Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn

BIG TROUBLE


Tác giả: Dave Barry.


Dịch từ nguyên bản tiếng Anh

Big Trouble

của Dave Barry

(Berkley Books Edition 2001)

Bản dịch của Việt An.



***


DÀNH TẶNG MICHELLE




LỜI CẢM ƠN VÀ KHUYẾN CÁO



Tôi xin mở đầu với lời khuyến cáo: Sách này không dành cho các bạn tuổi ô mai. Sở dĩ phải rào trước vậy là bởi qua những thư từ nhận được, tôi biết các sách hài hước và các chuyên mục trên báo của mình được khá nhiều bạn đọc tuổi ô mai theo dõi, và tôi sướng rơn vì điều đó. Duy đây không phải cuốn sách dành cho họ, bởi lẽ một số nhân vật sử dụng Ngôn Ngữ Người Lớn khá nhiều. Nào phải tôi ham hố gì cho các nhân vật thốt ra những “lời vàng ý ngọc” ấy; họ cứ tự biên tự diễn ấy chứ. Một số nhân vật ngang xương vậy đấy.

Và giờ đến phần tri ân:

Trước tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn đến biên tập viên của mình ở Putnam, Neil Nyren, người đã khơi mào ý tưởng tôi hãy đặt bút viết một cuốn tiểu thuyết, và làm cho nó mắc cười vào. Neil luôn động viên và trao cho tôi những lời khuyên vàng ngọc, nên tôi du di cho anh chuyện anh đã không hé với tôi nửa lời, ngay từ bước khởi đầu, rằng tôi cần tìm nhân vật và cốt truyện trước cái đã.

Cảm ơn Al Hart, người đại diện đã hết mình cổ võ tôi xông pha vào lĩnh vực hư cấu. Tôi lúc nào cũng lắng nghe Al, người đã bình tĩnh lèo lái con thuyền văn chương của tôi qua bao cuồng phong bão vũ, với một tay giữ chắc bánh lái và tay còn lại giữ chắc chai bia.

Tôi rất may mắn khi có được những bạn hữu tiểu thuyết gia tuyệt vời, những người đã hào phóng sẻ chia sự thông thái của họ với tôi vào những ngày đầu tôi viết cuốn sách này, và ngộ ra mình hoàn toàn mù tịt về cốt truyện. Tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Carl Hiaasen, một bậc thầy của thể loại mà tôi đã thử sức – thể loại Một Đám Khùng ở Nam Folrida – cũng như với Stephen King, Elmore Leonard, Paul Levine, Ridley Pearson, và Les Standiford. Nhìn chung thì tất thảy họ đều khuyên tôi đừng quá lo nghĩ về cốt truyện khi mới khởi sự viết, ngoại trừ Ridley, một con người siêu lập trình và đã biết trước mình sẽ có gì cho bữa điểm tâm vào ngày 12 tháng Năm, năm 2011 (trà và bánh nướng xốp kiểu Anh, không bơ). Tôi cũng cảm ơn Jeff Arch vì những dòng động viên quí báu của anh, dù có những từ bằng tiếng Yiddish tôi chịu không hiểu được.

Cảm ơn người trợ lý nghiên cứu tuyệt vời ông mặt trời của tôi, Judi Smith. Cứ ba hồi là tôi lại nhấc máy điện cho nàng và hỏi nàng những câu kiểu như, “Bình thường một trái dừa Tahiti chứa bao nhiêu sữa vậy cô?” Và nội mười phút thôi, bằng cách nào đó nàng đã liên lạc được với cơ quan có thẩm quyền tối thượng với những trái dừa Tahiti, và nàng sẽ điện cho tôi với cả ram giấy thông tin hờm sẵn, và tôi sẽ nói, “Ai dà, hóa ra tôi chẳng hề cần đến mấy thứ ấy,” vậy mà nàng lại chẳng giận bao giờ mới hay.

Cảm ơn Luis Albuerne và Bobby D’Angelo, những người đã cho tôi các tư liệu hữu ích về nghiệp vụ cảnh sát và phi cơ chiến đấu, theo thứ tự đề cập. Sợ tôi đã hiểu sai hết về chúng hết trơn quá, nhưng đấy không phải lỗi của họ nghen.

Sau cùng, cảm ơn tất cả quý bạn đã ủng hộ tôi suốt bao năm qua nhờ việc đọc các mục báo và sách của tôi, cũng như quý bạn lúc này đây (trừ các bạn tuổi ô mai) đang theo tôi bước vào Địa Hạt của Hư Cấu. Hi vọng bạn thấy vui khi đọc nó cũng nhiều như tôi thấy vui khi viết nó vậy. Ý tôi là, khi tôi đã tìm ra cốt truyện rồi ấy.





ĐẠI RẮC RỐI







MỘT



Puggy giữ được việc làm ở quán Bar và Thịt Nướng Jolly Jackal, một quán có gì chứ không có thịt nướng, đã ngót nghét ba tuần. Nếu coi lao động là vinh quang thì đây ắt là vinh hiển đầu tiên trong đời Puggy. Kì thực, sau quãng đời lang bạt kỳ hồ với nghiệp hành khất bán chuyên, nó đang cân nhắc ý định cắm rễ ở Miami, dừng bước giang hồ, xa hơn là tìm lấy một nơi trong nhà nào đó để ngủ nghê. Dù nó rất ưng cái cây của mình.

Puggy ưng mọi thứ ở Miami. Nó ưng tiết trời ấm áp. Nó ưng việc cảnh sát ở đây tỏ ra quảng đại bất ngờ với hạng người như nó – hạng người mà, chỉ bằng sự hiện diện trên đời, đã có khuynh hướng chà đạp lên các phép tắc mà những công dân mẫu mực chẳng ai nghĩ tới, như chuyện cứ ngồi đồng ở đâu đó mà không mua sắm gì, chẳng hạn. Thái độ của các thầy chú ở đây lại dễ chịu lạ, kiểu như: ầy, đằng ấy cứ ngồi thoải mái, miễn đừng bắn ai là được rồi.

Puggy còn khoái chuyện ở Miami, bạn tha hồ nghe thiên hạ kháo tiếng Tây Ban Nha mệt nghỉ. Nó khiến Puggy có cảm giác như đang sống ở nước ngoài, ước nguyện của đời nó. Dù cho lần duy nhất nó đặt chân ra khỏi biên giới, vào bốn năm trước sau một cuối tuần thất điên bát đảo khởi sự từ Buffalo, nó đã bị giam giữ trong thời gian ngắn vì tội tiểu bậy ở bảo tàng Ripley's Believe It or Not.

Kể cũng ngộ, Puggy chưa từng ve vuốt ý định đến Miami. Nó đã rời chốn nương náu cho dân bụi đời ở Cleveland, rồi cứ rong ruổi về nam theo lối vẫy xe đi nhờ, như một loài chim di trú tìm nơi ấm áp để sống qua mùa đông. Run rủi thế nào, bác tài bốc nó lên xe đang thẳng đường tới Hải Cảng Miami, ngay trung tâm thành phố.

Chưa chi đã thấy hạp phong thủy, Puggy đến vào đúng ngày bầu cử. Lang thang trên đường độ một giờ thì bất chợt một chiếc xe van ghé lại bên nó. Gã lái xe xổ một tràng tiếng Tây Ban Nha đoạn phe phẩy tờ mười đô trước mặt Puggy. Nghĩ bụng gã này muốn làm cuốc thổi kèn, Puggy bèn lắc đầu: "Hổng hứng." Thế là gã đổi cái rẹt sang tiếng Anh, cắt nghĩa chuyện nó cần làm để lấy được mười đô, là đi bầu cử.

"Ủa, tui đâu phải dân ở đây," Puggy nói.

"Dân đâu mà chả được," gã nói.

Puggy chịu liền, hồ hởi tót vào chiếc xe van. Trên đường tới điểm bỏ phiếu, gã lái xe đón thêm bảy cử tri nữa, toàn mày râu, vài cha còn sực nức mùi dầu thơm. Tới điểm bỏ phiếu, cả bọn lò dò bước vô và làm theo răm rắp những gì gã lái xe đã dặn từ trước. Đám công chức phòng phiếu ngó bộ chẳng màng gì tới chuyện đó.

Đến lượt bỏ phiếu của Puggy, nó trọ trẹ đọc tện mình, như chỉ dẫn từ trước, là Albert Green, nó đọc thành "Albert Gren." Albert Green thật đã quy tiên vào năm 1991, nhưng vẫn đi bầu đều đều ở Miami. Puggy bỏ lá phiếu của mình dưới tên Ô. Green cho một ứng viên thị trưởng tên Carlos gì gì đó, xong ra ngoài và lĩnh mười đô. Chao ôi, mười đô mà in hình như cả bạc triệu trong bàn tay nó.

Tự nào giờ Puggy chưa một lần bình bầu cho bất cứ thứ gì. Nhưng trong cái ngày thần diệu ấy, vi vu trong chiếc van trắng, nó đã bỏ phiếu cho chức thị trưởng Miami bốn lần tại bốn địa điểm khác nhau. Ba lần đầu, mỗi lần nó được mười đô, duy tới lần thứ tư, gã lái xe nói giá bây giờ còn năm đô thôi, Puggy ô kê luôn. Nó nghĩ bụng thành phố Miami đã quá thơm thảo với mình rồi, có phiền chi nếu phải đáp đền nó chút đỉnh.

Puggy bỏ lá phiếu cuối cùng tại một khu vực của Miami có tên là Coconut Grove, cũng là nơi gã lái xe thả nó xuống đường. Nó thích thú ngắm nhìn những hàng cọ, làn nước, những cột buồm đong đưa giữa xanh biếc bầu trời. Cứ như bồng lai tiên cảnh. Puggy thấy lòng phơi phới. Nó được ấm áp này, được ba lăm đô tiền mặt này, cha sanh mẹ đẻ tới giờ Puggy mới trông thấy một số tiền lớn nhường vậy. Nó quyết định đem hết đi uống bia.

Puggy cất công lùng sục một tửu quán tốt, loại trừ ngay kiểu bar cho khách du lịch ở trung tâm Coconut Grove, nơi một cốc bia có giá năm đô, mắc quá, ngay cả với người vừa kiếm được mười đô cho một lần bỏ phiếu như Puggy. Và rồi, sau một hồi xàng xê cùng khắp vùng ngoại vi xơ xác của Coconut Grove, Puggy thấy mình đang lững thững bước vào Bar và Thịt Nướng Jolly Jackal.

Jolly Jackal không phải một cơ sở khang trang. Nói cho ngay, nó cần bỏ vài nghìn đô để tu tạo mặc may mới đạt tới tầm của một quán cùi bắp. Biển đèn nê-ông chỗ cửa sổ đã tạch quá nửa, nên chỉ còn sáng lên mỗi chữ “ACKAL.” Từ cửa bước vô, hiện lên qua ánh sáng lờ nhờ là cái nhà cầu khuyết cửa mấy năm nay của bổn tiệm, kể từ cái bận một vị khách quen, tức mình vì xoay nắm cửa mãi không ăn thua, đã công phá nó bằng cái bình chữa cháy. Quầy bar tối hù ngầy ngật mùi ôi thiu của bia cũ. TV đang chiếu đua xe mô tô. Và loằng ngoằng chi chít trên tường là những tên người và các hình vẽ cơ quan sinh dục thô lậu. Puggy có cảm giác như được về nhà.

Nó ngồi xuống cạnh quầy bar trống trơn, trừ một gã râu xồm ngồi cuối quầy đang tán dóc với tay bán bar, không phải bằng tiếng Anh mà Puggy nghe cũng chẳng ra tiếng Tây Ban Nha. Tay bán bar là một gã mặt bư với thân hình hộ pháp, hắn liếc xéo Puggy song không tiến lại.

“Lấy tui chai Budweiser nhen,” Puggy nói.

“Có tiền không đó?” gã bartender hỏi.

Puggy không cảm thấy bị xúc phạm. Nó biết mình trông như kẻ không xu dính túi. Mà bình thường thì đúng vậy thật.

“Có chớ,” nó nói và dốc hết lên mặt quầy, ba tờ mười và một tờ năm. Gã bán bar làm thinh, khui nắp một chai cổ dài rồi để trước mặt Puggy. Hắn nhón lấy tờ năm đô của Puggy rồi thối lại ba đô rưỡi. Xong xuôi, hắn quay lại chỗ gã râu rậm, hai thằng xí xa xí xồ gì đó rồi cùng cười lên ha hả.

Puggy chẳng bận tâm. Nó đang nhẩm tính, coi với giá một đô rưỡi một chai thì kêu được nhiêu chai hết. Nó không xác định được con số cụ thể, nhưng chắc nhiều. Hơn chục chai là có. Còn dư thì lấy vài gói Slim Jims, nếu ở đây có bán.

Tu đến chai thứ tư thì Puggy thấy có hai thằng lom dom bước vào quán, một thằng là Snake, mặc áo thun in chữ Cá Sấu Mỹ, thằng kia là Eddie, mặc áo thun in chữ Đừng Nhờn Với Dick. Hai thằng đều mặc quần jean rách rưới, mấy bàn chân dận dép lào đóng sình đất đen thui, nên nhìn như thể chúng đang mang tất.

Snake và Eddie tự xưng là những ngư dân, duy tụi nó chẳng đánh tôm đánh cá gì ráo. Song quả thực chúng có lưu trú trên một chiếc thuyền; một thứ đồ lạc xoong bị chủ nhân hợp pháp của nó vứt đi bởi động cơ đã đi tong, và nó sẽ chìm ngay nếu bị xê dịch. Thu nhập hiện thời của Snake và Eddie trông cả vào việc lởn vởn ở mấy bãi đỗ xe khu Coconut Grove, canh me chiếc ô tô du lịch nào trờ tới là xáp vô, mau mắn hướng dẫn tài xế đỗ xe, khoa tay khí thế như thể đó là những ám hiệu phức tạp cần phải được thực hiện tuyệt đối chính xác, như hạ cánh tàu con thoi không bằng. Đoạn Snake và Eddie sẽ xán lại các du khách, xun xoe chờ tiền típ, thứ mà họ lúc nào cũng xì ra cho tụi nó, nhất là vào những lúc tối trời.

Puggy đoán Snake và Eddie là khách quen ở Jolly Jackal, bởi bọn chúng vừa mò vào là gã bán bar đã sấn sổ tiến tới, chỉ tay ra cửa, nói: “Cút! Tao đã cảnh cáo bây rồi! Cút!”

“Không, không, ông bạn, không,” Eddie giơ hai tay lên trước ngực, ra điệu đến trong hòa bình. “Gì mà căng thế, tụi này chỉ muốn giải khát thôi mà. Tiền có đây chớ không đâu.” Đoạn nó dò dẫm trong cái quần soóc rách bem, moi ra mấy đồng một phần tư đô, mấy đồng cắc và xu, thả rỏn rẻng lên quầy bar.

Gã bartender lừ mắt nhìn đống bạc, không ừ hử gì.

“OK?” Eddie nói, rục rịch đặt đít xuống cạnh quầy bar, cách Puggy một ghế về phía tay mặt. “OK,” nó lặp lại, yên chí gã bartender sẽ cho tụi nó ở lại. Snake ngồi xuống cái ghế bên tay mặt Eddie. Eddie trỏ vào mớ xu và nói, “Tụi tui uống hết chỗ này.”

Gã bartender lẳng lặng kiểm tiền, vuốt những đồng bạc trên quầy vào bàn tay. Hắn quày quả lấy ra hai ly thủy tinh và làm đầy chúng với một thứ chất lỏng trong suốt rót từ một cái chai không nhãn mác, xong việc hắn trở lại chỗ gã râu xồm.

“Chó đẻ,” Eddie bình phẩm, chỉ vừa đủ để Snake nghe.

Sau khi xác định tình hình không đòi hỏi phải lánh nạn gấp, Puggy tiếp tục với chương trình đua xe bán tải trên TV. Puggy chưa bao giờ coi đó là một môn thể thao, nhưng chính sách của nó với TV là: TV chiếu cái gì nó coi cái đó.

Chừng hai mươi phút sau thì nó nhổm dậy tính đi tè. Nó nhặt chỗ giấy bạc của mình lên, phát hiện vài tờ đã không cánh mà bay. Nó không biết đích xác bao nhiêu, nhưng ít nhất phải mười đô.

Puggy đưa mắt sang phải. Eddie và Snake đang nhìn châm bẫm vào TV, coi bộ nhập tâm lắm, làm quá nó đang chiếu phụ nữ khỏa thân thay vì xe bán tải.

“Ê nè,” Puggy nói.

Eddie và Snake vẫn dí mắt vô màn hình.

“Ê nè,” Puggy lặp lại.

Thằng Snake vẫn ngồi im. Thằng Eddie quay qua, quắc mắt nhìn Puggy.

“Chuyện gì đó, đại ca?” Nó nói.

“Trả tui,” Puggy nói.

“Trả gì?” Eddie nhăn mặt, ra bộ cóc hiểu Puggy đang nói gì, duy nó diễn hơi sâu.

“Tui nói là, trả nó lại cho tui,” Puggy nói.

“Mà trả cái đéo gì mới được chớ?” Eddie gắt. Coi, tới phiên thằng Snake ngóc đầu qua, hai thằng lục tục từ ghế đẩu xoay về phía Puggy.

Bằng kinh nghiệm, Puggy biết điệu này dễ có nguy cơ ôm đầu máu lắm. Nó biết mình nên bấm bụng cho qua. Nó biết chớ, nhưng mà, thiệt tình ... mười đô.

“Tui nói là,” Nó tiếp tục, “trả nó ...”

Quả đấm của thằng Eddie không có sức sát thương mấy, bởi vẫn còn một ghế ngăn ở giữa, và nó chỉ trúng vào vai Puggy. Song cú ngã sau đó mới làm Puggy đau thấy mồ nội. Thôi xong, thằng Snake nhập cuộc: từ sau lưng Eddie nó vòng qua với bàn chân xỏ dép lào dậm huỳnh huỵch, cố nhắm vào mặt Puggy. Puggy thu tròn người lại, áp mặt vào chỗ tiếp giáp giữa quầy bar với sàn nhà, không có ý kháng cự, chỉ gắng chờ cho bão tố qua đi. Cái sàn nhà có mùi như một bãi nôn.

Vừa lúc thằng Snake đang co cẳng lên trong nỗ lự thứ tư để dậm vào mặt Puggy, thì một tiếng “bong” chát chúa vang lên, Snake “á” lên một tiếng rồi đổ gục xuống sàn nhà. Ra gã bán bar vừa phang vào đầu nó bằng cái gậy bóng chày bằng nhôm. Đã chơi bóng chày bao giờ đâu, song cú vụt vừa rồi của hắn đâu thua gì tuyển thủ! Hắn ưa dùng chày nhôm hơn, bởi mấy cái bằng gỗ hay gãy quá, thay hoài mắc mệt.

Snake nằm ngay đơ kể như yên, gã bán bar quay sang thằng Eddie, kẻ đang vừa lùi về phía cửa vừa đưa hai tay lên, bật lại chế độ sứ giả hòa bình.

“Ông anh,” Eddie lắp bắp, “Có phải vấn đề của ông đâu nào.”

“TỤI BAY chính là vấn đề,” gã bartender nồ, nhứ tới một bước. Rõ ràng hắn đang chờ Eddie bỏ chạy, ngặt nỗi thằng này không tính chạy. Bởi lẽ Eddie đã nhác thấy Snake – cái thằng rất có khiếu trong chuyện đập đầu người khác – đang lom khom gượng dậy từ sau lưng gã bartender, tay quơ lấy một chai bia của Puggy. Gã bán bar đâu có mắt sau lưng mà thấy được chuyện đó, nhưng Puggy thì có thấy, và chả hiểu nguyên do nào xui khiến, đến giờ cũng không, nó nhoài người đến vung chân trái quét một cú chí mạng vào chân phải Snake, chỗ ngay trên mắt cá chân nó. Một tiếng “rắc” rùng rợn vang lên, Snake rú lên thảm thiết và một lần nữa đọ sàn, chai bia rơi khỏi tay lăn lông lốc. Gã bán bar quay lại - thấy Snake đang quằn quại trên sàn, quay lại nữa - thấy Eddie đang quáng quàng chạy khỏi cửa, quay lại nữa - chuẩn bị xử lý Snake. Hắn khom người tới trước, hai bàn tay nắm cái chày đang cầm xẻng, thục một phát vào mạng sườn Snake.

“Cút ngay!” Hắn nói.

“Nó phang gãy chân tao rồi!” Snake léo nhéo.

“Còn tao, tao phang nát gáo mày luôn,” Dứt lời gã bán bar siết chặt đầu chày, vụt một cú phong long, chờ đợi.

“OK OK OK,” Snake đáp lia. Bám vào cái ghế đẩu để lấy điểm tựa, mắt vẫn nhìn chừng gã bán bar, nó gượng dậy rồi tập tễnh bước về phía cửa. Chặp ra đến ngưỡng cửa, nó quay lại chỉ tay vào Puggy, kẻ bấy giờ vẫn còn xãi lai dưới quầy bar.

“Liệu hồn mày nghen,” Snake gầm gừ, “tao mà thấy cái mặt mày là tao giết.” Đoạn nó đẩy cửa, đi cà nhắc ra ngoài. Puggy thấy trời đã sập tối.

Gã bán bar chờ thằng Snake đi khuất rồi quay sang Puggy.

“Mày, cút luôn cho tao,” hắn nói.

“Anh này,” Puggy lắp bắp phân bua, “Tui ...”

“Cút,” hắn lại vụt hờ cái chày.

Puggy nhổm dậy, mới hay đã tè luôn ra quần. Nó ngó lên quầy bar. Rồi xong, số tiền bầu cử của nó đã biến mất, sạch banh! Thằng Eddie ắt đã hốt hết trong lúc thằng Snake thực hiện màn dậm chân dậm cẳng kia, trật đường nào nữa.

Trời hỡi,” Puggy than thở.

“Còn chưa đi nữa?” gã bartender giục.

Puggy đang thất thểu bước về phía cửa thì thốt nhiên, từ cuối quầy bar, gã râu xồm, kẻ đã theo dõi từ đầu chí cuối trận ẩu đả, ề à cất giọng bằng tiếng Anh: “Chú cứ ở lại chơi.”

Gã bán bar liếc mắt sang gã râu xồm, khẽ nhún vai và nới lỏng cái chày.

Puggy rầu rĩ nói, “Tui nhẵn túi rồi. Tụi nó lấy hết rồi.”

Gã râu xồm phất tay, “OK mà. Quán đãi.”

Nghe vậy Puggy nhỏn nhoẻn cười, “OK.”

Chặp đang tu đến chai bia miễn phí thứ hai, lòng lại hoan hỉ với cách mọi sự diễn ra trong ngày hôm nay, trừ chuyện tè ra quần, thì Puggy lại nghe tiếng cửa xịch mở. Giật bắn người, nó đoán thằng Snake đang trở lại để giết mình, song đó lại là một gã vận com-lê, tay xách cặp táp. Gã com-lê thủng thỉnh đi đến cuối quầy bar và khởi sự trao đổi với hai gã kia bằng tiếng nước ngoài. Chợt gã râu rậm cất tiếng gọi Puggy.

“Ê, muốn kiếm năm đô không?”

“Muốn chớ,” Puggy đáp. Một đô thị đáng sống làm sao, Miami.

Hóa ra công việc là khuân một thùng gỗ ra khỏi cốp xe của con Mẹc đang đỗ ngoài quán. Cái thùng nặng trời thần, nhưng Râu xồm và Com-lê chỉ lấy mắt ngó. Puggy và gã bán bar hai thằng hì hục khuân thùng vào nhà, qua quầy bar, qua cái nhà cầu, men theo hành lang đến một gian phòng mà gã râu xồm lày quày một chặp mới mở được, bởi có đến ba ổ khóa. Gian phòng lớn hơn Puggy tưởng, và có ba thùng gỗ nữa với kích cỡ khác nhau ở đó. Bọn nó đặt cái thùng xuống rồi trở ra ngoài. Gã râu xồm khóa cửa, rồi móc ra năm đô đưa cho Puggy.

“Coi vậy mà khỏe gớm nhỉ,” gã tấm tắc.

“Hình như vậy,” Puggy đáp. Mà đúng vậy thật, dù không nhiều người nhận ra điều đó, nó tuy lùn nhưng khỏe như trâu.

“Mai ghé quán hen,” gã râu xồm nói. “Có thể anh lại có việc cho chú.”

Và đó là ngày công đầu tiên của Puggy ở Jolly Jackal. Nó luôn đến vào buổi chiều và ở lại cho đến khi Leo (tên gã bán bar) hoặc John (tên gã râu rậm) cho nó về nghỉ. Những hôm không có việc, họ vẫn để nó ở lại quán ngồi chơi không. Khi cần nó lao động, đó luôn là việc khuân vác những cái thùng gỗ - lúc thì từ con Mẹc vô phòng; lúc thì từ phòng ra con Mẹc. Cứ mỗi lần xong việc, John lại đưa nó năm đô. Một lần, Puggy buột miệng hỏi có gì bên trong mấy cái thùng đó vậy. John đáp gọn lỏn: “Đồ nghề.”


Phần lớn thì giờ, Puggy ngồi coi TV và uống bia, Leo không bao giờ tính tiền chỗ bia đó. Ta nói cứ như một giấc mơ vậy. Puggy mà biết có kiểu công việc như này, nó đã đi làm từ đời tám hoánh rồi.

Về đêm, khi họ cho nó lui, nó lại cu ky lầm lũi trở về cái cây của mình. Nó đã tìm thấy cái cây này vào đêm thứ ba ở Coconut Grove. Hai đêm đầu nó ngủ chỗ công viên cạnh bờ biển, bị bọn kiến ác độc nào đó cắn bầm mình bầm mẩy. Chưa hết, vào đêm thứ hai, từ xa xa nó thấy bóng dáng cô hồn của Eddie và Snake tiến về chỗ neo đậu cái xuồng ba lá của tụi nó. Thằng Snake vẫn bước tập tễnh.

Thành thử Puggy phải tìm một nơi lưu trú khác. Nó khám phá ra, chỉ cần bách bộ một quãng ngắn ở Coconut Grove, bạn đã lọt thỏm trong một khu dân cư hoàn toàn khác, khu của người giàu, với những ngôi nhà uy nghi bề thế bao bọc bởi tường cao, và cổng vào đóng mở bởi máy móc. Cây cối nhiều đến hoa cả mắt, những cái cây đồ sộ cầu kỳ với rễ tua tủa như những xúc tu, dây leo chằng chịt, và các cành cây như những cánh tay dài ngoằng vươn ra tận đường phố. Puggy ngỡ như đang lạc trong rừng rậm.

Nó tìm được một cái cây hoàn hảo để tá túc. Lừng lững sau bức tường của một nhà giàu, ngăn cách giữa cái cây và ngôi nhà là một khoảng sân vườn rộng lớn um tùm, nên sự riêng tư nhờ đó được bảo đảm. Puggy tiếp cận cái cây bằng cách leo qua bức tường; nó là một tay leo trèo bẩm sinh, kể cả sau khi đã nốc bia ứ hự. Ở độ cao sáu mét so với mặt đất, tại nơi mà ba cành to gộc trổ ra từ thân cây, có một sàn gỗ ọp ẹp đóng đầy rêu mà nhiều năm trước từng là nhà trên cây của tụi con nít. Puggy sửa sang tệ xá với vài mảnh cạc tông xếp lên sàn gỗ, và một tấm nhựa dẻo lấy từ công trường, phòng khi trời mưa còn có cái đắp. Đôi khi nó nghe thoang thoáng tiếng người nói chuyện trong nhà, nhưng dù có là ai, họ cũng không khi nào léo hánh đến chỗ cuối sân này.

Vào đêm khuya, luôn có tiếng nhạc vọng ra từ phía cuối ngôi nhà. Nghe như một tiếng sáo êm dịu len lỏi qua cánh rừng để đến với Puggy. Nó thích nằm dài và lắng nghe tiếng nhạc ấy. Lòng dạt dào hoan hỉ với cách mọi sự đang diễn ra, với công việc và với cái cây của nó. Đó là sự tồn tại an toàn nhất, quy củ nhất, êm lắng nhất mà nó từng được nếm trải. Cảnh đời an yên đó kéo dài xấp xỉ ba tuần.



“Tôi NHÌN LÒI MẮT cái quảng cáo này,” Khách Hàng Âm Binh Phì Lũ nói, “cóc thấy Bia Đầu Búa ở đâu hết.”

Eliot Arnold, thuộc phòng Quảng Cáo và Quan Hệ Công Chúng Eliot Arnold (nhân sự chỉ độc nhất Eliot Arnold), gật đầu với vẻ trầm ngâm, như thể cho rằng quan điểm Khách Hàng Âm Binh vừa nêu cũng có lý. Sự thực Eliot đang thấy may vì mình thuộc nhóm thiểu số ở Miami không bọc sẵn súng đạn theo người, bởi ngay lúc này anh chỉ muốn nổ vài phát vô cái thằng Khách Hàng Âm Binh này, ngay cái trán mập láng vo của nó.

Những lúc như lúc này – và không hiếm gì những lúc như lúc này – Eliot lại tự vấn lòng: phải chăng mình đã quá bốc đồng, chuyện chia tay nghề báo ấy? Mà cái cách anh chia tay thiệt hổng giống ai - vung chân đạp xuyên máy tính của thư ký tòa soạn. Quả thực anh đã thiêu rụi một cây cầu ở đó.

Eliot đã dành hăm mốt năm đời mình cho nghề báo. Dự định của anh sau khi ra trường là đấu tranh cho Công Lý, với vốn liếng là kỹ năng Anh Ngữ của mình để tìm và diệt tham nhũng. Anh tìm được việc tại một nhật báo nhỏ, lãnh phận sự viết cáo phó và ghi lại diễn biến các buổi họp thành phố, nơi các quan chức dân cử sở tại cùng các tư vấn viên kỹ thuật thao thao bất tuyệt hàng giờ về đường kính cần thiết cho loại ống cống mới. Eliot vừa dỏng tai nghe, vừa chúi mặt vào cuốn sổ tay nhà báo có gáy lò xo và hình bìa nhí nhố, đồ rằng tham nhũng ắt đang diễn ra ở đâu đây, song phải khởi sự truy lùng từ đâu thì anh mù tịt.

Đến khi trở thành ký giả của một tờ báo đô thị tầm cỡ, anh đã xếp xó ý định lùng diệt này kia và xây được chỗ đứng dễ chịu với việc viết truyện phóng sự, thứ mà hóa ra anh rất mát tay. Xuân Hạ Thu Đông, anh viết lách quần quật như thợ hồ đắp gạch. Thường toàn về những thứ mà các sếp ở tòa soạn, bằng giọng điệu bố đời, gọi là những câu chuyện “đặc tuyển.” Phóng sự văn học là thể loại họ cổ súy mạnh, những câu chuyên với lu bù người thật việc thật, được viết theo nhóm, đăng thành năm hoặc sáu kỳ với nhan đề không bao giờ thiếu từ “khủng hoảng”. Này “Khủng hoảng trong các gia đình,” này “Khủng hoảng trong các trường học,” “Khủng hoảng nguồn nước,” muôn trùng khủng hoảng. Những loạt bài này rất được o bế và thường ăn giải ở các cuộc thi báo chí, dù đám thảo dân ở tòa soạn quen gọi chúng là ba cái thứ “cứt trâu”. Duy các sếp thì mê mẩn chúng. Báo chí vận động, họ xướng tên nó như thế. Xu hướng nóng hổi nhất của ngành báo. Làm nên khác biệt! Kết nối với độc giả!

