bàn tay của nó lên Jenny.

“Tụi nó không đi xa được đâu,” Eliot nói, cảm thấy áy náy khi một phần não bộ anh đang thừa nhận rằng thật thích khi được choàng vai nàng. “Mình ở thành phố kia mà,” anh nói tiếp, “cảnh sát có mặt khắp nơi.”

“Ảnh nói đúng,” Monica tiếp lời, ôm cua rộng để vượt mặt một chiếc buýt. “Cộng sự của tôi sẽ báo cáo, và tụi nó sẽ bị tóm gọn ngay cái lúc đặt chân đến sân bay.” Cũng mong là vậy, cô nói thêm với chính mình. Cô tự hỏi liệu mình có quá tự tin về việc Walter có thể tự giải thoát, hoặc đáng ra cô nên tự mình phôn về sở. Cô cũng tự hỏi liệu mình có đúng về vụ sân bay không.

“Có ai đem điện thoại di động không?” cô hỏi.

“Tôi có, nhưng không cầm theo,” Anna nói. “Chi vậy?”

“Thôi khỏi,” Monica nói. “Đằng nào cũng gần đến sân bay rồi. Mình có thể phôn từ ... bà mẹ nó.”

Giao thông phía trước đang tắc nghẽn. Bà con nháo nhác ra khỏi xe, kiễng chân rướn cổ tìm hiểu nguyên nhân kẹt. Có khứa còn trèo lên mui xe để quan sát cho dễ. Ở trước nữa, giữa khoảng trống của những xe cộ, một hình thù thấp và đen sì thoắt ẩn thoắt hiện, và một người đàn ông đang hớt hải rượt theo nó.

Matt cất lời, Đó là một con dê?”



CHIẾC XE TUẦN tiễu chậm rãi lăn bánh giữa dòng xe cộ trên lòng đường cạnh nhà ga Sân Bay Quốc Tế Miami. Snake cố đọc hiểu những biển thông báo với hàng loạt tên gọi hàng không bí hiểm – TAM, LTU, Iberia, KLM, BWIA, Lacsa – không gì trong số đó gợi lên chút manh mối nào, ít nhất là với Snake, về nơi mà bọn chúng sẽ đến.

Snake nhác thấy một đoạn lề đường trống trải ở phía trái, cạnh bên một gara đang thi công. Công trình này đáng lý phải được hoàn thành từ một năm trước, song le nhà thầu của nó lại là Pennultimate, Inc., nên chẳng lạ khi tiến độ thi công kéo dài mút chỉ và chi phí đội lên chót vót. Nguyên do là những mảng miếng của công trình – Pennultimate đổ lỗi cho các nhà thầu phụ tắc trách – cứ lụi đụi rớt miết. Lối vào gara bị phong tỏa bởi những ba-ri cũng do Pennultimate cung cấp nốt, với giá mỗi ba-ri cao gấp ba lần so với giá ngoài thị trường.

“Tấp vô kia,” Snake biểu Eddie, chỉ về phía lối vào gara.

Eddie tấp xe đến trước một ba-ri. Nó ngoái cổ nhìn Snake dò hỏi.

“Còn ngó cái gì nữa, dẹp cái đó rồi lái vô trong coi,” Snake nói.

Còn hơi sức nào tranh cãi với Snake, Eddie dời chỗ ba-ri, cho chiếc xe tuần tiễu vào trong cái ga-ra dang dở thiếu sáng, rồi nghĩ sao đó nó bỗng mở cửa chui ra khỏi xe. Trong một khoảnh khắc khi đứng đó, nó đã tính chạy luôn, ý nghĩ đó vụt biến khi nó bắt gặp ánh mắt Snake đang chĩa vào mình qua cửa sổ hậu. Nó ngán ngẩm trở vô xe.

“Đưa tao cái áo nỉ của mày coi,” Snake nói.

Eddie toan nói gì đó rồi lại thôi, quày quả cởi áo nỉ của nó ra. Chiếc áo xanh thưở nào nay tuyền một màu bụi than, dưới đó là cái áo thun một thời màu trắng, nay là màu gì không thể gọi tên. Nó đưa cái áo nỉ cho Snake, Snake phủ cái áo lên khẩu súng đang nắm trong bàn tay phải. Với bàn tay trái, nó ấn đầu Jenny xuống cho tới khi cặp mắt cô ngang hàng với họng súng.

“Em bé thấy khẩu súng này chứ?” nó hỏi.

Jenny gật đầu.

“Ra khỏi xe là nó sẽ thường trực chĩa vô bé. Bé làm gì ngu xuẩn, bất cứ gì, anh đục lỗ trên người bé liền. OK? Rõ chưa?” Nó bấm mạnh vào gáy cô.

Jenny nhăn nhó gật đầu.

“Giỏi lắm bé ngoan,” Snake hỉ hả.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
MƯỜI




“Tôi đang nghe đây,” Baker lên tiếng từ băng sau một chiếc xe thuê. Lầm lì như một cặp quạ ở mặt trước là Seitz và Greer, Seitz cầm lái.

“OK,” Greer nói, “bởi ông là cảnh sát và lính của ông trót dính vô vụ này, nên tôi sẽ cho ông biết. Nhưng sau đó tôi buộc phải thủ tiêu ông.”

“Ha ha,” Baker mỉa.

“Ờ, ha ha,” Greer nháy mắt với Seitz. “Dù sao, thứ chúng tôi đang tìm là một cái va-li, bằng kim khí, tương đối nặng.”

“Nó thì liên quan gì đến nhà Herk?” Baker hỏi.

“Bọn tôi nghĩ cái va-li ở đó vào tối nay. Hai thằng cô hồn đã mang nó đi và nhiều khả năng chúng đang ra sân bay, cùng hai con tin, một trong số đó là ái nữ nhà Herk. Và chúng đang đi trên một chiếc xe cảnh sát, chắc vậy.”

“Gì cơ?” Baker tròn mắt. “Thế còn các cảnh sát?”

“Một người, tôi nghĩ tên cô ấy là Monica, hiện đang ra sân bay trong một chiếc xe của dân, đi chung với dân luôn,” Greer nói.

“Trời đất,” Baker vỗ trán. “Còn người kia?”

“Người kia ở lại nhà Herk, bị còng vào một cái kệ audio, cái kệ thì bị còng vào Arthur Herk.”

Baker chồm lên và nắm lấy vai Greer. “Đừng nói là,” ông nói, “chúng ta bỏ rơi một sĩ quan cảnh sát đang lâm nạn?”

“Đừng nóng,” Greer chắt lưỡi, gỡ tay Baker ra. “Anh ta ổn. Không đi đâu được, nhưng còn khỏe ru, và anh ta đang giúp chính quyền liên bang bằng việc giữ chân một đối tượng tình nghi buôn lậu vũ khí.”

“Vũ khí?” Baker nhíu mày. “Đó là thứ trong va-li?”

“Chúng tôi nghĩ vậy,” Greer nói.

“Ý ông là súng?” Baker hỏi.

“Súng được cũng mừng,” Seitz chép miệng.

“Thú thực với ông,” Greer tiếp lời, “bọn tôi không dám cả quyết trong va-li đó có gì. Nhưng bọn tôi có một suy đoán rất có cơ sở mà rủi nó đúng, thì sống chết gì cũng phải mau mau lấy được nó, trước khi có thằng ngu nào đốc chứng nghịch bậy.”

“Nghe như nó đã rơi vào tay bọn ngu nào rồi,” Baker bình luận.

“Thì bởi,” Greer nói, “thế nên bọn tôi mới hi vọng đây là một cái va-li khác. Nhưng tôi không nghĩ vậy.”

“OK,” Baker nói, “cứ cho đúng là cái va-li ấy đi, rốt cuộc có thứ gì trong đó?”

Greer xoay người lại trên ghế, nhìn thẳng vào mắt Baker.

“Một thứ tệ hại,” y nói.

“Tệ hại cỡ nào?” Baker hỏi.

“Cực kì, cực kì tệ hại,” Greer nói.

“Các ông có làm quá không đấy?” Baker phẩy tay. “Thì nó ở trong một cái va-li chứ gì, tệ là tệ đến đâu được? Có phải ta đang nói về bom hạt nhân đâu nào, đúng không?”

Greer nhìn ông đăm đăm.

“Đúng không?” Baker lại hỏi.

Ánh mắt Greer lạnh như băng.

“Hượm đã,” Baker chợt hạ giọng. “Đừng nói là ... Ông đang đùa thôi đúng không?” Ông đưa ánh mắt cầu cứu qua Seitz, “Ông ấy đang đùa thôi đúng không?”

“Đùa được cũng đỡ,” Seitz thở dài.



PUGGY THỞ PHÀO khi chiếc xe tuần tiễu sau rốt cũng ngừng hẳn. Những cú xóc nảy hà rầm, thêm việc phải chia sẻ chỗ nằm với cái va-li trong thùng xe nóng hầm hập khiến Puggy sây sẩm. Niềm vui thoáng qua khi nắp thùng được giở lên bị đánh bật tức khắc khi cái mặt thằng Snake hiện ra.

“Thấy cái này chớ, thằng bú dù?” Snake hỏi, hươ hươ khẩu súng trước mặt Puggy.

Puggy gật đầu, nghĩ bụng chưa gặp ai thích khoe súng như thằng này.

“Tao để nó ngay dưới đây nghen,” Snake phủ cái áo nỉ của Eddie lên bàn tay cầm súng. “Nó chĩa vào mày suốt lượt. Trái lệnh tao, mày biết chuyện gì sẽ đến chớ?”

Puggy lại gật đầu.

“Chuyện gì sẽ đến, thằng bú dù? Nói coi. Nói coi chuyện gì sẽ đến.”

“Ông sẽ bắn tui,” Puggy nói.

“Chính xác,” Snake reo lên, cảm thấy tâm đắc với màn đối thoại ấy. “Tao sẽ bắn mày. Giờ trèo ra rồi xách va-li đi, lẹ!”



TRÊN GHẾ TRƯỚC con Kia, Matt nhắm nghiền mắt. Dưới băng sau, Eliot vòng tay quanh Anna; trong khi Nina đang nhìn xuống hai bàn tay và lầm rầm cầu nguyện.

Họ đang Bắc tiến trên làn xe Nam tiến trên Le Jeune Road. Đây không phải chuyện vô tiền khoáng hậu ở Miami, song cũng không tới nỗi thường tình, và bà con lái xe thuận chiều không mấy vui vẻ với chuyện đó. Gương mặt như hóa đá bởi sự tập trung cao độ, Monica trổ tài lạng lách đánh võng trước đàn xế đang ào ào lao đến, còi ré dồn dập nổ não. Ngay khi vừa băng qua hai cái xác nhàu nhĩ của chiếc bán tải và chiếc taxi, nơi hai bác tài đang chửi nhau bằng hai ngôn ngữ khác nhau, Monica đánh lút vô lăng sang phải, con Kia cưỡi lên một dải phân cách thấp và xẹt như sao chổi qua ba làn xe, vào đến đoạn đường cửa ngõ sân bay.

“Đừng méc ai nhen,” Monica bỏ nhỏ.

“Em có thấy gì đâu,” Matt nói, mà nó nói thiệt.



“TIN NỔI KHÔNG trời,” Henry nói, đánh tay chạch chạch lên vô-lăng. Phía trước chiếc xe thuê, và giờ ở cả phía sau nó, xe cộ trên Le Jeune Road nằm rũ la liệt như những con ruồi mắc bẫy.

“Thấy được gì không?” Leonard hỏi, căng mắt nhìn qua tấm kính chắn gió.

“Hình như kẹt đâu trên chỗ mấy ánh đèn kia,” Henry nói. “Đang um xùm gì trên đó không biết. Để bật đài nghe thử.” Hắn bấm nút bật radio.

... nói nãy giờ không hiểu hả? Tôi đang nói là khi họ thua – không chỉ trận này, không chỉ tối nay, mà là khi họ chơi và THUA – bọn Cá Sấu Mỹ im hơi lặng tiếng hết.

Nữa, ông mới không chịu nghe. Tôi đang nói nhân danh một Cá Sấu Mỹ đây, và tôi đang gọi điện cho ông đây, OK? Tôi đang nói chuyện trên điện thoại ...

Thở ra một tiếng nẫu ruột, Henry bấm tắt radio.

Đằng sau chúng là tiếng còi xe inh ỏi. Đằng trước chúng là tiếng la hét rần rần. Thốt nhiên, một hình thù thấp và đen nhẻm vụt ngang qua xe chúng.

“Làm ơn đừng nói tao vừa nhìn thấy cái đó,” Leonard ú ớ. “Làm ơn đừng nói tao vừa nhìn thấy một con dê khốn kiếp.”



“OK, ÔNG HERK,” Walter nói. “Ta cần phải hợp tác, cần phải kéo thứ này từ nhà ra đường cái, OK? Đó là cách duy nhất để cứu chúng ta. OK? Ông Herk?”

Arthur lừ đừ đưa mắt từ Roger sang Walter. Hai mắt lão lúc này chỉ toàn tròng đen; đờm dãi lênh láng trên cằm lão.

“Nói bả hãy để tôi yên,” lão rên rỉ.

“Nghe tôi này,” Walter nói. “Ông cần phải nghe tôi. Đó là một con chó, OK? Một con chó. Và ta dám ở đây nguyên đêm lắm, nếu ông không ...”

“Nói bả hãy để tôi yên.”

“Nghe này,” Walter van vỉ, “ta cần phải ...”

“NÓI BẢ HÃY ĐỂ TÔI YÊN!” Arthur hét lên.

Walter lờ mờ nhận ra, để Arthur chịu giúp thì chỉ còn nước phải chơi nhập vai với lão. Hắn thở dài, đoạn ngúc ngoắc một ngón tay về phía Roger và nói, “Hãy để ông ấy yên.”

Roger khấp khởi ngóc đầu lên, phỏng chừng Walter gọi đến để cho ăn.

“Ông phải gọi tên bả, bả mới chịu,” Arthur nói.

“Lạy Chúa,” Walter quệt mồ hôi.

“TÊN CỦA BẢ ĐÓ!” Arthur hét.

Walter thở dài, đoạn nói với Roger, “Hãy để ông ấy yên đi, Bà Dole!”

Sung sướng vì được chú ý, Roger cấp kì chạy lại và nhảy phóc lên người Walter, cấu hai chân trước vào ngực hắn.

“BẢ MUỐN LẤY HỒN ÔNG RỒI!” Arthur rú lên.

“Xuống mau!” Walter la hoảng. “Xuống mau, Bà Dole!”



“MỘT QUẢ BOM hạt nhân? Trong một cái va-li?” Harvey Baker thốt lên.

“Phải,” Greer nói.

“Tôi tưởng bom hạt nhân phải to lắm chứ,” Baker nhớ lại đoạn phim thời sự cũ về quả bom Hiroshima, trông nó như một chiếc tàu ngầm nhỏ.

“Đâu phải cái nào cũng vậy,” Greer nói.

“Quỷ thần ơi,” Baker xoa mặt. “Nó từ đâu ra? Nó làm quái gì ở đây chứ?”

“Kể hết chắc tới sáng,” Greer nói. “Tôi sẽ cố tóm tắt. Ừm ... từ đâu ra hả? Từ Nga ra. Quốc gia này có những tên lửa hạt nhân còn sót lại từ Chiến Tranh Lạnh, OK? Lủ khủ tên lửa. Theo một hiệp ước mà tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết, người Nga có trách nhiệm giải trừ những quả tên lửa này, gọi là vô hiệu hóa ấy. Vấn đề là, có rất nhiều bộ phận trong một quả tên lửa – con quay hồi chuyển này, bộ chỉ báo vị trí này, máy gia tốc này ...”

“Gia tốc kế chứ,” Seitz chỉnh lại.

“Thứ lỗi cho tôi, ngài Wernher von Braun,” Greer cười lạt. “Dù sao, những bộ phận này hết sức cần thiết nếu ông là một tay anh chị quốc tế tép riu, như Saddam Hussein, tìm cách sở hữu tên lửa hạt nhân để vươn mình thành một tay anh chị quốc tế sừng sỏ. Kiểu như có được Cửu Âm Chân Kinh vậy đó. Rất nhiều kẻ thèm khát các bộ phận ấy.”

“Thế chính phủ Nga không có, ờ, biện pháp kiểm soát chúng ư?” Baker hỏi.

“Họ có chớ,” Greer cười nhạt. “Cũng như cách Miami kiểm soát tụi thanh tra xây dựng khỏi ăn hối lộ vậy đó.”

“Chuyện đó khác,” Baker xua tay. “Ba cái trò tháu cáy đó nói chi. Ông đang nói về tên lửa hạt nhân kia mà.”

Seitz khịt mũi. “Khác mỗi chuyện tiền nhiều tiền ít thôi ông ơi.”

“Dù sao,” Greer tiếp tục, “bộ phận đáng sợ nhất của một quả tên lửa, cố nhiên là đầu đạn, thứ sẽ phát nổ ấy. Và người Nga để mắt đến chúng tương đối chặt.”

“Tương đối chặt ư?” Baker hỏi.

“Ừ,” Greer chép miệng. “Nói cách khác, là không đủ chặt. Tầm hai năm trước, một thằng nào đó đã vớ được hai đầu đạn, chúng tôi vẫn không biết nó làm bằng cách nào, từ một cơ sở tháo dỡ tên lửa ở nơi có tên là, ừm ...”

“Sergeyev Posad,” Seitz nói. “Không xa Moscow lắm. Tên cũ là Zagorsk. Có những nhà thờ rất đẹp.”

“Cảm ơn ngài Michelin,” Greer nói. “Vậy là, thằng này sở hữu những đầu đạn tên lửa, những thứ sau đó biệt tăm biệt tích, không ai biết ở chân trời góc bể nào. Rồi đùng cái, một em xuất hiện ở – đoán coi ở đâu – vùng Trung Đông, chính xác là Jordan.”

“Trời,” Baker nói.

“Phải đó,” Greer gật gù. “Chỉ có điều bấy giờ, cái đầu đạn đã được độ lại bởi một kẻ lành nghề. Giờ thì nó được cất trong một va-li bằng kim khí. Một gã khỏe mạnh có thể mang nó. Ông đặt nó ở đâu đó, cài hẹn giờ kích nổ. Tới đúng giờ là bùm, cả trung tâm thành phố được dọn sạch trong tích tắc. Khiến Oklahoma City trông như một lễ hội pháo hoa.”

“Từ một thứ to bằng cái va-li ư?” Baker hỏi.

“Bộ phận cốt tử của đầu đạn nhỏ hơn nhiều so với một cái va-li,” Greer nói. “Nhìn nó hơi giống cái máy nghiền rác nhà bếp. Cái va-li nặng là nặng ở chỗ thuốc nổ thông thường để kích hoạt đầu đạn ấy. Thuốc nổ được kích hoạt bởi một kíp nổ có chế độ hẹn giờ, vốn chả phải thứ ghê gớm gì, ra cửa hàng điện tử kêu cái là có à. Nhưng coi nhỏ mà có võ nghen, mà không phải võ thường, anh bạn này mà gầm một cái là mọi nhà lầu thành đất cát hết. Nó có thể chiên giòn hai đồng tử của ông từ khoảng cách mười dặm.”

“Và theo lời ông, cái va-li còn lại đang ở đây, tại Miami?” Baker hỏi.

“Điều tôi đang nói là,” Greer nói, “khi họ tìm thấy đầu đạn thứ nhất trong một cái va-li, nó nằm trong tay những kẻ không phải fan cứng của Hoa Kỳ. Bọn này đã bị bắt nhốt.”

“Bởi ai?” Baker hỏi.

“Chuyện đó thì tôi không thể cho ông biết,” Greer lắc đầu, “trừ việc họ không mất nhiều thì giờ để tư vấn cho nghi phạm về những quyền Miranda của chúng.”

“Bọn Israel,” Baker nói.

Greer gật đầu. “Nói rồi, tôi không thể cho ông biết,” y tiếp lời, “Chỉ nói sơ là bọn họ cực giỏi trong việc cạy miệng những thằng không thích nói chuyện. Và thông tin họ lấy được là cái va-li còn lại sẽ du hành đến New York City, nơi nó sẽ được tiếp nhận bởi một Tín Đồ Đích Thực. Thằng này sẽ bày tỏ đức tin của mình bằng cách biến Quảng Trường Thời Đại và khu vực lân cận thành bụi phóng xạ.”

“Cũng không phải tổn thất quá lớn,” Baker bình luận.

“Ầy, nó coi được hơn nhiều rồi,” Seitz nói. “Người ta mới trùng tu đó ông.”

“Dù sao,” Greer hắng giọng, “kẹt cái là bọn tôi vẫn chưa biết khi nào và bằng cách nào cái va-li đến được New York. Song thằng Tín Đồ Đích Thực thì bọn tôi biết, và đã giám sát nó kĩ lưỡng. Nó đã nằm trong rọ rồi. Ngày nó địt mấy lần bọn tôi cũng biết. Thành thử khi nó đang trên taxi ra sân bay Kennedy, cố nhiên bọn tôi đang canh me nó. Ấy vậy mà, đoán coi, một thằng Mật Vụ ngu dốt từ một cơ quan liên bang tôi không tiện nêu tên ở đây, trừ việc nó được viết tắt là C, I, và A ...”

“Cái tụi đéo có quyền hạn gì ở đây,” Seitz lưu ý.