Eliot nghĩ làm gì có độc giả nào để kết nối ngoài mấy cha trong ban giám khảo ra. Ấy thế mà nghiệt thay, những thứ cứt trâu đó đổ xuống đầu anh càng lúc càng nhiều, và chẳng còn mấy thời gian để anh viết nên những câu chuyện mà theo anh sẽ có người muốn đọc.

Niệm khúc cuối đến vào cái ngày anh được gọi lên văn phòng của thư ký tòa soạn, Ken Deeber, kém Eliot bảy tuổi. Eliot nhớ hồi Deeber còn là một phóng viên chịu chỉ định bình thường, vừa ra khỏi lò Princeton. Nó nói chuyện dẻo đeo và phong thái thì lịch duyệt miễn chê. Và trăm lần như một, luôn có một chi tiết sai sự thật thè lè trong mọi thứ nó viết, dù có ngắn đến đâu đi nữa. Duy thằng Deeber không viết nhiều lắm; nó bận tối mắt để đi giăng mạng lưới quan hệ rồi. Deeber thăng tiến với tốc độ của ngư lôi Polaris, vỗ ngực xưng danh là thư ký tòa soạn trẻ nhất trong lịch sử báo chí. Thằng này tôn thờ phóng sự văn học. Đó là lí do nó cho gọi Eddie lên văn phòng.

“Khỏe chứ, Eliot?” Deeber mào đầu. “Hổm rày sao rồi?”

“À,” Eliot nói, “Tôi cũng ...”

“Sở dĩ tôi hỏi vậy,” Deeber ngắt lời, nó hơi đâu đi lo tình hình sức khỏe của Eliot, “là vì John Croton bảo tôi anh chưa nộp bài cho dự án nhà trẻ.”

Nhà trẻ là đống cứt trâu đang triển khai. Nó sẽ trình bày cặn kẽ với độc giả trong năm kỳ với mười bốn biểu đồ màu, ấy là đang có một cuộc khủng hoảng ở các nhà trẻ.

“Ken này,” Eliot nói, “Hình như đã có năm người khác đang làm ...”

“Eliot,” Deeber nghiêm giọng, như một bậc phụ huynh đang răn dạy đứa con ngỗ ngược, “Đó là phần sự của anh mà.”

Phần sự của Eliot là viết một khung báo nêu lên góc nhìn của cộng đồng người Haiti về các nhà trẻ. Debeer tin rằng mọi câu chuyện đều nên chứa đựng mọi góc nhìn của mọi nhóm sắc tộc. Cầm tờ báo trên tay, nó không thực sự đọc gì đâu, nó đếm các nhóm sắc tộc. Lúc nào cũng thấy nó lăng xăng đi phát các tờ giấy nhắc nhớ, kiểu như: Xét câu chuyện ‘cá sấu tấn công người chơi golf ngày một nhiều’ đang rất thức thời và chứa nhiều thông tin bổ ích, tôi kiến nghị nên đưa vào đó góc nhìn của dân Mỹ Latinh. Lí do xe ô tô của Deeber chưa bị gài bom là bởi bọn ký giả dở ẹc về kỹ năng đó.

“Công nhận, tôi đã được phân công,” Eliot nói. “Ngặt là tôi còn đang kẹt câu chuyện ...”

“Câu chuyện bồ nông?” Deeber cười mỉa. Eliot tự hỏi ở Princeton họ có khóa dạy cười mỉa không, bởi thằng Deeber cực xuất chúng khoản đó.

“Ken,” Eliot nói, “đây là câu chuyện tuyệt đỉnh, và không ai khác có nó đâu. Ông cụ này, một cụ già người Cuba ở Key West, ổng huấn luyện bồ nông để...’

“Đánh bom,” Deeber cười khinh bỉ. “Đó là thứ ngu ngốc nhất tôi từng nghe.”

“Ken,” Eliot kiên nhẫn. “Ông già này cháy lắm. Ổng huấn luyện bồ nông để ám sát Castro, dóc làm chó. Ừ thì kế hoạch thất bại, chắc quả bom bị trục trặc hoặc con bồ nông bấn loạn sao ấy, nhưng sự thật cái thứ đó đã nổ tung ngoài một khách sạn ở trung tâm Havana. Các mẩu mảnh của con bồ nông bắn ra, rớt lụi đụi xuống một đoàn du khách Pháp. Và chính phủ Cuba đổ thừa cho biến đổi khí ...”

“Eliot,” Ken phẩy tay, “Tôi không nghĩ chúng ta phục vụ bạn đọc những loại chuyện đó.”

“Nhưng nó có thật,” Eliot hổn hển, máu nóng dồn lên mặt, những muốn chồm dậy thộp cổ thằng Deeber. “Đó là một câu chuyện vĩ đại. Ông cụ đã nói chuyện với tôi, và ổng ...”

“Eliot,” Deeber nói, “Anh có biết dự án nhà trẻ quan trọng thế nào với bạn đọc của ta không? Anh có biết bao nhiêu bạn đọc của ta gửi con trẻ ở nhà trẻ, có biết không?”

Một thoáng im lặng.

“Ken,” Eliot nói, “anh có biết bao nhiêu bạn đọc của ta có lỗ đít không?”

Deeber ậm ừ, “Tôi không thấy có ...”

“Tất cả họ!” Eliot rống lên. “Tất cả họ đều có có lỗ đít!”

Lớp tường kính văn phòng Deeber sức mấy ngăn nổi mấy cái tai hóng hớt trong tòa soạn. Những cái đầu cùng ngoái về chỗ tiếng hét vọng ra.

“Eliot,” Deeber đanh giọng, “Tôi lệnh cho anh, ngay bây giờ ...”

“Làm luôn loạt bài về nó coi sao!” Eliot rống lên. “KHỦNG HOẢNG HẬU MÔN!”

Deeber, ý thức được quần thần đang nhòm ngó, cố nặn ra vẻ mặt nghiêm khắc nhất có thể.

“Eliot,” nó dõng dạc. “Anh làm việc cho tôi. Tôi bảo gì anh làm nấy. Tôi đã giao bài cho anh. Nếu còn muốn làm việc tại tòa soạn này, liệu mà hoàn thành nó và để nó vô đây” – nó chỉ vào cái máy tính bàn – “không xong thì đừng có về nhà đêm nay.”

“Tốt thôi!” Eliot nhún vai, đoạn đứng phắt dậy rồi đùng đùng tiến đến chỗ bàn giấy của Deeber. Deeber hết hồn, lật cập thụt ghế lại, va phải cái tủ credenza sau lưng làm đổ tháo tùm lum mớ bằng khen từ các cuộc thi lều báo.

Eliot nói: “Hay để tao gửi nó qua BÂY GIỜ luôn cho khỏe!”

Dứt lời, anh vung chân trái nhắm thẳng màn hình máy tính của Deeber, đạp một phát. Bàn chân kẹt luôn trong đó, thành thử khi anh cố rút nó ra là nguyên cái màn hình đi theo luôn, đánh rầm xuống nền nhà. Rộ lên trong tòa soạn những tiếng vỗ tay tán thưởng, ngắn ngủi nhưng không kém phần nồng nhiệt.

Trừ lần một thằng nhân viên vận tải say xỉn lái chiếc xe nâng 43 nghìn đô xuống đầm phá Biscayne Bay, chưa ai bị tờ báo sa thải chóng vánh như Eliot. Các đồng nghiệp bày tỏ sự cảm thông và ủng hộ; Eliot đã trở thành một kẻ sĩ được kính phục trong dư luận giới ký giả toàn quốc. Nhưng cũng khá chắc là tên anh bị liệt vô sổ đen của mọi cơ quan báo chí, nhất là ở Miami. Ngặt nỗi anh muốn ở lại đây để có thể gần bên thằng con trai, Matt, nó hiện ở với vợ cũ của Eliot.

Vậy là Eliot ký giả trở thành Eliot Quảng Cáo và Quan Hệ Công Chúng, hành nghề trong một văn phòng còm hom ở Coconut Grove. Thời kì đầu, Eliot phải loanh quanh sớm tối để năn nỉ thiên hạ làm khách hàng của mình. Sau nhiều năm phấn đấu không ngừng, Eliot có tấn tới chút đỉnh, giờ thì anh sớm tối loanh quanh để năn nỉ thiên hạ trả nợ. Hoặc chuyện đó, hoặc ngồi nghe họ lý giải vì sao công sức của anh không được chấp nhận. Đó chính là điều Khách Hàng Âm Binh đang làm.

Sáng kiến mới đây nhất của Khách Hàng Âm Binh là Bia Đầu Búa, thứ mà lần đầu tiên và duy nhất Eliot nếm thử, anh đã phải khạc ngay lên bàn giấy bởi mùi vị kinh tởm của nó. Bia Đầu Búa là sáng kiến còn tệ hơn cả dự án trước đó của Khách Hàng Âm Binh, một loại công viên chủ đề cho người cao tuổi có tên Răng Giả Phiêu Lưu Ký.

Mà thôi, nói gì nói thằng này lâu lâu cũng chịu trả tiền, vậy nên Eliot đã lọ mọ triển khai một ý tưởng quảng cáo cho thứ bia này. Khách Hàng Âm Binh quan sát nó, và như thường lệ đưa ra lời phê bình rất có tâm.

“Như cái buồi,” hắn nói.

“Ây dà, Bruce,” Eliot nói, “tôi đã cố...”

“Nghe đây,” Khách Hàng Âm Binh ngắt ngang, hắn không tin vào việc để người khác nói hết câu, một khi vẫn còn ý tưởng nào nổi trôi trong đầu mình. “Anh biết triết lí kinh doanh của tôi là gì không?”

Biết chớ, Eliot nhủ thầm. Triết lí kinh doanh của mày là bào tiền từ lão cha giàu sụ của mày và xả nó vào mấy cái ý tưởng tào lao xịt bộp.

“Không, Bruce,” anh ậm ừ, “Triết lí của anh ...”

“Triết lí kinh doanh của tôi,” Khách Hàng Âm Binh dõng dạc, “đó là có rất nhiều người trên thế giới này.”

Để minh họa cho quan điểm, Khách Hàng Âm Binh phác cử chỉ hướng về phía thế giới. Không có động tĩnh gì tiếp theo. Eliot kiên nhẫn chờ đợi phần mở rộng nào đó.

“Chà,” sau cùng Eliot lên tiếng, “hẳn là...”

“Và,” Khách Hàng Âm Binh tiếp tục, hắn đã me đúng lúc Eliot mở miệng để cắt lời, “tất cả bọn họ đều MUỐN gì đó. Anh biết họ muốn gì không?”

“Không,” Eliot đáp. Đối sách của anh là đi với những câu ngắn.

“Họ muốn cảm thấy sướng,” Khách Hàng Âm Binh phán.

Lại im lặng nguy hiểm.

“Ồ,” Eliot nói.

“Anh hiểu tôi muốn nói gì chớ?” Khách Hàng Âm Binh nhìn trừng trừng Eliot.

“Ờ,” Eliot giả lả, “Chắc là ...”

“KHÔNG, ANH ĐẾCH HIỂU TÔI NÓI GÌ ĐÂU!”, Khách Hàng Âm Binh gầm lên, thấy vui trở lại vì đang được dịp bắt nạt một con người đang cần đến tiền của hắn, với hắn đó là thú vui không gì sánh nổi của sự giàu sang. “Bởi tôi đã dâng tận miệng anh cái ý tưởng hoàn hảo cho Bia Đầu Búa. Ý tưởng hoàn hảo! Không phải thứ cứt đái này.” Hắn phẩy tay xì xì, như thể đang đuổi ruồi, vào bản phác thảo mà Eliot đã thức đêm thức hôm để làm. Nó được đính trên một tấm bảng, bức hình cận cảnh một con cá mập đầu búa, với cái mồm há rộng giữa hai nhãn cầu cổ quái nằm cách xa nhau một cách phi lý. Dưới bức hình là hai hàng chữ đen và đậm:


Cá xấu.

Bia ngon.


“Cái quần què đây?” Khách Hàng Âm Binh xẵng giọng. “Xấu? Mắc gì có xấu ở đây hả cha?”

“À cái đó,” Eliot chống chế, “Thì tôi dùng phép tương phản ấy mà, nhưng theo hướng hài hước ...”

“Nghe đây,” Khách Hàng Âm Binh nói, với hắn khái niệm về hài hước - hắn có luôn băng video gối đầu giường về nó - là cảnh nửa chân dưới lủng lẳng sắp đứt lìa của Joe Theisman. “Tôi không muốn cái xấu. Xấu không phải cảm giác mà tôi mong chờ. Tôi đã cho anh ý tưởng! Tôi đã cho anh ý tưởng hoàn hảo!”

“Bruce, tôi đã bàn với luật sư về ý tưởng của anh, ổng bảo chúng ta khéo bị kiện sấp mặt vì ...”

“PHÊ VỚI ĐẦU BÚA!” Khách Hàng Âm Binh rống lên, nắm tay tròn vo đeo Rolex nện bụp bụp lên bàn giấy. “Đó chính là ý tưởng!”

Chợt hắn vùng phắt dậy, giang rộng hai cánh tay nung núc để giúp Eliot tiện hình dung. “Anh có một đôi nam nữ trên một chiếc thuyền. Con nhỏ mặc bikini, vú bự, hai đứa đang trên thuyền, và hai đứa đang phê lòi càng. Với bia Đầu Búa! Cảm giác nó mang lại là gì? Là có kẻ sắp sửa được chịch chớ gì nữa! Hậu cảnh là một con cá mập đang bơi quanh! Con nhỏ có vếu to VẬT. Bá cháy bọ chét. Tôi dâng cho anh ý tưởng bá cháy, anh thảy cái xấu cho tôi! Đừng mơ tôi trả đồng nào cho thứ này, gì chứ xấu là đây miễn trả tiền. Đây có thể có cái xấu miễn phí.”

Thì mày là hiện thân của nó mà! Eliot rủa thầm. Điều anh nói là: “OK, tôi sẽ cố gắng ...”

“Đừng! Đừng cố gắng với tôi. Đừng cố gắng. Tôi ghét cố gắng. Cố gắng chỉ dành cho lũ thất bại,” Khách Hàng Âm Binh, người có toàn bộ triết lí sống thuổng từ các quảng cáo của Nike, nói như đang hát. “Để tôi cho anh biết.” Hắn gõ gõ ngón tay lên bàn (đến mấy cái móng tay của hắn trông cũng béo nguậy). “Anh không phải phòng quảng cáo duy nhất ở thành phố này đâu.”

Ông nội cha thằng nào dám quảng cáo cho mày ngoài tao ra nữa, kẻ đã mấy tháng rồi chưa nộp tiền cấp dưỡng, Eliot rủa thầm.

“OK, Bruce,” anh nói.

“Tôi muốn thấy nó VÀO NGÀY MAI,” Khách Hàng Âm Binh nói.

Mình có thể kiếm được súng vào ngày mai, Eliot trù tính. Với cả mấy viên đạn đầu rỗng.

“OK, Bruce,” anh nói.

Chợt điện thoại reo. Eliot nhấc máy.

“Eliot Arnold nghe.” Anh nói.

“Tối con qua lấy xe nha ba,” Matt nói, nó là con trai Eliot và nó mười bảy tuổi, nghĩa là nó quá bận để nói một tiếng chào.

“Chào Nigel!” Eliot nói rổn rảng. “London vui không? Chờ tôi xíu nghen?”

“Nigel?” Matt nói.

“Bruce này,” Eliot nói với Khách Hàng Âm Binh, “Tôi phải tiếp chuyện với một khách hàng ở London về ...”

“Nhớ mai là có cho tôi đó, lần này làm cho đàng hoàng vào,” Khách Hàng Âm Binh nói, đoạn lấy tay hất cánh cửa văn phòng Eliot và thủng thẳng bước ra, chả buồn khép lại. Đoạn từ hành lang – sát ngoài văn phòng kế bên của gã kiểm toán viên luôn càm ràm mỗi lần Eliot bật nhạc – hắn hét vô ông ổng: “NHỚ KIẾM CON NÀO VÚ BỰ NHEN!”

“Cảm ơn đã ghé qua, Bruce!” Eliot nói về phía cánh cửa mở. “Của anh coi như xong rồi đó!” Đoạn anh nói vô ống nghe: “Matt?”

“Ai vú bự vậy ba?” Matt hỏi.

“Ai đâu,” Eliot nói.

“Ủa mà Nigel là ai?”

“Không ai hết, ba phịa ra Nigel để khách hàng khỏi nói mình vì chuyện riêng mà xao lãng đó thôi.”

“Thằng cha vụ bia bọt gì đó đúng không ba?”

“Thì nó chớ ai nữa.”

“Sao ba không tống phứt ổng đi cho rồi?” Matt nói.

“Matt,” Eliot hắng giọng, “con biết là tiền đâu có ở trên ...”

“Vậy ha,” Matt vội cắt lời, nó đâu muốn lãng phí thì giờ không đi học quí báu của mình để nghe giảng đạo, nhất là mấy bài quá nhàm kiểu này, “con mượn xe ba tối nay nha?”

“Chi vậy?” Eliot hỏi.

“Con và Anrew phải đi giết một con nhỏ,” Matt nói.

“OK,” Eliot nói, “làm gì làm nhớ mười rưỡi về trả xe cho ba, và con phải hứa lái cho thật ...”

“OK cám ơn ba,” Matt cúp máy. Một người đàn ông bận rộn.

“... cẩn thận,” Eliot nói, với cái điện thoại lặng câm.



DỌN RỬA XONG XUÔI sau bữa cơm tối, Nina thoái lui về phòng mình - gọi là “không gian của người giúp việc” cho oai, chứ nó chỉ là một gian phòng nhỏ với buồng tắm bé tí. Cô thận trọng khóa cửa lại, đã ba tháng nay cô luôn cảnh giác chuyện cửa nẻo, từ cái bận lão Herk đêm hôm sinh chứng bất tử mò vào phòng cô. Đúng lúc cô đang thay đồ nữa mới nghiệt, trên người chỉ tòn ten hai mảnh đồ lót. Phòng mình mà lão cứ khơi khơi đẩy cửa, bước vô như đúng rồi.

Nói chuyện lúc ấy lão đứng giữa phòng với ly vang đỏ trên tay, miệng cười cười. Nina chụp vội cái áo choàng trên giường, che trước người.

“Ày, không có gì đâu, Nina,” lão trấn an. “Tôi chợt nghĩ cô có muốn làm tí vang thư giãn không thôi ấy mà. Thấy cô làm cực quá, tội nghiệp.”

Nina biết lão quỉ này đâu có tốt bụng sảng vậy. Cô dư biết lão muốn gì qua cái cách lão địa cô, nhất là những khi rượu vào. Lão còn cái tật thích ló vào bếp khi cô chỉ có một mình, tò tò xáp lại gần cô một cách lãng xẹt, rồi chẳng nói chẳng rằng, cứ đứng ì ra đấy mà nhìn cô.

Áp chặt chiếc áo choàng vào người, cô nói, “Dạ thôi, cảm ơn ông, ông Herk. Tôi mệt lắm.”

Lão khép cửa lại, lững thững bước về phía cô. “Thư giãn tí mà,” lão nói, ấp bàn tay lên bờ vai trần của cô, rồi thình lình để nó trôi tuột xuống ngực cô. Bàn tay lão nhèm nhẹp mồ hôi.

Nina thụp người né khỏi bàn tay nhám nhúa, đoạn thụt lui về phía phòng tắm.

“Ông Herk,” cô nói, “Tôi không nghĩ bà Anna sẽ vui khi biết ông đang ở đây đâu.”

Chợt khuôn mặt lão trở nên nghiệt ngã. “Bả ngủ rồi,” lão nói. “Và tôi không tính chạy đi báo cáo bả biết mình ở đây. cũng sẽ không báo cáo chớ, Nina?”

Không, cô sẽ không báo cáo. Bề gì lão cũng là chủ ngôi nhà này, và cô chỉ là phận đầy tớ, và sự hiện diện của cô ở quốc gia này là trái pháp luật, và cô không có nơi nào để nương náu cả.

“Cảm phiền ông,” vừa dứt lời Nina quay phắt người lại, chạy ù vào buồng tắm, dập cửa bấm chốt.

Cái nắm cửa rung lên cành cạch khi lão Herk ra sức vặn nó.

“Nina,” lão xẵng giọng, “ra coi.”

Nina nhìn cái nắm cửa, nín thở. Cảm thấy mồ hôi của lão còn nhơn nhớt trên cơ thể mình, chỗ mà lão sờ cô.

“Nina,” lão tăng âm lượng, “đây là nhà tao, mày làm công cho tao, tao muốn mày bước ra ngay.”

Nina nhìn cái nắm cửa.

“Con giặc cái,” lão rủa.

Nina nghe tiếng thủy tinh vỡ, rồi đến tiếng cánh cửa hành lang bật tung. Cô đợi thêm một lát rồi mở cửa buồng tắm bước ra. Coi, một vết đỏ sẫm lồ lộ chính giữa tấm ga giường, chỗ mà lão đã đổ ly rượu vang xuống. Cái ly thì lão đã giáng cho vỡ vụn trên sàn nhà. Cô bị xước chân khi dọn dẹp các mảnh thủy tinh.

Ngày hôm sau, khi cô bưng cà phê cho lão, với bà Anna ở đó, lão làm mặt tỉnh bơ như không có gì xảy ra. Duy cô vẫn thấy lão tranh thủ địa mình. Và cô giữ cho cửa phòng luôn khóa. Cô không mê gì lão Herk, song cô cần công việc này. Cô cần kiếm đủ tiền mướn luật sư để có thể trở nên chính danh, và sau đó cô sẽ đưa mẹ và em trai mình đến Mỹ.

Nói chớ làm việc ở đây cũng không đến nỗi nào. Ngôi nhà như một tòa lâu đài, và bà Anna rất tốt bụng, rất dễ thương. Nina không hiểu nổi vì cớ gì lão Herk lại đối xử tàn tệ với một phu nhân cao quí nhường vậy. Nina đã từng nghe lão quát nạt bà, gọi bà bằng những cái tên tục tĩu, làm bà khóc. Nina biết đôi lúc lão còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với bà.

Bà Anna đối xử với Nina tốt khỏi nói. Jenny, con gái bà cũng vậy, dù chủ yếu cổ cứ ru rú trong phòng mình, nấu cháo điện thoại, nghe thứ âm nhạc của cổ, thứ mà Nina nghe như tiếng la hét của những con người giận dữ. Cô không mường tượng nổi vì cớ gì người ta lại thích nghe tiếng la hét của đồng loại.

Nina thích nghe tiếng sáo của quê hương cô, qua những cuộn băng cát-xét cô mở bằng cái máy Fisher-Price của Jenny hồi cổ còn nhỏ. Vào buổi đêm, Nina mở cửa sổ phòng (cô không ưa máy điều hòa không khí), tắt đèn và nằm dài xuống giường, thả hồn theo tiếng nhạc. Nó giúp cô cảm thấy bớt cô đơn.

Phía bên kia sân vườn, trong cái cây của nó, chìm đắm trong tiếng nhạc của Nina, Puggy cũng cảm thấy niềm cô độc như dịu dàng hơn.



MATT ĐÓN Andrew lúc 8 giờ 40.

“Em chó lửa đâu mày?” Andrew hỏi.

“Trong cốp xe,” Matt nói. “Ế. Tao khoái bài này.” Nó vặn volume dàn stereo lên hết nấc, bài đang được bật là “Sex Pootie,” của một ban nhạc có tên Seminal Fluids. Lời bài hát như sau:


Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Và cứ thế.

“Sex pootie là cái gì vậy?” Andrew hỏi.

“Chứ mày nghĩ nó là cái gì?” Matt khinh khỉnh, dù thực tình nó cũng chả biết sex pootie là cái quái quỉ gì. Nó lảng sang chuyện khác: “Dàn âm thanh này như hạch.” Matt có sự khinh bỉ không hề nhẹ cho bất cứ dàn âm thanh nào không đủ lớn để khiến trâu bò bất tỉnh.

“Sao ông ba mày lại tậu một con Kia nhỉ?” Andrew thắc mắc.

“Bởi ổng bị cù lần chớ sao nữa,” Matt giải thích.

Andrew gật đầu thông cảm. Bởi ba nó cũng là một gã cù lần. Hỏi ra mới biết hầu như cha đứa nào cũng cù lần một cây hết. Matt và Andrew không khỏi kinh ngạc khi thế hệ của tụi nó lại chất đến vậy.

“Hi vọng nhỏ Jenny không thấy cái xe này,” Matt nói.

Jenny là đứa con gái mà tụi nó sắp hạ thủ. Matt nghĩ cô nàng thật quyến rũ. Cô học chung lớp sinh học với nó ở Trung Học Southeast, và nó dành gần hết thì giờ trên lớp để ngắm cô trong khi làm bộ ngó biểu đồ tuyến tụy hay mấy thứ nội tạng khác. Nó đã vặn óc đủ cách để bắt chuyện với cô, song vẫn chưa tìm được phương kế nào khả thi. Nhưng chỉ lát nữa thôi, nó sẽ chính tay hạ sát cô, nó nghĩ điều này có thể phá vỡ được lớp băng.

Matt được chỉ định giết Jenny bởi Evan Hanratty, một nam sinh Trung Học Southeast, người chủ trì phiên bản năm đó của trò Killer. Killer là trò chơi đến hẹn lại lên ở nhiều trường trung học; bị ban giám hiệu các trường kịch liệt lên án và cấm ngặt, nên khỏi nói là tụi học sinh đứa nào chả thích chơi.

Có nhiều phiên bản khác nhau của trò chơi, nhưng chung qui là vầy: Bạn trả cho người chủ trì một khoản tiền (ở trường của Matt là mười đô để trở thành người chơi). Người chủ trì sau đó bí mật tiết lộ với bạn tên của một người chơi khác; và bạn phải đi tìm giết kẻ đó. Cùng lúc, bạn trở thành mục tiêu săn lùng của một kẻ không rõ danh tính khác.

Vào thời điểm được ấn định, trò chơi sẽ chính thức khai màn, và cuộc tàn sát bắt đầu. Sau mỗi vòng, những kẻ sống sót sẽ được giao những mục tiêu mới; cứ thế cho đến khi sát thủ cuối cùng còn sống sót nhận được phần thưởng bằng tiền mặt của người chủ trì.

Các vụ sát nhân được thực hiện bởi súng nước. Để vụ sát nhân được công nhận, bạn phải phun nước vào nạn nhân với sự hiện diện của một nhân chứng – nhưng chỉ một nhân chứng thôi. Nghĩa là gần như không có cửa hạ thủ ở trường, hoặc nơi công cộng như trung tâm mua sắm. Phải đánh lén, đánh du kích, thường thì ngay tại nhà nạn nhân luôn.

Nhiều đứa lôi kéo phụ huynh vào trò này. Nó sẽ nhờ mẹ chở mình đến nhà nạn nhân; rồi phục sẵn trong bụi cây, trong khi bà mẹ điềm nhiên bấm chuông cửa và hỏi nạn nhân có nhà không. Khi nạn nhân mở cửa cũng là lúc sát thủ vọt ra khỏi bụi cây, khai hỏa, à quên, khai thủy khẩu súng.

Matt và hội bạn của nó cho rằng quá đê tiện khi sử dụng mẹ mình để giết ai đó. Tụi nó thích phục kích về đêm hơn, hành động dưới sự chở che của bóng tối, khi bạn có yếu tố bất ngờ, và có khả năng (ai biết được) bắt gặp mục tiêu đang khỏa thân.

Matt đỗ chiếc Kia của bố nó cách nhà Jenny hai con đường. Nó mở cốp xe và lấy ra khẩu SquirtMaster Model 9000, loại đỉnh của dòng súng nước, 33.95 đô ở cửa hàng Toys R Us. Nhìn nó in hệt vũ khí giết người thứ thiệt, chứa tới bốn lít nước; và có thể bắn một tia nước đi xa mười lăm mét.

Matt và Andrew sải những bước dài xuyên qua màn đêm ẩm ướt, đến trước lối vào nhà Jenny. Tụi nó không chạm trán bất cứ ai trừ bọn muỗi; đây là khu đắt đỏ của Coconut Grove, đêm lại là ai ở yên nhà nấy.

Nhà Jenny to phải biết, duy từ đường phố nhìn vào chỉ thấy nó lấp ló sau đám cây lá rậm rịt. Một tường gạch cao hai mét bao quanh tư gia, và án ngữ trước lối vào là một cổng thép cơ giới. Một máy nội đàm được đặt sát bên cổng.

“Kế hoạch ra sao?” Thằng Andrew thì thầm. “Mày có định bấm chuông?”

“Lãng xẹt,” Matt gạt phắt. “Muốn tao nói gì? ‘Chào cô! Con là Matt Arnold, tới để giết Jenny ạ?’ Phải leo tường thôi.”

“Lỡ họ nuôi chó sao mày?” Andrew lo lắng.

“Tao thích chó,” Matt nói, nhưng bụng thì bảo dạ: chết cha, lạy trời họ không nuôi chó.

Hai đứa đi men theo bức tường ra đến mặt sau của tư gia. Tại đó, cạnh một cây lớn, tụi nó tìm được một chỗ gần với bức tường coi bộ cũng dễ leo. Matt đưa khẩu SquirtMaster cho thằng Andrew rồi leo qua tường trước; Andrew liệng khẩu súng qua rồi làm theo Matt. Đột nhập thành công, chúng đứng im một lát, dỏng tai hóng tiếng chó sủa, nhưng chỉ nghe văng vẳng tiếng nhạc sáo. Với Matt dẫn đường, hai thằng rón rén tiến bước về phía ngôi nhà.

Phía trên đó sáu thước, Puggy dõi theo bóng dáng hai kẻ cầm súng mất hút trong đám thực vật um tùm. Vụ gì đây không biết. Đây là cặp đôi có vũ trang thứ hai nó bắt gặp đã leo qua bức tường này, trong nửa giờ qua.

---
 
Chỉnh sửa lần cuối:

_hONG_aHN_

Gà cận
Tham gia
26/10/21
Bài viết
307
Gạo
48,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
Truyện này mình đã dịch full. Bạn nào muốn đọc tiếp cứ mail cho mình nha, vì mình không biết cách đăng truyện đầy đủ lên diễn đàn này.
Bạn cứ đăng tiếp vào phía dưới như đăng bình luận thế này là được. Và hình như tên tiêu đề bạn viết sai thứ tự rồi, phải là "Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn thành/Cập nhật/Tạm dừng". Mà mình để ý, nếu bạn đăng full bộ lên rồi thì mới được viết là "Hoàn thành".
 