“... vốn dĩ, như Rehnquist Công Lý vừa nêu, đéo có quyền hạn gì ở đây,” Greer nói. “Tụi đầu bò đó lại còn, tẩm ngẩm tầm ngầm, theo dõi thằng Tín Đồ Đích Thực nữa mới chết. Chúng nghĩ nó sắp cao chạy xa bay khỏi đất nước. Thế là, trên đoạn đường vào sân bay Kennedy, chúng ép chiếc taxi lên lề, rồi bắt giữ thằng đó nhân danh thứ chúng gọi là Hoạt Động Mật.”

“Cũng mật như văn nghệ giờ giải lao trận Super Bowl,” Seitz phụ họa.

“Vậy là bọn tôi ở đó,” Greer chắt lưỡi, “đần mặt ngó ra từ cái nhà ga sân bay trời đánh, cố kiềm chế để không bắn bỏ tụi chọc gậy bánh xe đúng ra phải ở phe mình ấy. Và cố nhiên giờ thì Tín Đồ Đích Thực hết cửa chỉ đường chỉ chỗ. Bọn tôi lùng sục khắp cửa đến sân bay, cóc thấy gì. Tôi đoán dù thằng nào cầm va-li nó cũng đã thấy có động, mà động nào vô đây ngoài mấy cha Mật Vụ nữa, nên chắc mẩm nó đã đánh bài chuồn. Bọn tôi rà soát xung quanh, đồ rằng nó đã bắt taxi từ Kennedy đến La Guardia, nhảy lên một chiếc máy bay, phới khỏi New Yor để tới ... bọn tôi nghĩ là Atlanta hoặc nơi này.”

“Hoặc Houston hoặc New Orleans,” Seitz tiếp lời.

“Hoặc mấy chỗ đó,” Greer đồng ý.

“Khoanh vùng tốt gớm,” Baker nhận xét.

“Ô hay,” Greer chắt lưỡi, “Bọn tôi chỉ có một mô tả hết sức mơ hồ. Chính xác thì bọn tôi có gì hả ông? “Đó là một thằng xách va-li, hết.” Song bọn tôi đã tích cực dò la chỗ này chỗ nọ, và nghe ngóng được từ nhiều nguồn khác nhau, rằng thằng này đang sợ. Nó chỉ muốn tống quách cái của nợ đó đi và kiếm đủ tiền để về với vùng đất thánh của nó. Điều bọn tôi nghĩ nó làm là, nó đã bán rẻ cái va-li cho một tụi buôn lậu khí giới nào đó, tụi này thường chỉ buôn súng máy các thứ.”

“Chúng rinh bom hạt nhân về để tế mồ tế mả gì chứ?” Baker thắc mắc.

“Tôi nghĩ chúng cũng không biết rõ mình mua gì,” Greer nói. “Vì theo dấu vết xa nhất mà bọn tôi lần được, chúng đã bán nó cho một tụi khác, đến lượt tụi này bán nó cho mấy gã đang điều hành một cơ sở ở đây có tên là Jolly Jackal.”

“Cái quán bar đó hả?” Baker trố mắt.

“Cái quán bar đó,” Greer cười khẩy, “trữ nhiều AK-47 hơn Budweiser đó ông.”

“Ôi trời,” Baker lắc đầu. “Cái thành phố này.”

“Có điều là,” Greer hắng giọng, “bọn tôi có thể sai về tất cả chuyện này. Đây có thể là một cái va-li khác, không liên quan. Có thể là thuốc phiện, có thể là tiền giả. Vẫn có người đang truy tìm ở Atlanta, Houston, New Orleans, vài nơi khác nữa. Nhưng xét theo cuộc trao đổi chiều nay giữa chúng tôi và người quản lí quán Jolly Jackal ...”

“Người còn lâu nữa mới được quản lí thứ gì đó,” Seitz lưu ý.

“Ừ, còn lâu,” Greer đồng tình. “Dù sao, căn cứ theo cuộc trao đổi với hắn, bọn tôi nghĩ đây chính là cái va-li cần tìm, và nó đang trên đường đến MIA cùng tụi cô hồn địa phương kia.”

Baker nhích về sau băng ghế và ngó đăm đăm ra cửa sổ một hồi. Đoạn ông lại chồm tới trước và nói, “Có chỗ này tôi hơi thắc mắc.”

“Để tôi đoán nghen,” Greer nói. “Ông đang thắc mắc vì lẽ gì, nếu đoán được cái va-li rất có thể đang ở đây, tại sao bọn tôi không báo với cảnh sát, loan tin lu loa lên, sơ tán người dân các thứ. Phải vậy không?”

“Đại khái thế,” Baker nói.

“Có một số lí do,” Greer nói. “Một, tụi cô hồn này không biết, song bọn tôi đã ghìm chân chúng ở sân bay rồi.”

“Ý ông là sao?” Baker nhíu mày.

“Ý tôi là,” Greer nói, “ngay trước khi chạm trán ông, tôi đã gọi một cuốc điện thoại.” Y giơ lên một thứ mà Baker trông như một chiếc điện thoại di động, trừ việc nó dày như cục gạch, chĩa ra một ăng-ten ngắn và múp rụp. “Cho đến khi chúng tôi nói khác đi, không máy bay nào có thể cất cánh từ MIA. Không có thông báo nào hết; hành khách vẫn lên máy bay như thường, nhưng sẽ không chiếc nào nhận được huấn lệnh cất cánh.”

“Các ông làm được chuyện đó sao?” Baker hỏi.

“Làm tới đâu nữa kìa,” Greer bình thản đáp. “Tóm lại, bọn tôi đã đóng chai chúng rồi.”

“Đã vậy sao ông không cho sơ tán khu vực quanh sân bay luôn đi?” Baker hỏi.

“Đó là lí do thứ hai,” Greer nói. “Thử nghĩ xem. Nếu tin tức lan truyền, mà chạy đường nào khỏi, rằng có một quả bom hạt nhân thứ thiệt ngay giữa khu trung tâm, ông liệu coi cái thành phố này sẽ ra sao? Một cuộc di tản có trật tự? Phụ nữ và trẻ em đi trước? Bà con ai nấy bỗng bình tĩnh lạ lùng? Ông nghĩ đó là cách người dân Miami sẽ phản ứng?”

Baker mím môi suy nghĩ.

“Nói ông nghe chuyện gì sẽ xảy ra,” Greer tiếp, “ấy là mọi thằng ngu có súng trong thành phố, nghĩa là mọi thằng ngu, sẽ rần rần xách súng, nhảy vào ô tô của nó hoặc của thằng khác, và phóng như ma đuổi ra xa lộ I-95. Nội mười phút thôi là tắc đường trên diện rộng chắc, và điều diễn ra tiếp theo sẽ khiến ông thấy Iwo Jima như đang có hội hè vậy. Cả thành phố này rồi sẽ như hồi kết tiểu thuyết của Stephen King.”

“Cũng có lý,” Baker gật đầu.

“Ba là,” Greer nói, “nếu tin tức về thứ bên trong va-li truyền ra, làm gì mà nó chả đến tai của bọn ngu đang giữ va-li. Chừng nào chúng chưa biết chúng đang có gì, như lúc này đây, chúng còn chưa nghĩ đến việc dùng nó như một con bài mặc cả.”

“Bộ tụi nó biết cách khởi động ư?” Baker hỏi. “Chẳng lẽ nó không có thứ gì kiểu như, ờ, chế độ an toàn ấy?”

“Của nợ này không được chế tạo bởi người thiện lương,” Greer thở dài. “Không như phim đâu ông, gì mà tổng thống phải đọc mật mã rồi hai thằng cận vệ thân tín phải xoay các chìa khóa cùng lúc. Nó được làm ra bởi lũ mặt người dạ thú muốn gài nó ở nơi công cộng, trong một đô thị đông đúc và kích hoạt nó nhanh nhất có thể. Cái va-li này thì bọn tôi chưa dám chắc, nhưng còn cái đã tịch thu kia, dễ ợt hà. Ông chỉ cần mở nó ra, rồi bật ba công tắc điện, và chế độ hẹn giờ bốn lăm phút bắt đầu.”

“Bốn lăm phút ư?” Baker nói.

“Bốn lăm,” Greer gật đầu. “Đủ thời gian để Tín Đồ Đích Thực nhảy lên tàu điện ngầm, lên đến khu Bronx, hướng về phía bắc, vào thời điểm nó phát nổ.”

“Và bây giờ nó đang ở đây,” Baker xoa trán, đăm chiêu ngó ra cửa sổ.

“Dám lắm,” Greer nói.

“Trời ạ,” Baker lắc đầu. “Coi phim thấy mấy vụ kiểu này mình hay kêu nó dóc, nhưng tôi đoán sớm muộn gì cũng có kẻ làm thật.”

Seitz khịt mũi.

“Sao hả?” Baker hỏi.

“Bộ ông nghĩ đây là lần đầu ư?” Seitz khinh khỉnh.

Không phải sao?” Baker trố mắt.

Seitz lại khịt mũi.

“Ầy, lần bao nhiêu kệ đi,” Greer xua tay. “Giờ mới cần nghe kĩ nè. Tôi hao hơi tổn tiếng kể với ông những điều này là bởi, như đã nói, ông là cảnh sát và lính của ông trót liên can. Nhưng để tôi nói thêm, khi bọn tôi tóm được tụi cô hồn đó, bọn tôi sẽ hốt chúng, hốt cái va-li, và biến đi như chưa bao giờ đến. Hết chuyện, theo như những gì ông biết, nghe thủng chứ?”

“Nghĩa là sao?” Baker hỏi.

“Nghĩa là,” Greer nghiêm giọng, “đối với chính quyền liên bang – và tôi đang nói đến chính quyền liên bang ở cấp độ trên muôn loài ấy – thì sự vụ này không hề xảy ra. Nhớ nghen. Không có bom hạt nhân nào ở Miami. Không có bất cứ quả bom nào trong bất cứ cái va-li nào ở bất cứ nơi nào trên vùng đất vĩ đại của chúng ta. Bởi chỉ cần các con dân khởi sự nghĩ về điều đó thôi, ta sẽ có sự hỗn loạn kinh khiếp – thiên hạ sẽ tháo chạy đến Montana, tích trữ thực phẩm, hành quyết những gã râu xồm, bức tranh toàn cảnh đó. Kinh tế trôi ùng ục xuống bồn cầu, nền văn minh sụp đổ, hết phim. Nên tóm lại, chuyện này không hề xảy ra. Rõ chưa? Bất cứ chuyện gì đã xảy ra, nó đều không hề xảy ra.

Baker cự nự, “Nhưng tôi còn phải phúc trình ...”

“Phúc cái con khỉ,” Greer đanh giọng. “Ông mà khơi lại bất cứ gì về vụ này, Đặc Vụ Seitz và tôi, được hậu thuẫn bởi gần như toàn bộ chính quyền liên bang, sẽ chối bay chối biến ngay. Cứ thử thúc đẩy coi, tụi này thúc lại cho biết, mà không phải thúc vừa đâu. Nát đít đấy. Đừng nghĩ tôi ghét gì ông tội nghiệp, bởi theo tôi thấy thì ông là một cảnh sát tốt, nhưng tụi này vẫn cứ chơi cho ông mạt như thường. Đến nỗi ông có muốn xin đi canh mấy cái cầu tiêu lưu động cũng khó nữa kìa.”

Baker xịch lui trên băng ghế, lại thẫn thờ nhìn cửa sổ. Ông rụt rè hỏi, “À còn chuyện ông nói lúc nãy, về việc sau khi kể xong ông phải ... thủ tiêu tôi ấy ...”

Greer ngoái cổ nhìn ông. “Chuyện đó thì sao?”

Baker ấp úng, “Cái đó ... là nói đùa phải ha?”

Greer lại ngó ra trước. “Giao thông coi bộ xấu,” y lầm bầm.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
MƯỜI MỘT




Đến dân đi máy bay sành sõi nhất cũng dễ loạn phương hướng với Phi Trường Quốc Tế Miami. Biển người cuồn cuộn sóng sau dồn sóng trước, và hình như nó được thiết kế cốt sao cho tất thảy hành khách, dù muốn ra hay muốn vô, đều buộc phải thúc chỏ vào nhau. Nhà ga chính là sự kết hợp giữa một hội chợ quốc tế và trại tị nạn. Đủ các nhóm người tứ xứ hội tụ – các nhóm du lịch theo đoàn, đám học sinh đi dã ngoại, các ban nhạc salsa, các đội bóng đá, những đại gia đình – tất cả đang ngắc ngoải chờ những chuyến bay sẽ không khởi hành trong vài giờ, có khi là vài ngày nữa. Ghế ít mà đít thì đông, nên bà con đành nằm lăn lóc vạ vật trên mấy tấm thảm hôi rình, bao quanh là đống hành lí chất cao như chân đồi Appalachian, gồm các va-li cỡ đại chỉ chực bung ra vì nhét ráng, cùng búa xua những hàng tiêu dùng mua ở Nam Florida để chuyển ngược lại Nam Mỹ như TV, loa, đồ chơi, đồ gia dụng và lốp xe nguyên bộ. Nhiều món đồ kể trên được gói lại thành những vỏ kén plastic xanh xanh để phòng ngừa chôm chỉa, đó là một trong những ngành kỹ nghệ chính yếu ở phi trường, cùng một thứ khác gọi là “những cải tiến” không ngừng – chủ yếu là việc lắp đặt những biển báo mà ở đó, họ cầu xin công chúng lượng thứ cho những bất tiện trong thời gian cải tiến phi trường.

Phi trường hoăng một mùi nhiệt đới ẩm và rữa mốc, và được lấp đầy bởi muôn vàn các thứ tiếng – Tây Ban Nha, Pháp, Italy, và, om sòm nhất: đám Hành Khách Tàu Du Lịch. Các nhà du hành vừa đến bao giờ cũng tươi rói trong những bộ cánh phượt mới nhất, xăng xái sắp hàng hàng đi theo tụi hướng dẫn viên tay giơ cao những tấm bảng đề tên hãng. Họ chuyện trò rôm rả về những chuyến hải trình khác đã từng kinh qua, cười hô hố mỗi khi ai đó kể chuyện hài – cứ cách bốn lăm giây là sẽ có người kể chuyện hài – này họ đã uống bạo ra sao, này đã cờ bạc, mua sắm tẹt ga thế nào. Các nhà du hành trên đường về lại toát lên vẻ lặc lè nhẫn nhục – họ mệt mỏi, cháy nắng, say xẩm, bụng trương sình lên vì phải ráng nuốt hết mười một bữa ăn trong ngày bất chấp có đói hay không, bởi lẽ ... có trong gói hết mà, bỏ uổng! Nhiều phụ nữ còn hứng chí tết tóc bím rồi đính cườm lựu hà rầm lên đó, đâu biết kiểu này chỉ hạp với mấy bé gái vùng Ca-ri-bê thôi, còn với đa phần phụ nữ trên mười sáu, chỉ khiến các nàng trông vừa khôi hài vừa đáng sợ. Bạn thấy những hành khách khệ nệ bê các tác phẩm “nghệ thuật dân gian” sản xuất đại trà – dễ thấy nhất là mấy khúc gỗ to đùng, kém thẩm mỹ và hoàn toàn vô dụng, và làm sao thiếu các thùng đựng chiến lợi phẩm lớn nhất mà họ thu được qua cuộc hải trình: rượu giảm giá! Hơi sức nào bận tâm đã ném bao nhiêu nghìn đô vào kỳ nghỉ này: Họ cười tít mắt vì lẽ đã tiết kiệm được mười đô cho một chai scotch và brandy và rượu mùi mà mình sẽ chẳng bao giờ nhấp môi tới, xách linh khinh lang khang ra sân bay, từ máy bay này qua máy bay khác, mong ngóng ngày về đặng có thể lôi chiến quả đó ra khoe với khách khứa đến chơi nhà trong những năm tháng sắp tới (“Chai này ở Virgin Islands có hai mươi ba đô rưỡi à! Biết ở đây nó bán nhiêu hông?”)

Vào cái đêm mà Snake và bầu đoàn của nó kéo vào với trái bom hạt nhân, phi trường còn bát nháo ác nữa. Chicago đang báo có thời tiết xấu, nên cố nhiên mọi chuyến bay đến Tây Bán Cầu, tính luôn việc phóng tàu con thoi, đều bị đình lại. Rồi giờ đến các hãng hàng không kêu trời vì máy bay của họ không nhận được huấn lệnh cất cánh, dù Đài Kiểm Soát Không Lưu chẳng công bố lý do nào. Rồng rắn trổ ra từ các quầy vé hàng không là những hành khách mặt mày hằm hằm, cố chen bằng được đến quầy vé để nói chuyện phải quấy với tụi nhân viên cũng đang sùng gan không kém. Cảnh sát vừa được triệu đến để gô cổ một hành khách tàu du lịch trên đường về, người đã đe dọa nhân viên bán vé với khúc gỗ lưu niệm của ông ta.

Eddie qua cửa sân bay trước tiên, kế đến là Puggy xách va-li, rồi đến thằng Snake, một bàn tay giấu dưới áo nỉ và tay còn lại bấu riết cánh tay Jenny. Cũng như Eddie và Puggy, Snake chưa có dịp vào MIA lần nào, và trong một khoảnh khắc chứng kiến đám đông cuồng loạn, nó đã nghĩ đến việc quay đầu bỏ chạy. Nhưng rồi nó lại siết chặt con chó lửa, cây đũa phép của nó, và nỗi xáo động ấy tức khắc tiêu biến. Quay đầu về đi lụm tiền lẻ nữa chắc? Chết sướng hơn!

“Ta đang đi đâu đây?” Eddie cất tiếng hỏi, ngơ ngác nhìn cảnh tượng sân bay. Nó chưa bao giờ có cảm giác lạc quẻ rõ rệt với nơi nào đến thế, mà Eddie vốn đã là cái đứa luôn cảm thấy lạc quẻ ở bất cứ nơi nào nó đặt chân đến.

“Lối kia,” Snake chỉ tay hú họa về phía một dãy quầy vé. Nó chọc khẩu súng bọc áo nỉ vào lưng Puggy và hằm hè, “Cứ đi thủng thẳng, chớ có dang khỏi tao nửa bước.” Cả bọn lững thững di chuyển qua đám đông – đi đầu là Eddie, kế đến là Puggy xách va-li, xít rịt sau nó là Snake, bước khập khiễng bên cạnh Jenny, người đang kéo lê đôi chân trên sàn và mắt nhìn trừng trừng ra trước, in hệt một zombie. Hãng bay thứ nhất chúng ghé hỏi có cái tên Snake không đọc nổi, cùng danh sách các chuyến khởi hành đến những thành phố Snake chưa từng nghe tới; mấy đứa trực quầy đang nói rặt tiếng Tây Ban Nha. Snake hất đầu ra hiệu Eddie đi tiếp. Chúng bỏ lại thêm nửa tá hãng bay vẫn với những tên gọi mà Snake không thể cắt nghĩa, đoạn tốp lại ở một quầy vé nhỏ, với chỉ một nhân viên và lèo tèo ba bốn ngoe đang đứng chờ trong hàng. Trên quầy đặt một tấm biển màu cam, đề:


AIR IMPACT!

Cửa Ngõ Đến Bahamas Của Bạn

Khởi Hành Theo Lịch Trình Hàng Ngày


Một linh cảm tốt dậy lên trong Snake. Bahamas đây chứ đâu! Nó ra hiệu thằng Eddie bước vô hàng. Cả bọn tà tà di chuyển lên, Snake vẫn giữ tay Jenny và không quên nhắc nhớ Puggy về khẩu súng sau lưng nó. Sau mười phút, băng Snake đã đến trước mặt quầy.

Nhân viên quầy là một bà mẹ đơn thân tên Sheila, người đã làm việc liên tục suốt mười bốn tiếng, bởi hai đồng nghiệp của nàng đã rủ nhau bỏ việc đúng ngày hôm đó. Air Impact! không mạnh trong chuyện giữ chân người làm của mình, bởi các phiếu lương của nó thường đến chậm như chính các chuyến bay của nó vậy, tức là chậm như rùa. Sở hữu Air Impact! là hai anh em đến từ Bắc Miami Beach, những người đã mần ăn rất khá trong lĩnh vực kiểm soát sâu bệnh. Họ lập hãng hàng không với mục đích lấy cớ đi công tác chính đáng để phới đến Bahamas, đánh bạc và ngủ với những phụ nữ trên giấy tờ không phải vợ họ. Hãng hàng không đã bước vào năm thứ hai hoạt động, và hai anh em càng ngày càng tập trung vào mục bù khú ở Bahamas, còn những mục làm ăn như lương bổng, lịch trình bay, hay chiêu mộ nhân viên có năng lực thì gần như bỏ thí.

Cục Quản Lý Hàng Không Liên Bang bắt đầu lưu tâm đặc biệt đến Air Impact!, sau khi ghi nhận sự gia tăng đột biến những than phiền của hành khách về việc hoãn và hủy bay. Những cặp lông mày đã nhướn lên vào hai tuần trước, khi một chuyến bay Air Impact! từ Miami đến Nassau, dưới sự điều khiển của những phi công bị nghi xài bằng giả, trên thực tế đã hạ cánh xuống Key West, nơi khỏi cần là phi công cũng biết nó ở về hướng đối nghịch vài trăm dặm. Có lời đồn FAA đang rục rịch đóng cửa Air Impact!, và sĩ khí của những nhân viên chưa nghỉ việc đang xuống rất thấp. Riêng với Sheila thì nó đã chạm đáy; ngoài việc phải chôn chân cả ngày trời để đương đầu với những hành khách bất mãn, nàng lại vừa nhận được cú phôn từ cô giữ trẻ - người mà nàng lao đao lắm mới trả lương nổi - báo với nàng đứa con gái hai tuổi của nàng đang nôn thốc nôn tháo. Và giọt nước tràn ly là cú phôn từ thợ sửa xe, thông báo chiếc Taurus 1987 của nàng, thứ vốn luôn cần gì đó, đang cần đại tu bộ truyền số.

Phải chi Sheila đang ở trong tâm trạng tốt hơn, nàng đã có thể quan tâm đúng mức đến bộ tứ trước quầy – một cô gái thất thần đứng cùng ba thằng người ngợm dơ dáy bẩn thỉu. Song Sheila đã đạt tới cảnh giới không màng đến thế tục nữa rồi.

“Vâng?” nàng đưa mắt nhìn Snake.

“Cho bốn vé đi Bahamas, một chiều, chuyến kế tiếp,” Snake nói.

“Nassau hay Freeport?” cô hỏi.

Snake nhíu mày. “Bahamas,” nó nói.

“Nassau và Freeport nằm ở Bahamas,” Sheila nói, đồ ngu, nàng thầm bổ sung.

Snake bặm môi suy nghĩ.

“Freeport,” nó nói, nó thích âm thanh của từ đó.

“Chuyến bay mười giờ mười,” Sheila nhìn đồng hồ, đang là chín giờ mười lăm. “Tổng cộng bốn vé một chiều là” – cô gõ gõ bàn phím máy tính – “ba trăm sáu mươi đô la.”

Snake tạm buông Jenny để rảnh tay mò túi. Nó lôi ra xấp giấy bạc dày cộm đã tịch thu của Arthur Herk ở căn nhà, để hết lên quầy trước mặt Sheila, rồi vẫn với một tay, nó khởi sự đếm những tờ hai mươi đô bằng cách đọc ê a “... hai mươi, bốn mươi, sáu mươi ...” Tới 120, đầu óc nó trở nên mơ huyền – số học không phải thế mạnh của nó – và thế là phải đếm lại từ đầu. Nó đếm lại tới lần thứ hai, đoạn buột miệng “đ.mẹ” rồi hất xấp tiền khỏi quầy, mớ giấy bạc rơi qua bàn phím của Sheila.

“Coi thử nhiêu đó đi,” nó bảo.

Sheila sắp đống giấy bạc lại thành cọc, cảm nhận được sức nặng của nó, coi, đống tiền chù ụ này lại nằm trong túi một thằng dốt tới nỗi không biết cách đếm nó. Sheila bóc ra 360$. Thế rồi, khẽ đưa mắt liếc chừng Snake, kẻ đang nhìn quanh quất với vẻ lấm lét, nàng bóc thêm 480$ - chỗ nàng cần để đại tu bộ truyền số, rồi thêm 140$ - chỗ nàng thiếu nợ cô giữ trẻ tuần trước. Xong xuôi, nàng để chỗ bạc còn lại lên quầy. Snake sinh nghi, tính ý kiến ý cọt gì đó nhưng ngại rầy rà nên thôi. Với nó nghĩ mình vẫn còn rủng rẻng chán. Thêm cái va-li ma túy kia nữa chi. Mà hổng chừng là ngọc lục bảo.

“Cho tôi xin họ tên hành khách,” Sheila vừa nói vừa gõ phím.

Một thoáng ngần ngừ, rồi Snake nói, “John Smith.”

Sheila ngước nhìn lên trong một giây, đoạn trở lại với bàn phím.

“Các hành khách còn lại ạ?” nàng hỏi tiếp.

“John Smith,” Snake nói.

Sheila lại ngước lên, ngó lần lượt Eddie, Puggy, Snake và Jenny. “Bộ John Smith hết hả?” nàng hỏi.

“Hết luôn,” Snake đáp.

“Tôi cần xem giấy tờ tùy thân có ảnh,” Sheila nói.

Snake huơ một nắm giấy bạc và thảy chúng qua bàn phím của nàng.

“Giấy tờ đó,” nó hất hàm nói.

Sheila nhìn xuống chỗ bạc. Coi, sương sương cũng hai trăm đô.

“OK, của ông xong rồi, thưa ông Smith,” nàng tươi tỉnh nói.



MONICA VỪA ẤN còi vừa cho con Kia vọt qua một trạm xe trung chuyển trên khúc đường vào sân bay.

“OK, nghe này,” cô nói. “Ta đang tìm một xe cảnh sát. Ai thấy nó thì hô lên nghen?”

“OK,” Matt và Eliot đồng thanh. Anna nín thinh. Nina đang cầu nguyện.

“Ngay khi thấy cái xe,” Monica nói – bụng bảo dạ: lạy trời, làm ơn cho con thấy cái xe – “nếu không thấy ai trong đó, ta sẽ vào nhà ga để tìm. Sẽ có cảnh sát ở đó để giúp ta. Mọi chuyện sẽ ổn thôi, bà Herk.”

Dưới băng sau, Anna vẫn câm lặng.

Monica dậm ga cho con Kia leo lên khỏi đoạn dốc, đến dưới tấm biển Cửa Khởi Hành. Họ đang tiến chầm chậm vào nhà ga. Monica, Matt, và Eliot quét mắt vào rừng xe cộ trước mặt. Là Matt phát hiện ra chiếc xe tuần tiễu đang nằm trong một ga-ra dang dở.

“Đằng kia,” nó chỉ tay.

Monica rẽ trái vào ga-ra, phanh rít lại sau chiếc xe tuần tiễu. Cô đã ào khỏi con Kia trước khi nó ngừng rung lắc. Không thấy ai ở trong, cô đấm bốp vào cốp xe, quay phắt lại và co giò chạy, lách người thoăn thoắt giữa đám xe cộ lổn ngổn trên lòng đường vào nhà ga. Bám sát gót cô là Matt, tiếp đến là Eliot, đang cầm tay Anna.



“NGÓ KHÔNG ỔN rồi,” Seitz làu bàu, giương mắt nhìn những ánh đèn phanh bất động rồi tắt ngúm phía trên hướng bắc Le Jeune Road.

“Mặc may rẽ phải lên chỗ kia được,” Baker nói, “ông có thể bắc qua Douglas, rồi đi lên theo đường đó.”

“Xem bố đó có chịu để tôi rẽ không đã,” Seitz chỉ về phía một con Humvee trên phần đường bên phải cạnh chiếc xe thuê của họ. Humvee khá thịnh ở Miami. Chúng đặc biệt được ưa chuộng trong giới đu-theo-xu-hướng thừa tiền dư bạc, thích diễu phố trong mấy con xe quân sự giả cầy, in hình đang chờ lệnh tấn công thành Baghdad. Trong con Humvee cạnh chiếc xe thuê của FBI là ba gã thanh niên đầu húi cua, đang giật giũ theo tiếng bass như sấm rền phát ra từ cái loa to bằng chuồng chó choán hết phần sau xe. Gã lái xe vừa nhận được con xế hai ngày trước như một quà mừng sinh nhật thứ mười chín từ ông già hắn, một nhà nhập khẩu cocaine thành đạt và đáng trọng trong vùng.

Bọn Humvee không có vẻ gì nghe thấy tiếng còi của Seitz, Greer bèn hạ cửa sổ và phất tay kêu gọi sự chú ý của gã lái xe. Chặp hắn nhìn qua, Greer gập tay ra hiệu muốn ôm cua. Gã lái xe hạ cửa sổ; tức thì cả Greer, Seitz, Baker cùng nhăn mặt.


Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!


Mắt hấp háy trước âm thanh như tiếng gào từ địa ngục, Greer ra dấu hiệu thỉnh cầu gã Humvee lui xe cho mình rẽ qua. Gã Humvee đáp lại Greer bằng dấu hiệu “đù má mày”, đoạn kéo cửa sổ lên và cười ngả nghiêng cùng các chiến hữu.

“À, tuổi trẻ,” Greer chắt lưỡi.

“Để tôi cho chúng xem huy hiệu nghen?” Baker đề nghị.

“Khỏi,” Greer đáp gọn rồi chui ra khỏi xe.

“Ông đã bao giờ nghe về Lệnh Hành Pháp Đặc Biệt 768 gạch ngang 4 chưa?” Seitz hỏi Baker.

“Chưa hề,” Baker lắc đầu. “Nó là gì vậy?”

“Thì cũng như thượng phương bảo kiếm ấy,” Seitz nói.

Greer gõ gõ các đốt ngón tay của y lên cửa sổ chiếc Humvee. Gã lái xe ngó qua và thêm lần nữa chìa ngón giữa vào mặt Greer, rồi lại cười lăn lộn cùng chúng bạn. Các thanh niên ngừng cười khi Greer, với bàn tay phải, tọng báng súng của y xuyên qua cửa sổ, đoạn thọc tay trái vào túm lấy cổ áo chiếc sơ mi Tommy Hilfiger của gã lái xe, lôi xoành xoạch hắn từ cửa sổ xuống đường cái. Gã lái xe ụp hai bàn tay lên mặt đường, cấp kì chồm dậy và chạy xịt khói vào trong rừng xe cộ, không một lần nhìn lại. Hai thanh niên còn lại, ngó cái mửng giúp đỡ này hổng ham, tự giác nhấc đít khỏi ghế hành khách. Greer leo vào trong ghế tài, rút chiếc CD ra, tắt loa và cho con Humvee leo lên vỉa hè vào trong bãi đỗ một tiệm Burger King, dọn đường cho Seitz. Đoạn y leo khỏi con Humvee, thả cái CD xuống vỉa hè, đạp lên nó, rồi cất bước trở lại chiếc xe thuê.

“Để tôi cho chúng xem huy hiệu cũng được mà,” Baker nhỏ nhẹ góp ý.

“Mệt,” Greer nói.

Seitz, với hỗ trợ đắc lực của những người lái xe xung quanh, vừa mục sở thị pha hành động của Greer và không muốn bị coi như thiếu tinh thần hợp tác, cho xe rẽ phải và tiến đến một nút giao lộ, rồi theo hướng đông phới đến đường Douglas. Khi chiếc xe lại bon bon về hướng bắc một lần nữa, Baker nói, “Các ông nghĩ thằng này sẽ làm gì? Ý tôi là, hà tất gì nó phải ra sân bay?”

“Tôi đoán,” Greer nói, “trên kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm xưa rày, nó sẽ nhất quyết lên máy bay cho bằng được.”

“Bằng cách nào?” Baker nói. “Còn an ninh sân bay chi?”

Nghe tới đó Seitz khịt mũi một cái thật to.



KHI SNAKE VÀ đám tùy tùng ủ dột của nó đặt chân đến nhà chờ cho chuyến bay của hãng Air Impact!, trước mắt cả bọn là con rết người đang chờ để bước qua chốt kiểm soát an ninh.

“Khoan,” Snake nói, giật tay Jenny lại. Nó muốn xem thử đây là trò gì.

Đó là một hoạt động an ninh sân bay tiêu biểu, nghĩa là hình như nó được vẽ ra chỉ để xách nhiễu những hành khách tuân thủ pháp luật một cách vừa đủ để trấn an họ, đồng thời không cung cấp bất cứ một lá chắn bảo vệ nào trước những tội phạm có IQ cao hơn rau cần tây. Hành khách đặt hành lý của họ lên một băng chuyền chạy qua một máy X-quang; và để điện thoại, chìa khóa, máy nhắn tin, và các vật dụng kim loại khác trên một giá đỡ lưu động nhỏ; sau đó bước qua một máy dò kim loại. Hoạt động này được giám sát bởi các nhân viên nhìn không chút sinh khí, kiểu miễn sao giữ cho cái băng chuyền còn chạy là được.

Snake, kẻ chưa bao giờ mục kiến một chốt kiểm soát an ninh sân bay, mất cỡ hai phút để nghĩ ra kế tuồn súng qua. Nó đang có tới ba khẩu súng trên người, một đang cầm trong tay và hai khẩu còn lại nằm hai bên túi. Nó nghĩ đem hết qua chắc được, nhưng sau cùng quyết định cả mô quá cũng không tốt. Nó lùa đám tùy tùng của mình lại chỗ một thùng rác, rồi sau khi nhìn láo liên để chắc mẩm không ai để ý, nó thả hai khẩu Glock của Monica và Walter xuống đó. Nó đợi một phút nữa, cho đến khi bắt gặp một doanh nhân đeo trên vai một túi đựng laptop đang nhập vào hàng người chờ kiểm tra. Chừng gã doanh nhân bước qua, Snake đẩy Puggy vô hàng, đứng ngay sau hắn ta. Vừa bước lên, Snake vừa lầm bầm với Puggy và Jenny:

“Khi lên tới đó, mày” – nó huých khủy tay vào Puggy – “đặt va-li lên cái băng đó rồi bước qua. Bé, mày bước qua ngay sau đó. Tao ở ngay sau lưng tụi bây. Chót chét một tiếng thôi là tao bùm liền, rõ chưa?”

“Snake,” Eddie nói. “Tao thấy ngó bộ hổng xuôi đâu. Máy móc tùm lum kìa mày.”

“Im mồm,” Snake gắt. Nó phát bệnh với thái độ của thằng Eddie.

Cả bọn đã sát sườn chốt kiểm tra. Ngay phía bên kia máy dò kim loại là một gã béo quay có phận sự, như hành động của hắn tự nói lên, là xua hành khách đi qua càng nhanh càng tốt.

“Vui lòng bước qua,” hắn nhai đi nhai lại câu đó, đưa tay phẩy phẩy bà con qua lẹ.

Gã doanh nhân đứng trước Puggy đặt túi laptop của mình lên băng chuyền, tên mập ra hiệu cho hắn qua, rồi tiếp tục ra hiệu cho Puggy qua. Bị thúc bởi khẩu súng bọc trong áo nỉ của Snake, Puggy đặt va-li lên băng chuyền rồi lững thững bước qua máy dò kim loại. Đúng lúc đó, người đàn bà chạy máy X-quang phát hiện chiếc laptop của gã doanh nhân, liền la lên: “Kiểm tra máy tính!” Tại các chốt an ninh sân bay, họ đặc biệt cảnh giác với những chiếc máy tính.

Tên mập xoay về phía một mụ có gương mặt sắt đá ngồi ở cái bàn cuối băng chuyền, hét ông ổng: “Kiểm tra máy tính!” Mụ mặt sắt ra hiệu cho gã doanh nhân tiến lại chỗ mình. Kế đến mụ sẽ lệnh cho hắn bật máy tính lên. Đó là nhiệm vụ tối quan trọng trong nghề nghiệp của mụ: bắt mọi người bật máy tính của họ lên. Trong thế giới của những trạm kiểm soát an ninh, việc một chiếc máy tính có thể khởi động nghiễm nhiên là bằng chứng cho thấy chúng không phải là bom.

Vào đúng tích tắc mà tên mập quay mặt đi thì Snake, trong cùng một chuyển động, vừa đẩy Jenny qua máy dò kim loại vừa đặt khẩu súng trong áo nỉ lên giá đỡ lưu động. Đoạn nó bước thoăn thoắt qua máy dò kim loại, đến sau lưng Jenny và nhặt cái áo nỉ lên; toàn bộ thao tác ấy mất chưa tới hai giây. Lúc tên mập quay đầu lại thì Snake chỉ còn là cái bóng lướt qua, hắn lại tiếp tục phần sự của mình với hành khách tiếp theo.

“Vui lòng bước qua!” hắn nói.

“Kiểm tra túi xách!” Mụ X-quang nói, chỉ vào cái va-li kim khí. “Kiểm tra túi xách!” tên béo hô gióng về phía mụ mặt sắt, người đang quan sát gã doanh nhân bật máy tính. Chừng đã xong việc với hắn ta, mụ trỏ vào cái va-li kim khí nằm cuối băng chuyền, cất tiếng hỏi Puggy, “Cái này của anh phải không?”

“Của tôi đó,” Snake lên tiếng. Nó đang đứng ngay sau Puggy, chích súng nhắc chừng.

“Vui lòng đem lại đây và mở ra hộ,” mụ nói.

“Làm đi,” Snake huých Puggy.

Puggy đặt va-li lên bàn, mở hết bốn chốt rồi giở nắp lên. Mụ mặt sắt săm soi bên trong, thấy một vật hình ống bằng kim loại, một hộp đen có ghi tiếng của nước nào lạ hoắc, và một dãy công tắc.

“Cái này là cái gì?” mụ hỏi.

“Máy xay rác,” Snake đáp.

“Máy xay rác hả?” mụ mặt sắt nhíu mày. Bên huấn luyện an ninh làm gì đề cập đến thứ này.

“Nó là hàng hóa mang đi,” Snake trình bày.

Mụ mặt sắt bần thần một chặp, toan gọi thằng giám sát của mụ đến trợ giúp. Nhưng mụ sực nhớ lần mới đây nhờ nó tới xem hộ một thứ mụ cho là khả nghi: Tưởng gì là cái máy pha cà phê! Thằng giám sát đã chửi mụ té tát vì đã làm ùn ứ hàng đợi. Thằng giám sát đã nghe được từ giám sát của nó; rằng hành khách hồi này than phiền ghê lắm, người ta lỡ bay, hoặc suýt lỡ bay chỉ vì sự lề mề của cánh an ninh.

Mụ mặt sắt còn đang suy tư thì mụ X-quang đã nhao nhao, “Kiểm tra máy tính!” Một chiếc laptop nguy hiểm chết người khác đang chạy xuống.

“Kiểm tra máy tính!” giọng tên mập vống tới. Bà con vẫn lũ lượt bước qua máy dò kim loại. Khu vực kiểm tra đang ùn tắc.

Mụ mặt sắt đưa mắt nhìn dòng người, rồi đến cái va-li, rồi đến Snake.

“Phiền ông bật nó lên,” mụ nói.

Snake săm soi thiết bị trong va-li. Trên hộp đen cạnh vật hình ống bằng kim khí là ba cái công tắc, Snake nghĩ chắc nó như kiểu một hệ thống bảo mật, nhằm bảo vệ số ma túy hoặc ngọc lục bảo hoặc bất cứ thứ gì có trong hộp. Nó đưa tay xuống và bật cái công tắc đầu tiên. Không có gì xảy ra. Nó bật cái thứ hai. Chưa thấy gì luôn. Nó bật tiếp cái thứ ba. Những ánh đèn kỹ thuật số bắt đầu nhấp nháy dưới pa-nô đen ở góc dưới cùng bên trái hộp. Chúng hiển thị:


00:00


Mụ mặt sắt cau mày trước bốn con zero nhấp nháy, đoạn nhìn qua Snake.

“Nó có bộ hẹn giờ,” nó cắt nghĩa. “Như đầu máy video vậy đó.”

“Kiểm tra máy tính!” Mụ X-quang hô.

“Kiểm tra máy tính!” tên béo hô. Những chiếc laptop đang chất thành đống.

“OK,” mụ mặt sắt nói, phẩy tay ra hiệu cho băng Snake rời đi. Snake đậy nắp va-li, chẳng để ý lúc nó làm thế, những chữ số đã ngừng nháy và lúc bấy giờ đang hiển thị:


45:00


Rồi đến:


44:59


Snake khóa va-li, đoạn huých khủy tay vào Puggy, biểu, “Xách nó đi.” Puggy nhấc va-li lên rồi lững thững theo cả bọn xuống phòng chờ ra máy bay. Trong khi mụ mặt sắt ở phía sau hướng sự chú ý của mình vào hành khách tiếp theo, một chuyên gia định phí lương hưu đã sẵn sàng, khỏi đợi nhắc, khởi động máy tính của mình, hiểu rằng đó là cái giá mà xã hội tự do phải trả để đấu tranh với khủng bố.


43:47


Monica phi vù qua cánh cửa tự động vào ga chính, đảo mắt bốn phương tám hướng, mong chờ được thấy một bóng dáng cảnh sát. Nhưng họa vô đơn chí là có thật, toàn bộ cảnh sát sân bay khả dụng đã được điều động đến đầu kia của nhà ga hình bán nguyệt rộng lớn này, nơi rắc rối bùng phát tại quầy vé hãng Delta. Nó nảy sinh khi nhân viên Delta thông báo với một người từng-sắp-là-hành-khách rằng, ông ta không được phép mang con trăn dài bốn mét, Daphne, đang đu xà nẹo quanh người mình lên máy bay. Nôn nả chứng minh hạnh kiểm tốt của Daphne, vị hành khách này đã thả con rắn lên quầy vé. Vào cái lúc nhân viên Delta và những hành khách gần đó tá hỏa tam tinh dạt phắt ra, Daphne đã phát hiện, trên sàn nhà cách nó chừng một thước, một chuồng nhựa nhỏ vận chuyển thú cưng đang chứa hai con chồn Yorkshire có tên Pinky và Enid. Nhoáng một cái Daphne đã trườn khỏi quầy vé và lạng đến chỗ cái chuồng, giữa lúc các hành khách thất kinh dang ra để nhường đường cho trùm qua, và đập nhau loạn xạ với các hộp đựng rượu miễn thuế của họ.