Chỉnh sửa lần cuối:

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
Bạn cứ đăng tiếp vào phía dưới như đăng bình luận thế này là được. Và hình như tên tiêu đề bạn viết sai thứ tự rồi, phải là "Đại Rắc Rối - Hoàn thành/Cập nhật/Tạm dừng - Dave Barry". Mà mình để ý, nếu bạn đăng full bộ lên rồi thì mới được viết là "Hoàn thành".
Cảm ơn bạn nhiều nhé, mình sẽ fix.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
HAI



Nhà Herk cũng có nuôi chó chứ đâu phải không, tên nó là Roger. Roger là kết quả ngẫu nhiên của sự hấp tấp, bừa phứa trong tính dục qua nhiều thế hệ khuyển: Trong những nét đặc trưng, nó có thân mình thấp tè của khuyển beagle, đôi tai nhọn của khuyển chăn cừu Đức, lòng hăng hái của khuyển săn Labrador, cái đuôi mập của khuyển boxer, và trí tuệ của rau cần tây.

Vào đêm ấy, Roger như thường lệ tảo thanh quanh sân sau, duy nó không thể hiện bất cứ đe dọa nào dù nhỏ nhất cho những kẻ xâm nhập-con người. Roger yêu con người, hết thảy họ, không có nhất bên trọng nhất bên khinh. Bởi một con người, ta nói họ luôn có thể thình lình xuất hiện như tiên giáng trần và mang theo thức ăn. Và Roger thì yêu thức ăn thôi rồi.

Thứ Roger ghét cay ghét đắng là con cóc. Một con Bufo marinus, giống cóc Nam Mỹ đẫy đà đã trở nên phổ biến ở Nam Florida kể từ khi được ra mắt vào những năm 40, bởi bọn-ngu-với-ý-tốt đinh ninh Bufo sẽ trấn áp bọn côn trùng phá hoại mía. Lũ cóc nhân lên và lớn mạnh trong môi trường đất cận nhiệt đới hôi và ẩm ướt; chẳng mấy chốc, chúng trở thành bọn trùm phá hoại.

Con cóc Roger căm ghét ở đây là CÓC THÙ ĐỊCH, cân nặng lên đến một kí rưỡi. Một sinh vật màu nâu bùn, chàng hảng, gớm ghiếc, mụn nhọt đầy mình, mắt cộm hạt, với kích cỡ tương đương một cái găng bóng chày. Với Roger, con cóc này là hiện thân của thứ tà ác nhất trong toàn vũ trụ, bởi nó cướp thức ăn của Roger. Ngày nào cũng vậy, cô giúp việc Nina sẽ trút đầy thức ăn cho chó vào cái tô của Roger rồi đem đặt trên hàng hiên ngoài phòng gia đình. Và ngày nào cũng thế, canh đúng lúc Roger chuẩn bị dùng bữa là con cóc, bằng một động tác xuất quỷ nhập thần, phóng cái cơ thể đầy hơi của nó vào không trung và đáp xuống chính giữa cái tô của Roger, đoạn đủng đỉnh đánh chén phần ăn của chú chó.

Lần đầu bị cướp cơm, Roger theo lẽ thường, thử đớp con cóc. Sai lầm lớn. Trong thiên nhiên, bạn đâu thể trở thành một con cóc béo tốt mà không có phương án phòng vệ trước bọn động vật ăn thịt. Và Bufo marinus đã phát triển một độc chiêu cực kỳ lợi hại: Ngay dưới mỗi con mắt nó là một cái hạch phóng ra một chất hóa học có tên là bufotenine, một chất độc. (Nó còn gây ra ảo giác. Được biết nhiều người đã thử liếm những con cóc này để có cảm giác phiêu, nhiều người trong số họ phiêu luôn về chín suối. Chết lãng dễ sợ.)

Thành thử khi Roger cắn con cóc, nó nhận được một cái mồm nhung nhúc bufotenine. Phước ba đời, nó còn biết đường nhổ ra chớ không nuốt vào, nên thay vì được lên Chiếc Cũi Trên Bầu Trời, nó chỉ lăn đùng ra ốm. Roger nào phải khoa học gia về tên lửa, nhưng nó cũng biết tốt hơn hết là đừng cắn con cóc lần nào nữa. Con cóc cũng biết điều đó. Vậy nên ngày nào cũng như ngày nấy, nó cà nhỏng hàng giờ liền trong cái tô của Roger, thủng thỉnh xơi thức ăn, trong khi Roger đứng cách đó chừng năm tấc, gầm gừ con khốn nạn. Hoạt động này chiếm gần trọn một ngày làm việc của Roger, song nó vẫn cố xoay sở trong thời gian biểu của mình cho các việc hệ trọng khác như sủa vào cái chuông cửa, liếm láp vùng kín, và đon đả đón chào bất cứ con người nào bước vào sân, phòng khi họ mang cơm nước gì đến.

Khi hai người đàn ông trèo qua bức tường trong đêm nay, Roger lóc cóc chạy lại chào hỏi liền, phất đuôi lia lịa ra chiều mến khách lắm, cũng nhờ vậy mà khách mới không bắn nó. Sau khi xác định những con người này không mang theo đồ ăn, Roger lại lủi thủi trở về chỗ cái tô trên hàng hiên, và tiếp tục gầm gừ kẻ thù không đội trời chung: con cóc. Ỷ y đâu có được!



CÁCH ROGER vài bước ở phía bên kia cánh cửa trượt bằng kính, Anna Herk và Jenny con gái nàng đang kề vai sát cánh trên chiếc sô pha trong phòng gia đình, xem Những Người Bạn, chương trình cả hai đều thích. Đang cười nắc nẻ thì hai má con bỗng giật bắn mình khi nghe tiếng chân chệnh choạng của Arthur Herk từ phía sau. Lão khật khưỡng tiến tới quầy bar và, lần thứ tư trong buổi tối hôm ấy, rót một ly vang đỏ đầy lút. Lắc lắc ly rượu trên tay, lão đứng lừ lừ như một quả núi ngay sau lưng Anna và Jenny. Mắt vẫn dán mắt vào TV, song hai má con cứ nghe râm ran rờn rợn nơi sau gáy.

“Coi chi mấy cái tào lao này vậy?” Lão lên tiếng.

Jenny, người hiếm khi mở miệng với cha dượng mình, không có phản ứng gì. Anna cố nhỏ nhẹ: “Mẹ con em thích phim này, Arthur. Không thích thì anh đừng coi là được mà.”

“Tao muốn coi cái gì tao coi,” Herk nói. Anna thấy dâng lên một thôi thúc muốn chỉ ra rằng tuyên bố đó, đặt trong ngữ cảnh hiện tại, là hoàn toàn vô lý, nhưng nàng quyết định nhịn cho êm nhà êm cửa. Chừng chục giây kế tiếp, ba người bọn họ lặng thinh dõi mắt theo những nhân vật thông minh, khả ái, không-ngấn-mỡ-thừa của Những Người Bạn, những người đang túm tụm trên sô pha và bông đùa nhau một cách duyên dáng.

Bỗng Herk phán một câu xanh rờn, “Mấy thằng này pê đê hết.”

Anna và Jenny không nói gì.

“Đúng mà,” Herk nói tiếp, “pê đê chính hiệu luôn, tao đọc thấy người ta nói vậy.”

“Ổng biết đọc hở mẹ?” Jenny nói khẽ, mắt vẫn nhìn thẳng.

“Mày nói gì?” Herk xẵng giọng, bước vòng qua sô pha.

Anna giang tay che trước mình đứa con gái. “Arthur,” nàng nói, “để nó yên đi mà.”

“Tao hỏi mày vừa nói gì?” Herk nhắc lại. Lão đang lù lù trước mặt Jenny, đầu lão nhấp nhô, rượu vang trong ly dập dềnh như sóng.

Ánh mắt Jenny vẫn hướng thẳng về phía trước, tựa hồ như chọc xuyên qua đống thịt mang tên Herk này. Cô ao ước có thể tan biến vào trong chiếc TV, trở thành một phần của Những Người Bạn, sống cùng những con người vui tính tốt bụng thay vì thằng bợm nhậu chó đẻ này, kẻ căm ghét cô và đánh đập mẹ cô.

“Arthur,” Anna nói, dù biết lát nữa thôi là phải lãnh đủ. “Cấm ông đụng đến con bé.”

Herk quay sang Anna, đầu lão vẫn giật giật như một con rối, đôi mắt lão lờ đờ ngầu đỏ. Anna không tin nổi đã có thời nàng thấy thằng cha này cũng không đến nỗi nào. Lão dấn một bước về phía nàng, làm rơi vãi thêm rượu. Anna nhìn sững bàn tay phải của lão, bàn tay không cầm ly. Để ý nàng đang nhìn, lão nắm chặt nó lại rồi nhứ một cú đấm gió về phía nàng. Anna nhăn mặt. Herk khoái quá. Lão làm nàng nhăn mặt thêm lần nữa, rồi quay lại chộp cái remote TV.

“Xem thử còn gì khác không,” lão nói và bấm chuyển kênh.



TRONG BÓNG TỐI ẩm ướt ngoài trời, tại mép hàng hiên chồm hỗm hai gã đàn ông – một gã thủ súng trường – đang vừa đập muỗi vừa quan sát gia đình Herk qua tấm cửa kính. Chúng là Henry và Leonard. Mỗi tên được lãnh 25,000$ cộng với chi phí đi lại hạng sang, để di chuyển từ những căn nhà xinh xắn của mình ở ngoại ô New Jersey, đến đây và bắn Arthur Herk, bằng đạn thật.

Henry và Leonard được thuê bởi Penultimate, Inc., một công ty ở Miami nơi lão Arthur Herk là một nhân viên điều hành cấp trung. Penultimate là một trong những công ty kỹ thuật và xây dựng số má nhất ở Florida. Nó chuyên về các hợp đồng với chính quyền, và đã đạt được khối lợi nhuận khổng lồ. Bí quyết thành công của Pennultimate khá đơn giản: quản trị nghiêm ngặt, kỷ luật thép cho nhân viên, và lấy chữ Đểu làm kim chỉ nam. Công ty dóc láo trắng trợn về trình độ kỹ thuật của nó, đưa ra những giá thầu thấp đến phi lý để có được hợp đồng, đặng sau đó cài vô những chi phí bổ sung cao chót vót. Sở dĩ Penultimate làm được vậy bởi nó đã hối lộ ngập mặt các quan thầy nhà nước rồi, khỏi để anh em nào phải tâm tư. Penultimate xuất sắc ở việc gia tăng tham nhũng trong thành phố bao nhiêu thì cũng lôm côm trong chuyện xây cất bấy nhiêu. Trong vòng tròn chính trị, Penultimate nổi lên như một đối tác hết sức đáng tin cậy để thi hành những trò ma quỉ. Tại Nam Florida, một danh tiếng theo lối đó là vô giá.

Phải thừa nhận đôi khi nó cũng gặp rắc rối. Điển hình là lần Pennultimate trúng gói thầu béo bở để xây một trại giam ở trung tâm Miami. Cơ sở nhốt tù này được cho là sở hữu hệ thống cửa điện an ninh tối tân nhất, và bà con nộp thuế chắc chắn đã phải chi trả cho lố cửa tối tân này. Song thứ đã được lắp đặt ngoài đời thực là một tổ hợp bán ngẫu nhiên những thiết bị bao gồm – thứ được xem như thành phần trọng yếu – những cái cửa gara được mua ở Home Depot với giá thanh lý 99.97$ một cái. Hệ quả, vào một trận bão chớp ngắn sau khi cơ sở được đưa vào phục vụ, nhiều cửa xà lim bỗng tự động mở khóa, để ngỏ cho anh em tù quyền quyết định, bằng tiếng nói lương tri, rằng họ muốn ở tù tiếp hay thôi.

Điều xảy ra là, 132 trên tổng số 137 tù nhân được tạo điều kiện, đã quyết định dứt áo ra đi. Thực đúng là một câu chuyện long trời lở đất: một đoàn tội phạm đông như quân Nguyên, toàn mấy mặt cướp hiếp giết, chạy tán loạn khắp trung tâm Miami, kéo theo thiên binh vạn mã cảnh sát và cánh truyền thông điên cuồng truy đuổi. Điểm nhấn đến khi cảnh tóm cổ một tù vượt ngục được phát trực tiếp toàn quốc, trên kênh NBC Bản Tin Tối, tay phóng viên hét lên với gã tù lúc hắn bị nhấn vào xe cảnh sát, “Ai chủ mưu vụ vượt ngục này?”

Đéo ai chủ mưu hết,” gã tù gào lên. “Mấy cái cửa chó đẻ nó tự mở.”

Kể cả với các tiêu chuẩn của Miami, vụ việc này vẫn được xem là bê bối nghiêm trọng. Trước sức ép dữ dội từ truyền thông, Penultimate, được che chắn bởi những bức tường lửa dày đặc dựng lên bởi đám luật sư đắt xắt ra miếng của nó, tuyên bố tất cả tội trạng thuộc về ... đám nhà thầu phụ. Các chính khách – nơm nớp lo sợ Penultimate bị đưa lên thớt, thì có ông nào không nhận lì xì của nó đâu – vồ lấy lời biện minh này như chó hoang vồ miếng sườn lợn: Đúng rồi! Chớ gì nữa! Tụi nhà thầu phụ phải chịu trách nhiệm!

Không may cho phiên tòa của công lý, hầu hết các nhà thầu phụ quan trọng có liên can hoặc đã cao chạy xa bay khỏi đất nước, hoặc đã về chầu tiên tổ, đa số do tai nạn tàu thuyền. Sau rốt, cuộc điều tra như bánh xe bị xì hơi, và vụ việc sa vào trong một đầm lầy mù mịt của kiện tụng và chống kiện tụng không cách chi giải quyết thỏa đáng trong kỷ nguyên địa chất này. Công chúng mất dần hứng thú, và Penultimate trở lại với việc thắng thầu đều đều như vắt chanh.

Một trong số đó là ga-ra sáu tầng ở khu trung tâm mà sau cùng có giá đội lên, bởi đủ nguyên do kia nọ lọ chai, gấp bốn lần so với con số trong hợp đồng gốc. Mỗi lần tăng giá này đều được chấp thuận cái rẹt, miễn họp bàn lôi thôi bởi các lãnh đạo chính trị gia cốt cán, những người được mời đến đọc phát biểu tại buổi lễ cống hiến của gara, sự kiện may thay đã được tổ chức bên ngoài công trình, thế nên chỉ có hai người bị thương khi toàn bộ phần trung tâm của công trình đổ rầm ngay giữa phần cầu nguyện mở đầu.

Và thế là lại phẫn nộ, lại họp báo, lại trình bày. Và một lần nữa ngón tay buộc tội sau cùng lại trỏ vào - thời buổi này khó kiếm người làm ăn tử tế quá - đám nhà thầu phụ chết bầm. Những người mà dĩ nhiên tại thời điểm đó đã biến mất còn nhanh hơn mấy vị khách cuối tuần trong truyện của Agatha Christie. Và Penultimate tiếp tục ăn nên làm ra và phát dương quang đại nhờ danh tiếng của nó, như một công ty mà chỉ có kẻ ạch đụi mới dám giỡn mặt.

Có một sự thật, Arthur Herk, ngoài việc là đệ tử của lưu linh, còn là một kẻ ạch đụi. Để trả món nợ cờ bạc, lão đã cắt xén 55,000$ từ Pennultimate. Lão nào biết các sếp của lão, cao thủ trong lĩnh vực bất tín và thông minh hơn lão trăm lần, đã phát hiện ra kẻ cắp ngay trong một nốt nhạc. Họ coi biển thủ là một hành vi làm tổn hại nghiêm trọng chính sách của công ty, mức phạt cho tội này là: xử trảm.

Vậy là Penultimate đã cất công đi mời hai nhà thầu phụ có kỹ năng đặc biệt, Henry và Leonard, chính là hai mạng đang rình rập trong bóng tối ẩm ướt bên ngoài cửa kính phòng gia đình nhà Herk. Chúng đang xì xầm với nhau về kế hoạch hành động.

“Hổng ấy bắn nó bây giờ luôn đi,” Leonard nói, “kịp bay chuyến 11 giờ 40 về Newark.”

“Giờ chưa được,” Henry nói, “Nó ở quá gần mấy người phụ nữ.” Henry là người cầm súng; còn nhiệm vụ chính của Leonard là lái xe và bầu bạn với Henry.

“Mày mà không bắn sớm,” Leonard nói, “chắc tao khô máu với mấy con muỗi mắc dịch này quá.” Hắn đập chách một con đậu trên cổ tay, vương lại chừng một phần tư máu và các bộ phận còn lại của con côn trùng. “Nhìn thằng này đi,” hắn nói. “To thua mẹ gì con chó kia đâu.”

“Con này chớ,” Henry nói, tiếp tục quan sát gia đình Herk qua cửa sổ.

“Con này?” Leonard ngơ ngẩn. “Con này là sao?”

“Thì con muỗi đó,” Henry nói. “Nó là con gái.”

Leonard ngó kĩ dấu vết trên cổ tay, rồi quay sang Henry. “Biết đéo thế nào được?” hắn chất vấn.

“Thì cái show trên kênh Discovery đó,” Henry lý giải. “Người ta nói chỉ có muỗi cái mới hút máu.”

Leonard dòm lại vết bầy nhầy trên tay. Hắn rủa, “Đồ quỷ cái.”

“Cái họ không giải thích,” Henry tiếp, “đó là bọn muỗi đực ăn gì?”

“Sao, mày lo cho tụi nó hả?”

“Không, tao không lo. Thắc mắc vậy thôi ...”

“Hay mày muốn tao chạy đi mua pizza, đem về để trong khu rừng này để tụi nó khỏi chết đói?”

“Tao chỉ thắc mắc tụi nó ăn gì. Nếu không hút máu? Có vậy thôi.”

“Hổng chừng tụi nó hút nhau,” Leonard nói.

Henry phì cười, càng khích lệ thằng Leonard.

“Ồ anh bợn!” Leonard thì thào, giả giọng một con muỗi nói ngọng. “Anh bợn có cái đùi ngơn gúm!”

Đến đấy thì Henry cười rũ không thành tiếng; nòng súng của hắn run bần bật trong bóng tối.



BÊN TRONG PHÒNG gia đình, Arthur Herk bấm đổi kênh lia lịa theo cách có tính toán hẳn hoi. Lão làm vậy lớp vì bản năng đổi kênh đã được cấy trong mã di truyền của giống đực, lớp vì lão biết vợ lão và đứa con ghẻ của lão ghét lão làm vậy. Càng ghét tao càng bấm hung!

Trong suốt vài phút, Anna và Jenny giương mắt nhìn đống hình ảnh xịt nháy loạn xạ với nét mặt vô cảm, cố không để lão Herk thấy thỏa mãn. Sau cùng, Jenny thở hắt ra và nhổm dậy. Cô bảo Anna, “Thôi con về phòng đây, ít ra chỗ đó cũng đỡ ... ngu xuẩn hơn. Chúc mẹ ngủ ngon.”

Herk vẫn đang chuyển kênh xoành xoạch.

Anna nói, “Thôi tôi cũng ra dắt con Roger vô rồi đi ngủ luôn.”

Herk dừng chuyển kênh và lừ mắt nhìn nàng. Nàng nhận ra cái lối nhìn đó. Nàng trù cho lão gục luôn ở phòng gia đình này. Nàng trù cho lão không lết được về phòng ngủ. Đoạn nàng nhổm dậy khỏi sô pha.

Ngoài kia, Henry thì thầm, “Họ sắp đi rồi.”



“HỌ SẮP ĐI rồi,” Matt thì thầm. Nó và Andrew, vừa nhận được màn tiếp đón nồng hậu và chóng vánh từ Roger, đã di chuyển đến một điểm quan sát cạnh một chậu cây lớn ở mép hiên, cách Henry và Leonard độ chín thước.

“Làm gì giờ?” Andrew hỏi.

“Tao đoán nó sẽ ra dắt con chó vào nhà,” Matt nói. “Nó mở cửa là mình nhào dzô liền, tao bắn nó, mày chứng kiến.”

“Thôi tao đứng đây chứng kiến cũng được,” Andrew nói, “lỡ thằng cha nó bắn sảng là khổ.”

“Bằng cái gì?” Matt vặn lại. “Rẹmote TV hở? Mày phải đi với tao con Jenny nó mới coi mày là nhân chứng được chớ.”

“Dám thằng chả cất súng ở đâu đó mày,” Andrew nói. “Miami mà.”

Cũng đúng, Matt khó lòng bắt bẻ chuyện đó. Giọng cứng cỏi duy lòng bủn rủn, nó thì thào “Đi thôi” và khởi sự băng qua hàng hiên về phía cửa kính. Andrew chắt lưỡi, lò dò bám theo.

Henry và Leonard không nhìn thấy tụi trẻ trâu; chúng đang chăm chú quan sát Anna bước về phía cửa.

“Hoa lài cắm bãi cứt trâu,” Leonard nhận xét.

“Im dùm,” Henry nói. Hắn nâng khẩu súng trường lên và cho Arthur Herk vào tầm ngắm, suy nghĩ về cách thức hành động. Thằng Herk mà ở yên trong phòng, ngồi trước TV thì dễ rồi. Nhưng Henry phải dự trù trường hợp Herk đứng lên rồi theo bà kia ra ngoài luôn. Henry không muốn bắn khi có phụ nữ trong phòng, trừ khi bất quá.

Anna Herk bước đến cửa kính, mở chốt, kéo cánh cửa ra và âu yếm gọi, “Roger, vào nhà thôi con trai.” Chính vào lúc đó, một loạt sự kiện nối tiếp nhau diễn ra nhanh như điện xẹt:


- Roger, bằng những tế bào não ưu tú đang hoạt động của nó, đã tính ra được xác suất có thức ăn trong nhà với những con người cao hơn so với ngoài này cùng CÓC THÙ ĐỊCH, bỏ chốt canh phòng và phóng như một quả tên lửa tầm thấp xù lông qua cánh cửa để ngỏ, vào trong phòng gia đình.


- Tiếp bước nó là Matt, hùng hục chạy về phía cửa mở, tay lăm lăm khẩu SquirtMaster Model 9000 chính hãng. Nó tính quát “Ê JENNY!” nhưng do run quá nên tiếng kêu nghe thành “HENNY!”


- Anna, nhác thấy một hình thù từ bóng tối lao xồng xộc về phía mình chí chóe gì không rõ, hoảng hồn hét lên.


- Cách hai bước đằng sau, Jenny, nghe mẹ hét và nhìn hình thù đang lao đến, cũng hét theo.


- Arthur Herk, nghe tiếng la chói lói của mấy người phụ nữ, giật mình đánh rớt cái remote. Roger cấp kì chạy lại, hít hà xem có phải thức ăn không.


- Trong bóng tối trập trùng ngoài sân, Leonard thốt lên “Cái quái quỉ gì vậy?”


- Bằng đúng thời gian Leonard đưa ra nhận định đó, Henry, với biệt tài xử lí thông tin và ra quyết định thần tốc (đâu phải khơi khơi mà hắn được cầm súng), đã quyết định: thây kệ tay súng kia tới đây để làm gì, thì hắn, Henry, tới đây để bắn Arthur Herk, và giờ là lúc để bắn.


- Giữa lúc Henry đưa ra quyết định, Matt băng như một cơn lốc qua cánh cửa để ngỏ, bỏ lại Anna Herk đang la ỏm tỏi và chĩa khẩu Squirt Master Model 9000 vào Jenny đang la ỏm tỏi.


- Arthur Herk, thấy một thằng ba trợn đùng đùng xông vô với khẩu súng, hớt hải đâm bổ xuống sàn nhà ngay trước TV. Ta nói ông trời ngó bộ còn thương Arthur, bởi lẽ ...


- ngót nghét mười giây sau, một viên đạn từ nòng súng của Henry bay qua một điểm trong không khí nơi từng là cái đầu của Arthur, đâm vào màn hình TV 35 inch khiến nó nổ tung với một tiếng “BÙM” đanh gọn tàn khốc. Tan tành trong một ánh chớp xanh, hình ảnh Chủ tịch Câu Lạc Bộ Tóc Nam.


- Nghe tiếng nổ, Arthur Herk khiếp đảm bò loạn trên sàn nhà, đoạn, nom in hệt một con cá sấu Mỹ, từ phòng gia đình lão phóng nhào vào hành lang, hướng thẳng đến phòng Nina.


- Gạt phăng nỗi sợ và hành động theo bản năng người mẹ bảo vệ con, Anna Herk nhảy chồm lên lưng Matt, khiến nó mất trụ ập vào người Jenny, và cả ba mạng ập xuống nền nhà theo đội hình một cái sandwich: với Matt chẹt giữa hai người phụ nữ đang điên cuồng gào thét và đấm túi bụi vào người nó.


- Dưới hành lang, Nina nghe nhiều tiếng hét, một tiếng nổ, và nhiều tiếng hét hơn. Cô hé cửa và thấy lão Arthur phóng ra từ sô pha, chạy sòng sọc dọc hành lang về phía cô với bản mặt của một con thú dại. Cô lật đật dập cửa, chỉ để thấy nó bung ra gần như tức khắc sau cú húc của lão Herk. Đinh ninh sắp bị hãm hiếp, Nina phi thân lên giường và tuột ra ngoài cánh cửa sổ mở sẵn, đáp phịch xuống bãi cỏ. Rồi với vỏn vẹn một mảnh áo ngủ màu thiên thanh trên người, cô chạy bán sống bán chết, với đôi chân trần cùng nỗi khiếp hoảng, vào trong đêm tối.


- Bên mép hàng hiên, Leonard và Henry nghe tiếng còi báo động hú lên và, không một lời trao đổi, bắt đầu rút thật êm, thật mau, thật chuyên nghiệp.


- Cách chín mét bên phải là Andrew, chuyên nghiệp không bằng nhưng mau lẹ chẳng kém, cũng khởi sự đánh bài chuồn.


- Trong cái tô của Roger, con cóc, kẻ đạt được vị thế như hôm nay đâu phải bằng sự xao lãng, đủng đỉnh đánh chén khẩu phần của Roger.



Nina là người đầu tiên đến chỗ bức tường; nói đúng hơn, trong bóng tối dày đặc bên dưới cây chi sung, cô đã tông thẳng vô tường. Thé lên một tiếng kêu bén ngót vì đau đớn, cô loạng choạng nghiêng ngả về phía sau, vừa đúng đà băng lên của Leonard, kẻ vọt ra từ một lùm cây với tốc độ tốt nhất có thể của một người đàn ông trung niên và đâm sầm vào Nina, khiến cô ré lên lần nữa khi cả hai mạng cùng rạp xuống. Leonard vấp nhào lên Nina, húc đầu vào tường, mắt nổ đom đóm.

Ba giây sau, Henry, thở phì phò trong lúc băng qua bụi cây và tốp lại khi phát hiện hai hình thù dính chùm trên mặt đất cạnh bức tường, cả hai đều đang rên rỉ. Henry lom khom bước đến đống hỗn độn, trở ngược đầu súng đặng có thể dùng nó làm gậy.

“Leonard?” hắn kêu. “Leonard?”

Một trong hai hình thù ngọ nguậy và đang cố gượng dậy. Đó không phải Leonard. Henry giương súng lên, vào thế sẵn sàng nhả đạn. Hắn đang tập trung tối đa vào cái lúc Puggy từ trên cây lao xuống người mình. Cú đòn trời giáng khiến Henry nằm bẹp trên đất và đánh rơi khẩu súng trường. Bật dậy như một cái lò xo, Puggy xí lụm nó.

Puggy chưa bao giờ nổ một khẩu súng trường; đến rờ vô cũng chưa nữa là. Nó bèn bắt chước kiểu dáng như mấy người trên TV, nheo một mắt nhìn xuống nòng súng. Lùi lại vài bước, nó chĩa súng hú họa vào Henry.

Nếu có nhiều ánh sáng hơn, và nếu Henry không đang hứng chịu những cơn đau lộng óc ở cổ và vai phải, hắn đã có thể nhận ra dù thằng lùn đô con đang giữ súng này là ai đi nữa, nó vẫn chưa kéo chốt an toàn, và chưa để ngón tay vào cò súng. Bình thường là Henry đã giải quyết thằng này phát một rồi – đá vô chân nó, lăn qua một bên, nhổm dậy, rút khẩu súng giắt trong bao da ở cổ chân ra.

Ngặt nỗi Henry đang không trong trạng thái bình thường, hắn biết điều đó, còi báo động thì đang réo inh ỏi và mặc dù rất muốn biết chuyện gì đang xảy ra, hắn nghĩ tốt hơn hết là dông gấp khỏi đây, bể dĩa quá rồi! Mắt vẫn nhìn chừng Puggy, hắn cử động thật chậm rãi, giơ hai tay ra trước, chuyển từ thế quỳ hai chân, sang quỳ một chân, sau cùng là đứng thẳng dậy. Puggy gườm hắn.

“Tôi không muốn sinh chuyện,” Henry nói.

“Đây cũng vậy,” Puggy nói, nó đời nào muốn sinh chuyện.

“Tôi phải đưa thằng bạn mình đi,” Henry nói.

“Chớ động vào cô gái,” Puggy nói.

Henry nghĩ bụng, Cô gái nào kia? Nhưng hắn chỉ nói, “Không, không, tôi chỉ đưa thằng bạn mình đi thôi, OK?” Hắn là đà di chuyển đến bức tường và ... chậc, đúng là một cô gái. Chuyện đây trời? Hắn nắm vai Leonard và lay mạnh.

“Dậy coi mày,” hắn nói. “Dậy coi, tính ngủ ở đây luôn hả!”

Leonard ráng gượng dậy được hòm hòm, mắt hắn đang dần bắt được những hình ảnh. Đầu tiên hắn thấy Henry đang đứng trước mặt hắn; rồi hắn thấy một con nhỏ mặc áo ngủ nằm trên đất bên cạnh hắn; rồi tới một thằng đang lăm lăm súng trường. Đầu hắn nhức như búa bổ và mắt hắn rỉ máu và tiếng còi báo động thì tru tréo bên tai.

Hắn cất lời: “Cái mả cha gì vậy?”

“Thôi, đi lẹ.” Henry vực Leonard dậy, cơn đau ở vai nhói lên khiến hắn cảm thấy buồn nôn. Hắn ngó lần nữa thằng lùn đô con vẫn đang giương súng vu vơ về phía hắn. Henry biết thằng này không phải cao thủ. Hắn biết mình thừa sức giành lại khẩu súng – hắn không nỡ rời xa nó – song Leonard đang run lẩy bẩy, và tiếng còi báo động đã tắt, nghĩa là tụi cớm đang ở đây rồi.

Henry gồng mình đẩy thằng Leonard qua khỏi bờ tường, đặt đít nó lên vai mình – lại đau thấu trời xanh – rồi xô nó ra ngoài; xong tới phiên hắn leo qua. Hắn dìu Leonard đi hết tốc lực tới chỗ chiếc xe thuê rồi tống nó vào băng sau. Đoạn hắn thận trọng chui vào ghế trước, cho xe ra khỏi khu dân cư, nhìn chừng gương chiếu hậu và suy tính về những gì sẽ nói qua điện thoại.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
BA



Cứ hỏi bất kì thằng con trai mười bảy tuổi nào xem, nó có muốn nằm trên sàn nhà và được hai người phụ nữ khả ái ép lấy ép để không? Nó không chịu mới lạ! Thế nhưng với Matt, đó hoàn toàn chẳng phải một trải nghiệm sung sướng gì. Vô phúc cho nó, dẫu nó biết mình chỉ là một nam sinh vui vẻ dự phần vào một trò chơi vô hại, Anna Herk và Jenny có biết đầu cua tai nheo gì đâu. Thành thử trong khi nó tuyệt không có ý định làm hại ai, thì hai má con họ lại đang quyết sống mái, chơi chết bỏ với .