Mất vài giây để Daphne bọc người nó quanh chuồng thú cưng, giờ nó đang tìm cách tiếp xúc thân mật với Pinky và Enid. Những tiếng yip yip hãi hùng của đôi chồn thúc giục vị chủ nhân tận tụy của chúng – một góa phụ bảy mươi tư tuổi với cái hông nhân tạo – chiến thắng nỗi sợ bò sát và đập bép bép vào thân mình săn chắc của Daphne bằng một tờ tạp chí Morden Maturity vo tròn, cho đến khi bà bị đốn ngã từ phía sau bởi chủ nhân của Daphne, vốn chẳng kém cạnh về khoản nuông chiều thú cưng và từng chơi ở vị trí hậu vệ thòng hồi ở trường cao đẳng.

Trong vòng một phút, đầu Delta của nhà ga sân bay đã được ban bố tình trạng khẩn, với gần như toàn bộ lực lượng cảnh sát phi trường đổ xô về đó, bộ đàm réo liên phanh. Bởi vậy mà vài phút sau đó, khi Monica đặt chân đến đầu bên kia của nhà ga hòng tìm viện binh, cô không thấy một mống cảnh sát nào.

“Bà nó,” Monica rủa, quay lại thì thấy Matt, Anna và Eliot đã ở ngay sau, Nina đang lúp xúp chạy qua cửa.

“OK,” Monica nói. “Phải chia nhau đi tìm thôi. Tôi đi phía này” – cô chỉ sang trái – “mọi người qua phía kia nghen. Nếu thấy họ, nhớ không được rời mắt nhưng cũng đừng tiếp cận. Matt, em chạy tìm tôi liền. Rõ chưa?”

Matt và Eliot gật đầu.

“OK,” dứt lời Monica liền rẽ trái và đâm bổ vào sóng người trong nhà ga. Matt vù chạy về phía tay mặt, Eliot và Anna xấp xãi theo sau, Nina thấy vậy co giò rượt theo. Mối bận tâm lớn nhất của Nina là làm sao để không bị tụt hậu. Bốn người còn lại, trong khi vừa chạy vừa quét mắt vào đám đông, đều quay quắt trong đầu những phiên bản khác nhau của một ý nghĩ: Có khi nào họ đã đến sai chỗ?


42:21


Chuyến bay 2038 của hãng Air Impact! đi Freeport là một máy bay cánh quạt hai động cơ với số ghế ngồi dành cho hai mươi hai người. Khỏi có tiếp viên hàng không hàng nước gì, và bởi nó quá nhỏ để bắc cầu tàu; nên để lên máy bay hành khách phải bước xuống một cầu thang từ cửa phòng chờ, rồi đi nốt đoạn đường lát nhựa hai mươi bảy mét đến chỗ máy bay.

Đáng nhẽ đã có hai nhân viên Air Impact! làm việc tại cổng sân bay chiều hôm đó, nhưng không ai trong số họ xuất hiện. Thế nên việc soát vé hành khách giờ được giao cho thằng bốc xếp hành lý, Arnold Unger, kẻ gia nhập Air Impact! sau khi bị đá đít khỏi hai hãng bay khác vì bị tình nghi trộm hành lý. Unger cũng chung cảnh làm việc không nghỉ hai ca liền như Sheila, nhân viên bán vé (triệt tiêu luôn tinh thần giật giải Nhân Viên Tháng của nàng). Unger giữ cho đầu óc tỉnh táo bằng chai rum Barcadi giấu dưới cầu thang mà nó khoắng của một hành khách mới du lịch biển về. Nó rù cho chuyến bay 2038, chuyến cuối cùng trong đêm của Air Impact!, khởi hành rốp rẻng để còn về đi nhậu.

Coi bộ là một chuyến bay nhẹ nhàng. Đa phần hành khách theo lịch trình đã lỡ chuyến bay kế tiếp vào Miami bởi thời tiết xấu ở Chicago. Unger chỉ phải bốc mười một túi hành lý lên máy bay. Khi leo thang vào phòng chờ và bấm xem list hành khách trên máy tính, nó thấy chỉ có tám cái tên, một nửa trong số đó, khá buồn cười, tên là John Smith. Phòng chờ lúc này chỉ có bốn hành khách: hai cặp vợ chồng – hai bác nhân viên bưu điện về hưu và vợ của họ, đều quê Ohio và đang sống ở Naples, Florida. Họ đã lái xe qua tiểu bang chiều hôm đó để chớp cơ hội vàng đi máy bay giá rẻ đến Bahamas của hãng Air Impact!, tính qua bển chơi lô tô cho biết. Phi Trường Quốc Tế Miami khiến họ chỉ muốn thoát khỏi nó càng sớm càng tốt. Họ chưa từng đặt chân đến chỗ nào lạ nước lạ cái đến thế, kể cả Italy, nơi có lần họ đã đến thăm thú với hội bưu điện về hưu.

Những khuôn mặt ngước lên đầy hi vọng khi Unger xuất hiện. Trong trang phục gồm quần soóc màu xanh đen lấm bẩn, sơ mi lao động ngắn tay màu lam, đôi ủng lao động và hai miếng đệm đầu gối, nó đứng vênh vang trước cánh cửa dẫn ra cầu thang. Nó nhấc ống nghe của chiếc phôn treo tường, nhập mã số, rồi nói oang oang: “Xin chào buổi tối, thưa các quí bà, quí ông. Chuyến bay Air Impact! số 2038 tới thành phố Freeport xinh đẹp hân hạnh chào đón những hành khách bước qua cánh cửa này. Chúng ta sẽ bắt đầu với ...” – nó làm bộ ngó đông ngó tây cái phòng chờ trống trải đìu hiu, đoạn chỉ tay vào nhóm người hưu trí – “những CON NGƯỜI đáng yêu kia!” Hội bưu điện lững thững bước lên và đưa vé cho Unger. Nó biểu họ cứ theo cầu thang xuống rồi đi thẳng ra máy bay. Họ thắc mắc làm sao biết máy bay nào mà ra. Nó nói cứ ngó cái nào có chữ Air Impact! chình ình ở mặt bên là được. Cái giọng nó nghe bắt ghét.

Lúc bấy giờ là mười phút trước khi chuyến bay khởi hành theo lịch trình, và Unger đang tính đóng cửa thì Puggy, tay xách va-li, lộc ngộc bước vào phòng chờ, theo sau nó là Snake và Jenny, sau chót là Eddie. Nhìn như những khối sáp dính chùm đang di chuyển về phía Unger. Snake chìa cho Unger mấy cái vé.

“Á à,” Unger nói. “Các vị John Smiths đây mà.”

Snake ném cho Unger cái nhìn đừng-nhờn-với-tao. Unger đáp lại với cái nhún vai tao-đéo-quan-tâm. Nó có té vàng té bạc gì đâu mà quan tâm, dù tụi này có là ai đi nữa, xíu nữa thôi chúng chẳng còn là vấn đề của nó. Nó chỉ về phía cửa.

“Máy bay dưới cầu thang,” nó nói.

Nhóm người chụm rụm bước xuống cầu thang, Unger khép cửa và theo chân cả bọn ra đến đoạn đường trải nhựa. Nó chỉ về phía chiếc máy bay, nơi các cặp vợ chồng hưu trí đang vừa la làng vì không thấy ai giúp đỡ, vừa khổ ải trèo lên cái thang gấp con con đặt ở gần đuôi máy bay, như thể đang chinh phục mười lăm mét cuối cùng của đỉnh Everest.

Unger theo chân nhóm Snake đến chỗ máy bay. Đến nơi, nó nhướn tay về phía cái va-li, nói với Puggy, “Để tôi.”

Snake giằng tay Unger. “Cái này lên máy bay luôn,” nó nói.

“Thì tôi đem lên đó chứ đâu,” Unger nói. “Tới Freeport ông nhận lại.”

“Nó đi chung với tụi này luôn,” Snake nói.

“Í đâu được,” Unger phản đối. “To quá. Qui định FAA.”

Snake dò dẫm trong túi quần, móc ra một xấp bạc rồi nhận vào tay Unger.

“Thì cũng để tôi phụ một tay chớ,” Unger xởi lởi. Dưới cái nhìn gườm gườm của Snake, nó đỡ lấy cái va-li – nặng tổ mẹ – rồi hì hục đưa nó lên cái thang gấp. Vốn là một thằng mạnh cùi cụi, nhưng nó cũng chỉ gắng đưa được cái va-li lên tới đầu thang, rồi để nó nằm lù lù gần mép cửa.

Unger vừa thở hổn hển vừa leo xuống thang. Ánh mắt nó lướt qua Snake, tia về phía nhà ga sân bay.

“Ủa, bạn ông đi đâu vậy?” nó hỏi.

Snake quay phắt lại, chết cha, thằng Puggy mới sờ sờ đây giờ đâu mất tiêu! Snake tia mắt về phía nhà ga, thấy một hình người trùng trục lẩn biến qua cánh cửa.

“Thằng chó đẻ,” Snake tức khí gầm lên, bấu tay Jenny một cái thật hụng khiến cô la oai oái. “Thằng bú dù chó đẻ!” Nó quay lại Unger.

“Chừng nào bay?” nó nói.

“Bộ ông muốn quay lại tìm bạn hả?” Unger hỏi.

“Không, tao muốn bay liền, ngay bây giờ!” Snake nói.

“Thì bay liền chứ sao, ngay khi ông an tọa trên ghế và phi công kiểm tra xong xuôi,” Unger nói. “Năm mười phút nữa thôi.”

“Lên đi,” Snake biểu Eddie. Eddie nhìn lại nơi Puggy vừa khuất dạng.

“Snake,” Eddie ấp úng, “sao tao nghi quá ...”

“Tao biểu mày lên máy bay lẹ,” Snake thúc khẩu súng trong áo nỉ vào người Eddie, hệt như đã làm với Puggy. Eddie lừ lừ quay lại, rồi lừ lừ trèo lên cầu thang. Snake huých Jenny, ra hiệu cô trèo lên sau Eddie. Họ phải nhoài người qua cái va-li để vào trong lối đi.

Unger vòng ra trước và làm hiệu cho phi công kéo tấm kính chắn gió mặt bên ra. Chừng nó được mở, Unger thông báo với viên phi công, “Đi được rồi đó.”

“Còn cha nội chạy về ga kia?” viên phi công hỏi. “Bộ hắn quên gì đó hả?”

“Không đâu,” Unger nói. “Chắc hắn đổi ý bất tử thôi.” Unger định thòng thêm một câu đại loại như, Ở sau kia có thằng quái đản lắm, nhưng rồi lại thôi. Tụi quán đản đi máy bay nó gặp suốt. Nam Florida nhan nhản bọn lập dị. Thằng này chắc đang mang theo ma túy hay thứ quỉ gì đó. Nhưng với Unger thì phận ai nấy lo. Trễ quá rồi, giờ này là giờ ăn nhậu, mà nó cũng đâu quen biết gì tụi phi hành đoàn này, những gã trai trẻ mới được thuê để lấp chỗ những gã trai trẻ cũ đã chịu hết nổi Air Impact! và cuốn gói. Bước lùi lại khỏi máy bay, Unger giơ hai ngón tay cái động viên chàng phi công.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
MƯỜI HAI




35:08


Puggy lụi đụi chạy ra từ phòng chờ của Air Impact!, tự hỏi nên làm gì tiếp theo. Ý nghĩ chính của nó là cứ chạy và chạy, đến chừng nào xa hẳn khỏi thằng điên cầm súng lẫn cái phi trường ngoài hành tinh xô bồ rùng rợn này. Nhưng rồi nó lại nghĩ đến cô gái đang kẹt ở đó. Cô ta đang sợ chết khiếp vì cái thằng điên ấy, Puggy biết điều đó, và nó cũng biết nỗi sợ ấy là hoàn toàn có lý. Cần cấp báo cho ai đó để giải cứu cô ta, nhưng ai bây giờ? Puggy vốn dị ứng với cớm – nó đã có bao trải nghiệm tệ hại với cớm – song lúc này đây nó đang mong gần chết có một tay cớm hiện ra, để nó có thể báo về chuyện cô gái.

Trước mặt nó là một quầy vé với hai nhân viên đang đứng sau, một gã thanh niên và một phụ nữ già dặn hơn, đang lúi húi kiểm tra các thứ giấy tờ, thực hiện những thủ tục sau chót cho chuyến bay Miami đi Philadelphia vốn đã bị hoãn gần ba tiếng. Một thoáng ngần ngừ, rồi nó đánh bạo tiến đến quầy vé. Gã nhân viên ngước lên.

“Gì vậy ông?” giọng hắn bực bội thấy rõ.

“Ờ...” Puggy ấp úng. “Có chuyện này ... tui muốn ...”

“Xin lỗi ông,” gã thanh niên ngắt ngang, thái độ chẳng có vẻ gì đang xin lỗi xin phải, “chuyến bay này đóng rồi. Hết ghế rồi, OK?”

“Ấy không, có một thằng ở dưới kia,” Puggy chỉ về phía phòng chờ Air Impact!. “Nó đang giữ một cô gái.”

“Sir,” nữ nhân viên lên tiếng, mặt mày còn chằm dằm hơn gã kia. “Chúng tôi phải thu xếp cho chuyến bay khởi hành ngay bây giờ, OK? Dù vấn đề của ông có là gì, chúng tôi cũng không có thời gian đâu.”

“N-nó uy hiếp cô ta!” Puggy lắp bắp. “Nó có một ...”

“Chúng tôi không có thời gian, sir,” gã nhân viên buông câu chốt hạ đoạn trở lại với mớ giấy tờ, mụ kia cũng làm vậy. Hai đồng nghiệp khẽ nhìn nhau và cùng lắc đầu cám cảnh trước thế thái nhân tình.


34:02


“Kế hoạch là gì?” Baker lên tiếng hỏi. “Ta bước vô và róng chuông báo động?” Chiếc xe thuê đang len lên giữa dòng xe cộ trên đoạn dốc đến Cửa Khởi Hành.

“Bác bỏ,” Greer nói. “Tôi đã nói rồi, càng nhiều người biết càng nhiều người chết. Tuyệt đối phải ém nhẹm, trừ phi không còn cách nào khác.”

“Vậy làm sao ta tìm được bọn chúng?” Baker hỏi.

“Chắc không khó đâu, một, chúng sức mấy đi nhanh được với cái va-li đó,” Greer nói. “Hai, theo lời những người bạn ở Jolly Jackal, tụi cốt đột này không được ông trời khoản đãi lắm về mặt trí tuệ. Chưa kể đến các con tin. Chúng không nổi bật giữa đám đông mới là lạ.”

“Cũng chưa chắc,” Baker ậm ừ. “Không dễ để nổi bật ở sân bay này đâu ông.”


33:34


Trước quầy vé Delta, hai sĩ quan cảnh sát đang cố lay chủ nhân của Daphne tỉnh dậy. Đương sự đã chống chọi quyết liệt khi cảnh sát xúm lại kéo hắn ra khỏi bà góa phụ, chủ nhân của hai con chồn. Sau một hồi giằng co, một sĩ quan đã đập đầu hắn bằng cái đèn pin công vụ, loại dùng đến bốn cục pin, khiến hắn lăn đùng bất tỉnh tới giờ. Quả là tai họa, bởi cảnh sát cần hắn để thuyết phục con Daphne, kẻ đã từ bỏ nỗ lực tiếp xúc với Pinky và Enid, và đã lảng ra khỏi chiếc hộp vận chuyển thú cưng. Giờ thì nó đang hướng sự chú ý của mình vào những con người đang tụ lại mỗi lúc một đông, nghĩ về bất cứ điều gì một con rắn lớn đang đói bụng có thể nghĩ đến.

Vậy là các cảnh sát kẹt. Hẳn nhiên, họ không thể để con mẹ này nhơn nhơn dạo chơi ở phi trường rồi. Nhưng cũng hẳn nhiên không kém, họ không thể liều bắn nó với từng này bà con ở đây. Nghĩa là cần ai đó câu lưu nó, song thằng chủ nó thì nằm liệt một đống đã đành, mà cũng chẳng thầy chú nào xung phong bắt giữ Daphne bằng tay không. Như một người vừa nêu ý kiến, “Ta sẽ làm gì? Còng nó lại chắc?”

Đó, bế tắc toàn tập. Cảnh sát đứng một bên, ra sức đẩy lùi đám đông; Daphne đứng, hay chính xác hơn, uốn khúc một bên. Một sĩ quan rối rít phôn về sở, đề nghị phái một đơn vị kiểm soát động vật đến sân bay ngay lập tức, thông báo đáp lại là: đơn vị gần nhất đã bị kẹt lại trong một vụ ùn tắc giao thông nghiêm trọng trên Le Jeune Road, nghe đâu có dính dáng đến mấy con dê.



33:17


“Cảnh sát đâu hết rồi?” Anna hỏi với giọng gần như sảng loạn. “Cảnh sát đi đâu hết cả rồi?”

“Rồi sẽ thấy mà,” Eliot cố trấn an nàng. “Chắc đâu quanh quanh đây thôi.” Nhưng quả tình chính anh cũng đang hoang mang. Quái! Bình thường chỗ này nhìn đâu cũng thấy cớm!

Eliot và Anna chạy lúp xúp giữa biển người mênh mông, sau Matt một vài bước, dưới họ là Nina. Cuộc truy tìm trở nên vô vọng hơn bao giờ hết vào khoảnh khắc họ nhận ra, có quá nhiều người ở sân bay, quá nhiều nhà chờ, quá nhiều cửa.

Họ đến một chốt kiểm soát an ninh, nơi có ít nhất hai trăm mạng sắp thành hai hàng đang đợi bước qua máy dò kim loại để vào phòng chờ. Matt, Anna, và Eliot chia nhau ra củ soát tới lui dọc theo hai hàng đợi, rà rà mấy cái mặt. Không có may mắn nào. Vừa lúc dợm bước quay lại ga chính thì họ chợt nghe tiếng kêu của Nina. Ngoảnh đầu lại họ thấy Nina đang chạy ngược về phía chốt kiểm soát, í ới một cái tên nghe như “Pogey.” Matt là người đầu tiên hướng mắt về nơi cô đang chạy đến.

“Anh lùn!” nó la lên. “Anh lùn râu! Ở căn nhà! Người xách va-li!”

Anna và Eliot phóng mắt về bên kia chốt kiểm soát và chứng kiến Puggy, mặt bừng sáng như đang mục kiến một kì quan lấp lánh, đang tất tả chạy về phía Nina.

“Matt,” Eliot nói, “đi tìm cô cảnh sát mau. Ba ở đây với thằng này. Chạy đi.” Song Matt đâu có đợi nhắc, nó đã mất hút trong biển người từ lúc nào rồi.


29:32


“Delta đúng không anh trai?” bác tài hỏi.

“Delta,” Henry nói.

Henry và Leonard đang trong chiếc bus đưa đón khách miễn phí tiến vào ga chính. Chúng đã ra hiệu cho chiếc bus dừng lại – đúng hơn là nhảy xổ ra trước mặt, ép nó phải dừng – trên đoạn đường vào sân bay, sau khi bỏ lại chiếc xe thuê và rảo cẳng mệt nghỉ qua rừng xe cộ chết dí la liệt trên Le Jeune Road. Bác tài lừng khừng mãi tới khi Henry đè tờ hai mươi đô lên kính chắn gió, mới yên tâm mở cửa đón khách.

Henry và Leonard, người ngợm nóng chảy mỡ và đang khá điên. Cứ ngấp nghé một phút là Leonard lại ngọ nguậy đầu và nhắc như nhắc đò với bà con hành khách, những người đang tránh nhìn vào hắn: “Đ.mẹ mấy con dê.” Henry, người điềm đạm hơn, cũng ớn tận cổ cái chuyến đi xất bất xang bang, đau đầu lãng này quá rồi . Hắn quyết định ngay khi lấy vé về Newark là gọi liền cho người của Pennultimate để báo: rất tiếc, nhưng mấy ông vui lòng kiếm người khác giết Arthur Herk dùm. Có các vàng hắn cũng không đời nào léo hánh tới cái thành phố điên rồ này nữa, nơi mà năm lần bảy lượt anh cố hành quyết ai đó một cách chuyên nghiệp, thận trọng, thì hoặc một tay súng khác xuất hiện, hoặc cảnh sát xuất hiện, hoặc một con chó tấn công anh, hoặc một thằng khùng nào đó phi xuống anh từ trên cây.

“Delta tới rồi nghen,” bác tài thông báo, cho dừng chiếc bus miễn phí và mở cửa.

Henry và Leonard lò dò xuống xe, Leonard khựng lại để nói với bác tài thay cho câu tạm biệt: “Đ.mẹ mấy con dê.”

Chừng chiếc bus rời đi, Henry và Leonard ngó vào trong cánh cửa kính tự động của nhà ga. Người đông nườm nượp, một số còn chạy nháo nhác. Hình như có tiếng phụ nữ la hét bên trong.

“Chuyện gì nữa đây?” Henry lầu bầu.

“Gì đi nữa,” Leonard thở dài, “mấy con dê đó là hết cỡ thợ mộc rồi.”


28:49


“Nhanh coi,” Snake càu nhàu. “Coi, nhanh coi, đ.mẹ.” Nó đang độc thoại là chính, duy mấy bác bưu điện về hưu, ngồi cách bốn hàng ghế ở phần trước phi cơ Air Impact! cũng có thể nghe rõ mồn một. Cố nhiên họ không tán thành thứ ngôn ngữ của nó.

Trong buồng lái, ngăn cách với cabin bằng một tấm rèm đen mở ra một nửa, hai phi công mới tuyển của Air Impact! đang tiến hành công tác kiểm tra trước chuyến bay. Snake coi mặt mấy thằng này, nhìn mụn mà đoán, chắc đâu mới mười bảy tuổi quá. Sự thực hai chàng đều đã hai mươi ba. Tên họ là Justin Hobert và Frank Teeterman Con – là cạ cứng từ thời tiểu học, khi hai người khám phá ra họ có chung niềm đam mê mãnh liệt với máy bay. Cả hai đã bị bạn bè châm biếm suốt thời trung học vì lẽ cứ tối ngày châu đầu vào mấy mô hình máy bay, thay vì sách ảnh khiêu dâm như bạn bè đồng trang lứa.

Đam mê, hay u mê hàng không ấy của Justin và Frank vẫn sắt son cùng năm tháng. Cố nhiên đời sống xã hội của họ cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhưng có công mài sắt có ngày nên kim, sau nhiều năm văn ôn võ luyện, cả hai đã trở thành những phi công thương mại, và đêm nay lần đầu tiên đôi bạn sẽ được bay cùng nhau một cách chuyên nghiệp. Đến giờ phút này họ vẫn chưa dám tin vào may mắn của mình, hầu hết hãng bay đều buộc anh phải làm trợ tá cho những phi công kinh nghiệm vài năm đã. Hẳn nhiên, lương ở Air Impact! không bằng mấy hãng khác – chỉ 14,200$ một năm – nhưng quan trọng là họ đang được bay, được bận áo phi công mới cóng và mặc quần phi công mới cóng, và họ đang được chỉ huy. Oách chớ.

Justin – người mới thắng trò tung đồng xu để xác định ai là cơ trưởng – quay về phía bảy hành khách trong cabin, cố làm trầm giọng và kéo dài các nguyên âm, nói: “Chào mừng quí khách đến với Air Impact! Chuyến bay số hiệu 2036 đi ...”

“2038,” Frank nhắc khẽ.

“À phải, Chuyến bay số hiệu 2038, đi, ờ, Freeport,” Justin nói. “Tôi, Cơ trưởng Justin Hobert và đây là phụ tá của tôi, Frank Teeterman.”

Frank chào nhanh theo lối nhà binh.

“Chúng tôi đã gần hoàn tất danh sách kiểm tra,” Justin nói, “vậy nên trong vòng vài phút nữa, chúng tôi sẽ đóng cửa và trình bày chi tiết cho quí khách các chỉ dẫn về an toàn, và sau đó chúng ta sẽ cất cánh.” Justin đã thao luyện bài diễn văn này trước chiếc gương phòng tắm. Nghe cũng ổn áp ghê! Dứt lời chàng trở lại với danh sách kiểm tra.

“Ê.” Giọng thằng Snake vống lên từ hàng ghế dưới. “Sao hổng bay luôn đi, chờ mẹ gì nữa!”

“Gì cơ?” Justin ngoái đầu lại. Hai cặp vợ chồng hưu trí cũng làm thế, từng ấy con mắt lom lom ngó Snake. Nó đang ngồi cạnh Jenny, người đang nhắm nghiền mắt và tựa đầu vào cửa sổ. Eddie ngồi ở bên kia lối đi, mặt mày như đưa đám.

“Tôi nói là, đi luôn đi,” Snake nói. Nó đang nghĩ tới thằng bú dù vừa chạy trốn. Snake đồ rằng thằng bú dù, vốn phường cặn bã không khác gì Snake, khó có chuyện chạy đi báo cớm. Nó chỉ lo cho cái thân nó thôi, Snake trong hoàn cảnh ấy cũng sẽ làm vậy. Nhưng đêm dài lắm mộng, Snake vẫn nghĩ nên đi nhanh cho chắc.

“Sir,” Justin nói, “chúng tôi phải hoàn thành danh sách kiểm tra, rồi ta mới đi được. Vì sự an toàn của ông cả thôi, sir.”

Snake suýt nữa đã lôi súng ra khè thằng phi công. Thậm chí nó đã soạn sẵn một câu thoại hay: Sự an toàn của tao đây nè, thằng chó đẻ. Song nó quyết định đợi thêm một hai phút nữa.


27:16


“Chị cảnh sát!” Matt la lớn, băng qua đám đông ở nhà ga và vẫy tay ra hiệu với Monica, Matt phát hiện cô đang đứng cạnh quầy vé nội địa của hãng American Airlines. “Chị cảnh sát!”

“Tìm thấy họ rồi hả?” Monica thoắt cái đã phi đến chỗ nó, sốt sắng hỏi.

“Thấy mỗi anh lùn râu,” Matt nói. “Lối này.” Hai cô trò đang chạy sóng đôi.

“Mỗi hắn thôi ư?” Monica hỏi. “Hắn đi một mình?”

“Dạ,” Matt đáp.

“Hắn có nói mấy người kia ở đâu không?” Monica hỏi.

“Em đã nói chuyện đâu,” Matt nói. “Ba em biểu đi tìm chị liền.”

“Giỏi lắm.” Monica nói.


26:02


“Kết cấu phi trường ra sao?” Greer hỏi.

“Nhà ga chính là một hình bán nguyệt lớn,” Baker nói. “Mấy ga còn lại tỏa ra từ đó.”

“Chỗ này gần ga chính không?” Greer hỏi tiếp.

“Tương đối gần,” Baker nói.

“Được rồi,” Greer nói. “Dừng xe.”

Seitz tấp xe vô lề và dừng cạnh một tấm biển đề CẤM DỪNG MỌI LÚC. Cả bọn ra khỏi xe và đi phăng phăng về phía cửa nhà ga.

Greer bảo Baker, “Tôi đoán bọn ngố rừng này đã quậy quọ lung tung beng ở đâu đó rồi, mời gọi sự chú ý của cớm phi trường. Tìm chúng phát một thôi. Lúc đó, bọn tôi cần ông phụ tịch thu cái va-li, bắt giữ bọn tội phạm và rút khỏi đây thiệt lẹ thiệt êm. OK?”

“OK,” Baker gật đầu.

“Nhưng mà nhớ nghen,” Greer nói, lần này cho cả Seitz lẫn Baker, “bọn tôi sẽ giữ cái va-li.”

Chân ướt chân ráo vào nhà ga, đám người nhà nước suýt bị nốc ao bởi hai trự tay lăm lăm bộ đàm huỳnh huỵch chạy về phía trái của họ, hướng đến quầy Delta. Có tiếng quát tháo vọng tới, rồi ai đó hét lên.

“Trúng mánh,” Greer đắc ý.


25:41


Puggy không dám tin vào mắt mình: thiên thần của nó! Đang ở đây! Đôi trai gái ríu rít nắm tay và nhìn nhau đắm đuối, với bốn con mắt nằm ngang nhau không xịch một li nào. Suốt một phút, Puggy không nghe thấy người phụ nữ kia đang nói gì với mình.

“Làm ơn,” Anna nói, đến lần thứ ba, “con gái tôi đâu rồi? Làm ơn.”

“Puggy, anh phải giúp,” Nina nói. Pogey, anh phải giúp.

Puggy như bừng tỉnh. Đúng rồi, cô gái.

“Bọn họ đi xuống theo lối kia,” nó chỉ về phía chốt kiểm soát an ninh dẫn xuống phòng chờ của Air Impact! “Họ lên máy bay hết rồi.”

“Lạy Chúa!” Anna thảng thốt. Nàng nắm lấy cánh tay Eliot, “Mình xuống đó liền đi!”

“Ừ phải,” Eliot gật đầu, ngó quanh quất với vẻ sốt ruột cực độ. Thằng Matt đang ở chỗ quái nào vậy? Rồi cô cảnh sát ... A kia rồi!

“Chỗ này nè!” anh hét lên, vẫy tay ra hiệu cho Monica và Matt, những người đang đột kích qua đám đông.

“Ảnh nói gì?” Monica hồng hộc hỏi ngay khi vừa đến chỗ cả nhóm.

“Ảnh nói họ đã lên máy bay,” Eliot nói. “Lối này.”

“Dẫn tôi ra đó mau,” dứt lời Monica kéo xốc Puggy và sải bước phăng phắc đến chốt kiểm soát an ninh. Puggy, còn lừng khừng chưa kịp buông Nina, lập bập suýt té nhào sau lưng Monica.

“Khẩn cấp! Cảnh sát đây!” Monica quát khi lên đến đầu hàng đợi. “Tránh ra dùm!” Kéo theo Puggy, cô đi băng băng qua máy dò kim loại đang reo bíp bíp bởi chiếc huy hiệu cảnh sát trên áo cô. Ngay tức khắc, cô thấy một thằng mập thù lù nhảy ra chặn đường.

“Nghe này,” Monica nói. “Đây là công chuyện khẩn của cảnh sát. Tôi cần phải đi xuống phòng chờ đằng kia với anh này, nhờ anh thông báo với cảnh sát sân bay ngay, nói là ...”

“Tôi phải quét người này,” tên mập nói, hươ cái máy quét cầm tay về phía Puggy.

“Bộ điếc hả trời?” Monica sầm mặt. “Đã nói là chuyện cấp bách. Có một con tin đang trên –

“TÔI PHẢI QUÉT NGƯỜI NÀY,” tên mập nghiêm giọng, vung vẩy cái máy quét trước mặt Monica. Luật là luật.

Này thì quét,” Monica nói, giật phăng cái máy khỏi tay tên mập rồi liệng vèo qua vai. Đoạn cô xô nhào hắn qua một bên, kéo tay Puggy tiến về phía trước.

“Ê ê,” tên mập ú ớ. “Khoan! Làm vậy đâu được ...Khoan!”

“Cảm phiền nghen,” Eliot vừa nói vừa chạy vèo qua máy dò kim loại lẫn tên mập; nối gót anh là Anna, Matt và Nina. “Tụi tui đi chung.”

“ĐỨNG LẠI!” tên mập hét toáng, cố lấy thân mình lấp đường băng lên của đám phiến loạn nhưng bất thành. “BẢO VỆ!”

“BẢO VỆ!” mụ X-quang, mụ mặt sắt ngồi cuối băng chuyền, và tất thảy nhân viên chốt kiểm soát cùng đồng thanh hợp rống. “BẢO VỆ! BẢO VỆ!”

Đảm trách canh phòng chốt kiểm soát này là một sĩ quan tên Ralph Pendick, tình cờ là anh trai với chỉ số thông minh ngang ngửa ông em mình là Jack Pendick, người vào xế chiều hôm đó đã kịp thời chặn đứng vụ hạ sát Jenny Herk với súng nước, bằng cách xả đạn thật ở bãi đỗ xe. Phần sự của Ralph Pendick là canh chừng chốt kiểm soát này đến hết ca trực, và y phải dằn lòng lắm mới không bỏ chốt mà đi khi nghe ngóng được qua máy bộ đàm, rằng đang có biến lớn ở quầy Delta. Giương mắt ngó tụi an ninh khác rầm rập diễu qua, xông pha vào lửa đạn, mà tâm can phế phổi y như bị cào xé vì nỗi ganh tị, bởi trước giờ chưa từng có lửa hay đạn nào ở chốt trực của y. Sau cùng thì, xin lỗi chịu hết nổi, Ralph bỏ chốt và cắm đầu chạy về phía quầy Delta. Tức không ai nghe được tiếng kêu cứu của lũ lĩ nhân viên chốt kiểm soát, đang ông ổng “BẢO VỆ! BẢO VỆ” trước những bóng dáng đang xa dần của Monica, Puggy, Eliot, Matt, Anna và Nina.

Tên mập chạy lịch bịch đến chỗ chiếc phôn treo tường, nhấc ống nghe, bấm số, và xổ vào đó tràng tràng những lời lẽ thiếu liền mạch đầy kích động. Hàng rào an ninh đã bị phá vỡ! Một sĩ quan cảnh sát có liên can! Những kẻ xâm nhập không được quét đúng quy cách! Bọn chúng có thể giấu theo ... những chiếc laptop!


23:34


“Thấy gì không?” Leonard hỏi. Hai gã sát thủ đang đứng bên bìa của rừng người rậm rịt trước quầy vé Delta.

“Chịu,” Henry nói, rướn cổ lên hết cỡ. “Chỉ thấy mấy khứa đang cố để thấy.”

“Ày, thây kệ nó,” Leonard nói. “Tao nói mình cứ tới quầy vé.”

“Cũng đáng để thử,” Henry lầm bầm. Hắn đi tiên phong, bon chen qua đám đông đang chí chóe loạn các thứ tiếng. Cóp nhặt từ những câu tiếng Anh hắn nghe được, thì đâu như là có cảnh sát ở đằng trước, rồi có người bị thương, rồi có thứ gì đó đang bò. Khi rừng người trở nên dày đặc, chúng cố sức mở đường máu vượt lên. Henry chơi nhàu, húc văng hết mạng này đến mạng khác, mỗi bước tiến trần ai càng hun đúc quyết tâm của chúng để thoát ... khỏi ... chốn ... địa ... ngục ... trần ... gian ... này.

Khi chúng đã tiệm cận với quầy vé Delta, rừng người đã trở nên bất khả xuyên phá. Hai thằng rơi vào thế gọng kìm, với phía sau là thành phần cố nhoi lên để xem thử chuyện gì đang xảy ra, và phía trước là những kẻ đang hớt hải lùi lại, như để né khỏi thứ gì đó. Những tiếng la hét nhặng xị từ tứ phía, om sòm nhất là khu vực phía trước Henry và Leonard. Thình lình, âm lượng những tiếng hét như được vặn lên hết nấc; đám đông dạt mạnh ra sau ngay đúng lúc Henry và Leonard trên đà lao đến. Hai thằng bổ nhào về phía trước và phút chốc thấy mình lỏng chỏng chơ vơ giữa một trảng trống, vây quanh là trập trùng những khuôn mặt nhăn nhó gào thét. Henry lấy lại được thăng bằng, trong khi Leonard tiếp tục lao đi, vấp lên cái nhà trọ của Pinky và Enid - hai sinh linh hoảng loạn đang thé lên yip yip - đổ oạch xuống sàn, rên hừ hự. Vừa mon men ngóc đầu lên thì hắn đã thấy, cái gì dzậy, trên sàn nhà cách mắt hắn 5 phân ... một cái lưỡi dài ngoằng!


22:58


Snake đang sôi tiết. Từng phút qua đi và hai thằng phi công mặt mụn vẫn lày quà lày quày, nói nhăng cuội vào mấy cái micro cài đầu, còn máy bay thì vẫn ì ra đấy. Snake phóng mắt qua cửa sổ, chú mục vào cánh cửa phòng chờ, lo sợ nó bật ra lúc nào không biết. Cuối cùng, hết chịu nổi, nó vùng phắt dậy rồi ra đứng giữa lối đi.

“Ê!” nó quát lớn. “Nồ máy đi chớ bạn!”

Justin, Frank và các bác hưu trí hằm hằm quay lại, tất cả cùng lé mắt khi chứng kiến một khẩu súng đang chĩa vào buồng lái. Nhóm hưu trí run cầm cập, rúc sâu vào ghế ngồi, tự loại mình khỏi dòng lửa đạn. Justin và Frank nhìn sững vào họng súng, óc não như đông đá. Frank làm ướt luôn cái quần phi công mới.

“Nồ máy NGAY,” Snake nói.

“Chúng tôi ... chúng tôi ...” Justin lắp bắp. “Đúng rồi, cửa. Chúng tôi phải đóng cửa.”

“Cửa nẻo gì để tao lo, mặt mụn,” Snake nói. Nó quyết không để có thêm kẻ đào tẩu. “NỔ MÁY VÀ BAY TỚI BAHAMAS NGAY! KHÔNG TAO BẮN CHẾT MẸ HAI ĐỨA BAY.”

Tới phiên ba trong số bốn người về hưu ướt quần. Justin và Frank quýnh quáng khởi động mô tơ. Một cách từ từ, cánh quạt bên phải máy bay bắt đầu quay.

“Snake,” Eddie lên tiếng. Nó đang nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Sao hả?” Snake nói. Nó khom xuống và nhìn theo hướng Eddie đang nhìn, đoạn chửi um lên “Đ.mẹ. Đ.MẸ.”

Cửa phòng chờ xịch mở. Thằng lùn chó đẻ – thằng bú dù chó đẻ – đang ló cái mặt mẹt của nó ra và chỉ chỏ về phía chiếc máy bay cho ... con mẹ cảnh sát. Con giặc cái chết bầm.

Snake hét về phía Justin và Frank, “BAY NGAY! BAY CON MẸ NÓ NGAY!” Nó quay lại và tập tễnh ra đến cửa máy bay, giương súng nhắm vào nữ cảnh sát, nổ một phát. Tức khắc cô ta thụp vào trong nhà chờ, cắp theo tên lùn và khép cửa.

“CHỚ LÀM ĐÉO GÌ MÀ CHƯA BAY NỮA?” Snake rống lên.

“Phải nổ một mô tơ nữa,” Justin hét trả. Mô tơ bên phải, sau một vài tiếng ho khùng khục và nổ tanh tách, đang gầm vang đầy uy dũng. Cánh quạt trái cũng bắt đầu quay. Snake nhìn lại về phía cửa phòng chờ; có một vết nứt, nhưng nó không thể thấy gì bên trong. Lia mắt về phía trước máy bay, nó thấy Justin đang rù rì gì đó vào chiếc micro cài đầu.

“MÀY NÓI CHUYỆN VỚI AI ĐÓ?” nó hét lên.

“AI ĐÂU,” Justin nói to để át đi tiếng động cơ. “VỚI ẢNH THÔI MÀ.” Chàng chỉ Frank.

“GỠ MẤY CÁI ĐÓ RA,” Snake nói.

“PHẢI CÓ NÓ ĐỂ LIÊN LẠC VỚI ĐÀI KHÔNG LƯU,” Justin nói.

“GỠ NÓ RA, MẶT MỤN,” Snake nói, chĩa súng về phía buồng lái. Justin và Frank lập cập gỡ micro xuống.

“GIỜ,” Snake nói, “ĐƯA BỌN TAO RA KHỎI ĐÂY MAU.”

“CÒN CÁI CỬA?” Justin hỏi.

“CÁI CỬA ĐỂ TAO LO,” Snake quát. Nó định cứ để cửa mở, chí ít trong lúc này, phòng khi cần bắn tiếp.

Justin lắc đầu, nhả phanh và từ từ tăng tốc. Chầm chậm, chiếc máy bay bắt đầu di chuyển.


20:40


Nom rất thủng thỉnh, song Daphne chỉ mất ít giây để lượn vài vòng quanh người Leonard. Leonard ý thức được chuyện gì đang diễn ra, nhưng hắn hoàn toàn bất lực: bất kể hắn vặn vẹo kiểu gì, để tay ở đâu, con Daphne cân hết. Với thần thái như mẫu nghi thiên hạ, nó dần dà bọc lấy con mồi. Leonard cảm biết được nội lực đáng sợ của Daphne, đây mới chỉ vài đường lai rai cho nóng người thôi, nó đâu đã dùng đến cái gọi là sức mạnh. Leonard cố nhiên đang táng đởm thần hồn; nhưng ngay cả trong cơn khiếp sợ ấy, và tiếng ồn như chợ vỡ xung quanh, và cảm giác ghê tởm dâng trào khắp châu thân trước viễn cảnh bị nuốt chửng bởi sinh vật này; não bộ hắn vẫn tìm thấy một gian không để suy cứu về trạng huống lạ lùng hiện tại: Hắn không cảm thấy áp lực nào quá lớn; không có cảm giác đang bị cùm siết. Hắn chỉ thấy việc thở ra càng lúc càng khó, còn hít vào là việc bất khả, khi Daphne, vẫn với dáng điệu khoan thai, thít chặt những mối chùng. Ý thức đang dần rời bỏ Leonard; hắn biết mình đang hấp hối. Thôi thế là hết, hết thật rồi, hắn chua chát nghĩ. Mình sẽ không còn bao giờ gặp lại New Jersey nữa.

Và rồi, trong những le lói cuối cùng của nhận thức, hắn nghĩ: Địt mẹ mấy con rắn!


20:31


Trên cầu thang lúc này chỉ còn hai cô trò Monica và Matt. Sau phát súng của Snake, Monica dặn Eliot và Anna đưa Puggy quay lại ga chính và làm mọi thứ có thể – bất quá cứ đốt đại cái gì đó, cô nói – để đánh động cảnh sát và cho họ hay biết sự tình. Anna cứ muốn nấn ná gần máy bay, Monica phải hết hơi thuyết phục nàng rằng cách tốt nhất để nàng giúp được con gái mình, là đi tìm người hỗ trợ.

“Còn thằng Matt?” Eliot hỏi.

“Matt ở đây phòng khi tôi cần một người liên lạc,” Monica đáp. “Nó sẽ ổn thôi.”

Eliot cùng Anna tất tả chạy ngược lên cầu thang, theo sau là Puggy và Nina. Monica hé cửa nhìn ra chiếc máy bay của hãng Air Impact!. Thân máy bay đang song song với nhà chờ. Muốn di chuyển ra đường băng, nó cần được xoay cho vuông góc với nhà chờ, nghĩa là cửa nhà chờ sẽ khuất khỏi tầm mắt người ngồi trong máy bay. Mô tơ phải của máy bay đang gầm lên, cánh quạt của nó mờ đi trong không khí; mô tơ trái cũng đang dần bắt kịp.

“Em ở đây nghen,” Monica biểu Matt. “Theo dõi qua kẽ nứt này thôi chứ đừng ra ngoài. Chặp ba em trở lại với quân tiếp viện, hãy thuật lại cho họ mọi chuyện.”