Trên lưng nó là Anna Herk, người rất chăm tập thể dục, đang bấu chặt lấy nó như một con cá chình ngộ dại. Hai chân nàng quắp chặt mình nó, chẹt hai cánh tay nó sang một bên; tay phải nàng siết cổ họng nó như muốn cắt luôn nguồn cung cấp dưỡng khí, tay trái nàng đấm liên phanh vào sau đầu nó, khuyến mãi thêm chiêu sư tử hống tra tấn màng nhĩ. Bình sinh hiền lành như cây cỏ, song lúc này đây nàng đang cố hết sức để ra vẻ “đả nữ” nhất có thể.

“THẢ CON TAO RA MAU, THẰNG CHÓ ĐẺ!’, nguyên văn lời vàng ý ngọc của nàng.

Matt nguyện ăn chay hết tháng nếu thả được con Jenny ra, bởi Jenny đang tì gối lên háng nó và cào cấu nó bằng những móng tay bén ngót không thua gì dao X-Acto. Duy sức mấy Matt cục cựa nổi, bởi phu nhân Herk đang hùng hục cưỡi trên lưng nó, nhấn mình nó xuống thiên kim tiểu thư đang vừa la hét vừa cào cấu của nàng, mặt nó giập bạch bạch xuống nền nhà cứng ngắc sau mỗi cú đấm của Anna; máu xịt ra từ mũi nó. Nó cố sức kêu oan, song âm thanh duy nhất phát ra từ cái cổ họng bị thắt chặt của nó chỉ là tiếng “ACK” vô nghĩa. Trong màn sương mờ tối của ý thức đang chuội dần, Matt cảm giác một sự hiện diện mới, lông lá bù xù ngay cạnh má phải của mình. Roger chớ ai! Sau khi điều nghiên tình hình, cu cậu đã quyết định việc cần làm, là liếm chỗ máu mũi của Matt.



Ngoài đường phố, sĩ quan cảnh sát Miami Monica Ramirez, người phải nghe tối thiểu ngày ba lần chuyện đùa về Monica Lewinsky từ các nam đồng nghiệp hợm hĩnh, tốp chiếc xe tuần tiễu trước địa chỉ nhà Herk, nơi vừa được hàng xóm báo cáo với 911. Cô kéo cửa sổ xe xuống và nghe văng vẳng tiếng phụ nữ la hét. Cô hướng đầu xe về phía lối vào nhà, cạ tấm cản trước của xe vào cánh cổng thép an ninh rồi để nhẹ chân ga. Cánh cổng an ninh, như phần lớn chúng, mở ra ngay tắp lự.

Monica tấp vào lối đi rồi chui ra khỏi xe, cùng với cộng sự của cô, Sĩ quan Walter Kramitz. Họ đã là cộng sự của nhau suốt hai tháng nay, và Monica áng chừng ổng sắp mở lời xin một cái hẹn, nghĩa là cô phải mau mau nghĩ cách để khước từ. Sự thật là, khứa này quá si mê bắp tay của mình, chưa kể hắn đã có vợ.

Kramitz thử mở cửa trước – khóa rồi, hắn nhấn chuông, đoạn đập cửa đùng đùng và quát, “Cảnh sát đây!”

Monica không hi vọng có người ra mở cửa. “Tôi sẽ vòng ra sau nhà,” nói rồi cô khởi sự chạy vòng theo hướng bên trái ngôi nhà.

Khi quành qua góc nhà sau, cô nghe những tiếng hét vọng đến lớn hơn từ phía sân hiên. Thận trọng tiến đến cánh cửa kính đang để ngỏ, Monica rút khẩu súng lục từ bao da ra. Qua tấm kính, cô thấy một mớ chân cẳng lộn tùng phèo; tiếp đến là cảnh tượng những con người đang quần thảo trên nền nhà, máu me vương vãi, và một khẩu súng trường.

Cô xoay người vào trong qua cánh cửa mở, giương súng lên và quát: “Cảnh sát đây! Tất cả dừng tay lại!” (Monica không bao giờ hô “Freeze!”, cho rằng nó quá sến sẩm.) Sới vật trên sàn nhà còn hăng máu quá đâu có nghe thấy gì, chỉ mỗi con Roger tức tốc phi đến và – bằng cử chỉ toàn cầu bày tỏ tình hữu nghị của loài khuyển – sục mõm nó vào háng Monica.

“TỐP MAU!” Monica nộ con Roger, nhưng Anna Herk lại nghe được. Một tay vẫn kẹp cổ Matt, nàng quay đầu lại và chết điếng khi thấy một cảnh sát đang chĩa súng vào mình.

“Thả họ ra,” Monica nói.

“Tôi ở nhà này mà,” Anna phân bua.

“Thả trước nói chuyện sau,” Monica nói.

Anna bèn lăn khỏi người Matt. Matt, thoát khỏi cảnh trên đe dưới búa, lăn khỏi người Jenny, tay bưng lấy lỗ mũi ăn trầu. Jenny vẫn chưa thôi rên rỉ, nhớn nhác bò lần đến bên phụ mẫu.

“Con có sao không cưng?” Anna xuýt xoa. Jenny khẽ gật đầu.

Monica hạ súng xuống duy chưa vội cho vào bao, nói với Anna, “OK, giờ cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra?”

Anna trỏ vào Matt và cất lời, “Tên này định ...”

“FREEZE!” Sĩ quan Kramitz, xộc vào phòng một cách đầy dũng mãnh, giương súng quát. Hắn đã cạn kiên nhẫn với cái cửa chính.

“Thôi,” Monica xua tay. “Mọi chuyện êm rồi.”

“OK,” Sĩ quan Kramitz nói, thất vọng ra mặt. “Có vụ gì vậy?”

“Thì bà đây đang sắp kể nè,” Monica nói. “Tiếp tục đi.”

“Tên này định giết chúng tôi,” Anna nói.

Mọi ánh mắt đổ dồn vào Matt.

“Không!” nó kêu lên. “Là tôi mà! Thằng Matt Arnold mà.” Nó bỏ tay khỏi mũi để bà con có thể ngắm nghía dung mạo.

“Tôi chỉ định giết Jenny thôi,” nó trình bày.

“THẤY chưa?” Anna kích động.

“Ấy không không,” Matt cuống quít. “Hổng phải giết thiệt, giết chơi thôi. Đó là trò Killer. Ở trường. Tôi học chung lớp Sinh Học với bạn ấy. Jenny, cứu bồ dùm cái.”

Mọi con mắt lại hướng sang Jenny. Cô nhìn chằm chằm Matt và nhận ra, dưới lớp máu me, trời đất đúng là cái gã học chung với cô thiệt. Đã nhiều lần cô bắt gặp hắn nghía mình trong lớp học. Cũng như bao tiểu thư có nhan sắc khác, Jenny luôn phải vờ tỏ ra cao lãnh, băng giá trước những ánh mắt ngưỡng mộ của bọn con trai, dù tất nhiên trong lòng thì trống giong cờ mở.

“Ủa mà cậu tới nhà tôi chi vậy?” Jenny hỏi.

“Thì tôi tới để giết Jenny,” Matt nói.

Thấy chưa?” Anna lại kích động.

“Với súng nước,” Matt nói lia. “Nó là súng nước.”

Mọi người nhìn sang khẩu súng. Sĩ quan Kramitz bước tới nhặt nó lên.

“Súng nước thiệt,” hắn tiu nghỉu.

Chết mất,” Jenny vỗ trán. “NÓ đó đúng không? Cái trò dở hơi đó?”

“Đúng rồi!” Matt reo lên. “Nó đó.”

“Chúa ơi,” Jenny nói. Cô quay sang mẹ, “Cái trò ở trường tụi con đó mẹ. Hễ mẹ nhận được tên của ai đó, mẹ được quyền bắn họ với súng nước.”

“Ở nhà người ta?” Anna trố mắt. “Vào đêm hôm? Trò gì kỳ cục vậy?”

“Xin lỗi cô,” Matt nói. “Con không nghĩ nó lại ...”

“Mấy người tới ĐÚNG LÚC quá ha,” Arthur Herk xuất đầu lộ diện từ hành lang. Tự nãy tới giờ lão rúc kĩ trong phòng Nina, khóa cửa cài then, cho đến khi đã chắc chắn sóng yên biển lặng. Roger tíu tít chạy lại, hóng coi Arthur có mang cơm nước gì tới không, lão tung cho nó một đá lăn quay.

“Ông là ...” Monica nói.

“Tôi là chủ cái nhà này,” Arthur nói.

“Mừng cho ông,” Monica nói. “Và tên ông là?”

“Arthur Herk. Tôi có quen với thị trưởng, và tôi muốn biết mấy người làm cái đéo gì mà giờ này mới tới?”

“Sir,” Monica nói. “Một, chúng tôi nhận được phôn là tới liền. Hai, đừng có xổ thứ tiếng đó với tôi.”

“Phải đó sir,” Sĩ quan Kramitz tiếp lời, thầm mong Arthur còn làm trận làm thượng hung nữa, để hắn có dịp trổ tài trấn áp đối tượng.

“Rồi mấy người tính làm gì?” Arthur chỉ vào Matt. “Thằng này xông vô đây với một khẩu súng chó đẻ! Tính đồ sát cả nhà tôi!”

“Arthur à,” Anna nói, “súng nước thôi.”

Arthur liếc khẩu súng trong tay Sĩ quan Kramitz. Kramitz bóp cò, một tia nước phọt lên sàn nhà. Roger chạy lại liếm.

“May mà ông trốn kịp đó, Arthur,” Jenny mỉa. “Đỡ mất công thay bỉm.”

Sĩ quan Kramitz khịt mũi. Arthur quay phắt lại, nồ Jenny: “Câm mồm, con đĩ cái.”

Một phút tĩnh lặng trong căn phòng nơi mà tất thảy những người hiện diện ở đó, trừ Arthur và Roger, cùng chiêm nghiệm về sự đốn mạt siêu cấp của Arthur.

“OK,” Monica lên tiếng, “hãy cùng làm rõ đầu đuôi câu chuyện và ...”

“CÁI TV!” Arthur gào lên thảm thiết. “NÓ ĐẬP BỂ MẸ CÁI TV CỦA TÔI RỒI!”

Mọi người cùng nhìn về phía chiếc TV, giờ chỉ còn là một hộp đen câm lặng với một cái lỗ toang hoác, thủy tinh vun vãi trên sàn nhà phía trước.

“Vụ này không mắc mớ tới tôi nghen,” Matt líu ríu.

“MÀY PHẢI ĐỀN! MÀY PHẢI VÀO TÙ! QUÂN KHỐN NẠN!” Arthur rủa xả.

“Tôi vô can,” Matt lắc đầu lia. “Súng nước mà.”

“Ổng còn lo cho cái TV hơn mẹ con mình,” Jenny xọc dưa.

“TAO BIỂU MÀY CÂM MỎ RỒI MÀ, CON GIẶC CÁI,” Arthur nạt.

“Sir,” Monica nói với vẻ ngán ngẩm, tự hỏi sao mình cứ dính vô mấy vụ sóng gió gia đình này hoài thay vì các vụ án mạng đơn giản, dễ thương, “Tôi yêu cầu ông bình tĩnh để chúng tôi có thể ...”

“ĐÂY LÀ NHÀ TAO!” Arthur nói.

“Vâng, sir,” Monica nói. “Còn đây là cặp còng số tám của tôi, hoặc ông bình tĩnh, hoặc phiền ông đeo nó dùm.”

“Phải đó, sir,” Sĩ quan Kramitz tiếp lời, tiếc hùi hụi vì không nghĩ tới câu thoại về cặp còng.

“OK,” Monica nói, “Tôi muốn nghe từ đầu, từng người một, thuật lại vụ việc, bắt đầu với ngài Killer đây.” Cô gật đầu ra hiệu cho Matt.

“À,” Matt nói, “thì tôi với thằng Andrew núp ngoài kia, tôi cầm theo súng nước, và ...”

“Andrew là ai vậy?” Monica hỏi.

Matt, ý thức được nguy cơ mắc phải tội lỗi tày đình đối với một nam sinh – tội chỉ điểm, bèn giả lả: “Không ai hết.”

“Andrew là ‘không ai hết?’” Monica vặn lại. “Cậu ở ngoài kia với khẩu súng nước và một người bạn tưởng tượng?”

“Phải,” Matt nói. “Í lộn, không phải.”

Monica xoa xoa thái dương, mới nhận ra mình vẫn đang cầm súng. Cô tra súng vào bao và nói, “OK, cậu và không ai hết ở ngoài kia. Sau đó thì sao?”

“OK,” Matt nói, “sau đó thì mẹ Jenny bước ra mở cửa, và tôi chạy vô để xịt nước Jenny, và ...”

Chợt có tiếng chuông vang lên.

“Ở cửa trước.” Anna nói.

“Sĩ quan Kramitz,” Monica nói. “nhờ anh ra coi ai vô nhà được không?”

Sĩ quan Kramitz liếc xéo Arthur một cái đoạn rời khỏi phòng gia đình.

“Vậy là,” Monica trở lại với Matt, “cậu chạy vô để xịt nước, và ...”

“Và cô Herk nhảy lên người tôi, rồi tôi đằng lên Jenny,” Matt nói. “Ý tôi là, tôi ngã đằng lên Jenny.” Matt và Jenny cùng đỏ mặt.

“Trời, cho cô xin lỗi nghen,” Anna bẽn lẽn nói. “Thì cô cứ tưởng con là ... ai biết đâu. Có bị nặng lắm không con?”

“Dạ không, xịt máu mũi tí thôi,” Matt nói. “Mà chắc cô có chơi thể thao đúng không ạ?”

Anna nói, “Để cô đi lấy khăn.”

Jenny nhanh nhảu, “Để con lấy cho.” Tự nhiên cô thấy Matt dễ thương lạ.

“Dẹp! Không lấy cái cứt gì cho nó hết!” Arthur sừng sộ. “Nó đột nhập nhà tao, đập bể TV tao. Phải làm đơn truy tố, bắt nó đền vô!”

Sĩ quan Kramitz trở lại phòng và thông báo, “Người này nói con ông ta đang ở đây.”

Sau lưng chàng sĩ quan, trong trang phục quần soóc tập gym và áo phông Miami Fusion với dáng điệu cà cuống, là Eliot Arnold. Eliot hất Roger khỏi háng và xăm xăm tiến lại chỗ Matt.

“Matt,” anh nói, “con không sao chớ?”

“Dạ không ba,” Matt nói. “Bị chút máu mũi thôi ạ. Xin lỗi ba nghen. Con đâu có nghĩ ... Con xin lỗi.”

“Cậu này là con anh?” Monica lên tiếng hỏi.

“Phải,” Eliot nói. “Tôi là Eliot Arnold. Thằng Andrew bạn Matt phôn cho tôi, nói có chuyện ở đây, tôi bắt taxi tới liền.”

“À,” Monica gật gù. “Người bạn tưởng tượng.”

“Gì cơ?” Eliot nhướn mày.

“Thôi bỏ đi,” Monica phẩy tay.

Arthur Herk xán lại Eliot, nhỏ nhẹ hỏi, “Ông có luật sư chớ?”

“Sao cơ?” Eliot nói.

“Ông nên kiếm thằng thầy cãi nào thiệt giỏi đi,” Arthur bảo Eliot. “Thằng con ông đập bể TV tôi. Hiệu Sony, ba mươi chín inch.”

“Ba lăm thôi,” Jenny lên tiếng, đã trở lại với cái khăn.

“Con giặc cái,” Arthur lầm bầm.

“Ai đó làm ơn cho tôi chuyện gì đã xảy ra?” Eliot ngơ ngác hỏi.

“Thì con tới để giết Jenny,” Matt nói, “rồi mẹ Jenny nhảy lên mình con.”

“Chào anh,” Anna khẽ vẫy tay chào Eliot. “Tôi là Anna Herk. Thiệt tình tôi không có ý làm đau cháu.”

“Chào cô,” Eliot vẫy tay đáp lại. “Ầy, người xin lỗi là tôi mới phải. Do tôi cũng chủ quan quá, ý tôi là, nghe cách thằng Matt diễn tả, tôi cứ nghĩ đó là trò con nít thôi chứ ai dè đâu.”

“Này,” Anna nói, phác cử chỉ ta-làm-gì-được-chứ. “Con trẻ mà.”

“Ừ,” Eliot đồng tình. “Con trẻ mà.” Anh sững sờ khi bắt gặp đôi mắt Anna, chúng ánh lên một màu ngọc bích xanh đến không tưởng.

“Ờ, và con trẻ của ông sắp được ăn cơm nhà nước rồi,” Arthur Herk chắt lưỡi, lặc lè bước đến quầy bar.

“Monica ơi?” Sĩ quan Kramitz lên tiếng.

“Gì thế?” Monica nói.

“Tới nhìn cái này đi,” Sĩ quan Kramitz nói, niềm hứng khởi với vụ án lại dậy lên trong hắn. Hắn cúi xuống sát TV, chỉ chỏ gì đó vô lỗ hổng đã từng là chỗ cái đèn hình. Monica lại gần và trông thấy một lỗ nhỏ tròn vo ở mặt sau hộp nhựa. Đằng sau TV, cô phát hiện một lỗ trên tường với kích thước in hệt. Cô đi vòng qua tường đến gian phòng ăn; có một cái lỗ trên đó, và một lỗ khác nữa trên bức tường đối diện.

“Trời đất,” cô cảm thán, đoạn quay lại phòng gia đình.

“OK,” cô nói, “Nhờ mọi người trình bày lại sự vụ một lần nữa, và lần này, bao gồm cả chuyện ai đã bắn cái TV.”

Arthur Herk đang rót rượu chợt ngẩng đầu lên.

Bắn nó?” Anna nói. “Làm gì có ai bắn nó.”

Súng nước mà,” Matt tiếp lời.

“Nghe đây,” Monica nói. “Có một lỗ đạn trên bức tường kia, và tôi muốn biết, ngay bây giờ, làm thế nào ... Hượm đã.”

Monica quay lại, rảo bước đến chỗ khung cửa sổ cạnh cửa trượt và đứng tần ngần ở đó một lúc, mắt nhìn chăm chăm. Eliot, Matt, Anna, Jenny và Sĩ quan Kramitz cùng xáp lại và quan sát thứ cô đang quan sát. Một lỗ tròn vành vạnh trên mặt kính.

Chúa ơi,” Jenny thốt lên.

Lỗ đạn hả??” Eliot hỏi.

“Coi bộ giống lắm,” Monica nói.

“Nói vậy,” Matt tái mặt, “có một viên đạn bay qua phòng này? Với bọn tôi ở trỏng?”

Jenny lại gọi Chúa. Anna ôm ghì lấy cô.

Tại quầy bar, Arthur Herk mặt cắt không còn hột máu.

“Matt,” Monica nói, “lúc cậu và người bạn tưởng tượng ở ngoài này, cậu có thấy ai khác không?”

“Dạ không,” Matt lắc đầu.

“Bà Herk,” Monica nói, “còn ai khác sống ở đây ngoài bà, con gái bà và chồng bà không?”

“À,” Anna nói, “còn có ... Lạy Chúa, Nina đâu rồi?”



Nina ngửi thấy mùi bia. Đó không phải thứ mùi khó chịu; kì thực nó khiến cô nhớ đến cha mình, khi ông đi làm về muộn mỗi tối thứ Sáu và thi thoảng cô được ngồi lọt thỏm trong lòng ông, nghe ông nghêu ngao những bài hát của cô, và phảng phất trong hơi thở của ông là mùi hương ngọt ngào của cerveza.

Cũng là mùi hương đó lúc này đây, nhưng không phải từ cha cô mà là một người đàn ông với giọng nói khác, một giọng với âm sắc cao hơn, và ảnh đang rối rít “Cô không sao chớ? Cô gì ơi? Cô gì ơi? Cô không sao chớ?”

Nina mở mắt và thấy một người đàn ông, nhưng cô không hét lên, bởi lẽ cô không cảm thấy sợ người này. Ảnh để râu ria mọc dày, và đôi mắt màu nâu của ảnh nom buồn hỉu buồn hiu, như mắt con Roger vậy, và cô như nhìn thấy bên trong nó một tâm hồn màu nâu sầu muộn, anh chàng này sẽ không làm hại cô đâu.

Puggy nghĩ Nina thật đẹp. Đẹp đến rụng rời, như một thiên thần trong chiếc váy ngủ màu thiên thanh vậy, hay như những phụ nữ nó từng thấy trên TV. Một mỹ nhân sắc nước hương trời nhường này lại đang hiện diện trong cái cây của nó ư? Nó đang mơ chăng? Puggy biết – nó tin chắc – cô là lí do của tiếng nhạc sáo ấy, bởi tiếng nhạc ấy cũng đẹp hệt như cô vậy. Nó chưa bao giờ phải lòng một phụ nữ nào, nói chuyện suông cũng chưa nữa là, nhưng không hiểu sao nó tin chắc mình đã yêu cô gái này mất rồi.

“Không sao chớ cô?” nó lại hỏi.

“Sí,” Nina nói. “Vâng.”

Nữa. Tiếng Tây Ban Nha, Puggy nghĩ điệu này chắc chết.

“Có chuyện gì với tôi thế?” cô hỏi, thận trọng sờ vào trán mình, cảm nhận được một cục u lớn và mềm.

“Thằng đó tông trúng cô,” Puggy nói.

“Señor Herk,” Nina nói. “Ông ấy rượt tôi.”

Puggy thấy ghét ngay thằng Señor Herk này, dù nó là ai đi nữa.

“Tui đoạt được khẩu súng của nó,” Puggy nói.

“Súng?” Nina đọc thành “xúng.” Puggy nghĩ đó là một cách phát âm tuyệt vời. Bỗng dưng nó muốn cô gái này ở lại trên cây hoài hoài với nó, thỏ thẻ phát âm thứ này thứ kia.

“Khẩu súng của thằng còn lại,” Puggy nói. “Tui đoạt được nó.”

“Bộ có người khác nữa sao?” Nina hỏi.

“Hai đứa lận,” Puggy nói. “Yên chí đi, tụi nó dông hết rồi.”

Nina nhìn xung quanh. Cô đang nằm trên một thứ gì đó cứng và phẳng như một cái giường gỗ, song cô lại đang ở ngoài trời, với những cành cây bao phủ.

“Đây là đâu vậy?” cô hỏi.

“Cái cây của tui đó,” Puggy khoe.

Nina cựa mình nhổm dậy, và thấy quả nhiên mình đang ở trên một cái cây.

“Nói chớ,” Puggy cười ngượng nghịu, “cũng không hẳn là cái cây của tui. Nhưng tui đang tá túc trên này.”

“Ủa mà sao tôi lên được đây hay vậy?” Nina hỏi.

“Tui cõng cô lên đó,” Puggy đáp, bồi hồi nhớ lại hơi ấm cơ thể nàng trên bờ vai mình. “à mà cô đừng nghĩ tui ... ý tui là, tui không có ý ...”

“Không, không,” Nina khẽ xua tay. “Tôi biết mà. Anh đã cứu tôi. Muchas gracias. Cảm ơn anh nhiều lắm.” Và cô cười với nó. Tuyệt sắc giai nhân có khác, tới hàm răng cũng trắng bong.

Puggy chưa bao giờ hạnh phúc hơn thế trong suốt cuộc đời mình, chưa bao giờ, kể cả cái lần hồi nó còn nhỏ và được cha mình, giờ ông đã khuất rồi, dắt đi chơi lễ carnival của lính cứu hỏa tình nguyện và cho nó chơi ô tô đụng thỏa thích. Ba nó uống bia, cười tươi rói, dúi cho thằng coi xe mấy tờ bạc và nói sang sảng: “Cho nó đi tua nữa!” Đó là thời khắc huy hoàng nhất trong đời nó, nhưng cũng chẳng sánh nổi với chuyện này, được một cô gái đẹp như một tiên nữ-TV cười với mình.

“Nina!” một tiếng gọi vọng xuyên qua bóng tối, từ phía ngôi nhà.

“Ay Dios,” Nina nói. “La señora!”

Nina, Puggy nhủ thầm.

“Tôi phải đi rồi,” Nina nói.

“Nina!” tiếng gọi lại vang đến.

“Nina,” Puggy thử gọi.

Nina thích cái cách anh ta đọc tên mình. “Còn anh tên gì?” cô hỏi.

“Puggy.”

“Puggy,” Cô đọc thành “Pogey.” Puggy ngỡ mình sắp trôi luôn ra khỏi cái cây.

“NINA!” tiếng gọi lần này nghe róng riết hơn, và gần hơn.

“Tôi phải đi rồi,” Nina nói.

“OK,” Puggy nói, nó đã quen với chuyện mọi người bỏ đi. Nó xòe rộng bàn tay để Nina nắm lấy, và kéo cô đứng dậy. Nina cảm nhận được sức mạnh của Puggy. Cô mong chàng không thấy bàn tay mình quá thô ráp. Cô có đôi tay của dân lao động.

Nhưng Puggy thích cảm giác nơi bàn tay cô, và nó yêu cái cách cô siết lấy bàn tay nó, một cái ghì siết đúng nghĩa, khi nó từ từ hạ cô xuống, từ cành cao đến cành thấp, theo sau cô, rồi đưa cô xuống mặt đất. Nó đáp xuống bên cạnh cô, và hai người cứ đứng tần ngần nhìn nhau mà chẳng nói gì cả. Họ có chiều cao ngang bằng nhau.

“NINA!” tiếng gọi lại cất lên, rõ ràng nó đang hướng thẳng về phía này.

“Chắc họ cũng không cần biết tui sống trên này,” Puggy nói.

“OK,” Nina nói. Cô sẽ không tiết lộ.

“Nina,” Puggy nói, cố nghĩ cách trao ngỏ niềm yêu.

“Ừa?”cô nói.

“Tui lúc nào cũng ở đây nghen,” nó nói.

“OK,” cô mỉm cười, rồi rất nhẹ nhàng, cô ấp bàn tay mình vào cánh tay Puggy và giữ im như vậy một lúc. Sau cùng, với một thoáng ngập ngừng, Nina quay gót và thoăn thoắt bước về phía tiếng gọi, để lại Puggy ngây người đứng đó dõi theo hình bóng cô, hơi ấm nơi bàn tay cô vẫn nồng nàn trên cánh tay nó.



HENRY KHÔNG MUỐN gọi bằng cái điện thoại bỏ túi của hắn. Buồng điện thoại trả tiền đầu tiên hắn tìm thấy nằm trên Đại lộ Grand ở Coconut Grove. Không phải nơi an toàn nhất thế giới dành cho mấy gã trung niên da trắng đeo đồng hồ Rolex, như Henry.

Leonard, chưa hết choáng váng, ở lại trong xe và nằm xụi lơ trên băng sau. Henry ra ngoài, nhét một đồng 25 xu và một đồng 10 xu vào điện thoại, rồi quay số phôn trên một mẩu giấy. Theo dõi hắn từ một lô đất trống bên kia đại lộ bốn làn xe, là ba gã thanh niên.

Tiếng đổ chuông reng lên một lần.

“Nói đi,” đầu bên kia lên tiếng.

“Có một tay súng khác,” Henry nói.

Một quãng ngừng, rồi đến tiếng nói từ đầu bên kia: “Là sao?”

Ba gã thanh niên khởi sự bách bộ qua Đại lộ Grand, mặt tỉnh như ruồi, chúng đang tiến về phía Henry.

“Là còn một tay súng khác chứ sao,” Henry nói.

“Ai cơ?” đầu bên kia nói.

“Tôi nghĩ hổng chừng ông biết,” Henry nói.

Được nửa đường qua đại lộ, ba gã thanh niên tản ra, một gã đi về phía bên trái Henry, một gã về hướng bên phải, gã còn lại đi thẳng tới trước mặt. Nhìn chúng chỉ như những kẻ nhàn rỗi đang dạo chơi hóng mát.

Đầu bên kia tiếp tục: “Ai đi nữa, cũng không phải người mình.” Và tiếp: “Anh hoàn thành công chuyện chứ?”

“Không,” Henry đáp.

“Tay súng kia hoàn thành công chuyện chứ?”

“Cũng không luôn.”

“Anh đang nói là, có hai tay súng, và ông bạn mình chỉ phủi đít bỏ đi?”

Ba gã thanh niên tốp lại ở khoảng cách hai thước so với Henry, hình thành một tam giác xung quanh hắn.

“Chờ chút,” Henry nói. Hắn buông mẩu giấy ghi số phôn xuống đất, rồi cúi xuống vờ như sắp nhặt nó lên. Thay vào đó, hắn rút con chó lửa khỏi bao da mắt cá chân, đứng phắt dậy, chĩa nó vào một trong ba thằng thanh niên mà Henry đoán là đại ca, xét rằng nó là thằng đứng gần nhất và mặc cái quần rộng nhất. Henry đá lông mày với nó, ngỏ ý: ê, lúc này không tiện, OK?

Thằng đại ca gật đầu lia, lớp bởi mũi súng, lớp bởi thần thái ngầu kinh người của Henry. Nó quay lại, lủi thủi đi bộ về phía bên kia Đại lộ Grand, hai thằng đệ thấy vậy cũng lẹ làng làm theo.

“A lô?” đầu bên kia nói.

“Ông bạn mình không phủi đít bỏ đi đâu,” Henry nói. “Hắn chổng đít bò đi lúc tay súng kia xông vào in hệt Geromino, rồi tới mụ vợ nhảy lên Geromino, rồi tới cảnh sát xuất hiện.” Henry quyết định chừa ra, chí ít trong lúc này, đoạn hắn bị thằng khứa trên cây nẫng mất khẩu súng.

Điện thoại lặng im trong giây lát.

“Ta cần nói chuyện,” đầu bên kia nói.

Nhất định là thế,” Henry nói.



MỘT THÁM TỬ CẢNH SÁT tên Harvey Baker đến và thẩm vấn gia đình Herk, theo nhiều hướng khác nhau, xem mặc may họ có nghĩ ra lí do nào cho việc có người muốn bắn mình không. Anna không có ý kiến. Arthur thì cho là tụi nhãi ranh chó đẻ nào đó, bởi tụi nhãi ranh chó đẻ ngày nay, chúng đều có những khẩu súng chó đẻ. Thám tử Baker nghi Arthur còn giấu chuyện gì đó. Ông nhấn mạnh cảnh sát không thể bảo vệ người dân nếu họ không chịu hợp tác. Arthur tuyên bố lão không nghĩ một thằng cớm có thể bảo vệ con cu của nó với cả hai bàn tay nữa là. Thám tử Baker bỗng dấy lên một mối đồng cảm mạnh mẽ với kẻ đã nổ phát súng.

Nina cũng không giúp được gì. Thám tử Baker, với Monica làm thông dịch, cam đoan ông không quan tâm đến tính hợp pháp sự hiện diện của cô trên đất Mỹ; nhưng gì chứ đụng tới công an là Nina lo né lẹ. Cô chỉ nói là khi nghe náo động mình đã nhảy khỏi cửa sổ, chạy băng qua sân vườn, và đâm phải bức tường. Không nghe gì hết, không thấy gì hết. Nada.