Chiếc máy bay bắt đầu xê dịch, lạng từ từ sang phía phải. Chừng các ô cửa sổ của nó đã khuất dạng, Monica ẩy cửa bước ra.

“Mà chị tính làm gì?” Matt hỏi.

“Cố chặn máy bay lại,” Monica nói.

“Chặn bằng cách nào?” Matt hỏi tiếp.

“Chưa biết,” Dứt lời Monica guồng chân chạy một mạch qua đoạn đường trải nhựa, không một lần nhìn lại.


20:17


Đặc vụ Geer đang tả xung hữu đột giữa rừng người, như một xe ủi tuyết lưỡi chữ V quét sạch những gì chắn lối. Những kẻ ngoan cố thấy mình nhanh chóng bị xúc lên và ném đi như những kiện cỏ khô. Lợi hại vậy song Greer, Seitz và Baker vẫn mất đi năm phút quí báu từ lúc còn bên bìa rừng người đến khi quầy Delta ló ra phía trước. Họ nghe bà con la hét chí chóe; thấy những người mặc cảnh phục lớp ra sức trấn áp đám đông, lớp hò hét trao đổi những chỉ dẫn cho nhau và chỉ chỏ về phía ... thứ gì đó trên sàn nhà, chưa thấy được.

“OK,” Greer nói với qua vai trong khi dấn mình về phía trước, giải quyết nốt những centimet cuối cùng của rừng người. “Nhớ nghen, cái va-li là của tụi tôi.”


19:58


Máy bay Air Impact! đang dần tăng tốc, duy nó vẫn tà tà vừa đủ để Monica – vốn là người chạy nhanh nhất trường đến tận năm lớp sáu, khi cô bắt đầu có ngực – có thể áp sát. Cô ngoặt sang trái và thấy cửa vào ở nửa sau chiếc máy bay vẫn đang mở, treo tòng teng một chiếc thang gấp nhỏ. Cô cố không nghĩ đến khẩu súng. Bắt kịp máy bay trước đã.


19:50


Cả đời Henry chưa từng xuống tay với một con rắn, lớn nhỏ gì cũng chưa. Nhưng hắn là một cao thủ, và hắn biết mình phải suy nghĩ thật sáng suốt – mau lẹ nhưng sáng suốt – về đối sách cho trạng huống này. Phải bắn vô đầu con rắn, cái đó đương nhiên, ngặt nỗi viên đạn sẽ không dừng lại. Henry không mong nó trúng vào Leonard, cái đó cũng đương nhiên, song hắn cũng chẳng vui sướng gì nếu nó găm phải bà con nào ở đây. Hắn không muốn bắn xuống, bởi viên đạn sẽ dội lên khỏi nền bê tông dưới lớp thảm này. Henry quyết định phương án tối ưu nhất là bắn lên trần nhà.

Henry khụy xuống và rút khẩu súng từ bao da ra. Đoạn hắn đứng dậy và lượn một vòng quanh Leonard, người đang trợn trạc đôi mắt và gương mặt đã ngả sang màu đỏ bordeaux. Có hai anh cớm gan dạ đang bấu lấy cổ Daphne và mắm môi mắm lợi kéo mạnh, song Daphne vẫn cứ trơ trơ. Chặp Henry tiến đến chỗ họ, một anh cớm khác liền chạy về phía hắn, quát lên gì đó Henry không thể cắt nghĩa giữa tiếng huyên náo chung này; nhác thấy khẩu súng trong tay Henry, anh ta giật mình lui lại. Henry tiếp tục khoe con chó lửa với hai anh cớm gan dạ kia; họ đưa mắt nhìn nhau, đoạn buông Daphne ra và đứng dậy. Tức khắc Henry rạp mình xuống sàn, lăn đến sát cạnh Leonard. Và khi Daphne, tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến, thủng thẳng xoay đầu qua để xem thử chuyện gì đang diễn ra, Henry kê sát nòng súng ngay dưới quai hàm nó, siết cò, và óc não con rắn phọt ra, cũng không nhiều nhặn gì mấy.

Một giây sau, Greer hùng hổ lao qua đám đông, lập tức rút súng khi nghe tiếng nổ và âm thanh hỗn loạn tiếp sau đó. Bất chợt y đứng khựng lại với khẩu súng trong tay, sững sờ nhìn cảnh tượng trên sàn nhà – đầu tiên là Leonard bất tỉnh nhân sự, rồi đến Daphne không đầu, và sau cùng là Henry, vẫn đang ngửa người trên sàn và súng vẫn chĩa lên trần nhà.

Hai vị hảo hán gườm mắt nhìn nhau một chặp. Sau cùng, Henry lên tiếng.

“Đặc vụ Greer,” hắn nói. “Ngọn gió nào đưa ông đến Miami thế?”


19:22


Máy bay đang di chuyển nhanh hơn. Monica thấy mình mau chóng hụt hơi, cô không dám chắc mình có thể bắt kịp nó. Cô cũng không dám chắc mình có quyết tâm bắt kịp nó. Nhưng một nguồn năng lượng nào đó đã bùng dậy trong cô, đốc thúc cô tiến lên, và giờ cô đã gần bắt kịp cái thang. Cô vươn tay trái ra hết cỡ, và trong một giây đã níu được thanh thép lan can bọc plastic, song nỗ lực nhoài người về phía trước khiến cô chậm đi đáng kể, và cái thang vuột khỏi tay cô. Vắt đến kiệt cùng sức lực, phổi như bốc cháy, cô ném mình về phía trước một lần nữa và lần này đã nắm được cái thang, nhưng cô đang mất thăng bằng và ... thôi chết rồi, cô đang ngã và máy bay sẽ bỏ xa và ...

... và Matt, phi như lăng ba vi bộ đến cạnh cô, vực cô dậy và đẩy cô về phía trước, cô nắm được thanh lan can còn lại và đu lên được cầu thang. Leo đến bậc thang thứ hai, cô quay lại chìa tay cho Matt nắm lấy và kéo nó lên. Chỉ một giây sau Matt đã ở bậc thang bên dưới, và giây tiếp theo máy bay đột ngột tăng tốc. Không ai có thể bắt kịp nó lúc này, dù có là người chạy nhanh nhất thế giới.


18:37


Mồ hôi vã như tắm, Eliot cùng các đồng đội kéo về lại chốt kiểm soát an ninh.

“CẢNH SÁT!” anh la lớn. “CẢNH SÁT!”

Phía trước, một đoàn khách tàu du lịch trên đường về đang há hốc mồm nhìn một gã đùng đùng xông đến.

“GỌI 911!” Eliot quát lên với họ trên đường băng qua. “LÀM ƠN. CÓ MỘT THẰNG ĐANG NỔ SÚNG DƯỚI KIA.”

Đoàn khách trố mắt nhìn Eliot lao biến khỏi phòng chờ, với Anna, Puggy, và Nina theo sau. Một người lững thững bước đến chỗ chiếc phôn trả tiền, bấm 911, và thuật lại cho tổng đài viên những lời vừa rồi của Eliot. Tổng đài viên 911 nói cảnh sát đã được thông tin về vụ nổ súng ở sân bay và đã khống chế được tình hình. Vị hành khách thuật lại thông tin đó, và cả đoàn thở phào nhẹ nhõm.


18:08


Monica nhấc mình lên đầu thang rồi chồm qua cái va-li, người cúi rạp. Cô đưa mắt nhìn quanh hàng ghế chót bên trái và thấy thằng Snake đang đứng nghênh ngang giữa máy bay, quay lưng – ơn trời – về phía cô. Nó đang quan sát những phi công.

Người phi công bên trái hét gì đó với Snake, Monica đồ là về cánh cửa. Snake hét gì đó Monica không nghe rõ, rồi chĩa súng vào người phi công. Người phi công nhún vai, trở lại với bảng điều khiển.

Monica bò ngang qua lối đi đến chỗ hàng ghế chót bên phải máy bay. Matt bò vào lối đi và rẽ sang hàng ghế chót bên trái. Nó ném cho cô cái nhìn thay cho câu hỏi: Giờ sao? Monica đưa tay lên ngỏ ý: Cứ chờ đã. Chờ cái gì thì chính cô cũng không biết. Máy bay đã di chuyển đến cuối đường lăn và đang rẽ vào đường băng. Cất cánh đến nơi rồi.


17:41


Vào cái lúc trẽ sang đường Garbanzo, đôi vợ chồng trong chiếc Lexus vẫn chưa thôi cãi lẫy. Họ đã cãi nhau suốt hai giờ liền từ khi bắt đầu bữa tối tại nhà hàng Italy ở Coral Gables. Hai người xung đột về chuyện nên hay không nên ở lại Miami, nơi người chồng được ngân hàng của mình điều đến công tác suốt một năm rưỡi nay, hay khăn gói trở về Cedar Rapids, quê họ. Chàng nghĩ họ nên bám trụ ở đây vì kế sinh nhai; trong khi nàng khăng khăng “đưa nhau lên tàu về quê ta sống vui hơn.”

Đang cãi hăng thì họ suýt tông phải một trự vạm vỡ đứng lù lù giữa đường cái, tay khua khoắng lia. Trên người hắn là một thứ đồng phục nào đó, nhàu nhĩ bẩn thỉu và ướt sũng bởi mồ hôi, và máu đang chảy dọc cánh tay hắn, thứ đang bị ... xích vào một khối kim khí móp méo, và khối kim khí thì ... Quỷ thần ơi, bị xích vào một trự khác ở đầu bên kia, một kẻ nhìn không bình thường chút nào. Kế bên hắn là một con chó bự cốt xì nái.

“Thôi đi lẹ em ơi,” người chồng nói.

“Trông như người ta đang cần giúp mà anh,” cô vợ nói.

“Ừ giúp thì giúp,” người chồng làu bàu, “nhưng mình cứ ở trong xe cho chắc.”

Vẫn giữ máy nổ, người chồng nhấn nút mở khóa rồi cho cửa sổ xe hạ xuống độ 5 phân.

“Anh gì ơi,” gã vạm vỡ nói. “Tôi đây là một sĩ quan cảnh sát Miami, anh làm ơn ...”

“CHẠY ĐI! CHẠY ĐI KHI CÒN CÓ THỂ!” gã quái đản ngắt ngang.

“CÂM MỒM!” gã vạm vỡ nạt. Quay sang đôi vợ chồng hắn nói tiếp, “anh chị làm ơn ...”

“BẢ MUỐN LẤY LINH HỒN ÔNG!” gã quái đản nói, chỉ vào con chó. Nó khịt khịt ngón tay của hắn, rồi sủa gâu gâu.

“CÂM MỒM!” gã vạm vỡ phồng mang trợn mắt, xô mạnh đống kim loại về phía gã quái đản khiến hắn té lăn quay. “TAO PHẢI NÓI BAO NHIÊU LẦN NỮA HẢ? NÓ ĐÉO PHẢI ELIZABETH DOLE!”

Người chồng lật đật dậm ga. Chiếc ô tô vọt đi, bánh xe nghiến đường kêu rét rét.

“ĐỪNG!” gã vạm vỡ tru tréo. “QUAY LẠI ĐI MÀ!”

Người chồng cho xe vọt qua ba khối nhà trước khi mở miệng.

“OK,” chàng nói. “Em phôn cho tụi dọn nhà đi.”


17:01


“Bộ người quen hả?” Baker hỏi Greer. Họ đang đứng cùng Henry quan sát ba cảnh sát cùng hai nhân viên y tế gỡ xác Daphne ra khỏi Leonard, người đang dần lấy lại ý thức. Một người nữa cũng vừa tỉnh lại là chủ nhân của Daphne, chính thức bị cảnh sát câu lưu, và chưa gì đã nhận được một lố danh thiếp từ bốn luật sư chuyên về thương tật cá nhân tình cờ có mặt tại hiện trường.

“Ừ đúng,” Greer gật gù, “Người muôn năm cũ ở Jersey. Hồi tôi còn trực thuộc ban phòng chống tội phạm có tổ chức, hỏi cung Henry suốt mà.”

“Có tổ chức đã mừng,” Henry nói. “Vậy nên tôi mới rút.”

“À vậy ra ông bạn về hưu rồi ư?” Greer hỏi. “Hồi này chỉ lày quày sưu tập tem, uống Ensure?”

“Đại khái vậy,” Henry ừ hử.

“Nhìn là biết mà,” Greer cười nhạt. “Này, tôi rất muốn nghe bạn giải thích với các thầy chú ở đây lí do gì bạn mang vũ khí giết người vào sân bay. Ngặt nỗi tôi đang kẹt một sự vụ liên bang nghiêm trọng, thông cảm nghen?”

“Ừ, có nói chuyện là vui rồi.” Henry đáp qua loa rồi trở lại với Leonard.

“OK,” Greer quay sang Baker và Seitz. “Tụi này là cô hồn chính cống, nhưng không phải tụi cô hồn ta cần. Tôi cần nói chuyện với ai đó phụ trách chỗ này.”

“Người đứng kia. Tôi khá chắc ổng là cảnh sát trưởng sân bay,” Baker chỉ vào một lão đầu bạc bận sơ mi và đeo cà vạt, một tay cầm điện thoại di động kê lên mặt nói chuyện, tay kia là máy bộ đàm đang kêu tít tít. Greer xán lại chỗ lão.

“Không, không ai bị bắn,” lão đầu bạc nói. “Chỉ con rắn bị bắn.” Lão ngừng một nhịp, rồi nói tiếp, “Tôi nào biết cái loại gì. Một con rắn to trời thần.”

Greer xòe cái bóp đựng phù hiệu cho lão thấy.

“FBI,” y nói.

Lão đưa tay gạt cái bóp.

“Ở đây không cần giúp,” lão nói. “Xong xả hết rồi.”

“Không,” Greer nói. “Tôi cần ông giúp.”

“Ủa, vậy hả, chịu khó đợi đi,” lão đầu bạc nói, ngoe nguẩy quay đi.

Greer nhếch lên vài bước, rút chiếc phôn kỳ dị từ túi quần ra và bấm một nút trên đó. Y chờ trong hai giây, rồi nói gì đó qua máy trong hai mươi giây tiếp theo. Đoạn y bấm một nút khác và cho máy vào lại túi quần, quay lại và đến đứng sát bên lão đầu bạc, nhịp chân chờ đợi. Lão đầu bạc làm lơ, tiếp tục nói chuyện qua chiếc phôn của lão chừng ba mươi giây rồi bỗng im bặt, chăm chú lắng nghe.

“Hả?” lão nói, đưa mắt sang Greer. Greer lại xòe bóp ra khoe.

“Vâng,” lão đầu bạc nói qua phôn. “Ông ấy đang ở đây.” Lão nghe thêm gì đó, đoạn chau mày.

“Nhưng ...” lão ấp úng, rồi lại im lặng lắng nghe.

“OK,” lão nói. “Tôi hiểu rồi.” Lão tắt máy, nhìn Greer với ánh mắt khác hẳn.

“Tên tôi là Arch Ridley,” lão nói. “Nói tôi biết ông cần gì.”

“Tôi cần ông cho biết bất cứ chuyện khác thường nào xảy ra ở sân bay này, trong ba mươi phút vừa qua,” Greer nói. “Ngoài vụ lộn xộn ở đây.”

“Để tôi điện phòng bảo vệ,” lão bấm một số điện thoại, chờ đợi, rồi nói sang sảng, “Doris. Arch đây. Nghe này, có gì ... Gì? Hả? Trời đất ơi. Hồi nào?”

“Gì vậy?” Greer nôn nóng hỏi. Ridley đưa tay lên, ra hiệu chờ xíu.

“Bậy, đâu phải lỗi cô,” lão nói, “tin tức lu bù quá, tổng đài người ta bận thôi. Rồi mấy người đó còn ... OK ... OK ... chết mẹ rồi. OK. Cứ trực điện thoại. Tôi gọi lại liền.” Đoạn lão tắt máy.

“Sao hả?” Greer vồn vập.

“Năm phút trước,” Ridley nói. “đài không lưu nói họ nhận được tin từ viên phi công trên mặt đất, nói có thằng nào xách súng lên máy bay của ảnh, buộc ảnh cất cánh.”

“Ôi trời,” Greer nói.

“Đài không lưu cố bắt liên lạc, không thấy phản hồi gì ráo,” Ridley nói. “Máy bay mới ra khỏi đường lăn, mới cất cánh tức thì đây.”

“Bỏ mẹ,” Greer nói. “Nó đi đâu?”

“Chuyến bay hãng Air Impact!,” Ridley đáp. “Máy bay cánh quạt. Đi Bahamas.”

“OK,” Greer nói, “nghe đây, gọi đài không lưu, bảo họ theo dõi chiếc máy bay, cố giữ liên lạc với họ. Lối nào đến quầy Air Impact!?”

“Lối này,” Ridley chỉ tay, “cũng hơn nửa đường quanh ga đó. Để tôi ...”

Song Greer, Seitz, và Baker đã co giò chạy thục mạng.


15:21


Chuyến bay 2038 cất cánh theo chiều gió thịnh hành, về phía tây. Khi máy bay đạt đến cao độ bên trên Everglades, Justin bẻ lái sang trái, tạo ra một cú ngoặt dài, chậm rãi đến khi máy bay gần như trực chỉ về phía đông, tiến về phía trung tâm Miami, vượt khỏi Biscayne Bay, đến mút phía nam của thành phố Miami Beach, và tiếp đến là Đại Tây Dương. Justin nguyện cầu sao cho trạm kiểm soát không lưu đang thông báo cho các trạm khác vị trí của anh, bởi không có radio, anh không thể nhận được những chỉ dẫn bay.

Justin liếc qua Frank, và cái mà anh chứng kiến không hay chút nào: Frank đã hóa zombie. Giờ thì mọi hi vọng đặt hết lên vai Justin, vị thuyền trưởng đơn độc, đương đầu với thằng điên có súng này. Anh nghĩ cần nhất là đừng chọc giận nó mà chết lãng, cứ làm theo lời nó, chở nó tới Freeport. Họ sẽ dò qua ra-đa, sẽ thông báo cho cơ quan chức năng, đội giải cứu sẽ được gửi đến.

Justin bám riết lấy ý nghĩ đó. Cứu viện đang đến.


15:06


Greer vừa chạy vừa nói chuyện qua chiếc phôn kỳ dị. Baker xấp xãi bám theo, nghe lõm bõm tiếng được tiếng mất. Từ duy nhất ông nghe rõ là: “máy bay chiến đấu.”
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
MƯỜI BA





14:16


Toán nhân viên an ninh nhác thấy Eliot từ phòng chờ đang lao về phía họ, mồm la ông ổng: Cảnh sát! Cảnh sát! Và khi anh đến gần chốt kiểm soát, họ nhận ra đó là một gương mặt trong bè lũ phản động vài phút trước, tụi ngất ngư không coi thủ tục an ninh ra gì.

“CHẶN HẮN LẠI!” tên mập quát, chỉ vào Eliot.

“CHẶN HẮN LẠI!” mụ X-quang, mụ mặt sắt ngồi cuối băng chuyền, và toàn thể nhân viên chốt kiểm soát cùng bắt giọng la: “CHẶN HẮN LẠI!”

Vừa lúc Eliot trẽ phải đến lối ra chốt kiểm soát, khi không xuất hiện ba thanh niên, trên đường về Pittsburgh sau một tuần thác loạn ở South Beach, nhảy xổ ra chặn đường anh. Cả ba thằng nhìn là biết dân tập tạ, tập trung lấy điểm ở phần bắp tay. Thằng nào cũng phong phanh áo ba lỗ, trang phục trường kì kháng chiến của chúng, trừ phi nhiệt độ xung quanh hạ xuống dưới bốn độ celsius.

“Tránh coi!” Eliot nói, cố lách qua mấy tấm thân trâu bò. “Tôi phải tìm cảnh sát.”

“BẮT HẮN!” tên mập bảo vệ hét tới.

Một trong ba thằng túm lấy tay Eliot.

“Từ từ đã, chú ba,” nó nói.

“Nghe dùm,” Eliot cố giữ giọng bình tĩnh. “Tôi phải tìm cảnh sát gấp. Có một thằng đang bắn loạn dưới kia kìa.” Anh giựt tay ra.

“ĐỪNG ĐỂ HẮN THOÁT!” Vẫn là tên mập.

Ba lực sĩ trẻ quyết định nghe lời tên mập, bởi dù gì hắn cũng đang mặc áo cánh đồng phục, đáng tin hơn chắc. Cả ba mạng hùng hổ xáp vô Eliot.

“ĐỪNG MÀ!” Eliot hét toáng lên, giãy giụa cố thoát thân. “TÔI CẦN PHẢI úi cha.”

Eliot tưởng đâu đã tắt thở luôn khi ngã ập mặt xuống sàn nhà lót thảm, với ba tấm thân trâu bò đè lên mình. Người vừa nốc ao cả bọn là đả nữ Anna, đã dũng mãnh phi thân vào đống hỗn loạn, và giờ đang đấm bụp bụp lên đầu một thằng lực sĩ.

“Buông ảnh ra coi, mấy thằng ngu này!” nàng hống lên. “ Ảnh đang tìm người giúp mà!”

“BẮT CON MẸ ĐÓ LUÔN!” tên béo dậm chân. “Ả LÀ ĐỒNG BỌN!”

Một thằng lực sĩ giật cùi chỏ vào bụng Anna, khiến nàng văng ra khỏi đồi người, rên ồng ộc. Hai thằng còn lại, mỗi thằng siết một tay Eliot, chà mặt anh xuống sàn như giẻ lau. Eliot hết ú ớ nổi, và anh có cảm giác tay phải của mình sắp long ra tới nơi. Thu hết sức tàn, anh gượng nhấc người lên trong nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, và ...