Thám tử Baker chốt hạ, đây có thể là một trong những vụ nổ súng không bao giờ xác định được danh tính hay nguyên nhân, một ca điển hình ở Miami. Để làm Anna Herk yên lòng hơn, ông khảo sát quanh sân sau với sự hỗ trợ của Roger, song không phát hiện, hay mong chờ sẽ phát hiện bất kì manh mối gì. Ông bảo gia đình Herk sẽ tiếp tục điều tra về vụ nổ súng, và ai nấy đều hiểu, ông sẽ chấm dứt điều tra về vụ nổ súng.

Thám tử Baker quyết định không câu lưu Matt, cũng nhờ Anna Herk năn nỉ dữ quá, nàng thấy cắm rứt lương tâm vì đã giộng đầu Matt xuống nền nhà. Thám tử Baker, tuy vậy, cũng nhấn mạnh rằng việc rình mò quanh sân sau nhà người khác vào đêm hôm ở Miami, rinh theo một thứ in hệt súng thật, không có ý xúc phạm, là còn ngu hơn cục cứt chó. Matt cam đoan với viên thám tử nó đã lĩnh hội được bài học.

Ngay khi đám người nhà nước rời đi, Arthur quay sang Eliot, nói: “Thôi ông với thằng con cô hồn biến đi luôn cho tôi nhờ, và khỏi hẹn ngày tái ngộ.”

“Rất lấy làm mừng được gặp ông,” Eliot nói.

“Tôi sẽ dẫn anh ra ngoài,” Anna nói với Eliot. Họ cùng bước về phía tiền sảnh, với Matt, Jenny, và Roger theo sau.

Matt lên tiếng trước tiên khi cả bọn đã ra ngoài trời, “Để con đi lấy xe.” Đoạn nó quay sang Jenny, “Jenny muốn trải nghiệm cảm giác vi vu trên một chiếc Kia chính hãng không?”

“Ui, đó là giấc mơ của đời mình,” Jenny trầm trồ, và hai đứa te te bước về phía cổng, Roger lóc cóc bám theo, đề phòng họ có đi lấy đồ ăn.

“Thói cà khịa,” Eliot lắc đầu. “Chả biết tụi nó học ở đâu.”

Chắc không phải từ các đấng sinh thành rồi,” Anna nói.

“Nghe này,” Eliot nói. “Tôi thực sự xin lỗi về ...”

“Thôi thôi,” Anna ngắt lời. “Tôi mới phải xin lỗi nè, vì đã làm Matt bị thương, và tôi xin lỗi vì ông chồng ngu đần của mình nữa.”

“Ầy,” Eliot xua tay, “chắc anh nhà căng thẳng vụ viên đạn thôi ấy mà.”

“Không đâu,” Anna nói. “Ổng đần thiệt đó anh.”

Eliot đưa mắt nhìn nàng, bởi thực tình anh đồng ý với nàng chuyện Arthur là một thằng đần. Và nữa, nàng quả nhiên có một đôi mắt đáng kinh ngạc.

“Này,” sau cùng anh nói, “nếu tôi giúp được gì ... Ý tôi là, không phải về chồng cô, cái đó đương nhiên, mà về vụ nổ súng, nếu tôi có giúp gì được ...”

“Tôi cưới ổng hồi Jenny còn bé xíu,” Annna thở dài, “chồng đầu của tôi đã vét sạch của nả rồi dông đi mất, và tôi phải chuyển tới một căn hộ tồi tàn, việc làm thì không có. Dạo ấy Arthur đâu có uống dữ như bây giờ, và ổng có vẻ ... đáng tin cậy, chắc vậy, và tôi, tôi đã ... quá túng quẫn.”

“Trời,” Eliot chắt lưỡi.

“Mà không hiểu sao tôi lại kể lể với anh mấy chuyện này nữa, kì ghê,” nàng ngượng nghịu nói.

“Kì gì đâu cô,” Eliot cười độ lượng. Anh còn thấy thích vì nàng đã kể lể với mình.

“Tôi tìm riết mấy ông luật sư chuyên về li dị trong danh bạ,” nàng nói. “Vài lần tôi đánh liều gọi, nhưng khi họ trả lời, tôi lại gác máy, bởi lẽ ... Ý tôi là, tôi muốn làm lắm chứ, và tôi biết mình phải làm, nhưng tôi cũng biết Arthur, biết ổng nổi khùng lên là ghê gớm thế nào. Ổng sẽ hành hạ tôi và Jenny. Và tôi cứ mơ thấy bọn tôi sẽ trở về với căn hộ tồi tàn ấy.”

“Trời,” Eliot thở dài, tự hỏi nàng sẽ nghĩ gì khi thấy căn hộ của anh.

“Nghe thảm não quá phải không anh?” nàng nói.

“Đâu tới nỗi!” Eliot nói.

“Cho tôi xin lỗi nha,” nàng nói. “Tôi sẽ không mượn anh để xả xì trét nữa đâu, hứa đấy.”

“Ầy,” anh nói. “Cứ mượn lúc nào cũng được mà.”

“Cảm ơn anh,” đoạn nàng khẽ chạm vào tay anh. Chao ôi.

Họ đứng tần ngần suốt một lúc, có chút gì đó ngượng ngập giữa hai người, duy không ai muốn khuấy động tình thế đó, và rồi ...

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

Tiếng bass đùng đùng báo hiệu sự xuất hiện của con Kia, vù vù băng vào lối đi, chuyện thường tình khi Matt cầm lái. Con xe giật bắn lên trước khi tốp hẳn. Jenny chui ra, Matt theo sau, tay cầm sẵn cái CD.

“Jenny muốn mượn nó không?” nó nói.

“Muốn chớ sao không, cảm ơn Matt nha,” Jenny nhỏng nhảnh đáp. “Mình mê ban Seminal Fluids lắm.” Sự thực cô đã nghe mòn cái CD này rồi; cô chỉ mượn với mục đích trả lại, để có cớ được nói chuyện tiếp với Matt thôi. Lúc cô cầm chiếc CD, bàn tay hai đứa khẽ chạm vào nhau. Chao ôi.

“Ba lái,” Eliot tuyên bố, ngạc nhiên khi thấy thằng Matt không cự nự. Coi, Eliot nghĩ, cái điệu này chứng tỏ hoặc Matt đang yêu, hoặc nó đang bị sang chấn tâm lý quá.

Bốn người bọn họ đứng bên con xe trong vài giây.

“Ừm,” Eliot nói, với Anna, “Chào cô.”

“Chào anh.” Anna, với Eliot.

“Chào cậu.” Jenny, với Matt.

“Chào cậu.” Matt, với Jenny.

“Ngồi xuống.” Jenny, với Roger, đang kiểm tra cái CD có ăn được không.


Trên đường đi, Eliot khởi sự bật chế độ Phụ Huynh Giảng Đạo, “Nghe nè, Matt, con ...”

“Con biết rồi,” Matt nói.

“Ừm,” Eliot nói, “con không nên...”

“Con biết mà,” Matt nói.

“Ừm, OK,” Eliot nói, “có điều mẹ con ...”

Ba, con nói con biết rồi mà,” Matt nói.

“OK, vậy thôi.” Eliot nói.

Và họ buông mình vào thinh lặng, mỗi người đắm chìm trong mớ hồi tưởng lộn xộn của buổi tối hôm ấy. Tại nhà Herk, Anna, Jenny, và Nina cũng làm điều tương tự, cả Puggy trong cái cây của nó nữa. Trong mỗi trường hợp, đó đều là những hồi ức dễ chịu một cách bất ngờ, nếu xét rằng đêm hôm ấy đã bắt đầu bằng việc có ai đó đã muốn giết ai đó.


ARTHUR HERK khá chắc lão biết ai đó và ai đó là ai, và cố nhiên lão còn lâu mới thấy dễ chịu. Lão suy tính cấp bách về tình thế hiện tại, và đã quyết định việc sẽ làm. Sau khi tự rót cho mình một ly rượu khác, lão quay số từ chiếc điện thoại đặt trên quầy bar phòng gia đình.

“Tao đây,” lão nói với người ở đầu bên kia. “Phải.” Lão tợp một hớp rượu, đưa mắt ngó cái lỗ đạn.

“Nghe này,” lão nói. “Tao cần một quả tên lửa.”
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
BỐN



“Cho con mẫu khom xuống xíu nữa là ngon,” Khách Hàng Âm Binh Béo Đần góp ý, “khoe thêm tí gazomba.”

“Ý kiến hay, thêm gazomba,” Eliot gật đầu, làm bộ chép vô sổ như sợ quên. Anh còn hơi sức nào để tranh cãi vào sáng nay nữa, phờ phạc quá rồi. Thật là một đêm ròng rã: Anh đưa Matt về nhà lúc 2 giờ sáng, và dành bốn lăm phút tiếp theo để nghe vợ cũ, Patty, xạc cho một trận tơi bời khói lửa. Patty nào phải tuýp người hở tí là mắng mỏ, nhưng nàng luôn nhìn ra ngay đâu là quyết định hồ đồ của một bậc phụ huynh.

“Anh biết trước cái vụ này?” Patty nói. “Anh biết nó đang sửa soạn xách súng vô nhà người ta, vào ban đêm? Ở Miami? Và anh cứ để nó đi?”

Súng nước mà,” lời phân trần của Eliot khiến Patty trợn trừng cặp mắt, tới mức anh lo sợ chúng sẽ nẩy poóc ra ngoài và dội tưng tưng trên sàn nhà bếp. Patty luôn là người chín chắn hơn nhiều so với Eliot; đó là nguyên do cốt tử dẫn đến đổ vỡ hôn nhân giữa họ.

Eliot gần như nín khe sau đó. Anh chỉ đứng ngây như phỗng và đón nhận dòng thác chỉ trích tuôn xối xả lên mình, bởi anh biết Patty hoàn toàn đúng: anh đích thị là một thằng cha ngu xuẩn vô trách nhiệm đã để con mình lâm vào một tình thế hiểm nguy. Đâu đã hết (Patty nhắc khẽ, tránh để Matt nghe thấy), anh đã khất tới năm tháng tiền cấp dưỡng và chi phí nuôi con ăn học.

“Xin lỗi em,” Eliot nói lúc sắp sửa rời đi. “Anh đang làm việc hết sức.”

“Em biết,” Patty nói. “Bởi vậy em mới lo.”

Trên đường lái xe về, Eliot miên man suy ngẫm về cảnh ngộ bản thân: Anh là một thất bại toàn diện trên cương vị làm chồng lẫn làm cha; công việc hiện tại của anh là một trò đùa; tiền đồ tuyệt nhiên không có, và anh đang lái một con Kia. Thúc ép các tế bào não hoạt động hết công suất, cưỡng lại mọi bản năng, anh cố đề ra một kế hoạch hợp lí nhất, khả thi nhất để chấn hưng đời mình. Và một ý tưởng xẹt qua trong trí anh: tự tử. Phải rồi, anh sẽ viết một lá thư tuyệt mệnh (nửa hóm hỉnh nửa xúc động), bận một chiếc quần lót sạch sẽ thơm tho, và rồi trầm mình từ cái ban công ọp ẹp tại căn hộ ọp ẹp của mình xuống bãi đỗ xe, ráng canh sao cho trúng con Trans Am 1987 của thằng khốn phòng 238 tối nào cũng mở nhạc ầm ĩ từ dàn âm ly Death Star của nó, và ... chạch, xịt mắm, mọi vấn đề được giải quyết. Bảo hiểm nhân thọ của anh sẽ giúp Matt hoàn thành đại học. Tại tang lễ, mọi người sẽ nhắc lại những phóng sự văn học anh đã chắp bút, và mô tả anh như một người “phức tạp” nhưng “mẫn tuệ”.

Dòng tư tưởng đó an ủi Eliot phần nào, cho đến khi anh nhớ ra mình quá sợ độ cao để có thể nhảy lầu. Đến đứng nướng hot dog ngoài ban công anh còn không dám nhìn ra lan can nữa nói chi. Rồi bảo hiểm nhân thọ đâu ra? Anh làm gì có cái nào? Suy đi tính lại, quyết định sau rốt của anh là: sống tiếp và thất bại tiếp.

Quay quắt về lại căn hộ của mình lúc 3 giờ sáng, anh dành bốn tiếng tiếp theo để tợp cà phê đen và tập trung vào dự án Bia Đầu Búa, sáng mai là phải có cho người ta rồi. Anh đã dự định thực hiện nó với một ý tưởng hết sẩy nguyên thủy, hết sẩy tưởng tượng, hết sẩy sáng tạo và hết sẩy thuyết phục – đến mức ngay cả Khách Hàng Âm Binh Mập Đần cũng phải công nhận nó hết sẩy con bà bảy. Nhưng bởi đã quá khuya và quá mệt, anh đành song hành với: vú bự.

“Tao là điếm, hài lòng chưa?” anh lầu bầu độc thoại trong lúc làm việc. “Có vấn đề gì không?”

Và khi Khách Hàng Âm Binh Béo Đần cà rịch cà tang bước vào văn phòng Eliot sáng hôm sau, trễ bốn lăm phút, chẳng buồn gõ hay đóng cửa, hắn thấy một hàng chữ to đùng trên giá gỗ


PHÊ VỚI ĐẦU BÚA!


Dưới hàng chữ là bức minh họa Eliot thiết kế bằng cách chắp vá những hình ảnh lượm lặt từ Internet. Nó có một gã người mẫu bóng nhẫy, lực lưỡng đang nhếch mép cười trên chiếc mô tô nước, nhận chai Bia Đầu Búa từ tay một nàng người mẫu có bộ ngực nom in hệt hai trái banh bóng chuyền, và diện quả bikini dây mỏng lét như một sợi DNA.

Hình ảnh trong bức minh họa không hài hòa về tỉ lệ, bởi Eliot vốn chỉ biết quọt quẹt về máy tính, mà muốn đọc hướng dẫn cũng đành chịu bởi tìm không ra cặp kiếng. Bởi vậy mà gã người mẫu, so với cô gái, nom nhỏ bé đến khôi hài, như một con chồn lực lưỡng, bóng nhẫy đang nhếch mép cười; thậm chí một bên vú của cô gái còn to hơn cái đầu hắn. Chai bia thì hiện lên với kích thước của một trụ nước cứu hỏa. Nhìn kiểu gì cũng chỉ thấy đó là một thảm họa thiết kế, nên cố nhiên là Khách Hàng Âm Binh, ngoài chuyện muốn thấy nhiều gazomba hơn, cho rằng nó đỉnh vãi chưởng.

“Thấy chưa?” hắn quay sang Eliot, nói với giọng hí hửng. “Thấy sự khác biệt chưa?”

“Ờ,” Eliot ậm ừ, “nhìn chung thì ...”

“Anh có VÚ BỰ! Thay vì CÁ BỰ!” Khách Hàng Âm Binh nhấn mạnh. “Hiểu chớ? Nghe thủng chớ?”

“À,” Eliot nói, “tôi ...”

“Cứ hỏi bất kì thằng nào xem nó muốn gì, vú hay cá, coi nó trả lời anh sao,” Khách Hàng Âm Binh tiếp tục.

“Tôi đoán là ...”

“NÓ SẼ NÓI: VÚ!” Khách Hàng Âm Binh đắc thắng.

Gã kiểm toán viên phòng bên thình lình xuất hiện trên ngưỡng cửa văn phòng Eliot, nhìn anh không chớp mắt trong năm giây, đoạn sập cửa cái rầm.

“OK, chốt nghen,” Eliot nói, “nội dung coi như xong rồi, còn vị trí đặt nữa thôi, nhưng trước tiên ...”

“Cổ có ở đâu đó quanh đây không?” Khách Hàng Âm Binh hỏi, trỏ ngón tay chuối mắn của hắn vào cô nàng gazomba.

“Ờ không,” Eliot đáp. “Cổ ở ... ờ ... Uruguay.”

“Uruguay?” Khách Hàng Âm Binh nhíu mày. “Uruguay có vú vê cỡ này sao?”

“Ồ, vang danh bốn bể ấy chứ,” Eliot nói càn, “Người ta thường gọi: ‘Uruguay: Thủ Đô Bưởi của Thế Giới’ mà! Nhưng tôi nghĩ ta nên nói sơ qua chút về, ờ, chi phí của anh, bởi ...”

“Uruguay ở mô?” Khách Hàng Âm Binh hỏi tiếp. “Phải nó ở, gì ta, Châu Âu đúng không?”

“Không,” Eliot nói, “Nó ở Mỹ La Tinh. Chuyện là, tôi đã gửi đến anh một số thông báo, có điều ...”

Mỹ La Tinh?” Khách Hàng Âm Binh chắt lưỡi, ngắm nghía cô nàng gazomba với một niềm thích thú mới mẻ. “Nói vậy đây là một con mọi?”

“Này anh,” Eliot thở dài. “Ta thật sự cần phải ...”

“Nhiêu?” Khách Hàng Âm Binh nói, mắt vẫn châm bẫm vào cô nàng gazomba.

“À,” Eliot nói, “không có cọc, à, đã có cọc, không, ý tôi là tôi đã gửi thông báo yêu cầu đặt cọc, nhưng anh không ... cũng có khi nó chưa qua hộp thư, nhưng ...”

“Nhiêu?” Khách Hàng Âm Binh quay sang Eliot.

“Đây anh,” Eliot chìa cho hắn bản chi phí.

Khách Hàng Âm Binh đưa mắt nhìn tờ giấy.

“Một nghìn hai trăm đô la?” hắn thốt lên.

“À,” Eliot nói, “hãy ghi nhận là ...”

“Một nghìn hai trăm đô la chết tiệt?” Khách Hàng Âm Binh xéo xắt. Hắn tốn nhiều hơn nghìn hai trăm đô mỗi tháng để đánh bóng nửa đầu sau của mình, duy thằng này thực sự sung sướng khi nhìn kẻ khác ngóc cổ chờ tiền của mình. Chuyện đó kích thích hắn như sex vậy.

“Chậc,” Eliot chắt lưỡi, “đó là một cái giá phải chăng, ý tôi là, nếu anh nhìn vào ...”

Eliot bỗng im bặt ngay cả khi không bị chặn họng, bởi trước sự sửng sốt của anh, Khách Hàng Âm Binh đang lôi cuốn sổ séc ra, rồi đến cây bút mực của hắn. Cây bút nom cũng mập như thằng chủ. Khách Hàng Âm Binh, cảm biết được nỗi hi vọng khốn cùng của Eliot, rề rà viết séc; nắn nót xé nó ra, đoạn cầm vỗ vỗ lên bàn tay múp míp của hắn, ngắm nghía Eliot trước khi đưa nó cho anh.

Eliot nhìn tấm séc.

“Trong này ghi là bốn trăm đô la,” anh nói.

“Hỏi anh một câu nghen,” Khách Hàng Âm Binh nói. “Ý tưởng này của ai?” Hắn vươn cánh tay mập về phía tấm quảng cáo bia.

“À,” Eliot nói, “anh quên mất sự đầu tư không thể chối cãi về thời gian và công ...”

“AI NGHĨ RA Ý TƯỞNG VÚ?” Khách Hàng Âm Binh rống lên. Ngoài hành lang dội vào một tiếng sập cửa; Eliot biết gã kiểm toán viên đã rời văn phòng để đi kiếm người quản lý tòa nhà.

“Anh,” Eliot nói.

“Anh có thấy con cá nào trong hình không?” Khách Hàng Âm Binh hỏi.

“Không,” Eliot nói.

“Theo cách tôi nhìn nhận,” Khách Âm Binh nói, “tôi đã nghĩ ra ý tưởng. Đó là ý tưởng CỦA TÔI.”

Eliot ngó tấm séc, rồi ngó tấm quảng cáo xôi thịt quái đản, rồi lại ngó tấm séc. Anh cúi gằm mặt vào tấm séc hồi lâu. Đến khi cất lời, anh thậm chí không ngước mắt lên.

“OK,” anh nói.

Khách Hàng Âm Binh, nhoẻn một nụ cười nọng mỡ, quay lại nhìn tấm quảng cáo.

“Vú vê thế kia,” hắn lắc đầu, chép miệng. “Mà lại của một con mọi nữa mới ác.” Và rồi, không lời cáo từ, không buồn khép cửa, hắn dông thẳng.

Eliot vẫn nhìn tấm séc.

“Tao là điếm,” anh chua chát tuyên bố, với cái văn phòng của mình.

Điện thoại reo, và Eliot nghiêng về việc không bắt máy hơn, bởi đó rất có thể là tay quản lý tòa nhà gọi để thông báo (a) anh đang làm phiền những người thuê nhà khác, và (b) anh đang nợ hai tháng tiền nhà. Song cũng có thể là Matt gọi. Anh nhấc máy.

“Eliot Arnold,” anh nói với giọng thủ thế.

“Chào anh,” một giọng phụ nữ cất lên, Eliot nghe tim mình nhảy dựng. “Tôi là Anna Herk.”

“A, là cô đó hả,” Eliot nói, hồi tưởng đến đôi mắt nàng.

“Matt sao rồi anh?” Anna hỏi. “Nó ổn chứ?”

“Ôi dào, nó khỏe re,” Eliot nói. “Thanh niên mà.”

“Thiệt tình tôi áy náy ghê vậy đó,” Anna nói.

“Ầy, chuyện nhỏ mà cô ,” Eliot nói. “Phải ăn đòn nó mới biết khôn ra, miễn đừng ăn đạn là được.”

“Nói gì ghê vậy anh,” Anna cười khúc khích. “Nói chứ tôi rất xin lỗi vì đã nhảy lên người cháu nó. Và tôi cũng rất xin lỗi đã bắt anh nghe mình ca cẩm sự đời. Làm vậy chẳng phải chút nào.”

“Cô làm đúng mà,” Eliot nói, “Đêm hôm nó tới đó là bậy rồi.”

“À, còn chuyện này,” Anna nói, “ngoài chuyện gọi đến để xin lỗi lần nữa, tôi muốn hỏi chẳng may anh có bỏ quên cái kiếng đọc nào không?”

“À,” anh nói, “thú thật là có.”

“Gọng sừng phải không anh?” nàng hỏi.

“Đúng rồi.”

“Sản xuất ở Đài Loan?”

“Bốn đô chín mươi chín, ở hiệu thuốc Eckerd.”

“Cha,” Anna nói, “tôi mới thấy nó lần đầu đấy.”

Eliot cười khà khà.

“Thiệt mà anh,” nàng nói, “tôi mới thấy nó ở phòng gia đình đây thôi, và tôi đang tính ghé qua để trả anh.”

“Mất công cô quá,” Eliot nói. “Ba cái đồ thiên lôi ấy mà ...”

“Đi mà anh,” nàng nói, “tôi muốn được tận tay trả anh cơ.”

Chao ôi.

“OK,” Eliot nói.

“Hình như anh ở khu Grove đúng không?” nàng hỏi.

“Đúng đó cô.”

“À, chiều nay tôi cũng có việc phải qua bên đó, sẵn tôi ghé chỗ anh luôn nha.”

Eliot đảo mắt một lượt cái văn phòng hom hem, bụi đóng lớp lớp, nhìn-là-thấy-mạt của mình, điểm sáng duy nhất chính là cô nàng gazmoba.

“Hay thôi,” anh nói, “cô đã cơm nước gì chưa? Hổng ấy mình đi đâu kiếm gì đó lót dạ vậy, cô thấy sao?”

“Anh đang rủ tôi đi ăn trưa đấy ư?”

“À không, ý tôi là, trong trường hợp cô ...”

“Ăn trưa nghe hấp dẫn đó nha.”

Trời.

“Cô có biết quán Taurus không?” anh hỏi.

“Biết chớ.”

“Vậy một giờ được không cô?”

“Một giờ là hoàn hảo.”

“Tốt quá! Vậy hẹn gặp cô lát nữa nghen.”

“OK, chào anh nghen.”

“Chào cô nghen.”

Eliot gác máy và nhìn cái điện thoại, bụng bảo dạ: Một cuộc hẹn! Đại loại vậy!

Rồi anh nghĩ: Ngưởi ta đã có chồng rồi cha ơi, người ta chỉ đến trả kiếng cho cha thôi, và cha chỉ là thằng phế vật.

Song ý nghĩ ấy không ngăn được niềm hạnh phúc phi lý dâng trào trong anh, khi anh luýnh xuýnh khóa cửa lại và – men theo lối thang hậu, nhằm né mặt tay quản lí tòa nhà – phi thẳng ra ngân hàng để đổi tờ chi phiếu của Khách Hàng Âm Binh, nhờ đó anh có thể lo liệu được bữa cơm trưa.



HENRY VÀ LEONARD hội kiến với liên lạc viên của Penultimate, Inc. tại Dunley’s, một nhà hàng sang trọng tọa lạc trên Đại Lộ Brickell. Nó được bài trí như một câu lạc bộ đàn ông đặc tuyển với cơ man gỗ sồi và những bức tranh giả cổ, là điểm đến quen thuộc của giới thương gia, muốn gây ấn tượng tốt với khách hàng bằng việc thết đãi họ những tảng bít tết to không thua gì mấy con ngựa Shetland.

Liên lạc viên của Penultimate là một người đàn ông tên Luis Rojas, với chức danh là chủ nhiệm của những hoạt động đặc biệt. Họ ngồi tại góc phòng, cạnh một bàn có bốn gã luật sư đang bình luận om sòm về các câu lạc bộ golf. Henry và Luis Rojas hạ giọng hết mức; trong khi Leonard, chưa hết sây sẩm từ cú thiết đầu công, chủ yếu ngồi trệu trạo mấy miếng thịt.

“Ông chủ của tôi đang lo,” Rojas nói với Henry.

“Vậy hả?” Henry nói, thái một lát bít tết.

“Phải,” Rojas nói. “Ngài rất lo, và ngài muốn biết khi nào ông định hoàn tất công việc.”

“Có vài chuyện tôi cũng muốn biết,” Henry nói. “Chẳng hạn, thằng nào chạy lăng xăng ở đó với khẩu súng trường trên tay, và thằng nào đã úp sọt tôi từ trên cây?”

“Thằng trên cây nào kia?” Rojas hỏi.

“Thắc mắc cái chỗ đó,” Henry nói. “Ông đưa tụi này xuống đây, phán chắc nịch công việc này cũng đơn giản như mọi khi thôi. Đi vào và đi ra, ông nói. Không có bảo vệ gì ráo, cũng cái miệng ông luôn. Rồi coi, tôi có thằng Geromino đùng đùng xông vô nhà, và thằng Tarzan suýt làm mình gãy cổ.”

“Cả con nhỏ,” Leonard chêm vào trong lúc đang nhai.

“Con nhỏ nào nữa?” Rojas hỏi.

“Ngoài trời, cạnh bức tường, với Tarzan,” Leonard đáp. “Có một con nhỏ.”

Rojas trầm ngâm.

“Nghe này,” lão nói. “Như tôi đã nói, ông chủ của tôi đang lo ghê lắm, nên ông cứ cố xong sớm chừng nào tốt chừng nấy. Nhưng ngài cũng khá băn khoăn về bọn người kia, sao khi không lại có kẻ muốn ... nhúng tay vào. Thôi thì cứ cho chúng tôi biết bất cứ gì ông khai thác được, coi như phần mở rộng của công việc vậy.”

Ở bàn bên, bốn tay luật sư đang nhâm nhi rượu cognac, và cùng châm lửa mấy điếu xì gà.

“OK,” Henry nói, thái một lát bít tết khác. “Bọn tôi có thể hoàn thành công việc, và sẽ cố tìm hiểu về Geromino và Tarzan. Song nhờ ông gửi lời đến ông chủ của mình: một, bọn tôi cần thêm thời gian, ngó đông ngó tây, khảo sát mấy cái cây, hiểu chứ? Và hai, thù lao sẽ tăng lên.”

Bốn gã luật sự đang kéo xì gà khí thế; khói thuốc cuồn cuộn bốc lên từ bàn như rồng bay phượng múa.

“Bao nhiêu?” Rojas hỏi.

“Chờ tôi chút,” Henry nói và đặt nĩa xuống. Đoạn hắn nhổm dậy khỏi ghế, tiến đến bàn bên cạnh và đứng đực ở đó, chờ đợi, cho đến khi bốn gã luật sư ngừng tán dóc và liếc nhìn hắn.

“Thưa các ông,” Henry nói, “Các ông cảm phiền dập mấy điếu xì gà đó đi được không?”

Gã luật sư bên trái Henry, Luật sư A, nghẹo đầu một cách rất kịch và làm vẻ mặt ngơ ngác, tuồng như hắn chưa nghe thủng.

“Phiền anh nhắc lại?” hắn nói.

“Tôi đã hỏi,” Henry nói, “các ông có phiền không nếu phải dụi mấy điếu xì gà đó đi.”

“Thú thực, tôi thì có phiền đấy,” Luật sư A nói. Luật sư B, C và D rúc rích cười.

“Sở dĩ tôi hỏi vậy” Henry điềm đạm nói, “là vì, có lẽ mấy ông chưa từng nghĩ tới điều này, nhưng khi các ông đốt mấy của nợ này lên, những người còn lại phải lãnh đủ mùi khói từ các ông. Tôi có món thịt thăn viền mỡ New York ngon lành ở đây, tốn của tôi hai mươi bảy đô năm mươi, và giờ in hình như tôi đang nhai một điếu xì gà vậy.”

“Nghe nè, Tí,” Luật sư B lên tiếng, “Một, không có luật nào cấm hút thuốc trong nhà hàng. Và hai, anh đi quá giới hạn rồi đó.”

“OK,” Henry vẫn bình thản nói, “Một, tên tôi không phải Tí hay Tèo. Hai, tôi không nói về luật ở đây, không, tôi đang nói về hành vi. Đâu có luật nào cấm tôi đến đây và đánh rắm lên món khai vị của các ông, song tôi không làm vậy, bởi đó là hành vi xấu. Nó làm suy giảm chất lượng bữa ăn của các ông, đồng ý chứ? Nói tóm lại, tôi không phá thối bữa ăn của các ông, các ông cũng đâu nhất thiết phá thối bữa ăn của người khác. Vậy một lần nữa, tôi hỏi một cách rất đường hoàng tử tế, làm ơn dập xì gà đi, OK?”

“Anh nghiêm túc đấy chứ?” Luật sư C nói từ phía bên kia bàn.

“Rất nghiêm túc,” Henry nói.

“Đéo tin được,” Luật sư C cảm khái, với các đồng nghiệp. “Mấy ông tin nổi thằng quần què này không?”

“Nghe nè, Tèo,” Luật sư D lên tiếng, với Henry. “Bọn tao là những thực khách trả tiền đàng hoàng, và chẳng may bọn tao thích xì gà, nếu mày không thích, thây kệ mày.”

“Đúng đó Tèo ơi,” Luật sư A tiếp lời. Đoạn gã hóp má rít một hơi xì gà thật sâu, và rồi, kẹp nó giữa ngón cái và ngón trỏ, gã chĩa mồm về phía Henry, phà vào mặt hắn một bụm khói dày đặc. Henry vẫn đứng im như tượng.

Nhả khói xong xuôi, Luật sư A tiếp tục, “Nghe nè, Tí, sao mày không oé oé ...”

Không đợi Luật sư A đưa ra hết lời khuyên, Henry đã đặt tay lên vai gã và bóp mạnh. Hắn vốn dĩ không hề muốn động tay động chân, nhưng Luật sư A quá láo.

Oé oé,” gã lại ré lên.

Với tay còn lại, Henry giật điếu thuốc từ mồm Luật sư A và nhận nó vào ly cognac của gã. Ba luật sư kia rục rịch như sắp nhổm dậy làm gì đó, Henry lừ mắt nhìn họ theo thứ tự bảng chữ cái – B, C, D – và tên nào tên nấy ngồi xếp re.

Sau khi buông Luật sư A, kẻ đang ôm vai mếu máo; Henry dấn vài bước quanh bàn đến cạnh Luật sư B, gã này giật bắn người như phải bỏng khi Henry, từ tốn nhưng cương quyết, tịch thu điếu xì gà của gã và thả tõm nó vào ly cognac. Cùng lúc đó Luật sư C và D, không mấy mặn mà với kiểu trợ giúp này, tự giác dụi xì gà.

“Đa tạ các vị,” Henry nói.

Luật sư D, người ngồi xa Henry nhất, cất lời, “Anh có biết mình vừa phạm tội hành hung không?”

“Biết chớ,” Henry nói và lắc đầu. “Đã có thời, ông cần phải thật sự bụp người ta cơ.”

Nói rồi hắn quay gót trở lại bàn mình, ngồi xuống, và tiếp tục thái bít tết. “Nhắn với ông chủ của ông,” hắn bảo Rojas, “sẽ là mười thiên nữa. Cho mỗi nhiệm vụ.”

Rojas ra vẻ ngẫm nghĩ về con số ấy, dù nó cũng hòm hòm với dự liệu của lão.

“OK,” lão nói. “Nhớ là ông chủ của tôi muốn kết thúc vụ này nhanh nhất có thể.”

“Tin tôi đi,” Henry cười nhạt, “bọn tôi không láng cháng ở cái thành phố này lâu hơn mức cần thiết đâu.”

“Mày nói chí lí,” Leonard tán đồng, rồi lại trệu trạo tiếp miếng bít tết.



PUGGY CHOÀNG TỈNH bởi giọng nói của một thiên thần.

“Puggy,” ôi cái giọng như rót mật vào tai. Pogey.

Puggy lật sấp người lại và thò đầu ra khỏi mép sàn gỗ. Đó là Nina, trong chiếc rốp đồng phục màu thiên thanh, đang cười tươi như hoa khi trông thấy Puggy. Người đâu mà xinh hết phần thiên hạ. Ngay cả từ trên cây, Puggy vẫn thấy được hàm răng đều tăm tắp của nàng.

“Em đem bữa trưa cho anh nè,” nàng nói. Em đêm buổi trưa cho anh nè.

Puggy sửa soạn hạ sơn, chợt nó để ý Nina cứ cười khúc khích chi lạ, chết cha! Nhanh như một chú sóc, nó giật lui về lại sàn gỗ, luống cuống xỏ quần dài vào. Tút tát xong xuôi, nó lại khởi sự leo xuống cây.

“Hey,” Puggy cất tiếng chào khi tiếp đất. Nó ước gì mình có một cái bàn chải đánh răng.

“Của anh nè,” cô chìa cho nó đĩa giấy với một chiếc sandwich ở trên.

Chu cha, nào bánh mì trắng, nào thịt gà tây rưới sốt mayonnaise, thêm rau diếp và cà chua xắt lát. Khỏi nói, đây là món ăn kỳ khu nhất mà ai đó từng làm cho Puggy.

“Cảm ơn đã cứu em,” Nina nói.

Puggy nhìn chiếc sandwich tuyệt ngần – trời, lại còn khăn ăn gấp nữa chớ – rồi nó nhìn Nina.

“Nina,” Puggy nói. “Tôi yêu em.”



“Vậy mày đang nói với tao là,” Evan Hanratty, chủ xị trò Killer, nói với Matt, “nó quánh mày nhừ tử? Thân mẫu của nó?”

Đám bồ bịch của nó đang túm tụm tại phòng thể dục của Trung Học Southeast, nơi từ 11:15 cho tới 13:35 trở thành căn tin phụ của trường, nghĩa là thức ăn sẽ đậm mùi quần sịp thể thao chưa giặt hơn so với ngày thường.

“Bả động thủ từ phía sau,” Matt nói. “Hai đánh một chịu gì nổi. Còn tao, tao không đánh phụ nữ.”

“Coi bộ mấy bả dập mày nhừ tử đấy,” Evan chắt lưỡi, săm soi môi dưới của Matt.

“Ừa, phải cám ơn thằng trợ thủ đắc lực của tao,” Matt nói.

“Ây dà,” Andrew phản pháo, “nói tao điên tao chịu, nhưng có súng nổ là tao biến liền.”

“Nói vậy vụ súng nổ là thật hả?” Evan hỏi.

“Mày phải nhìn cái TV,” Matt nói, “Phải gọi nó là một nùi phân tử TV!”

“Ghê vậy,” Evan nói.

Cả bọn ngẫm nghĩ về chuyện đó một lúc.

“Vậy là,” Matt nói, “tao vẫn chưa được tính là giết Jenny thành công?”

“Chưa đâu,” Evan lắc đầu. “Mày phải xịt nước nó. Luật là luật. Khơi khơi tính điểm cho mấy đứa lăn cù cù trên sàn nhà thì có mà loạn.”

“Nói chuyện lăn lộn,” Andrew nói, “cảm giác ra sao, kể anh em nghe coi?”

“Ờ đúng,” Evan hào hứng. “Cảm giác ra sao? Ý tao là, nếu má Jenny nhìn cũng sương sương Jenny ...”

“Thì đúng vậy còn gì,” Andrew đớp lô.

“Chà, vậy cảm giác sao?”

“Im mồm” Matt nói.

“Ế, hỏi chơithôi mà,” Evan nhăn mặt. “Mày đâu cần ...”

“Tao nói là, khép mỏ lại đi, Jenny tới kìa,” Matt nói.

Quả vậy, Jenny đang bước lại chỗ tụi nó. Vụ này lạ à nghen, bởi Matt, Andrew, và Evan đang ngồi ở khu vực khán đài được mặc định là địa phận của những nam sinh Thông Minh nhưng Thờ ơ với Hoạt Động Trường và thích tỏ ra Thông Thái. Jenny thì thuộc khu của những nữ sinh Duyên Dáng Vạn Người Mê. Thường thì, một nữ nhân thuộc khu này sẽ không léo hánh đến bất cứ địa bàn nào khác, trừ khu của những nam sinh Thể Thao, và/hoặc, Cán Bộ Lớp.

“Chào,” Jenny nói.

“Chào,” Matt nói.

“Nó có đau lắm không?” cô chỉ cái môi của Matt.

“Cũng không đau mấy,” Matt nói.

“Hổng ấy,” Evan xọc dưa, “Jenny mà mi lên là nó còn mau lành nữa.”

“Nhiều chuyện,” Matt hằm hừ. Quay sang Jenny nó hỏi, “Nhà Jenny sao rồi?”

“À, mẹ mình vẫn canh cánh vụ viên đạn,” Jenny nói. “Nhưng ông cảnh sát thì bảo chắc chỉ là thằng đầu trộm đuôi cướp nào đó thôi, và Matt đã hù cho nó chạy mất dép.”

“Anh hùng cứu mỹ nhân!” Andrew ré lên với giọng falsetto, giả đò ngất xỉu.

“Nghe này,” Jenny nói. “Mình muốn nói với Matt ba chuyện. Một, cảm ơn Matt. Hai, cảm ơn lần nữa vì cái CD Fluids. Mình thích nó lắm.”

“Mày cho Jenny mượn cái CD Fluids?” Evan trố mắt.

“Rồi, hết đường chối cãi,” Andrew nói, “nó muốn cái sex pootie của Jenny chứ gì nữa.”

“Nín coi,” Matt càu nhàu.

“Ba là,” Jenny xẻng lẻng, “Mình cảm thấy rất ... có lỗi về chuyện tối ...”

“Ôi dào,” Matt chắt lưỡi, “Ăn nhằm gì đâu ...”

“... nên mình muốn cho Matt biết,” Jenny nói, “nếu Matt vẫn còn tính chuyện xịt nước mình, thì tầm tám giờ tối nay, khu CocoWalk, bên ngoài quán Gap, mình sẽ có mặt ở đó. OK?”

“OK,” Matt nói.

“Gặp Matt sau nha,” cô nói, rồi quay gót trở về lãnh địa của những Nữ.Sinh Duyên Dáng Vạn Người Mê.

Ba thằng ngẩn tò te nhìn cô bước đi.

“U trời,” Andrew chắt lưỡi.

“Nếu Matt muốn xịt nước mình’?” Evan léo nhéo. “Nếu Matt muốn xịt nước mình’?”

“Im mày,” Matt làu bàu.



ELIOT ĐỢI Anna trên hiên trước của bar Taurus, một điểm đến thiện lành khả kính dành cho các cư dân luống tuổi, có dấu hiệu phát phì, muốn lánh mình khỏi những cảnh xoắn quẩy nhức mắt của cánh săn mồi độc thân, trẻ trung, bụng phẳng ở mấy quán bar lập lòe đầu bên kia Main Highway.

Để đỡ buồn, Eliot theo dõi hai vị khách quen cựu chiến binh đang chơi trò Chiếc Vòng, những chai bia rỗng sắp hàng hàng minh chứng cho một ngày Thứ Sáu xả láng sáng dậy sớm. Tự hồi nảo hồi nao, ai đó đã mắc sợi dây treo chiếc vòng kim loại ấy vào một cành cây trước thềm quán Taurus; mục tiêu của trò chơi là kéo giật chiếc vòng và canh sao để khi thả ra, nó sẽ bung lên và bọc lấy một cái sừng chĩa ra từ rìa mái hiên quán Taurus. Hai chiến binh lão thành đã chơi trò này suốt hơn một tiếng đồng hồ, với cường độ và sự tập trung không kém gì các bác sĩ phẫu thuật não. Hai ông bác hầu như bách phát bách trúng. Điệu bộ của họ như muốn nói: thường thôi chớ có gì đâu.

“Phải tôi thì tôi xin hàng sớm,” Giọng Anna vang lên từ sau lưng Eliot.

“Ể!” anh quay lại. “Tôi cũng chịu thôi. Tôi nghĩ mánh ở đây là phải nốc bia nhiều vào.”

“Vậy ra,” nàng nói, “đây là quán ruột của anh đấy ư?”

“Ừ,” Eliot gật đầu. “Tôi từng tham dự thổi phi tiêu ở đây mà.”

“Họ tổ chức thổi phi tiêu?”

“Thứ Hai hàng tuần, đến hẹn lại lên.” Eliot nói.

Anna bật cười khanh khách, khiến một thí sinh Chiếc Vòng đang điều chỉnh thước ngắm liếc mắt sang và nhíu mày trách móc. Anna thấp giọng hỏi, “Họ thổi ngay trong quán luôn hả?

“Không, vậy mạo hiểm quá,” Eliot nói. “Họ tổ chức trên hàng hiên này luôn, vừa 1 2 3 dzô vừa cố nhắm trúng tấm bia đặt cách vỉa hè chưa tới một thước, nơi dân chúng thiện lành đang bát phố.”

“Cẩn tắc vô áy náy,” Anna nói. “Mà anh thổi có giỏi không?”

“Ầy, trật lất miết, cũng may chưa trúng thường dân vô tội lần nào, tôi đoán vậy. Dĩ nhiên lúc đó khá tối. Nhưng dù sao cũng chưa nghe bà con nào la lên ‘thằng nào bắn tao’. À, cô muốn vào ăn trưa chứ?”

“Ừ, mình vào thôi.”

Họ sánh đôi bước vào quán và ngồi tại một cái bàn gần cửa sổ. Anna trả lại Eliot cặp kiếng để anh có thể đọc được menu. Họ cùng gọi sandwich cá và trà đá.

“À,” Eliot nói, “rồi cảnh sát người ta có phát hiện được gì không?”

“Không,” Anna nói, “tôi cũng không nghĩ họ sẽ tìm được gì. Tôi nghĩ mình thuộc tuýp người lãng mạn; tưởng tượng các thanh tra sẽ đi loanh quanh với mấy cái kính lúp, anh biết mà? Truy lùng manh mối!”

“Bới lông tìm vết!” Eliot phụ họa. “Phân tích các sợi!”

“Ừa,” Anna nói. “Ấy vậy mà họ lại kiểu như, ‘Rồi, có người muốn bắn anh. Thế thì sao?”

“Trời, nội nghĩ thôi cũng thấy ớn, chuyện không biết kẻ nào đã làm vậy ấy.”

“Hoặc chẳng biết bọn chúng có quay lại không.”

“Cô nghĩ bọn chúng sẽ quay lại?”

“Chẳng biết nữa. Nhưng tôi có cảm giác chồng mình đang giấu diếm gì đó. Ổng hành xử quái lạ lắm, ngay cả đối với ổng. Đốc chứng gì mà đi đâu từ tối qua tới sáng nay chưa về. Nói thực tôi còn lấy làm mừng vì chuyện đó, nhưng thôi, tôi đã hứa sẽ không khơi lại đề tài này rồi mà.”

“Không sao mà,” Eliot nói, “Thật đấy.” Anh còn thấy thích là đằng khác, chuyện nàng khơi lại đề tài đó.

“Thôi,” nàng nói. “Nói về tôi nhiều quá rồi. Nói về anh đi. Anh làm nghề gì vậy?”

“Quảng cáo.”

“Loại quảng cáo gì thế?”

“À thì, hôm nay tôi đã làm một quảng cáo gazomba.”

“Quảng cáo gì cơ?”

“Gazomba. Kiểu như, nhìn cặp gazomba bá cháy chưa kìa ấy mà.

“À.”

“Thôi, ta nên trở lại chuyện hôn nhân của cô thì hơn.”

“Không, tôi muốn nghe thêm về cái quảng cáo gazomba ấy.”

Vậy là bên ly trà đá, anh trải lòng với cô về Bia Đầu Búa, về Khách Hàng Âm Binh Béo Đần, về gã kiểm toán viên phòng bên ghét mình như muốn xúc đất đổ đi. Anh kể cô nghe về sự thăng hoa và lụn bại trong nghiệp báo chí của mình. Rồi đến chuyện anh và Patty đã quen nhau ở đại học, đã rơi vào lưới tình, và hai đứa đã dắt nhau đi nhảy hết biết trời đất ra sao. Và rồi cu Matt chào đời, và điều đó kì diệu xiết bao, nhưng hai người họ thôi hẳn chuyện đi nhảy cùng nhau. Đợi Matt lớn chút rồi mình bắt đầu lại mấy hồi, họ hứa với nhau như thế. Nhưng đó chỉ là lời hứa suông, thét rồi chẳng ai đả động gì đến chuyện nhảy nhót nữa. Sự thực là, hai người chẳng nói chuyện với nhau được mấy nữa, và họ chỉ thi hành nghĩa vụ giường chiếu khi không ai nghĩ ngay ra được cách thoái thác, điều hiếm khi xảy ra, bởi một lời thoái thác, thường bắt đầu với “Tối nay sao mệt quá” – chính xác là điều mà họ cảm thấy trong mọi đêm. Anh bộc bạch về sự đau đớn dai dẳng trên hành trình lê xuống con dốc ly hôn, và anh đã cảm thấy ray rứt thế nào, và Matt đã hiểu chuyện ra sao, và chính điều đó càng làm anh ray rứt hơn. Anh nói mình đang lái một con Kia.

“Tới phiên cô,” anh nói.

Nàng kể chuyện mình đã kết hôn hai lần. Lần đầu là với một gã nàng đã hẹn hò trong hai năm cuối Đại Học Florida, đội trưởng đội tennis, con nhà giàu, và đẹp trai ác chiến tới nỗi tất thảy mọi người, nhất là thân mẫu nàng, đều khoan vào đầu nàng ý nghĩ họa có điên nặng mới không lấy chàng, bởi họ sẽ làm nên một Cặp Đôi Hoàn Hảo.

“Chúng tôi có một hôn lễ tuyệt vời, không có bất cứ trắc trở gì,” nàng nói, “cho đến có lẽ là giờ thứ hai của tiệc cưới, khi cô phù dâu tiết lộ với tôi trong phòng phụ nữ, rằng lang quân mới của tôi vừa thọc lưỡi chàng vào miệng cô ấy sâu lút đến tận amiđan. Gã này đơn giản là không thể giữ súng ống của mình trong quần được. Hắn như Bill Cliton ấy, thiếu mỗi các chính sách đối nội thôi.”

Nhưng nàng mắc kẹt với hắn, bởi mẹ nàng bảo: con phải Kiến Tạo Hạnh Phúc Gia Đình.

“Vấn đề là,” nàng nói, “trong lúc tôi ra sức kiến tạo hạnh phúc gia đình, thì hắn ra sức thịt bằng hết mọi phụ nữ ở Hạt Dale và Broward, và nhìn chung đã gặt hái được thành công. Đừng bao giờ cưới một gã đẹp trai ác chiến.”

“Tôi sẽ không,” Eliot cam đoan.

“Vậy là,” nàng nói, “sau khi bé Jenny chào đời, có lẽ là vào lần thứ năm mươi hắn mất đến ba tiếng đồng hồ để đưa cô giữ trẻ về nhà rồi quay lại, tôi đệ đơn ly dị. Tới lúc đó tôi mới biết được lí do mà nhà hắn giàu nứt đố đổ vách, ấy là đừng có mơ mà lấy được xu mẻ nào của họ.”

“Cô không có luật sư sao?” Eliot hỏi.

“Ồ, thì tôi có luật sư chứ. Nhưng cái mà chồng cũ của tôi có nó như là cả Tối Cao Pháp Viện ấy. Thành thử về cơ bản hắn được giữ lại tất cả gia sản, còn tôi được giữ Jennifer. Và do đó mẹ con tôi phải sống lay lắt trong một căn hộ tồi tàn, và Arthur mới trông như một mối tốt với tôi, và đó là điều tôi đã hứa sẽ không khơi lại nữa.”

Bốn ly trà đá kết thúc bữa ăn trưa. Trên đường rời bar Taurus, Eliot và Anna thấy mình được nghênh tiếp bởi hai cựu chiến binh Việt Nam tàn tật vô gia cư. Trừ việc chúng không thực sự là cựu chiến binh Việt Nam tàn tật vô gia cư; chúng là Eddie và Snake, những kẻ lần lượt chín và sáu tuổi khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Cái chân bị thương của Snake đã gợi cho chúng ý tưởng trở thành cựu chiến binh; lê lết cùng khắp khu Grove, xin đểu bá tánh, và phải ngày đẹp trời thì kiểm khẳm với việc giúp thiên hạ đỗ xe. Eddie coi đây là một bước tiến lớn đầy hứa hẹn trong sự nghiệp.

“Ày, ông bạn,” hắn nói với Eliot, “ông bạn thương tình giúp đỡ một cựu binh tàn tật chớ?

“Không,” Eliot đáp, anh đâu lạ gì cái mặt thằng Eddie, kẻ lởn vởn suốt ở khu Grove.

“Đ.mẹ mày,” Eddie chửi. “Còn em sao, người đẹp?” nó quay sang Anna. “Người đẹp muốn cho anh chút gì đó chớ?”

Thằng Snake, vừa bóp hạ bộ của mình vừa nói oang oang, “Ê, khỏi xin, để tao cho mày chút gì đó nè.”

Anna và Eliot lẳng lặng rảo bước. Nàng cảm thán, “Thế mà người ta cứ nói sự lãng mạn đã chết.”

Khi hai người ra đến xe của Anna, nàng mỉm cười nói, “Cảm ơn anh vì bữa trưa nghen.”

“Có gì đâu,” Eliot nói, “hổng ấy cô cứ giữ lại cái kiếng đó đi, để mình có thể đi ăn lần nữa?”

Anna bật cười, nhưng không đáp lại. Nàng lục tìm chìa khóa trong túi xách.

Eliot chợt hỏi, “Mà này, cô có nghĩ tôi đẹp trai ác chiến không?”

Nàng ngước mắt lên từ chiếc túi xách, nghiên cứu khuôn mặt anh một chặp.

“Không.” Nàng lắc đầu.

“Phù.” Anh thở hắt ra.

Nàng cười khúc khích, đoạn lại săm soi khuôn mặt anh kĩ hơn nữa. Nàng quả nhiên có một đôi mắt xanh không tưởng.

“Chỉ để anh biết thôi,” nàng giả lả, “tôi nhảy lắm đó.”



“BÀ NỘI CHA nó,” Eddie nói, nhìn Eliot và Anna te te bỏ đi. “Đối xử với cựu chiến binh vậy đó hả? Quá đáng thiệt, sau những gì chúng ta đã làm cho đất nước này.”

“Ta có làm con mẹ gì đâu,” Snake nói. “Ta đâu phải cựu chiến binh.”

“Thì tụi nó biết đéo đâu,” Eddie cay cú. “Mà đáng ra tao đã là cựu chiến binh rồi, nếu hồi đó tao đủ tuổi đăng lính.”

“Tao nghĩ mày phải tốt nghiệp, coi, lớp tám trở lên thì phải.” Snake nói.

“SSSìì, lớp mấy kệ đi,” Eddie nói. “Cái tao muốn nói là, tụi này là thứ vong ân bội nghĩa!” Nó khạc một bãi đờm màu đà đà lên vỉa hè. “Coi, riết cả ngày mót được có ba đô.”

“Nói vụ đó mới nhớ,” Snake nói. “Có vố này tao đang muốn chơi.”

Eddie chờ đợi.

“Nhớ thằng bú dù ở quán Jackal không?” Snake nói. “Thằng phang tao què giò đó?”

“Nhớ.”

“Nghe đồn nó đang làm ở đó, lúc làm lúc ngồi chơi không.”

“Ừ thì sao?”

“Tao tính ghé qua hỏi thăm sức khỏe nó chút đỉnh.”

“Thôi cho tao can. Thằng bán bar đó dữ như cọp mày ơi. Nó với cái chày của bà nội cha nó.”

“Ày, cái chày của nó là đồ bỏ, nếu mình có súng.”

“Ủa mà mình làm gì có súng.”

“Tao biết một thằng kiếm được, gì chứ một khẩu là chuyện nhỏ, có giao hàng liền.”

Eddie bỗng trầm ngâm. “Làm chi mà hà rầm vậy,” nó nói. “Cứ me nó ra khỏi quán, chụp đầu nó phải khỏe hơn không?”

“Bởi trong quán có cái máy tính tiền.”

Eddie nhìn sững Snake.

“Vậy thằng bú dù không phải mục tiêu?” nó nói.

“Ồ, thằng bú dù vẫn là mục tiêu chứ, cái đó miễn bàn,” Snake nói. “Thằng bán bar, cho vô luôn. Rồi tới cái máy tính tiền. Một mũi tên trúng ba con chim, thấy chưa?”

Eddie lại trầm tư.

“Gì chứ tao dốt đặc ba cái vụ súng ống à nghen,” nó nói.

“Tới lúc mày phải học rồi,” Snake nói. “Trở thành cựu chiến binh, tất tần tật.”
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
NĂM




Lúc người đàn ông đó bước vào tiệm Jolly Jackal, Puggy đang ngồi ở quầy bar xem buổi phát lại của Jerry Springer Show trên TV. Đề tài là về chuyện các ông chồng muốn vợ mình cạo quách mớ lông mép của mấy bả đi. Các bà vợ giãy đông đổng, họ bảo rằng mớ lông ấy là quà tặng của thiên nhiên. Phe chồng bảo: OK, công nhận nó là quà tặng của thiên nhiên, nhưng nó vẫn xấu bỏ mẹ. Phe vợ phản đòn: bảo nếu các ông muốn thấy cái gì xấu bỏ mẹ thì cứ nhìn vào gương ấy – để thấy rằng Brad Pitt không lo bị họ truất ngôi. Không ai ở bất kì phe nào trong cuộc đàm luận này nặng dưới tạ mốt. Đến lúc đó vẫn chưa có gì xảy ra, nhưng nhìn cách Jerry Springer lẩn như chạch từ diễn đàn xuống hàng ghế khán giả, Puggy biết xíu nữa có đánh lộn chắc.

Người đàn ông vừa bước vào Jolly Jackal xách theo một cặp táp, nên Puggy đoán hắn sẽ vòng ra sau quầy để nói chuyện với gã râu rậm, John. Bọn mang cặp táp lúc nào cũng làm vậy.

Puggy nào phải một trạng nguyên, nhưng nó cũng thấy lờ mờ Jolly Jackal không phải một quán bar bình thường. Ít khách quá: Khách sộp nhất – xét trên phương diện tiêu thụ bia – là Puggy, người không trả tiền. Hoạt động thực sự của Jolly Jackal, Puggy để ý, diễn ra ở sau quầy chỗ cái bàn mà John ngồi. Vài lần trong ngày, một gã, có khi hai ba gã sẽ ghé đến bổn tiệm để bàn bạc gì đó với John. Rồi cứ dăm ba bữa, Leo bán bar lại ngoắc Puggy xuống gian phòng được khóa cùng những cái thùng. Hai đứa lại è cổ lúc khuân lúc đẩy, lúc một thùng lúc hai thùng, lúc vô lúc ra khỏi con Mẹc, đôi khi là một chiếc tải nhỏ, có lần là nguyên con U-Haul.

Puggy vẫn mù tịt về những thứ có trong thùng. Nếu buộc phải đoán, nó sẽ nói đó là ma túy, dù đó hơi nặng để là ma túy. Với nó thì miễn ngày ngày còn được coi TV và uống bia chùa là quá đủ, hơi sức đâu lo đến mấy cái thùng đựng gì, hay John và Leo là ai chi cho mệt.

Sự thật thì John và Leo – tên cúng cơm là Ivan Chukov và Leonid Yunanski – là người Nga. Hai đứa hạnh ngộ nhau vào năm 1986, khi cùng phục vụ như những kỹ thuật viên bảo trì trong một đơn vị quân đội Xô Viết. Phần sự của đơn vị này là bảo vệ và phòng thủ - tức chiếm đóng và, nếu cần thiết, san bằng luôn – Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Grzkjjistan.

Đó chẳng một công việc trong mơ. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Grzkjjistan là một quốc gia hẻo lánh, khắc nghiệt, núi non trùng trùng, đậm tính bộ lạc, nơi nền móng của kinh tế được đặt trên việc phục thù, rửa hận. Dân Grkjjistan dành trọn quãng đời người lớn của mình cho việc lên ý tưởng và thực hiện những biện pháp tinh vi để giết và phanh thây đồng bào mình vì những mối thâm thù, nợ máu kéo dài hàng thế kỷ, phần nhiều có liên quan đến những con dê.

Thành phần duy nhất dân Grzkjstanis ghét hơn đồng bào mình là bọn người ngoài, nên cố nhiên binh sĩ Nga ở đây cũng được dân mến dân yêu như nấm ngoài da vậy. Tình anh em giữa hai quốc gia đã chính thức bị nghiêm cấm, song thỉnh thoảng lại có những đồng chí nảy sinh ý định mèo mỡ với các phụ nữ Grzkjistani. Chuyện này đòi hỏi một sự hứng tình ở cấp độ vô cực, bởi sau hàng thế kỷ giao phối cận huyết, thì một người Grzkjistani trung bình khá, xét mức độ hấp dẫn về mặt thể lý, cũng ngang với một con dê Grzkjistani trung bình khá.

Song le, những giao lưu quân dân kiểu ấy thi thoảng vẫn xảy ra. Và một khi chúng bại lộ, mà lộ chắc chứ chạy gì khỏi, quân đội đã có được bài học là phải lo tống gấp chiến sĩ có liên quan ra khỏi đất nước này, nếu không muốn tìm thấy đương sự bị trói gô vào một tảng đá, người một nơi dương vật một nẻo.

Vậy nên đại đa số chiến sĩ nhận trọng trách bảo vệ Cộng Hòa Grzkjinistan đã chọn cách phụng sự khôn ngoan, là ở yên trong trại và uống như hũ chìm, khỏi lo hi sinh lãng. Thiên thời địa lợi nhân hòa, Ivan và Leonard có tất. Bởi là thợ bảo trì, chúng được quyền tiếp cận những thùng kim loại tổ bố đựng các dung môi và chất lỏng mà nếu dùng theo đường uống, có thể gây nên hưng phấn trong não người. Cũng hên xui, một số chất có thể khiến hệ thần kinh trung ương tắt điện luôn; nên bí quyết là phải am hiểu thứ gì an toàn để cho vào, và đong liều lượng ra sao. Tay nghề của Ivan và Leonid trong mảng bảo trì này sớm đạt đến mức lão luyện, và chúng gầy dựng được một đại ly nhỏ khấm khá, cung cấp nước giải khát đã qua chế biến cho các đồng chí của mình để đổi lấy tiền, thuốc lá, băng video Debbie Does Dallas, vân vân. Ivan là bộ não, với tài tổ chức và thương lượng; Leonid là cơ bắp, với tài giữ cho khách hàng trật tự, táng vỡ đầu các thượng đế lộn xộn. Vào giai đoạn phát đạt của đại lý, có lời rỉ tai là nếu đồng chí cần thứ gì đó – không chỉ nước giải khát thôi đâu – thì Ivan và Leonard là những người mà đồng chí cần gặp.

Vào một ngày của năm 1989, một người đàn ông lặn lội từ Mạc Tư Khoa đến để hội kiến Ivan và Leonid. Y diện bộ đồ may đo rất kẻng, và tự giới thiệu mình là một thương gia, Ivan và Leonard hiểu điều đó có nghĩa y là một tội phạm. Người đàn ông đề nghị một áp phe ngon lành: y sẵn sàng giao đô la Mỹ bằng tiền mặt cho Ivan và Leonid, đổi lại y muốn những khẩu súng máy – mặt hàng lúc bấy giờ chưa có trong kho của Ivan và Leonid.

Song hùng Ivan và Leonid từ ấy tiến lên một nấc thang mới, từ bọn buôn rượu lậu trở thành những thương gia khí giới. Thời cơ mới chín muồi làm sao: Liên Xô đang đến hồi cáo chung, và Mạc Tư Khoa nội lo miệng ăn núi lở cũng đủ điên, lấy đâu ra trả lương cho những binh đoàn xa lắc xa lơ của nó. Ở những tiền đồn khỉ ho cò gáy như Grzkjistan thì kỷ luật và đạo đức, miễn bàn đến kiểm kê quân kho, là những thứ gần như không hiện hữu. Ivan và Leonid biết tỏng chỉ cần xòe đô Mỹ ra là tha hồ đi chợ quân đội phủ phê. Súng máy hả? Mại zô, mại zô! Xe tăng ư? Dạ mời đồng chí lựa!