... và một thằng lực sĩ đã biến mất. Rồi đến một thằng khác. Eliot lật người sang phải và chứng kiến thằng lực sĩ thứ ba đang chao liệng giữa không trung, đập cái chạch vào tường, rớt xuống nằm cạnh hai thằng kia.

Người thực hiện những cú ném là Puggy, cả đời chưa đụng đến quả tạ nào, nhưng rất có tài khuân vác vật nặng. Nó khom xuống – hòm hòm thôi là đủ – ân cần đỡ Eliot dậy. Nina đang giúp Anna, người vẫn đang thở một cách khó nhọc.

“AI BẮT TỤI NÓ LẠI ĐI CHỚ!” tên béo lại hét ỏm tỏi, dù riêng hắn chả rục rịch xíu nào.

“Ra khỏi đây thôi,” Eliot bảo Anna, nàng gật đầu tỏ ý vẫn ổn và phất tay giục anh đi nhanh. Với Eliot tiên phong, bè lũ phản động phới khỏi chốt kiểm soát an ninh rồi trẽ phải. Vài mống bảo vệ lúp xúp nạp theo, í ới kêu gọi bà con chặn tụi này lại dùm. Eliot vừa chạy vừa đau đáu nhìn quanh đám đông đang trố mắt; tụi cớm đang ở cái kẹt cái hóc nào vậy trời?


13:36


Vào lúc Greer, Seitz, và Baker đến quầy vé Air Impact! thì nó đã vắng hoe, không còn chuyến bay nào trong đêm đó, và nàng Sheila đã về nhà để chăm con ốm.

“Giờ sao?” Baker hỏi.

Greer đang dán mắt vào lịch trình bay của Air Impact! trên bức tường sau quầy vé.

“Đi đến chỗ cổng nhà ga,” y nói. “Tìm coi thằng nào bốc hành lí lên máy bay, hỏi nó xem có ai trên đó.”

“Lối này,” Seitz nói.


13:00


Máy bay 2038 đang xuôi qua thành phố Miami Beach. Những chòm sáng miên man rực rỡ của Hạt Dale đã nằm lại ở phía sau, và Đại Tây Dương trải ra trước mắt như một thảm đen bạt ngàn, điểm xuyết li ti những ánh đèn từ vài chiếc tàu hàng phương bắc tuồng như bất động giữa làn vận chuyển Gulf Stream. Justin thấy cô đơn vời vợi. Kế bên anh, Frank sững đơ như người chết bởi nỗi khiếp hoảng. Cùng lúc sau lưng anh, hai cặp vợ chồng bưu điện về hưu thu mình trên ghế như mấy con cuốn chiếu, hai bà vợ thút thít khóc trong khi hai ông chồng nhìn trừng trừng xuống sàn máy bay. Đằng sau họ, thằng điên vẫn đang nghênh ngang giữa lối đi, tay lăm lăm súng, mắt gườm gườm như diều hâu canh mồi. Nó chỉ trao đổi với Justin đúng một lần, quát lớn để át đi tiếng ồn từ động cơ máy bay.

“Hai điều thôi, mặt mụn,” nó hăm. “Mày rớ tới cái radio, mày chết. Máy bay không đáp xuống Bahamas, mày chết.”

Justin biết thằng này phải điên nặng mới bắn anh, bởi nếu vậy ai lái máy bay? Nhưng anh cũng biết, thằng này không điên mới là lạ, bằng không sao nó lại làm tất cả chuyện này?

Lo lắng chồng lắng lo, một tiếng báo động cứ kêu tít tít suốt trong tai Justin, nhắc anh rằng cửa ra vào hãy còn chưa đóng. Cái cửa, rồi cái thang, đang khiến cho việc điều khiển máy bay trở nên bất thường hơn bao giờ hết. Justin lo ngay ngáy về việc hạ cánh ở Freeport. Đó là nếu họ có bao giờ đến được Freeport.

Làm ơn, anh nghĩ – dù không chắc mình gửi gắm ý nghĩ ấy cho ai – làm ơn cho người đến cứu.


12:26


Hai chiếc F-16 đã dùng đến rocket để cất cánh khẩn cấp từ Căn Cứ Dự Bị Không Quân Homestead, Nam Hạt Dade. Vừa vút lên không trung là chúng tức thì rẽ sang hướng đông bắc, và chưa đầy một phút chúng đã tiệm cận với vận tốc âm thanh, thu hẹp đáng kể khoảng cách với chiếc máy bay dân sự phía trên Miami Beach, như thể nó di chuyển không nhanh gì hơn mấy con tàu hàng trên Gulf Stream. Mệnh lệnh của các phi công máy bay chiến đấu là hiện diện ở phía sau và bên trên chiếc máy bay dân sự, bám sát nhưng ngoài tầm nhìn của nó. Họ không được khai hỏa những quả tên lửa. Chưa tới lúc.


11:49


Greer, Seitz, và Baker trông thấy khi đang băng qua đám đông, một gã mặc quần soóc áo phông đang chạy đến từ phía đối diện, bộ điệu lo quýnh.

“CẢNH SÁT!” gã hét lên.

Greer và Seitz lơ đẹp; giờ đâu phải lúc lo chuyện bao đồng. Song Baker thì nhìn chằm chằm vào mặt gã. Ông nhớ mài mại đã thấy nó ở đâu rồi. Đoạn ông thấy người đàn bà đang chạy sau lưng gã, thôi rồi khỏi trật!

“Bà Herk!” ông lên tiếng gọi. Đôi nam nữ khựng lại, ngoái cổ nhìn ông.

“Tôi là Thám tử Baker,” ông nói, “Sở cảnh sát Miami.”

“Tạ ơn Chúa!” Anna vội túm tay Baker. “Ông cần phải ...”

“Khoan,” Baker nói. Ông gân cổ hét gọi Greer và Seitz, những người đã mất dạng trong đám đông phía trước, “Đặc vụ Greer! Quay lại đây đi!”

Greer hối hả chạy lại, sốt ruột gắt lên “Chuyện gì?”

“Đây là Bà Herk,” Baker nói. “Cái va-li trong ngôi nhà ấy. Đó là nhà của bà ta.”

Greer tức khắc túm tay Anna.

“Bà Herk,” y nói, “Tôi bên FBI. Tôi cần bà ...”

“Con gái tôi,” Anna nói. “Nó đang ở trên máy bay với tên đó, hắn nổ súng vào bọn tôi, ông làm ơn ...”

“Nghe tôi này bà Herk,” Greer nói, giờ thì ông đang nắm chặt Anna bằng cả hai bàn tay mình. “Bọn tôi lo cho con gái bà chứ, nhưng bọn tôi cần biết cái va-li kim khí ấy đang ở đâu?”

Anna lắc đầu. “Tôi chịu ... Tôi thấy chúng có nó từ trước rồi, chúng đem nó theo lúc rời nhà tôi ...”

“Nó có trên máy bay không?” Greer hỏi dồn. “Chúng có mang cái va-li ấy lên máy bay không?”

“Tôi không biết,” Anna riu ríu, nước mắt lưng tròng. “Tôi không biết gì về cái va-li hết.”

“Bà Herk,” Greer lay mạnh tay nàng, “bà cố gắng dùm cho ...”

Eliot kéo xịch Anna ra và sấn đến trước mặt Greer. Mũi họ chỉ cách nhau một phân.

“Người ta đã nói không biết rồi mà,” Eliot xẵng giọng. “Người ta muốn con gái mình kìa. Ai hơi đâu mà quan tâm tới cái va-li chó đẻ của ông?”

“Ông là?” Greer hỏi.

“Tôi là bạn cổ,” Eliot nói.

“À bạn, bạn nghe dùm,” Greer nói, “nếu bạn muốn cứu con gái cổ, bạn bắt buộc phải quan tâm tới cái va-li chó đẻ đó.”

“Cổ không biết gì đâu,” Eliot nói. “Cổ đi chung với tôi mà. Anh này mới đi cùng cái va-li nè.” Eliot chỉ vào Puggy vừa tất tả chạy đến.

Greer quay sang Puggy.

“Anh là?” y hỏi.

“Puggy,” Puggy đáp.

“Anh đi cùng cái va-li sao?” Greer hỏi. “Cái bằng kim khí ấy? Anh thấy nó chứ?”

“Thì tôi rinh nó chớ ai,” Puggy nói. “Nặng dữ thần.”

“Anh rinh nó ?” Greer tròn mắt. “Mà rinh đi đâu?”

“Lên máy bay,” Puggy nói.

“Nó đang ở trên máy bay?”

“Phải,” Puggy đáp.

Greer suy nghĩ trong một giây, đoạn hỏi, “Có ai mở va-li ra chưa?”

“Ở chỗ kia,” Puggy trỏ về phía chốt kiểm soát an ninh.

“Họ mở nó ra ở đó hả?” Greer hỏi.

“Phải,” Puggy gật đầu. “Họ biểu thằng đó bật nó lên coi thử.”

Mặt Greer bỗng tái mét.

“Nó bật lên bằng cách nào?” y hỏi.

“À thì ... đại khái có mấy cái công tắc, nó làm như này ...” Puggy hươ hươ tay như đang diễn kịch câm, bật mấy cái công tắc tưởng tượng.

“Rồi sao?” Giọng Greer lạc hẳn đi. “Có gì xảy ra sau khi nó làm thế không?”

“Đèn nháy,” Puggy nói. “Mấy con số nhỏ nhỏ.”

Greer liếc mắt sang Seitz và Baker, những người đang đờ mặt lắng nghe. Seitz trông trắng nhợt như một thây ma. Baker nhìn như mới trúng gió.

Greer lại quay sang Puggy. “Chuyện đó xảy ra lúc nào?” y hỏi. “Nó bật lên lâu mau rồi?”

Puggy nhẩm tính trong đầu.

“Ờ cũng lâu rồi đó,” nó nói.


07:43


Hai chân Monica tê rần vì phải cúi gập người trong không gian chỉ vừa đủ để người ngồi ghế nhét chân vào. Cô đang vắt óc suy nghĩ, song thật khó với tiếng gầm gào của gió và động cơ lùa qua cánh cửa mở.

Hai lần, rất thận trọng, cô nhô đầu lên vừa đủ để quan sát từ hàng ghế trước mặt đến đầu máy bay. Cả hai lần, Snake đều nhìn ra trước. Một lần cô nghe nó nói gì đó với phi công, song không xác định được nó nói gì.

Cứ chốc chốc cô lại trao đổi bằng ánh mắt với Matt, người đang thu mình sau băng ghế cạnh lối đi. Cô cố để tỏ ra tự tin, dù thâm tâm đang nói điều ngược lại. Cô không có một kế sách nào cả. Tính tới tính lui chỉ thấy mỗi nước nhảy vào thằng Snake từ phía sau, mà lúc đó kiểu gì nó chẳng bóp cò, nghĩa là mạo hiểm tính mạng của các hành khách phía trước nó – Monica không biết là bao nhiêu người. Và tất nhiên là các phi công. Mấy khứa đó mà dính đạn là khỏi ai sống. Mặt khác, nếu cô không sớm khống chế thằng Snake này, sợ nó cũng giết sạch không chừa mạng nào quá. Thằng này nó điên có chứng chỉ luôn rồi.

Monica đánh mắt với Matt, thêm một tín hiệu “hãy vững tin”. Nó nhìn cô với vẻ sượng trân. Rõ ràng nó đang sợ.

Monica nhủ thầm, Thằng nhỏ có lí.


06:22


Greer đang đứng bên lề đám đông trong ga chính, cạnh một quầy vé đã đóng cửa, nói chuyện qua chiếc phôn kỳ dị. Seitz và Baker đứng gần bên, dỏng tai nghe ngóng. Cách đó mấy bước là Eliot, đương choàng tay quanh Anna, và Puggy, đương nắm tay Nina.

“Chưa có tin gì từ phi công ư?” Greer nói vào điện thoại. “OK, vị trí của anh ta là ... OK. Bên Homestead sao rồi? Họ ... rồi, OK, rồi.” Greer nhìn đồng hồ. “OK, quyết định vậy đi.”

“Tôi không hiểu,” Anna nói với Baker. “Sao không ra máy bay mà cứ xàng xàng đây chi vậy? Sao ông không điều cảnh sát ra đó?”

“Bà Herk à,” Baker nói, “máy bay đã cất cánh rồi.”

“Lạy Chúa,” nàng thảng thốt, lấy tay bưng mặt. Eliot ôm ghì nàng, tưởng tượng nếu là Matt trên chiếc máy bay đó, anh sẽ thấy thắt ruột thắt gan đến nhường nào.

“Nhưng họ đang lần theo nó,” Baker nói. “Họ theo dõi nó qua ra-đa. Ổng đang thảo luận với họ về chuyện đó.”

“Sau đó thì sao?” Eliot hỏi. “Khi máy bay hạ cánh, họ sẽ tóm cổ thằng đó chớ?”

Baker đưa mắt qua Seitz.

Seitz đáp lạnh tanh, “Bằng mọi giá.”


05:55


Tiếng phành phạch liên hồi khiến thằng Snake xoắn hết cả não. Nó nghĩ thôi thì làm siêng ra đóng cửa vậy. Vẫn hướng mặt về phía buồng lái, nó tà tà bước lùi về phía cuối máy bay.


05:45


Baker xô ào Seitz sang một bên rồi tiến đến chỗ Greer, người vẫn đang thao thao bất tuyệt qua điện thoại.

“Ông có ý gì? ‘Bằng mọi giá’ là ý gì hả?” Baker hỏi.

“Thì như tôi đã nói.”

Baker trừng mắt nhìn Seitz. Cách đó mấy bước, Greer đang nói, “Nghe chưa? Đưa máy cho ... A xin lỗi, tôi không nhận ra giọng ông. Vâng, sir. Tôi hiểu rồi. Vâng, sir, họ đã nhận được chỉ thị.”

“Chỉ thị gì? Ai nhận?” Baker hỏi Seitz.

“Bé mồm thôi,” Seitz nhăn mặt, hất hàm về phía Anna.

“Là máy bay chiến đấu phải không?” Baker hạ giọng. “Nghe Homestead là tôi nghi rồi. Các ông muốn bắn hạ chiếc máy bay đó phải không?”

Seitz đáp khan, “Bằng mọi giá.”


05:12


Snake đang lùi từng bước một về phía cuối máy bay, mắt vẫn nhìn chừng các phi công. Nó đang đứng ở hàng thứ ba từ dưới lên. Rồi đến hàng thứ hai. Một bước nữa thôi nó sẽ sát rạt cô trò Monica và Matt. Monica biết mình không còn lựa chọn nào khác.


04:52


“Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác,” Greer nói với Baker đang đứng trước mặt y. Họ đang thấp giọng hết mức có thể, tránh để Anna và Eliot nghe thấy.

“Rồi còn những người vô tội trên máy bay?” Baker nói. “Con gái chị kia đang ở trên đó.”

“Với một vũ khí hạt nhân sắp phát nổ,” Greer nói. “Nếu nó nổ ở Bahamas, rất nhiều người vô tội sẽ chết, ông cũng biết mà? Chết như rạ. Cho nên phải xử lí nó ngay bây giờ.”

Chợt một người đàn ông bận sơ mi golf Greg Norman xịn, mũ Greg Norman xịn, quần Greg Norman xịn khều vai Baker. Ông ta phải khều mấy cái nữa Baker mới chịu quay lại.

“Gì đây?” Baker nói.

“Cho hỏi Hàng Không Northwest đi lối nào anh?” ông ta hỏi.

“Không biết,” Baker đáp rồi quay lại với Greer. “Phải có cách nào thông báo cho họ chứ?” ông hỏi. “Báo với họ ...”

Ông kia lại khều Baker, “Có gì kiểu như ...”

“BIẾN,” Baker nạt.

“Ầy, gì nạt nộ dữ vậy,” người đàn ông lí nhí rồi lủi thủi về lại chỗ bà vợ bận chiếc đầm Hawaii rộng rinh như cái lều cưới, ấm ức kể với bà về thằng cha cục súc kia.

“Có cách nào cho họ biết chuyện không ông?” Baker hỏi Greer. “Bảo họ liệng cái va-li ra khỏi máy bay?”

“Bọn tôi cố lắm rồi ông ơi,” Greer nói. “Vẫn đang cố đây. Mà khổ quá, thằng phi công nó không phản hồi.”

“Nhưng ông cũng đâu thể nào ...” Baker giơ hai bàn tay lên, rồi buông thõng chúng.

“Bọn tôi phải làm thôi ông ạ,” Greer nói. “Bọn tôi bắt buộc phải làm. Có ai vui với cách này đâu. Có ai muốn cách này đâu. Nhưng nó đã được bàn thảo rồi, tin tôi đi, bàn nát nước nát cái rồi, và đây là phương án duy nhất.”

Baker ái ngại đưa mắt sang Anna. Nàng đang tha thiết nhìn ông và Greer, những đại diện cho Luật Pháp và Trật Tự, chờ họ đến nói với nàng rằng con gái nàng sẽ bình an vô sự thôi. Ánh mắt Baker trở lại với Greer.

“Rồi chừng nào làm?” ông hỏi.

“Khi máy bay đến giữa dòng Gulf Stream,” Greer nói. “Trên vùng nước sâu.”

“Còn bao lâu nữa?” Baker hỏi.

Greer ngó đồng hồ đeo tay.

“Ba phút nữa.” y đáp.


03:17


Snake khựng lại ở hàng ghế trước chỗ nấp của Monica. Cô có thể thấy phần sau của chân nó; nó vẫn chưa quay lại. Nó đang quát tháo gì đó không rõ với người phi công, chuyện gì đó về radio.

Monica đưa mắt qua Matt đang ở bên kia lối đi, hất đầu về phía Snake, đoạn làm một động tác túm bằng cả hai tay, ngụ ý Ta sẽ nhảy vào nó. Matt gật đầu. Monica giơ bàn tay phải ra, với ngón trỏ và ngón giữa chúc xuống như hai cái chân, đoạn lấy ngón trỏ bàn tay trái chọt lên giữa hai cái chân đó, ngụ ý Đá vô dái nó. Matt lúng túng ít giây trước ám hiệu ấy, đoạn hiểu ra và gật đầu lần nữa. Một ý nghĩ vụt qua trong trí Monica: cậu Matt này sáng láng hơn nhiều so với cộng sự của cô, Walter.


02:37


Hai chiếc F-16 đều được trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt AIM-19, tên thường gọi là “Sidewinder” (*), và AIM-120 AMRAAM, còn gọi là hỏa tiễn không đối không tầm trung tân tiến, định vị bằng radar. Bởi họ đang ở cự li gần, và máy bay 2038 có những động cơ phản lực cánh quạt phát ra đủ nhiệt lượng cần thiết, các phi công nhất trí sẽ dùng loại Sidewinder. Họ thông báo qua radio về quyết định này, và chỉ thị họ nhận lại là: Hãy tiến hành khai hỏa.


(*) Tên lửa tầm nhiệt, đặt tên theo một giống rắn dùng khả năng cảm nhiệt để săn mồi.


01:58


Snake lùi thêm bước nữa. Nó hiện ở ngay trước mặt Monica và đang xoay người sang trái, về phía cánh cửa, tức khẩu súng của nó đang hướng về phía Matt. Monica vùng dậy từ tư thế khom mình, túm phắt lấy tay phải của Snake, cánh tay có súng, và tức khắc bóp mạnh nó. Thình lình, một cơn chuột rút tai ác truyền đến nửa sau đầu gối phải của cô một cơn đau tê tái, và cô khụy xuống. Vừa lúc cô lả người sang bên, Snake vùng hất tay cô ra đoạn quay phắt lại, siết cò súng. Cả thân mình Monica nẩy tung về phía sau, giập mạnh vào cửa sổ, đổ gục xuống sàn. Trên cửa sổ là một lỗ đạn lấm lem máu, với kích thước một quả bóng mềm.

Vừa lúc Monica đọ sàn là Matt nhào đến, hai tay kẹp cứng người Snake, cố ghìm nó lại. Song thằng Snake mạnh hơn, nó cấp kì xoay người sang trái trong gọng kìm của Matt, vung súng tống một cú nẩy lửa vào một bên sọ Matt. Matt ngất ngư lảo đảo, rũ người xuống băng ghế bên phải máy bay.

Ở phía đầu máy bay, mấy bác bưu điện về hưu vội rúc xuống sàn khi nghe tiếng súng, răng đánh lập cập. Trên chút nữa, cơ phó Frank cũng làm in hệt vậy. Justin xoay lại và thấy thằng điên đang đập lộn với ai đó, Justin không đoán nổi là ai. Tức khắc anh quay lại, chụp cái tai nghe radio.


01:14


“Đúng vậy,” Greer nói vào chiếc phôn kỳ dị. Y đang nhìn đồng hồ. “Lệnh đã được ban. Tôi nhắc lại, lệnh đã được ban. Tiến hành đi.”


01:12


Snake đang nổi trận lôi đình. Con mẹ cớm và thằng nhõi! Thế đéo nào mà tụi nó vác xác lên được đây? Nó nhìn xuống ả cớm; mắt ả vẫn đang mở, nhưng nó không chắc ả có thấy gì hay không. Nó quay lại nhìn thằng nhõi đang rên rỉ, vẫn còn cục cựa được. Chắc chắn là còn sống. Không lâu nữa đâu, thằng nhõi.