Ivan và Leonid tỏ rõ thiên khiếu trong việc mua bán tài sản quân đội, và sự nghiệp mới của hai đứa thăng tiến như rồng. Khi đã hết thời hạn phục vụ tổ quốc, chúng rời quân đội, song vẫn duy trì được mạng lưới liên lạc trải khắp khu phức hợp quân sự Xô Viết rộng lớn và đang chìm vào hỗn loạn. Chúng mở rộng biên độ khách hàng, vài phen du hành ra hải ngoại, và chẳng mấy chốc đã bắt tay làm ăn với các chính phủ ngoại quốc, bọn khủng bố, những nhà cách mệnh, các tổ chức bán quân sự, những thủ lĩnh tôn giáo, và tụi điên khùng chập cheng ở khắp nơi trên thế giới, Idaho chẳng hạn.

Trong thị trường buôn bán vũ khí quốc tế, Ivan và Leonid đã gầy dựng được tiếng tăm nhờ vào sự linh động và chăm sóc khách hàng tốt. Không như mấy thằng đối thủ to đầu hơn trong ngành buôn khí giới, đặc biệt là thằng Mỹ, Ivan và Leonid không rầy rà bạn với đủ thứ thủ tục hành chính quan liêu. Chúng không quản ngại đường xa để săn được những món đồ độc. Lấy ví dụ, khi một tổ chức Marxist người Jamaica có tên Mặt Trận Thống Nhất Nhân Dân, đề nghị đổi một lượng lớn cần sa thượng hạng để lấy một tàu ngầm chiến đấu: Ivan đã tài tình môi giới cho một áp phe hết sức nhì nhằng, bao gồm – ngoài hải quân Xô Viết – chính phủ Paraguay, một băng đảng đường phố ở Chicago có tên Cruds, và Nhà Thờ Khoa Học Giáo. Cú áp phe hoàn tất vào sáu tháng sau, trong ngày bàn giao chiếc tàu ngầm bán-cải-tạo của Nga hồi Đệ Nhị Thế Chiến, chiếc Vrmsk. Mặt Trận Thống Nhất Nhân Dân đổi tên nó thành Sư Tử Biển Kiêu Hùng. Tưởng sao, nhiệt tình cách mạng của Mặt Trận Thống Nhất Nhân Dân vượt quá xa kỹ năng hàng hải của nó. Và Sư Tử Biển Kiêu Hùng, trong cú lặn để thực hiện nhiệm vụ cách mạng đầu tiên của nó – một cuộc tấn công ngoài Cảng Kingston nhắm vào chiếc du thuyền Goofy tráng lệ mới coóng của Disney – đã chìm nghỉm như một cái đe. Sự cố đáng tiếc này, tuy vậy không ảnh hưởng đến uy tín của Ivan và Leonid. Tụi nó là dân buôn bán mà, đâu phải huấn luyện viên.

Vào cuối những năm 90, ngó màu kinh tế Nga đang trên đà xuống hố cả nút, Ivan và Leonid quyết định chuyển cơ sở của chúng ra nước ngoài, và Nam Florida là nơi chúng chọn để an cư lạc nghiệp. Chúng đã ghé qua nơi này vào đợt áp phe tàu ngầm, và rất ưng khí hậu ấm áp ở đây. Chúng càng ưng hải cảng và sân bay hơn, những nơi tỏ ra rất niềm nở với các thương nhân quốc tế. Nếu biết làm ăn với đúng người, bạn có thể tuồn qua bất kể thứ gì, nguyên bầy nô lệ cũng còn được. Súng ống nhập dễ như kẹo. Ivan và Leonid bao giờ cũng trót lọt qua ải an ninh sân bay, cười thầm nhìn đám nhân viên cau có khoác áo nỉ cộc lệch căng mắt săm soi mấy chiếc laptop Toshiba của bọn kế toán viên. Trong khi dưới đó vài bước thôi, tại đường hầm vận chuyển hàng hóa, những thùng đựng vũ khí đủ để xóa xổ một cao ốc đang băng qua rẹt rẹt như ngỗng ỉa.

Vậy là Ivan và Leonid, nay tự xưng là John và Leo, trở thành chủ sở hữu của quán bar Jolly Jackal. Hai đứa thấy cũng hay hay, khi một lần nữa góp mặt vào lĩnh vực pha chế nước giải khát. Và quán bar đúng là bình phong lý tưởng cho việc làm ăn thực sự của chúng: Những con người tình cờ đến và đi trong mọi giờ, và chẳng có mống sai nha nào thò mặt đến xách nhiễu, miễn John và Leo còn chung chi đủ cho bọn thanh tra đô thị các loại. Phiền toái duy nhất của việc sở hữu một quán bar, là thi thoảng lại có người ghé vào và thực lòng muốn kêu đồ uống. Song Leo đã khéo léo khống chế điều đó ở mức tối thiếu, bằng sự kết hợp giữa phục vụ tồi và lâu lâu xách chày đập đầu khách quen.

Miami hóa ra là đất canh tác màu mỡ: Hình như nam phụ lão ấu ở đây ai cũng đều cần thứ gì đó nổ được. Bọn đồ tể của các tập đoàn ma túy, muốn những khẩu súng nã một phút ngàn phát để khỏa lấp trình độ bắn ba trật bốn vuột của mình. Tụi cô hồn các đãng, muốn có súng để hù dọa thường dân; và những thường dân, cố chạy đua vũ trang với cô hồn các đãng. Và những gã thợ săn mà nếu nhìn vào những khẩu súng trường họ mua, sẽ tưởng như họ đang đi săn mấy con nai trong xe bọc thép. Rồi đến các “nhà sưu tập” và các “fan cuồng”, sống trong những căn nhà lưu động ba nghìn đô treo đầy những khẩu súng phóng lựu bảy nghìn đô. Và một sớ dài dằng dặc những nhân vật mờ ám đại diện cho tá lả thiên tinh các phong trào, nào cách mạng, nào phản cách mạng, nào phản-phản cách mạng, nào phản-phản-phản cách mạng rải cùng khắp vùng Car-ri-bê, Trung và Nam Mỹ, tụi này lúc nào cũng đòi mua súng chịu.

Song khách hàng lớn nhất của bọn chúng, cho tới nay, là một công ty địa phương luôn đặt hàng những vũ khí hạng nặng, đắt đỏ, kiểu vũ khí mà quân đội thật sử dụng trong những cuộc chiến thật. John và Leo không đoán nổi vì lẽ gì lại có người ở Miami cần nhiều hỏa lực tới vậy, mà chúng cũng chẳng quan tâm. Điều quan trọng là, khi chúng thu thập được một vũ khí hạng nặng, công ty này sẽ lập tức mua nó, bằng tiền mặt, khỏi kỳ kèo.

Người giao tiền mặt chính là gã xách cặp táp vừa bước vào Jolly Jackal, khi Puggy đang theo dõi các cặp vợ chồng kình lộn về chuyện ria mép trên Jerry Springer Show. Leo, đứng bên máy tính tiền, khẽ gật đầu khi gã bước qua. John đứng dậy từ bàn, nhỏ nhẹ chào hỏi ông khách bằng tên.

“Chào ông Herk,” hắn nói.

Đó quả thực là Arthur Herk, tên chồng vũ phu, kẻ biển thủ, và chủ sở hữu hợp pháp cái cây của Puggy. Chủ của Arthur, Penultimate, Inc., nhà thầu của những công trình kém chất lượng, chính là khách sộp địa phương của John và Leo. Lí do mà Penultimate sắm sửa vũ khí – thực ra toàn bộ lí do Penultimate tồn tại ngay từ đầu – đó là thôn tính Cuba một khi Fidel đứt bóng. Có cơ man các tổ chức ở Nam Florida, chưa nói tới Cuba, đang mài gươm mài giáo chờ ngày đó. Một điều bạn có thể quả quyết về Cuba thời hậu Castro: quốc gia này không sợ thiếu người lãnh đạo.

Arthur là người xách giỏ của Penultimate. Phần sự điều hành viên cấp trung của lão đại khái chỉ có thế: đi giao tiền hối lộ và những khoản chi phi pháp khác. Lão đã thi hành nó suôn sẻ cho đến vài tháng trước, khi số nợ bài bạc vượt quá tầm kiểm soát. Một ngày lão ra về giờ làm và thấy hai thằng cô hồn chực sẵn trong bãi đỗ xe. Chúng thông báo nếu nội trong 24 giờ tới lão không xoay đủ số tiền cần thiết, chúng buộc lòng phải cắt một ngón tay của lão mà không dùng đến thuốc gây tê. Hai thằng xốc nách Arthur ra sau ô tô của chúng, mở cốp và bắt lão nhìn vào. Trên sàn cốp xe là một cây kéo chuyên dụng để tỉa cây. Arthur té đái.

Bí quá làm liều, Arthur xén bớt tiền hối lộ, một khoản vừa đủ để giữ mười ngón tay của lão nguyên vẹn qua hết tuần sau. Lão hi vọng, niềm hi vọng hão huyền của những tay ăn hại, rằng bằng cách nào đó tiền sẽ không bị thâm hụt, mà nếu có họ sẽ nghi cho thằng khác. Cố nhiên tiền phải bị thâm hụt chớ sao không. Cấp trên của Arthur không hé răng với lão nửa lời; họ không muốn lão hết hồn mà chạy đi khóc kể với cảnh sát. Họ để lão tiếp tục đi giao tiền hối lộ, và không kèn không trống rước cặp Henry-Leonard từ New jersey đến xử lí tình hình. Tinh thần là dàn xếp vụ này sao cho nhìn như màn đâm chém của tụi cờ bạc, Penultimate vô can.

Khi chiếc TV 35 inch của Arthur bị ám sát, lão biết chính mình mới là nạn nhân mục tiêu, và dù kẻ bắn là ai thì nó cũng được thuê bởi, còn ai trồng khoai đất này, Pennultimate. Duy trong đêm đó khi Arthur bước vào tiệm Jolly Jackal, John và Leo chẳng mảy may hay biết chuyện này. Với chúng Arthur là cầu nối với một khách hàng sộp, nên tội gì chúng không xã giao chút đỉnh với lão, dù cũng như bao người có dịp tiếp xúc với Arthur, chúng biết lão là một thằng chó đẻ.

“Ông anh muốn gì đó thấm giọng chứ?” John hỏi.

“Vodka,” Arthur nói, lão là người luôn muốn gì đó thấm giọng.

John nói gì đó bằng tiếng Nga với Leo, kẻ đang chìa ra một ly vodka. Arthur chụp vội như sợ ai giành mất, làm hơi hết sạch, đặt ly xuống rồi nhoài người về phía John. Mắt lão vằn đỏ, giọng lão khàn khàn bắt ghê.

“Nói trên phôn rồi,” lão bảo, “tao cần một quả tên lửa.”

“Hiểu,” John nói. “Cái này ông mua cho ông đúng không? Tên lửa dùng riêng?”

“Mày quan tâm làm cóc khô gì?” Arthur nói.

Lão có lý. John đâu rảnh. Hắn chỉ tò mò bởi trước giờ chưa thấy Arthur đề cập đến, sức mấy mà đi nhận lãnh bất cứ loại khí giới gì. Lão chỉ làm độc nhất chuyện giao tiền.

“Bắt buộc phải là tên lửa ư?” John hỏi.

“Bộ có vấn đề gì sao?” Arthur hỏi.

“Xui rồi,” John nói, “hiện giờ bọn tôi không có tên lửa. Tên lửa khó kiếm lắm.” Đó là sự thật. Mặt hàng tên lửa rất khan hiếm; không biết giang hồ nào đã vét sạch chúng. Nghe đồn đó là bọn Iraq hoặc bọn Microsoft.

“Ày,” Arthur nói, “Khó sao tao không cần biết, mau mau quác đít lên, kiếm quỹ khí gì đó cho tao đi.” Arthur giễu giọng John, đọc “v” thành “qu”.

Nghe câu móc mỉa, John toan gọi thằng Leo hộ tống lão Arthur ra ngoài. Nhưng John là một thương gia, và khách thì cũng có người này người kia.

“Ông muốn sử dụng vũ khí này thế nào?” hắn hỏi.

“Đừng van tâm tao sử dụng quỹ khí này thế nào,” Arthur tiếp tục nhây. “Lo mà kiếm quỹ khí gì thật chiến cho tao.”

Arthur đâu định sử dụng vũ khí như một vũ khí. Lão biết đách gì về vũ khí chứ. Lí do duy nhất lão muốn có hàng nóng là vì sau rất nhiều cân nhắc, kế hoạch mà lão vạch ra để bảo toàn tính mạng là: diện kiến FBI và khai tất tần tật những gì lão biết về Penultimate – các hợp đồng, những khoản đút lót, quán bar Jolly Jackal và bất cứ chuyện trên trời dưới biển nào lão nghĩ ra hay vẽ vời ra được. Với thần trí suy nhược vì alcohol, lão đã nghĩ ra diệu kế để thuyết phục FBI là trình diện với một quả hỏa tiễn Nga chính hiệu.

“Ông định trả bao nhiêu?” John hỏi.

Lão ẩy cái cặp trên bàn về phía hắn. “Mười thiên,” lão nói. “Cứ đếm đi.” Arthur đã tự mình kiểm tra số tiền trong va-li từ trước. Vào lúc ấy tổng cộng nó là 15.000$, được sắp thành những cọc 20$, Arthur xén 5000$ làm của riêng – với 500$ nhét bóp và phần còn lại cho vào túi quần. Lão đã được lệnh đi giao 15.000$ này từ hai ngày trước cho một nghị sĩ Hạt Dade. Nghị sĩ này sau đó sẽ bỏ lá phiếu tối hậu để thưởng cho Penultimate một gói thầu xây dựng mười bốn nhà chờ xe buýt, để rồi từng cái một sau đó, với đủ lí do trời ơi đất hỡi, sẽ tốn của bà con đóng thuế Hạt Dade khoản tiền tương đương một cư xá sang trọng hai phòng ngủ ở Key Biscayne.

John mở cặp, nhìn sơ qua bên trong rồi đậy nắp lại. Hắn nhìn cái cặp và trù tính. Một mặt, áp phe này thối hoắc. Thằng cóc cắn này đâu đáng ngồi chung bàn làm ăn với hắn, mất giá quá. Nhưng tiền mặt là tiền mặt. Và nếu thằng ngu này cóc cần biết nó đang mua gì, John nhìn thấy một phương án để vừa kiếm được một số tiền vừa phải, vừa tháo gỡ được một vấn đề đang làm hắn ưu tư.

“OK,” hắn nói. “Có lẽ tôi có một thứ cho ông.”

Hắn dẫn Arthur đi xuôi theo hành lang đến gian phòng ở nhà sau, mở khóa cửa và bước vào. Hắn tiến đến góc phòng, nắm lấy quai của một thứ trông như một chiếc va-li công nghệ cao, to hơn chút đỉnh so với loại có bánh lăn thông thường, và được đúc bằng một thứ kim khí màu xám bạc. Hắn kéo lê nó ra cửa, đặt nằm xuống, mở bốn lớp khóa lớn, đoạn giở nắp lên. Bên trong va-li là một miếng đệm bằng bọt biển; bên trong miếng đệm là một hộp kim loại đen có ghi tiếng nước ngoài, cùng một dãy công tắc điện. Kế bên nó, nối kết với cái hộp bởi những sợi cáp điện là một vật hình ống bằng thép. Nhìn hao hao cái máy xay rác nhà bếp.

“Cái đồ thiên lôi gì đây?” Arthur ngơ ngác hỏi.

“Bom đấy,” John đáp.

“Nhìn khác mẹ gì cái máy xay rác đâu!” Arthur nói.

“Bom mà,” John nói.

“Nó hoạt động ra sao?” Arthur hỏi.

“Như hướng dẫn sử dụng,” John chỉ vào dòng chữ ngoại quốc.

“Bỡn tao hả mày?” Arthur nói.

“Đâu có,” John nói.

“Làm sao tao biết đây là bom?” Arthur lườm hắn. “Làm sao tao biết mình không tốn mười thiên để tha về một cái máy xay rác?”

“Cứ nhìn đi,” John trả lời tỉnh khô.

Với sự thôi thúc của căn tính giống đực, Arthur cúi xuống và nhíu mày nghiên cứu thứ trong va-li. Y bong cái kiểu các đấng mày râu nhíu mày nghiên cứu các thiết bị gia dụng, đường ống nước, động cơ ô tô, và các thứ máy móc kia nọ lọ chai mà họ chả biết ất giáp gì. Sau một hồi trầm ngâm nghiên cứu, như thể đã nhìn thấy gì đó giải đáp được mọi thắc mắc nam tính của mình, lão đứng thẳng dậy và nói, “Ngon.”

John gật đầu kính cẩn. Hắn đóng va-li, khóa lại rồi sai Puggy xách nó ra xe của Arthur.

John như mở cờ trong bụng. Năm thưở mười thì, hắn và Leo lại tàng trữ ở nhà sau những con hàng cực kì nguy hiểm. Không nhiều thứ trong số đó khiến hắn bận tâm, song thứ này thì khác. Nó là thứ đầu tiên bọn hắn tha về khiến hắn ăn không ngon ngủ không yên. Hắn mừng hết biết khi tống được của nợ đó đi.



7:45 TỐI, Matt đang xớ rớ bên ngoài quán Gap, thuộc khu mua sắm CocoWalk trung tâm Coconut Grove, chờ Jenny lộ diện để nó có thể hạ sát cô. Andrew, người làm chứng, đang ở bên kia đường chỗ quán Johny Rockets, chờ mua sinh tố. Niềm phấn khích sắp được gặp Jenny khiến nó quên bẵng cái bụng lép kẹp.

Nhằm tránh những ánh mắt soi mói ở khu mua sắm ngoài trời nhộn nhịp này, Matt để khẩu súng trường Squirtmaster Model 9000 ở nhà và giắt theo cây súng ngắn JetBlast Junior. Dung tích và phạm vi phun nước dĩ nhiên không thể so sánh, nhưng xong việc là tốt rồi. Phiền cái là cứ chốc chốc, Matt lại phải rút hé khẩu súng từ túi quần ra coi nó có bị rỉ nước không, xui sao nhìn như mới tè ra quần là nhục mặt.

Matt nào biết, nhất cử nhất động của nó đang bị theo sát bởi một gã hói thấp lùn vạm vỡ đang ngồi trên nó một bậc thềm, tại một quán bar ngoài trời có tên Thứ Ba Béo. Một quán chuyên phục vụ các món giải khát có cồn nhão nhoét, xanh xanh đỏ đỏ rót từ mấy bình nhựa trong suốt có dán nhãn sắp hàng hàng, mỗi cái nhãn là mỗi cái tên dở hơi lẩm cẩm, tỉ dụ: You Gotta Colada. Tên gã hói là Jack Pendick - một nhân viên bán hàng ở Sunglass Hut vừa bị đuổi việc ngay chiều hôm đó, sau khi nhiều khách nữ phàn nàn bị một nam nhân viên nhìn chòng chọc vào cổ áo họ, lúc họ đang cúi xuống để xem hàng trưng bày.

Đằng nào Jack cũng đâu chí thú gì với trò bán buôn manh mún này. Hắn đeo đuổi ước mơ về một sự nghiệp huy hoàng trong ngành hành pháp. Hai lần hắn nộp hồ sơ xin việc tới sở cảnh sát Hạt Metro, hai lần đều bị trả hồ sơ, bởi hạng mục tâm lý trong giấy tờ của hắn ghi rõ: hắn, nói theo lối chân phương, là một thằng đần. Song ý định trở thành dũng sĩ trừ gian chưa lúc nào thôi cháy bỏng trong hắn, và rồi, khi đang rột rột thanh toán chút dư tàn của ly nước thứ ba, một ly cocktail xanh lá óng ánh có tên Melter Thần Lửa, sự chú ý của gã, như một tia la-de – rọi thẳng vào một thanh niên khả nghi bên dưới.

Jack đã cày nát các chương trình thực tế về cảnh sát trên TV, và hắn tin mình có giác quan thứ sáu khi một tội ác sắp sửa xảy đến. Giác quan đó giờ đang ngứa ran. Thằng mãnh dưới kia nom đáng nghi tợn, và nó cứ thậm thà thậm thụt kiểm tra cái gì đó trong túi quần, một thứ mà Jack, bằng sự tập trung tối đa, đã kết luận đó là – đó, mới nói tức thì! – một khẩu súng.

Thằng này đang tính chơi lớn. Jack biết điều đó.

Và Jack lại nghe khúc nhạc ấy âm vang trong tâm trí mình. Khúc tráng ca công lý của hắn; lần đầu hắn nghe nó là ở tập đỉnh nhất của chương trình đỉnh nhất mọi thời đại, Chuyên Án Miami. Lúc này đấy hắn đang nghe rõ mồn một, giọng mũi của Phil Collins:


Kìa nó đang đến trong bầu trời đêm nay

Chúa ôi ...


Và Jack, dõi theo kẻ hung đồ với bàn tay sắp sửa vấy máu kia, cũng thấy nó đang đến – cơ hội của hắn, có thế chứ. Cơ hội để đạp sóng rẽ gió; để chứng minh hắn không phải đồ bỏ đi; để trở thành anh hùng, để cho cả thế giới thấy – nhất là thằng quản lý ở Sunglass thấy – hắn là một đấng đại trượng phu đỉnh thiên lập địa cỡ nào. Tay phải hắn thọc vào túi quần, cảm thấy vững dạ bởi cái độ cứng trơn trơn, lành lạnh của khẩu súng lục hắn tậu vào tuần trước trên show Coconut Grove Súng và Dao. Tay trái hắn ngoắc cô hầu bàn, thêm một Melter Thần Lửa nữa em ơi!



CÁCH ĐÓ CHÍN khối nhà, Henry và Leonard đang ngồi trong chiếc ô tô thuê, trên đường phố tối hù cách cửa quán Jolly Jackal khoảng cách vài làn xe. Chúng đã theo đuôi Arthur đến tận đây và đang đợi lão chường mặt ra để theo đuôi tiếp. Radio trên xe đang phát bình luận thể thao. Tay dẫn chương trình đang nói liến thoắng.

Anh em Cá Sấu Mỹ đâu hết rồi ta? Cá Sấu Mỹ mà THẮNG là anh em gọi muốn cháy máy. Bữa nay THUA, anh em lại hỏng có gan.

“Cá Sấu Mỹ là mốc xì gì vậy?” Leonard hỏi.

“Banh bầu dục,” Henry đáp. “Bọn đại học ấy mà.”

“Rảnh!” Leonard bĩu môi, hắn không hình dung được chuyện khơi khơi đi húc nhau cho sứt càng gãy gọng, phải té vàng té bạc gì thì cũng ráng.

Thằng dẫn chương trình nhận một cú phôn.

Tôi fan Cá Sấu Mỹ. Và tôi đang gọi đây.

OK, ông bạn muốn nói gì?

Thì ông nói tụi này hổng có gan gọi, tôi đang gọi đây nè.

Rồi, OK, vậy ông bạn muốn nói gì?

Tôi nói là tôi đang ở đây. Và tôi đang gọi.

Có vậy thôi hả? Ông gọi chỉ để nói ông đang gọi?

Thì bởi ông nói tụi này không có gan.

Chớ hổng phải ha? Nguyên tuần nay ngày nào tôi cũng nghe Cá Sấu Mỹ mấy ông gáy rầm trời đất. Rôi giờ coi, cha nào cha nấy chui vô hang hết.

Hang nào? Tôi đang gọi đây mà.

OK, vậy xin mời ông cho biết ý kiến?

Ờ thì, ông nói bọn tôi không có gan, cho nên ...

Henry lắc đầu, bấm tắt radio.

“Đến lạy cái đất nước,” hắn nói.

“Má đúng thiệt,” Leonard đồng tình.

Hai thằng ngồi thừ ra đó trong vài phút, đưa mắt nhìn tấm biển nê-ông dặt dẹo, bụi đóng tấc tấc của tửu quán Jolly Jackal. Chữ “ACKAL” bồng lên mông lung giữa bóng tối.

“Mà thằng đó tới đây chi vậy cà?” Leonard thắc mắc. “Một thằng ngời ngời như nó, nhà cao cửa rộng, công việc ngon lành, đốc chứng gì mà đun đầu vô cái xó chó ỉa này chớ?”

“Hỏi hay,” Henry nói.

“Hông ấy mình cứ xách đầu nó ra đây, tìm hiểu cho lẹ?” Leonard sốt sắng ướm hỏi.

Henry lắc đầu. “Để thủng thẳng đã,” hắn nói. “Tao muốn coi thử nó đang làm gì.”

“Má oải quá mày ơi,” Leonard thở dài. “Xin mày, cứ cho tao hai phút với nó và cái này” – hắn giựt cái hộp quẹt trong xe ra khỏi lỗ cắm – “tao cuộc nó sẽ khai tới đời ông cố nội nó luôn. Nó sẽ hót in hệt thằng cha gì gì đó, Luciano Calamari.”

“Pavarotti,” Henry nói.

“Ba bốn gì kệ mẹ đi. Nó hót xong là mình vô công chuyện, pằng, lên máy bay về Newark. Hết muỗi, hết thằng cha con mẹ nào trên cây, hết Cá Sấu Mỹ, hết ...”

“Im coi,” Henry nói.

Leonard dõi theo ánh nhìn của Henry và thấy có hai thằng ngất ngư nào đâu, một thằng đi tập tễnh, đang lò dò bước về phía cửa quán Jolly Jackal. Trong vầng sáng màu đỏ tím hắt ra từ chữ ACKAL trên biển hiệu, Henry và Leonard thấy hai thằng đều trùm kín đầu với một thứ có vẻ như là quần tất của đàn bà. Thằng đi tập tễnh đang cầm súng.

“Coi bộ tới giờ khuyến mãi,” Leonard nói.



Andrew đang phù mỏ hút thứ sinh tố chocolate đặc sệt của nó. Nó đã tới đứng chung với Matt chỗ ngoài quán Gap. Từ dàn loa chất lượng kẹo kéo của quán Johnny Rockets bên kia đường, vọng đến giọng ca của Elvis thời trai trẻ:

Hãnh diện biết bao để nói nàng là cục kẹo bơ của tôi

Tôi đang yêu ... Tôi đang rung chuyển!

Andrew tiếc rẻ rời miệng khỏi cái ống hút, nói: “Thử nghĩ xem, mày có hãnh diện để nói ai đó là cục kẹo bơ của mình không?”

Matt thử nghĩ về chuyện ấy.

“Kiểu như,” Andrew nói, “mày ra mắt nàng với bà con cô bác, cái mày nói, “Xin giới thiệu với mọi người, CỤC KẸO BƠ của tui!’ Ế, bộ đái trong quần hả cha nội?”

“Chết cha,” Matt hoảng hồn ngó xuống cái quần kaki của nó, thứ mà như luật bất thành văn đối với tụi con trai mười bảy tuổi, luôn có size vòng eo quá lớn và chỉ che được nửa mông. Coi, khẩu JetBlast Junior rỉ nước thiệt, tạo thành một vũng đen sũng sĩnh ngay háng nó.

“Hẻo rồi,” Matt ca cẩm.

“Ê, con Jenny tới kìa,” Andrew la lên.

Bỏ mịa,” Matt chắt lưỡi, cuống quít kéo cái áo phông trắng của nó xuống để che đi vết ố.

“Matt có khẩu súng nào trong túi quần không đó?” Jenny tủm tỉm, “hay Matt chỉ muốn gặp Jenny nói chuyện chơi thôi?”

Andrew cười hô hố, nhổ một miệng lút sinh tố lên vỉa hè. Matt đấm nó một cú trật lất.

“À phải rồi,” Jenny nói, “tụi mình sẽ làm chuyện này ở đâu? Một nhân chứng thôi mà đúng không? Chỗ này đông quá trời.”

“Hổng ấy tụi mình đi vô con hẻm kia đi,” Matt chỉ về phía Đại lộ Grand. “Ở sau tiệm chạp phô có một bãi đỗ xe.”

“Cũng được,” Jenny nói.

“À Jenny nè,” Matt ấp úng, “Giả tỉ ... ờ, sau khi mình giết Jenny xong rồi ấy, giả tỉ Jenny không bận chuyện gì, ý mình là ...”

“Ý nó là,” Andrew xọt dưa, cấp kỳ lui lại để né đường quyền thứ hai của Matt, “nó hãnh diện được nói Jenny là cục kẹo bơ của nó.”

“Matt,” Jenny làm mặt nghiêm, “Jenny hân hạnh được làm cục kẹo bơ của Matt.”

Eo ơi.

“OK,” Matt nói với vẻ nghiêm túc không kém. “Nhưng trước tiên, Matt phải giết Jenny đã.”

Vậy là đám trẻ tíu tít phới về phía tiệm chạp phô. Matt vẫn lày quày đậy điệm vết ố trên quần, lòng lâng lâng một cảm giác vui sướng và tự nhiên đến lạ khi được sóng bước cạnh Jenny. Khi những rộn ràng và rực rỡ của CocoWalk đã nằm lại sau lưng, ba bạn trẻ vô tư đâu để ý gì đến dáng hình cục mịch của Jack Pendick, Dũng Sĩ Trừ Gian, cách bảy thước phía sau đang lạch bạch đuổi theo bọn họ. Một tay hắn sờ vào khẩu súng trong túi áo, giọng mũi the thé của Phil Collins rót đầy thần trí đang sôi sùng sục của hắn, khi hắn đã sẵn sàng để đón nhận bất cứ gì đang đến trong bầu trời đêm nay.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
SÁU




“Thấy gì qua thứ này chết liền á,” Eddie nói.

Ráng đi cha, rộn chuyện quá,” Snake nói.

Cặp tướng cướp đang thập thò trước cửa quán Jolly Jackal, hai cái đầu trùm quần vớ ngoắc qua ngoắc lại. Snake tròng ống quần bên phải lên mặt; cái còn lại treo tòng teng trước ngực. Eddie thì sụp kín mặt với phần thắt lưng của cái quần, chừa lại hai ống vớ rũ rượi phơ phất sau lưng, khiến nó nom như một yêu tinh thỏ khổng lồ.

“Tao chỉ muốn góp ý thôi,” Eddie nói, “đáng lý phải lấy màu nào sáng hơn chớ.”

“Có gì xài nấy đi cha nội,” Snake nói.

Chúng đã xoáy được cặp quần tất này ở một tiệm chạp phô trên Coconut Grove. Rảnh đâu mà kén cá chọn canh, Snake đã thó chúng trong lúc Eddie vờ lên cơn co giật để điệu hổ ly sơn thằng bán hàng. Snake chụp ngay hộp quần tất đầu tiên mà nó thấy. Ngẫu nhiên đó là hàng của Hanes Control Top, màu đen tuyền, với size dành cho các bà mập.

“Thà đội một cái xô lên đầu còn sướng hơn,” Eddie tiếp tục càm ràm.

“Tao bảo mày đội gì mày đội đó,” Snake đanh giọng. “Có mang túi theo chưa?”

“Khỏi lo,” Eddie vỗ vỗ cái túi đựng hàng Winn-Dixie được vo lại giắt ở lưng quần. Kế hoạch là, Snake sẽ dùng súng uy hiếp thằng bán bar, trong khi Eddie trút đầy túi hàng với số bạc lấy từ máy tính tiền, ưu tiên mệnh giá cao trước, mệnh giá nhỏ sau, thư thả thì hốt luôn mớ lẻ tẻ.

“OK,” Snake nói. “Nhớ nghen mậy, đừng có mà bép xép gì ở trỏng, nhất là bép xép tên tao. Và chớ làm trò gì ạch đụi.”