00:59


Greer áp chặt chiếc phôn kỳ dị vào tai. “Gì hả?” y cao giọng. “Hắn nói gì?”

“Gì vậy?” Baker hỏi, xáp lại gần Greer. “Gì vậy?”

“Phi công báo về rồi,” Greer nói. “Hắn ... chờ chút.” Y lắng nghe với sự tập trung cao độ. “OK,” y nói rồi nhìn đồng hồ. “Hỏi hắn cái va-li có trên máy bay không. Nghe chưa? Hỏi hắn có thể tống cái va-li ra khỏi máy bay ngay lập tức được không.” Y lại nhìn đồng hồ. Bỏ mẹ rồi.


00:41


Snake giương súng lên, nhắm vào đầu Matt.

“Snake!” Ai đó hét lên. Snake xoay mặt sang phải. Đó là thằng Eddie, nó đã ra đứng giữa lối đi.

Vẫn chĩa súng vào đầu Matt, Snake lừ mắt, “Mày muốn con mẹ gì đây?”

“Snake, trời đất quỷ thần ơi,” Eddie lắp bắp, chỉ vào Monica. “M-mày bắn cảnh sát hả?”

“Chính xác,” Snake nói. “Giờ tao sẽ bắn thằng chó này.”

“Snake,” Eddie hổn hển, “Mày điên mẹ nó rồi. Tao không m ...”

Snake túm áo Eddie, xoay một vòng rồi hất tung nó qua người Matt, vào thẳng bức tường cuối máy bay. Eddie đập lưng vào tường, rũ xuống sàn, ngay cạnh cái va-li.

“CẤM NÓI TAO ĐIÊN NGHE CHƯA,” Snake nạt.

“Snake,” Eddie tức tưởi, “chừng hạ cánh, tao sẽ không đi với mày đâu.”

Snake nổ một phát. Eddie thét toáng lên, lăn cù cù trên sàn, tay ôm lấy bắp đùi đang trào máu.

“Ai khiến,” Snake quát. “Mày đéo có cửa đi chung với tao.” Đoạn nó lại xoay người về phía Matt, giương súng lên.

Jenny nhảy xổ vào Snake, quắp hai chân cô quanh thắt lưng nó, một tay nắm tóc nó, tay kia cào cấu điên cuồng vào mắt nó. Nó quờ quạng đưa bàn tay trái lên cố giằng cô ra, cô cắn phập vào đó, răng ngập lút xương.


00:26


Hai chiếc F-16 đang ở ngay phía sau mục tiêu, ở vào một vị trí bắn như trong sách giáo khoa. Mục tiêu di chuyển chậm và không có bất kì biện pháp né tránh nào. Xác suất để những quả Sidewinder đi chệch mục tiêu là zero.


00:24


Snake rú lên lồng lộn và giật bàn tay máu me ròng ròng ra khỏi miệng Jenny. Nó vung bàn tay còn lại từ dưới lên, thúc mạnh nòng súng vào dưới quai hàm Jenny. Đầu cô bật hẳn ra sau, và cô rơi đạch từ người nó xuống giữa lối đi.

“CON GIẶC CÁI,” nó vừa tru tréo vừa vung chân đá vào người cô. “ÔNG GIẾT MÀY, CON GIẶC CÁI.” Lưng úp xuống sàn, Jenny lập cập lết người lên phía trên lối đi.

“MÀY CHẠY ĐẰNG TRỜI, CON GIẶC CÁI,” Snake chĩa súng vào Jenny.

Bất giác nó nghe thấy, át cả tiếng ồn của máy bay, tiếng cái gì đó đánh thịch ở phía sau. Nó ngoái cổ nhìn. Coi, thằng Eddie, máu me lênh láng khắp đùi, đang hừ hự đẩy cái va-li về phía mép cửa. Mắt nhắm tít, răng nghiến chặt, nó đang cố sống cố chết tống cái va-li ra khỏi máy bay. Giờ thì một nửa cái va-li đã nằm ở ngoài trời, giữa những tiếng gió rít hung tợn.

“ĐỪNG!!!” Snake hét một tiếng chói lói. Nó bổ nhào xuống phía cuối máy bay. Vừa lúc nó đến nơi, Eddie dồn hết sinh lực cho cú đẩy cuối cùng, và cái va-li từ từ lật khỏi mép cửa. Đá văng Eddie sang một bên, Snake nhoài người ra khỏi cửa, cố túm lấy cái quai va-li bằng bàn tay trái. Nó nắm được cái quai, và gần như kéo lại được cái va-li. Duy nó đã nhoài người về phía trước hơi xa, trong khi cái va-li lại hơi nặng. Snake cảm nhận khối kim khí trình trịch đang kéo nó ra khỏi máy bay. Nó bám lấy cạnh cửa với bàn tay phải, nhưng lại kẹt khẩu súng trong bàn tay ấy nên sức mấy nó bám chặt nổi. Nếu chịu buông cái va-li ra, nó còn đường đu cái thang gập, còn đường lên lại máy bay, còn đường cứu lấy cái mạng mình. Nhưng hỡi ôi nó quá muốn cái va-li ấy; cái va-li làm trùm của nó. Snake vẫn nắm cứng cái va-li khi nó nảy cọc cọc xuống đáy thang, văng khỏi nấc cuối cùng, dắt tay Snake vào cõi u minh lộng gió, phía trên đại dương bao la mịt mùng.


00:14


Justin nghe những tiếng xóc nảy, và cảm biết được sự thay đổi trọng lượng bất chợt ở nửa sau máy bay. Anh ngoái cổ nhìn và không còn thấy bóng dáng thằng điên lẫn cái va-li. Anh tức khắc hét váng vào chiếc micro cài đầu.


00:11


Greer đang đỏ mặt quát vào chiếc điện thoại kỳ dị, khiến các hành khách trong ga phải dừng bước và ái ngại nhìn y.

“HỦY HỦY HỦY,” y quát. “NGHE KHÔNG HẢ? HỦY HỦY HỦY.”



Snake đang trôi rơi, trôi rơi. Sợ thì có sợ, duy nó vẫn đang suy nghĩ một cách thông suốt. Nó đã không buông bỏ chiếc va-li này. Nó sẽ không buông bỏ chiếc va-li này. Chiếc va-li ông trùm của nó. Nó sẽ song hành với người bạn này cho đến tận cuối cuộc đời.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
MƯỜI BỐN




Báo chí ngày hôm sau ngập tràn tin tức.

Tâm điểm là câu chuyện về trận sóng sát thủ, cao hơn ba mét, vỗ vào Nam Florida lẫn Bahamas. Trận sóng làm rung chuyển cả những tàu chở hàng lớn; úp nhào những tàu thuyền nhỏ hơn, may mắn là không có ai bị thương. May nữa là trận sóng diễn ra vào ban đêm, khi các bãi biển thưa người đi lại. Đã có những thời khắc hãi hùng và thiệt hại không thể nói là nhỏ, nhưng không có người chết đuối nào.

Nguyên nhân gây ra trận sóng, đến thời điểm này, vẫn là một bí ẩn. Phỏng đoán khả tín nhất từ các chuyên gia là nó được gây ra bởi một cơn địa chấn dữ dội nào đó dưới thềm hải lưu Gulf Stream. Sóng sát thủ đã từng xuất hiện ở Floria trước đây; thành phố Daytona Beach đã hứng chịu một đợt vào tháng Bảy năm 1992. Như trích dẫn trên báo của một nhà hải dương học: “Lúc này lúc khác, Mẹ Thiên Nhiên lại ném chúng ta vào một khúc ngoặt.”

Không thể bỏ qua câu chuyện ly kỳ về vụ không tặc trên chiếc máy bay cánh quạt của hãng Air Impact!, từ Miami đến Freeport. Một người đàn ông – theo mô tả của một người trong nhóm hưu trí có mặt trên máy bay, là “hoàn toàn mất trí” – đã trót lọt đem một khẩu súng lên máy bay và ép buộc phi công cất cánh khi chưa nhận được huấn lệnh. Một sĩ quan cảnh sát Miami tên Monica Ramirez, vẫn chưa rõ bằng cách nào – đã lên được máy bay và trong lúc cố bắt giữ tên không tặc, hắn ta đã bắn cô. Những hành khách còn lại cũng đã kiên cường chiến đấu với tên không tặc, và trong lúc xô xát, có nhiều lí do để tin rằng hắn đã rơi từ máy bay đến nơi yên nghỉ cuối cùng của mình dưới đại dương. Sĩ quan Ramirez, được cảnh sát trưởng miêu tả như một người hùng, vẫn còn thoi thóp khi chiếc máy bay về đến Miami; cô ở trong một tình trạng nguy kịch, nhưng các bác sĩ lạc quan về tiên lượng của cô. Một hành khách được xác định là Edward Porter cũng phải chịu một vết thương do đạn bắn ở chân; tình trạng của ông theo đánh giác của các bác sĩ là không có gì đáng ngại.

Trùng hợp một cách lạ lùng, một câu chuyện khác, hoàn toàn chẳng liên quan, xảy ra vẫn ở sân bay này gần như cùng thời điểm. Không rõ bằng cách nào, một con trăn dài bốn mét đã xổng ra ở phòng chờ chính và tấn công một hành khách được xác định là Leonard Pflund, một chuyên gia tư vấn bốn mươi hai tuổi đến từ East Orange, New Jersey. Ông đã được giải cứu bởi đối tác kinh doanh của mình, Henry Algott bốn mươi bảy tuổi, cũng đến từ East Orange, là người đã lấy mạng con rắn bằng một khẩu súng lục. Cảnh sát đã tịch thu khẩu súng và tạm giam Algott trong khi tiếp tục điều tra về sự việc. Cảnh sát cho biết họ sẽ đệ đơn khởi kiện chủ nhân của con rắn, Neil Hart, khi ông này rời khỏi bệnh viện, nơi ông đang được chữa trị cho những thương tích gặp phải trong lúc kháng cự việc bắt giữ.

Cảnh sát báo cáo về hai vụ việc bất thường diễn ra ở Coconut Grove. Sự kiện thứ nhất, một người đàn ông được xác minh là Jack Pendick, hai mươi tám tuổi, thường trú tại khu công viên nhà lưu động nhìn ra bến cảng ở Cutler Ridge, đã bị câu lưu sau khi nổ nhiều phát súng ở một địa điểm gần khu phức hợp mua sắm CocoWalk. Không có ai bị thương, nhưng vụ nổ súng và sự bắt giữ Pendick sau đó đã thu hút một lượng lớn khách du lịch, gây ra ùn tắc cục bộ trên Đại lộ Grand. Một vài giờ sau tại một khu dân cư ở Grove, một sĩ quan cảnh sát Miami được xác định là Walter Kramitz, đã được tìm thấy trên đường Garbanzo với một bàn tay bị xích vào một khối kim loại to kềnh, chung với một giám đốc kinh doanh địa phương được xác định là Arthur Herk. Đây nhiều khả năng là kết quả của một vụ cướp đột-nhập-tư-gia tại ngôi nhà của Herk, song le những tình tiết của vụ việc, và nhất là nguyên nhân nào khiến Kramitz và Herk kết thúc giữa đường cái, vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Sau cùng, giao thông trên Le Jeune Road vốn luôn tấp nập đã bị tê liệt suốt vài giờ liền, khi một bầy dê bằng cách nào đó đã xổng chuồng và chạy rong giữa lòng đường. Một tờ báo chạy câu chuyện này như một “điểm sáng” ở góc dưới cùng bên phải trang nhất, với bức ảnh một nhân viên kiểm soát động vật nhễ nhãi mồ hôi, trong vòng vây của xe cộ, đang rượt bắt một con dê trông rất phấn khởi và đầy năng lượng. Bức ảnh này mang đến những cảm xúc tương đồng từ hàng nghìn độc giả: Họ lắc đầu, mỉm cười, và nói: “Chỉ có ở Miami.”







VĨ THANH




Trong những tuần sau đó, các nhà hải dương học bên bờ Đại Tây Dương đã phát hiện sự nhiễm phóng xạ ở mức độ cao trong thành phần nước của hải lưu Gulf Stream. Thêm vào đó, một số thủy thủ ghi nhận hiện tượng cá chết nhiều một cách bất thường nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Nhiều giả thuyết khác nhau được đưa ra cho hiện tượng này, một trong số đó cho rằng vụ cá chết, và cả trận sóng sát thủ, được gây ra bởi một sự cố thảm khốc trên một tàu ngầm hạt nhân. Cáo buộc này được nhiều người cổ súy mạnh mẽ trên Internet, đáng chú ý nhất là Pierre Salinger. Việc chính phủ Hoa Kỳ khẳng định không có bất cứ tàu ngầm nào, hạt nhân hay không hạt nhân, tại khu vực đó càng củng cố thêm niềm tin của họ. Song chờ mãi chẳng thấy bằng cớ cụ thể nào nổi lên, và sự vụ sau rốt chìm lãng vào trong kho tàng thuyết âm mưu lẩm cẩm nhức đầu.


Cục Quản Lý Hàng Không Liên Bang lập tức đình chỉ mọi chuyến bay của Air Impact!, không lâu sau, hãng này đệ đơn xin phá sản. Đáp lại sự phẫn nộ đến từ công chúng và các chính khách nhắm vào công tác an ninh lôm côm thấy rõ của Phi Trường Quốc Tế Miami, một lực lượng biệt phái cấp cao đã được thành lập để xử lí tận gốc các vấn đề, cũng như đề ra những giải pháp. Sau nhiều tháng họp hành, một số biện pháp đã được triển khai, đáng kể nhất là việc thuê một công ty tư vấn chuyên nghiệp để giám sát hoạt đông của các chốt kiểm soát an ninh. Hợp đồng béo bở này đã được trao cho See-Cure Tech, Inc., một công ty con hoàn toàn thuộc sở hữu của Penultimate, Inc.


EDDIE PORTER được thăm hỏi ở bệnh viện bởi các điều tra viên đến từ nhiều cơ quan hành pháp khác nhau, nhiều người trong số họ khá tò mò về lí do y có mặt trên chuyến bay 2038. Song FBI đã tiếp quản cuộc điều tra và phán chắc nịch không có lí do gì để giam giữ Eddie. Y trở về Coconut Grove, gia nhập ngôi đền Hare Krishna trong vùng và hiện được biết đến với cái tên Ram Baba Ram.


KHÔNG AI hỏi han gì về Snake.


HENRY ALGOTT chịu câu lưu và xét xử dựa trên những cáo buộc liên quan đến vũ khí, phát sinh từ biến cố ở quầy vé Delta. Tại phiên tòa, công tố viên viện dẫn bằng chứng cho thấy Algott đã từng có tiền án, và suy đoán y có liên hệ với các băng đảng tội phạm quy mô lớn. Luật sư của Henry, tình cờ là một trong các luật sư từng được Henry thuyết giảng về phép lịch sự khi hút thuốc, cụ thể là Luật sư C. Bất chấp phản đối kịch liệt từ công tố viên, ông đã được chủ tọa chấp thuận cho mang một con trăn trưởng thành vào tòa, cốt để bồi thẩm đoàn có thể đánh giá đúng mức về mối đe dọa mà Henry đã dũng cảm đương đầu ở sân bay. Con rắn, bằng cách nào đó – công tố viên la làng đó là cố tình – xổng ra và phải lắm trần ai mới khống chế được nó, phòng xử án được một phen nhảy loạn cào cào, và thừa phát lại trợt té trật khớp vai. Bồi thẩm đoàn mất chưa tới mười phút để đưa ra phán quyết vô tội. Henry trở về East Orange, nơi y và Leonard tiếp tục công việc tự do đâm thuê chém mướn rất thành công, song cả hai từ chối nhận thêm bất cứ phi vụ nào ở Nam Florida.

Chủ nhân của Daphne kiện Hạt Dade vì những thương tổn liên quan đến việc bị đè bẹp dí trên sàn nhà, cộng thêm sự mất mát con vật cưng yêu quí. Bồi thẩm đoàn quyết định bù đắp cho y 3.2 triệu đô la.


Sau khi rời khỏi viện tâm thần, Arthur Herk mò tới văn phòng luật sư Hoa Kỳ và thuật lại một câu chuyện hết sức hoang dại, với nào là tham nhũng, hối lộ, giết mướn, rồi một địa điểm ở Coconut Grove bán bom và tên lửa. Nhưng khi các điều tra viên đến địa chỉ ấy, họ chỉ thấy một quán bar bị bỏ hoang, cửa nẻo bịt kín, chẳng có gì bên trong ngoài những bích chương quảng cáo bia cũ rích và một cái TV vỡ toác. Arthur từ trần vài tháng sau đó với nguyên nhân được kết luận là tai nạn trong khi câu cá, khá lạ, bởi như lời mọi người thì hồi nào tới giờ Arthur làm gì có thú vui câu cá.


Ivan Chukov và Leonid Yudanski được đưa đến một cơ sở liên bang an toàn và chịu thẩm tra trong vài tuần, trước khi bị trục xuất về Moscow. Ở đó họ mở một cửa hàng Starbucks rất khá.


WALTER KRAMITZ, hết chịu nổi những lời châm biếm của đồng nghiệp, xin rút khỏi ngành để trở thành vũ công tại một hộp đêm cho phụ nữ có tên “Thrust.” Tên sân khấu của anh là Buck Lance.


JACK PENDICK không có bất kì biện hộ nào cho những cáo buộc liên quan đến vụ nổ súng ở Coconut Grove. Sau một năm ăn cơm nhà nước, y được phóng thích sớm vì hạnh kiểm tốt, và sau cùng đã tìm được công việc là một nhân viên bảo vệ.


MONICA RAMIREZ phục hồi chậm nhưng ổn định. Sau khi ra khỏi khu vực điều trị chuyên sâu, nàng được Harvey Baker bánh trái thăm hỏi đều đều, và đến khi nàng ra viện, hai người khởi sự hẹn hò. Một đêm nọ, sau khi họ vừa dứt cạn chai rượu vang – lần đầu từ khi bác sĩ cho phép nàng đụng đến thức uống có cồn – ông ngỏ lời cầu hôn nàng, và nàng ưng thuận, và hai người làm tình với nhau. Thế rồi, sau khi nàng đã thề thốt sẽ không hé môi với bất cứ ai, ông tiết lộ với nàng về thứ đã từng có trong chiếc va-li ấy. Và nàng thốt lên, lẽ nào họ để một thằng cô hồn mạt hạng xỏ mũi an ninh sân bay, mang theo nào súng nào vũ khí hạt nhân? Và ông cười lạt, đúng đó em. Và nàng thở dài, ôi cái thế giới này. Và hai người hiếm khi nhắc lại chuyện này.


ELIOT ARNOLD lún sâu vào nợ nần, và tiến gần đến việc bị sút khỏi văn phòng của mình bởi không gánh nổi tiền thuê. Vào cái ngày chủ nhà dự định tống cổ anh đi, văn phòng của anh đón nhận cuộc viếng thăm từ hai cộng sự trẻ măng của một đại lý quảng cáo nhất hạng ở New York. Họ hỏi anh có phải cha đẻ của quảng cáo Bia Đầu Búa không, và trước khi anh kịp phân bua đó không hẳn là ý tưởng của mình, họ bảo rằng họ CHẾT MÊ cái quảng cáo ấy, nó BỰA vãi. Họ muốn chiêu mộ Eliot cho một chiến dịch tầm quốc gia trên cả bản in lẫn truyền hình với kinh phí khủng, để quảng bá cho một sản phẩm nước giải khát không cồn mới dành cho giới trẻ có tên SpewTum, với sự góp mặt của một tên tuổi sáng giá: ban nhạc Seminal Fluids.


ANNA đệ đơn ly dị Arthur, và được chấp thuận nhanh gọn lẹ. Lão chẳng có gia tài kếch xù nào để lại, nhưng chí ít nàng được giữ ngôi nhà. Nàng và Eliot đều nhất trí họ sẽ không nhảy cóc đến bất kì điều gì, hai người dự định sẽ đi nước bền. Bốn ngày sau họ thành hôn.


JENNY VÀ MATT cặp kè được một thời gian và đến vũ hội cuối năm cùng nhau, song hai người cứ thấy kì kì thế nào ấy, chuyện ba má họ đã là uyên ương các thứ. Thành thử cả hai quyết định trở thành bạn tốt của nhau, và họ giữ vẹn nguyên tình bạn đẹp ấy đến mãi về sau.


CÓC THÙ ĐỊCH, hình như bị sang chấn tâm lí từ lần đụng độ với Arthur, biến đâu mất tăm và không bao giờ trở lại. Dù Roger chẳng bao giờ nói ra, nhưng thật tình nó thấy hơi nhớ cái con quỷ sứ ấy.


PUGGY dọn đến ở chung với Nina trong căn buồng cho người hầu gái, dù đôi khi để gợi lại kỉ niệm xưa, hai người lại trèo lên cây để ngủ. Puggy làm mấy việc lẩm cẩm trong nhà giúp Eliot và Anna; thi thoảng kiếm thêm thu nhập nhờ tham gia bầu cử hội đồng thành phố Miami, vốn được đặt hàng định kỳ từ các cơ quan tư pháp. Cũng ham học tiếng Tây Ban Nha lắm chớ, nèo nẹo rù Nina bày hoài à, nhưng câu độc nhất Puggy nói thạo là Te quiero. Hóa ra nhiêu đó cũng là quá đủ với anh chàng rồi.


Te quiero: Tôi yêu em (tiếng Tây Ban Nha)
 
Bên trên