“Bày đặt,” Eddie xài xể, “bộ cái ý tưởng này còn chưa đủ ạch đụi chắc?”

“Để coi ai ạch đụi biết liền,” Snake nói, siết chặt khẩu súng và đẩy tung cánh cửa.



“À NÀY,” MATT nói, “Jenny có muốn mình bắn vô đâu không?” Nó, Jenny và Andrew vừa bách bộ qua hết con hẻm bắt từ Đại lộ Grand và giờ đã đứng trong bãi đỗ xe nhờ nhờ tối phía sau tiệm chạp phô. Có hơn hai chục chiếc ô tô trong bãi, và tuyệt không thấy ai khác vào thời điểm đó.

“Thì ngay chỗ đó luôn đi.” Andrew mách nước. “Hai đứa mày sẽ như trời sinh một cặp.”

“Câm mỏ,” Matt hằm hừ. Quay sang Jenny nó ngỏ ý, “Hay vào tay Jenny nha?”

“Cũng được,” Jenny nhỏng nhảnh đáp, cô thích chuyện Matt cân nhắc coi nên bắn vô đâu.

“OK, rồi nha,” Matt nói. “Andrew, chuẩn bị làm chứng nè!”

“Tuân lệnh!”Andrew nói, rướn người tới trước và chun mặt lại, tỏ ra nghiêm túc tối đa đối với nhiệm vụ.

Jenny đưa tay phải lên, xòe lòng bàn tay về phía Matt với vẻ cung hiến. Matt như chết lặng trước vẻ yêu kiều của Jenny. Nó đưa khẩu JetBlast Junior lên, hai tay cầm súng duỗi thẳng, như mấy chương trình cảnh sát trên TV. Nó nhắm vào bàn tay Jenny và khởi sự siết cò súng.

“FREEZE!” Thốt nhiên từ con hẻm vút đến một giọng khàn khàn ghê rợn. Ba đứa quay phắt lại và thấy một hình hợm đang lặc lè tiến về phía chúng. “FREEZE!” hình hợm ấy lại rống lên, dù nãy giờ đã có đứa nào nhúc nhích gì đâu. Và rồi, một tiếng “ĐÙNG” phát xuất từ hình hợm ấy, và chớp mắt Matt đã thấy tấm kính xe bên cạnh mình trổ ra chằng chịt những vết nứt.

“Quỷ thần ơi, nó b-bắn kìa,” Andrew lắp bắp.

“Chạy lẹ,” Matt quát lên đoạn tức khắc kéo tay Jenny, ba chân bốn cẳng phi đến phía cuối bãi đỗ xe. “Andrew!” nó ngoái cổ la. “LẸ MÀY!”

Andrew ba chớp ba nháng đuổi theo Matt và Jenny.

“FREEZE!” hình thù lại rống lên. Và lại một tiếng ĐÙNG tiếp sau đó.

Matt vẫn cắm đầu chạy bán sống bán chết, kéo theo Jenny đang vừa chạy vừa lầm rầm “JesusJesusJesusJesus”, cứ mỗi bước là một lần “Jesus”. Lại thêm một tiếng ĐÙNG và tiếp đến là một tiếng UỲNH khi viên đạn bay qua đâu đó gần Andrew, kẻ đang thu mình sau một chiếc ô tô. Matt và Jenny phóng đến cuối bãi đỗ xe, xô đổ mấy thanh chắn, và chợt thấy mình lọt thỏm vào một khoảng sân sau không đèn đóm, đầy rác rến và cỏ dại mọc cao tận thắt lưng. Thế rồi, với những bước loạng choạng mù lòa, hai đứa gieo mình vào trong bóng đêm thăm thẳm.

Trở lại với bãi đỗ xe, Andrew như hóa đá bởi nỗi khiếp sợ, rúc mình sau chiếc ô tô, dỏng tai nghe tiếng thở phì phò của cái hình hợm đang mỗi lúc một thu hẹp khoảng cách với nó.

“FREEZE!” hình hợm cất giọng thều thào. “FRUNHHHMPH.”

Cái hình hợm, vấp phải một rào chắn thấp bằng bê tông, đổ oạch xuống như một bao mỡ bò chín chục kí lô. Khẩu súng lục văng ra trước và tốp lại ngay trước thân mình đang co rúm của Andrew. Andrew, hành động theo bản năng, chộp lấy khẩu súng và bật dậy, chạy trối chết về phía con hẻm dẫn ra Đại Lộ Grand. Để lại sau lưng nó súc thịt bầy hầy, léo nhéo rên rỉ của Jack Pendick, Dũng Sĩ Trừ Gian.



Lại nói chuyện Snake tung cửa xông vào quán Jolly Jackal, cánh cửa táng thẳng vào Leo, kẻ đang sắp mở nó ra cho Puggy, kẻ đang đứng sau Leo với cái va-li đựng bom. Sau lưng Puggy là Arthur đang mày mò trong túi tìm chìa khóa để mở cốp con Lexus. Sau lưng Arthur là John, đang ôm cái cặp táp.

Bị cửa đập bất tử, Leo liểng xiểng chúi dụi vào Puggy. Puggy mất thăng bằng, đánh rớt cái va-li xuống ngón chân của Arthur. Arthur ré lên như lợn bị chọc tiết, chúi nhủi vào người John. John loạng choạng vấp lên cái ghế dựa đằng sau, ngã chổng vó xuống sàn nhà, cái cặp văng ra.

Snake phát hoảng khi thấy cả đống người lăn lóc lố nhố. Nó lập cập giương súng lên, vung vít loạn xạ, quát “Tất cả tụi bay ... úi da.”

Snake suýt ngã sấp mặt. Ra thằng Eddie vừa xớn xa xớn xác húc vào lưng nó.

“Bà mẹ mày, coi chừng chớ,” nó nộ.

“Có thấy chó gì đâu,” Eddie làu bàu.

Câm mồm,” Snake hầm hừ. Đoạn nó hất hàm về phía Leo, Puggy, John và Arthur, biểu, “Dồn tụi nó lại.”

Hai thằng dồn đám lau nhau lại một chỗ, trừ John đang nằm xếch một bên, cạnh cái cặp trên sàn nhà.

Trên màn hình TV, hai mụ nạ dòng vạm vỡ, ria mép tốt tươi đang đập túi bụi một cha nội với mái tóc bóng lộn và hàm răng ngót 40% là hàng giả.

“OK, việc đầu tiên,” dứt lời Snake xăm xăm tiến lại chỗ Puggy. Puggy hoảng vía lùi ra sau, mắt nhìn sững khẩu súng. Snake vung chân trái, cái chân không bị thương, tung một cước kịch lực vào vùng bẹn của Puggy. Thốn đến mức không ú ớ được tiếng nào, Puggy đổ sụm xuống sàn, hai tay ôm bẹn. Snake bồi thêm một cước ngay mặt nó. Puggy vội đưa tay lên che mặt, cuộn người lại thu lu để né đòn. Snake đá pặc pặc vào lưng nó hai phát nữa, rồi lùi lại.

“Chưa xong chuyện với mày đâu,” nó gầm gừ, đoạn chĩa súng qua Leo, “Mở cái máy tiền ra. Để tay mày ở chỗ tao thấy được. Xớ rớ tới cái chày là tao nổ phọt óc mày liền.”

Leo, hai tay giơ ra trước và mắt nhìn chừng khẩu súng, từ từ lùi lại, vòng qua quầy bar đến chỗ máy tính tiền. Một tay giữ nguyên vị trí, một tay hắn hạ xuống bấm vào một phím trên máy. Hộc đựng tiền trượt ra.

“OK,” Snake huých khủy tay vào Eddie. “Vô lượm lúa đi.”

Eddie, với hai cánh tay vươn ra trước in hệt Boris Karloff trong Xác Ướp, rề rà lê bước cho tới khi chạm vào quầy bar. Thế rồi, như một ông xẩm mù, nó vừa mò mẫm mặt quầy vừa tiến từng bước một.

“Coi, khẩn trương lên chớ mày!” Snake ngứa mắt quá, nạt.

“Lần sau, tao xí phần cầm súng,” Eddie cành hanh, kéo nhô phần thắt lưng của chiếc quần tất lên khỏi mặt để thấy được sàn nhà phía trước. Nó lịch xịch đi vòng qua quầy bar, lại chỗ máy tính tiền rồi ngó vào cái hộc đã mở sẵn.

“Quỷ tha ma bắt,” nó buột miệng.

“Ưu tiên mấy tờ lớn,” Snake biểu.

“Tờ lớn nào?” Eddie nói. “Tờ này? Hay tờ này?”

“Mày sủa cái đéo gì thế?” Snake cau mày.

“Tao nói là, trong này có nhõn hai tờ, y bon à.”

“Phải còn nữa chớ,” Snake nói.

“Ờ, đúng, còn nữa,” Eddie làu bàu, “Để coi, gom hết đống lẻ này chắc được, ờ, một đô năm mươi.”

Snake mím môi suy nghĩ.

“Muốn tao gom hết vô bị không?” Eddie hỏi, giơ cái bị đựng hàng lên.

Snake chĩa súng vào Leo, gằn giọng hỏi, “Tiền đâu?”

Leo nhún vai. “Bán ế quá anh.” Hắn đọc thành “vá.”

“Mày cất tiền ở đâu đó,” Snake trừng mắt. “Muốn bị bắn không?”

“Không,” Leo đáp.

“Đem hết tiền ra đây cho tao,” Snake nói, “không tao bắn bể bụng mày liền.”

Trên màn hình TV, lão tóc-bóng-lộn vừa giật mạnh cái áo ống của một trong mấy bà để ria mép, cặp hàng chà bá lửa nảy ra, dội tưng tưng. Hai đầu ti đã được làm mờ bằng kỹ xảo, thể theo các qui chuẩn về thuần phong mỹ tục trên sóng truyền hình.

Từ sàn nhà, John lên tiếng, “Tôi có tiền.”

Snake lừ mắt sang hắn. “Đâu?” Nó hỏi.

“Cái bóp,” John điềm tĩnh nói. “Trong túi quần tôi. Biếu anh uống nước.”

Snake chĩa súng thẳng vào đầu John, nói, “Liệu hồn, móc gì bậy bạ ra là chết với tao.”

John thong thả cho bàn tay phải vào túi quần, lôi ra một bóp vải loại rẻ tiền, rồi lia nó qua sàn nhà cho Snake. Snake nhặt nó lên với bàn tay không cầm súng rồi dùng ngón cái kiểm kê số tiền bên trong. Mà kiểm gì mấy đâu, bởi trong bóp chỉ có một tờ mười đô, một tờ năm đô và ba tờ một đô.

“Mười tám đô la?” nó chưng hửng. “Quán kiểu gì vậy?”

“Bán ế lắm,” Leo nói.

“Mặt bằng xấu quá,” John lý giải.

“Cần lấy bị đựng mười tám đô không?” Eddie hỏi.

“Khép cái mỏ mày lại,” Snake nộ, “Không tao bắn mày trước.”

Snake cố động não. Nó đoán là có ẩn tình gì đây ... bốn thằng khi không chụm rụm trước cửa ... nhất định có chuyện gì nó chưa tỏ tường. Nó quan sát từng thằng một kĩ hơn . Ánh mắt nó dừng lại ở Arthur. Cha, thằng này nai nịt bảnh tỏn gớm, còn se sua đeo đồng hồ vàng nữa chớ.

“Mày,” Snake nói, ra hiệu cho Arthur bằng khẩu súng. “Đưa tao cái đồng hồ.”

Arthur quày quả tháo đồng hồ, liệng cho thằng Snake, nó bắt lấy rồi giơ lên trước cái quần tất để nhìn gần hơn. Coi bộ vàng thật. Snake thấy phấn khởi trở lại.

“Giờ đưa bóp mày đây.”

Arthur lẳng lặng rút bóp từ túi quần rồi liệng qua cho Snake. Snake lấy ngón cái bạch ra và thấy một xấp toàn tiền hai mươi đô. Đút cái bóp vào túi quần, nó nhìn chằm chằm Arthur. Snake đang xâu chuỗi những dữ kiện lại với nhau ... một thằng ăn diện láng cóng, túi rủng rỉnh bạc, đương không ló mặt ở một cái quán như cứt ... Thôi đúng rồi, nó là dân buôn ma túy chắc. Hổng chừng còn là trùm nữa. Nghĩa là ...

“Có gì ở trỏng?” nó hỏi Arthur, chỉ vào cái va-li.

“Một quả bom,” Arthur nói.

“Ừa, phải rồi,” Snake nói.

“Thật đó ông!” Arthur hổn hển nói, thời trung học lão từng được mệnh danh là thánh chỉ điểm. “Nó là một quả bom! Tụi này là Nga ngố đó, tụi nó bán bom!”

Snake liếc nhìn John. John trợn mắt kinh ngạc trước lời cáo buộc lố lăng.

“Bom,” hắn khịt mũi. “SSììì! Bom đâu ra cha ơi! Là bar mà.”

“Là bar mà,” Leo đồng tình.

Snake nhìn cái va-li. Trên TV, Jerry Springer đang huyên thuyên, rằng trong một mối quan hệ, thì một sự nhịn là chín sự lành.

“Eddie,” Snake nói. “Mở cái va-li ra coi.”

“Con mẹ mày, Snake,” Eddie sửng cồ, “mày tiết lộ tên tao rồi!”

“Ày, thì mày cũng vừa tiết lộ tên tao còn gì, coi như huề,” Snake nói.

“Snake đâu phải tên,” Eddie cãi. “Snake là biệt danh.”

“Trước khi công kích nhau,” Jerry Springer tiếp tục, “chúng ta nên soi mình trước gương và ...”

Snake bắn Jerry Springer, khiến lão vỡ tung thành trăm mảnh. Phát súng làm điếng hồn tất thảy mọi người, kể cả Snake; Arthur khóc hu hu. Đó là lần đầu tiên trong đời Snake thử bắn cái gì đó, và mục tiêu của nó nay chỉ còn là một hộp đen lủng lỗ nghi ngút khói. Nó đắc ý quá, vậy ra đây mới đúng là nghề của chàng.

“Giờ,” Snake bảo Eddie, “mở cái va-li chó đẻ đó ra coi.”

Miệng lầm bầm, Eddie kéo đũng quần tất xếch lên nửa mặt, rồi lững thững vòng qua quầy bar tới chỗ cái va-li cạnh quầy. Loay hoay một chặp nó mới mở được hết các chốt. Bàn tay đặt trên nắp, nó ngước nhìn Snake.

“Lỡ bom thiệt sao mày?” nó hỏi.

“Mở ra,” Snake nói.

Eddie nín thở, từ từ giở nắp va-li lên và nhìn vào trong.

“Cái gì vậy?” Snake hỏi.

“Biết chết liền,” Eddie nói. “Gì đi nữa cũng hỏng phải tiền.”

Snake xán lại và dòm vào trong va-li. Nó cũng không dám phán đó là thứ gì. Nhìn hao hao cái máy xay rác nhà bếp. Song có điều nó biết chắc, đó là một vật quan trọng. Đại khái vậy. Coi, dám đó là một vỏ bọc để chứa ma túy lắm chớ. Mà cũng có khi là ngọc lục bảo; Snake nghe phong long tụi trùm ma túy luôn sở hữu ngọc lục bảo. Mà dẫu có là gì đi nữa, với Snake đây là cả một cơ hội vàng để thoát khỏi quãng đời làm một thằng cô hồn mạt kiếp. Cơ hội để nắm quyền tự quyết, vượt lên chính mình, tiến lên nấc thang mới, trở thành một thằng cô hồn có số má ai ai cũng vì nể! Biết vậy, nhưng nó phải xử trí vụ này sao đây? Nó biết mình cần phải suy tính cho kĩ, lao tâm khổ tứ chứ chả chơi. Đoạn nó quay súng sang Leo, kẻ đang đứng sau quầy bar.

“Rót tao một ly coi,” nó nói.

Leo thư thả rót một ly vodka và đặt lên quầy. Snake đưa ly lên tính nốc cạn, khổ nỗi còn kẹt cái quần tất nên nước nôi không vô miệng bao nhiêu mà chảy xuống áo thì nhiều. Từ sàn nhà, John khụt khịt mũi. Snake quay phắt lại, chĩa súng vào John.

“Bộ mắc cười lắm hả?” nó quắc mắt hỏi.

“Đâu có,” John lắc đầu lia.

“Thôi được rồi,” Snake nói. “Bắt tay vô việc. Mày đi xe tới đúng không?” Nó nhìn Arthur.

Arthur gật đầu.

“Để ngoài kia phải không?”

Arthur gật tiếp.

“Đưa tao chìa khóa xe.”

Arthur thảy chùm chìa khóa cho Snake.

“OK,” Snake nói. “Eddie, giờ mày ...”

“Đừng có leo lẻo tên tao nữa!” Eddie cự nự.

“OK, đằng ấy, đậy nắp va-li lại.” Snake nói, “Tụi mình sẽ đi một chuyến. Mày, đi chung luôn.” Nó phẩy phẩy súng trước mặt Arthur.

“Mấy ông lấy tôi làm gì!” Arthur giãy nảy. “Lấy hai thằng kia kìa! Tụi nó là người Nga! Tụi nó bán tên lửa! Có mười ngàn đô trong cái cặp kia kìa!”

“Rồi, biết rồi, ” Snake gật đầu chiếu lệ, nghĩ bụng tụi trùm ma túy này xảo ngôn gớm.

“Không, không!” Arthur nằn nì. “Tui nói thiệt, có mười ngà - “

“Câm họng, thằng chó,” Snake nạt, “giờ muốn đi hay muốn tao bắn?”

Arthur câm họng.

“OK, Ed ... lộn, đằng ấy,” Snake nói. “Mang cái vai-li theo.”

Eddie nắm quai va-li nhấc lên. Nó chỉ nhúc nhích được một tẹo.

“Nặng dữ thần,” Eddie le lưỡi.

“Bộ chuyện gì cũng phải tới tay tao hả?” Snake ca thán. Nó bước lại nắm quai va-li, hừ hự giở lên, sặc, nặng thấy mồ nội. Snake suy tính một hồi, rồi nhớ chực cái đứa đang mang va-li lúc nó tung cửa xông vô tiệm.

Nó đá nhẹ vào Puggy, kẻ vẫn đang co quắp trên sàn, hi vọng được người đời quên lãng.

“Dậy xách va-li đi mày,” Snake nói.

Puggy lồm cồm bò dậy, máu loang từ mũi sang một bên má của nó. Nó nhấc cái va-li lên bằng một tay rồi đứng đực chờ lệnh.

Snake quay sang Leo. “Mày,” nó nói. “Qua đây ngồi chung với bạn mày đi.”

Leo bước rón rén qua quầy bar. Canh đúng lúc hắn đi ngang qua, Snake dùng báng súng giộng một cú vào sau ót hắn. Snake đinh ninh thằng khốn nạn dính cú này sẽ sụm bà chè luôn, như trên TV khi lấy súng đập đầu ai đó. Điều xảy ra là, khẩu súng phát nổ, bắn một viên đạn lên lút trần. Leo lảo đảo, tay ôm đầu, kêu “ỐI!”

Snake ra chiều hỉ hả, cứ như biến cố vừa rồi là chủ đích của nó, “Bài học cho mày đó, xách chày đánh người riết có ngày! Thôi tới ngồi với bạn mày đi.”

Leo lủi đến ngồi cạnh John trên sàn nhà.

Snake giở giọng đe dọa, “Tụi mày mà gọi cớm sau khi tao đi, viên đạn tiếp theo sẽ đi qua đầu tụi mày đó.”

Ta nói lời đe dọa nghe không có miếng lô-gích nào, song John và Leo cũng chẳng muốn bắt bẻ.

Eddie xích tới và ghé đầu vào Snake để hai thằng có thể kín đáo bàn bạc, quần tất với quần tất. Eddie rù rì, “Ủa mà đi đâu nữa mày?”

“Tới nhà thằng đó,” Snake thì thào, hất hàm chỉ Arthur.

Tới nhà nó làm đéo gì chứ?” Eddie gắt khẽ.

“Nghe tao nè,” Snake nói, “thằng này là trùm ma túy, mình nắm dái nó rồi, trong va-li là thứ gì đó rất xịn sò, cái đó lát nữa tìm hiểu, tao cuộc là nó còn nhiều của nả hơn ở nhà.” Snake rành sáu câu, từ Chuyên Án Miami, bọn trùm ma túy toàn ở mấy biệt thự sang chảnh, với những chỗ cất giấu bí mất các loại ma túy thượng hạng, và tiền mặt các thứ. Và cả những mỹ nhân nữa chớ, những bóng hồng bị mê hoặc bởi các đại ca xã hội đen, ngoài vòng pháp luật, chơi với dao đùa với súng.

“Snake,” Eddie nói, “mình có bóp của thằng đó, mình có mười tám đô của thằng kia. Thôi dông là đẹp rồi đó.”

“Không đời nào,” Snake gạt phắt, “Thời của mình tới rồi. Ngu sao bỏ qua. Từ giờ, mày chớ có bàn lùi. ”

“Ôi trời,” Eddie lắc đầu, khiến hai ống quần phe phẩy theo.

Snake xoay tay nắm và đẩy cửa ra. Nó xỉa súng vào Puggy và Arthur.

“Đi,” nó ra lệnh.

Arthur vẫn ngoan cố, “Nghe nè, ông không cần tôi đâu, hai thằng kia mới đáng tiền, tụi nó là người Nga, tụi nó có mười ngờn ...”

Arthur nảy lui lại khi thấy thằng Snake sấn tới trước mặt, giơ súng lên hăm.

“Tao đã bảo câm mồm, thằng chó đẻ,” Snake gầm gừ. Phải thiệt cứng với mấy thằng sếp sòng này; có vậy nó mới biết tôn trọng mình. “Đi mau.”

Cả bọn lục tục kéo nhau rút khỏi tiệm Jolly Jackal - Arthur đi đầu, tập tễnh bởi ngón chân cái bị va-li bom rớt trúng; kế tiếp là Puggy xách va-li; rồi đến Snake tay lăm lăm súng; chót hàng là Eddie, với hai cái tai thỏ đong đưa nhìn phát rầu.

Khi cánh cửa khép lại và đám giặc đã sạch bóng, quán bar Jolly Jackal lặng phắc như tờ. Sau cùng thì John, ngồi trên sàn nhà cạnh chiếc cặp đựng mười nghìn đô tiền mặt, chép miệng nói với Leo, “Kakimi chertyami oni viigrali holodnuyu voinu?”

Dịch thô là: “Thế quái nào mà tụi này lại thắng Chiến Tranh Lạnh vậy?”




Eliot đang ngồi trên sô pha, xem bản phát lại của Buffy Người Diệt Ma Cà Rồng và xơi Cheez-Its thẳng từ hộp lúc điện thoại reng.

“A lô?” anh nói.

“Chào,” giọng Anna lảnh lót, “Tôi Anna nè. Giờ anh có bận gì không?”

“Thú thực với cô,” Eliot nói, “Tôi đang thực hiện một chiến dịch quảng cáo sáu số cho một khách hàng cực kì quan trọng.”

“Ôi trời, tôi xin lỗi nghen,” Anna nói, “Vậy thôi ...”

“Không hẳn,” Eliot nói. “Tôi đang coi chiếu lại Buffy Người Diệt Ma Cà Rồng và xơi Cheez-Its.”

“À. Tôi đã nghe về đời sống độc thân phong phú của anh.”

“Chưa hết đâu. Sau Buffy, tôi sẽ đăng nhập vào America Online, coi có nhận được email từ người lạ nào muốn hướng dẫn tôi cách trở nên giàu có, hay gửi ảnh khỏa thân của họ cho tôi không.”

“À, vậy tôi sẽ không phiền anh ...”

“Không! Cứ phiền! Cứ phiền!”

“À, tôi muốn nói, một, cảm ơn anh vì bữa trưa.”

“Ầy, lúc nào cũng được mà. Mà lúc này luôn càng tốt! Cô có muốn ăn trưa tiếp ngay bây giờ luôn hông?”

Anna phì cười. “Muốn lắm chứ sao không, nhưng lúc này đây tôi đang cố làm một người mẹ tốt, tôi gọi cho anh cũng vì thế nữa. Tôi đang tìm bé Jenny. Nó với con anh hai đứa hẹn nhau ở CocoWalk vì cái trò Killer trời đất ấy, và nó đã hứa sẽ gọi tôi biết khi nào đến đón, mà tới giờ này vẫn chưa thấy gì. Thế Matt có gọi cho anh không?”

“Gọi mới lạ. Khi nào cần xe nó mới gọi tôi thôi. Chiều nay nó đã gọi rồi, để đi thủ tiêu Jenny. Mà giờ này” - Eliot liếc đồng hồ - “đáng lý nó phải về rồi chứ ta.”

“À, vậy cho tôi biết nếu anh liên lạc được với nó nha?”

“Chắc rồi,” Eliot mừng húm, bởi lại có cớ để ba điều bốn chuyện với người ta.

“Tôi ghét phải làm một bà mẹ lo bóng lo gió,” Anna nói, “nhưng quả tình tôi thấy hơi lo, hồi này nhiều chuyện chộn rộn quá. Gì chứ khoản gọi điện bé Jenny chu đáo lắm.”

“Ai dà,” Eliot nói, “thì bổn phận của các bà mẹ là lo bóng gió mà. Nhưng tôi chắc tụi nhỏ không sao đâu. Tụi nó ở CocoWalk chứ gì, thiên hạ đông đen. Dễ gì mà gặp rắc rối.”



“JESUSJESUSJESUSJESUS ...”

Jenny hổn hển cầu khấn giữa lúc Matt sờ soạng trong bóng tối mịt mùng, kéo cô ra khỏi đám cỏ dại, xa khỏi nơi phát ra tiếng súng. Hai đứa lúc này đang đứng trên vỉa hè của một đoạn đường hẹp. Matt dừng lại và nhìn ra sau.

“Ủa thằng Andrew đâu rồi?” nó nói.

“Chả biết nữa,” Jenny nói. “Lạy Chúa, có khi nào ổng bị bắn rồi không?”

“Trời đất,” Matt tái mặt. “Hay mình quay lại đó coi thử.”

“Matt,” Jenny nói, “có một gã ở đó đang bắn loạn! Bằng súng thật! Mình phải gọi cảnh sát thôi.”

Chợt một chiếc ô tô phóng về phía hai đứa. Matt nhảy xổ xuống đường, vẫy tay loạn xạ.

“TỐP!” nó hét với người lái xe. “TỐP DÙM!”

Người lái xe, hành động như đa số bà con Miami khi bắt gặp có kẻ đứng la hét giữa đường: tức khắc ấn còi và nhấn ga. Matt nhảy vọt sang một bên khi chiếc ô tô vọt qua, tiếp vỉa hè bằng cả tứ chi.

“Cám ơn nghen,” nó hét với theo chiếc ô tô đang xa dần.

“Matt không sao chứ?” Jenny hỏi.

“Ừ,” Matt nhổm dậy phủi quần. “Hay thôi cứ lại chỗ xe mình nghen. Mình đỗ nó trên kia, gần quán Đuôi Hổ, rủi trên đường không thấy bót điện thoại nào thì chạy xe đi kiếm cũng dễ.”

“Ừ, miễn thoát khỏi đây là được,” Jenny nói, ngoái nhìn bãi đỗ xe.

Hai đứa nửa chạy nửa đi bộ qua ba chòm nhà đến chỗ con Kia, không thấy bót điện thoại nào trên đường đi. Chừng cả hai đã yên vị trong xe, Matt nói, “Jenny có biết đồn cảnh sát nào gần đây không?”

Jenny ngỏ ý, “Hay đi thẳng về nhà mình luôn được không? Mẹ mình chắc đang nóng ruột lắm, tới đó rồi gọi cảnh sát cũng được mà.” Jenny đang thèm mẹ của cô.

“OK,” Matt nói. “Và gọi cho mẹ thằng Andrew luôn.” Đoạn nó rồ máy.

Anh muốn cái sex pootie của em!

Anh muốn cái sex pootie của em!

“Thiệt tình,” Matt tắt nhạc, rồi lẹ làng cho con Kia lăn bánh, trực chỉ nhà Jenny. Hai bạn nhỏ đang run lập cập, nôn nả sớm giao lại trạng huống hãi hùng này cho mấy bạn to đầu, có trách nhiệm lo.



Trong chiếc xe thuê bên ngoài quán Jolly Jackal, Henry và Leonard đang chờ vụ cướp có vũ trang, vốn chẳng ăn nhậu gì tới chúng, sớm kết thúc để tiếp tục theo đuôi Arthur Herk. Ngồi không cũng buồn, Leonard bèn kể Henry nghe chuyện hài hước về một quý bà được chẩn bệnh bởi một bác sĩ nói giọng Nhật rặt.

“... bác sĩ nói, “Rady, tôi đã thấy vấn đề.” Cái bả hỏi, ‘Nó là gì thế, bác sĩ?’ Bác sĩ nói, “Bệnh của bà rà bệnh Lỡ Làng.”Cái bả hết hồn, “Trời ơi! Bệnh Lỡ Làng! Có nghiêm trọng không bác sĩ?” Bác sĩ nói, “Nghiêm trọng rắm.” Cái bả hỏi, “Mà nó có nghĩa là gì?” Cái bác sĩ nói, “Nghĩa rà, mặt bà Lỡ Làng như cái đít.”

Henry thở dài ngao ngán.

“Hay không?” Leonard vỗ đùi đen đét. “Mặt bà Lỡ Làng như cái đít. Húúú. Thằng nào nghĩ được cũng tài.”

Henry bật lại radio.

... nói đi nói lại, tụi Cá Sấu Mỹ chỉ gáy là giỏi, thua là rúc hết.

Ê, tôi fan Cá Sấu Mỹ đây, OK? Tôi fan Cá Sấu Mỹ, và tôi đang nói chuyện với ông đây, mà ông lấn cấn cái chuyện gì mới được chớ?

Tôi lấn cấn là ông không gọi cho đến khi tôi nói không Cá Sấu Mỹ nào dám gọi. Ấy rồi đùng một cái, cả làng cả họ Cá Sấu Mỹ gọi tới tấp bà trời luôn.

Tôi tính gọi từ trước kia. Thằng này đâu có ngán.

Nhưng ông KHÔNG gọi. Ông đang gọi, công nhận, nhưng trước khi tôi nói không Cá Sấu Mỹ nào dám gọi, thì không Cá Sấu Mỹ nào gọi, kể cả ông.

Thì đúng, nhưng tôi đang gọi mà, chứ gì? Ông đang nghe tôi nói, đúng hông? Tôi là fan Cá Sấu Mỹ, và tôi ...

Henry lại tắt radio.

“Bọn này cần tìm thú vui khác,” hắn nói.

“Chúng nên tích cực quay tay hơn,” Leonard tiếp lời. “Đó là nếu còn có thể.”

“Nghiêm túc đấy,” Henry nói, “Mày nghĩ có đứa nào trong đám vừa rồi biết tên phó tổng thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kì không?”

“Hah,” Leonard ra vẻ khinh thị, dù thực tình hắn cũng có biết phó tổng thống tên gì đâu. Chỉ biết đó là một khứa bận com lê, nhưng là khứa nào thì chịu thua. Một quãng im lìm trong chiếc xe thuê, sau cùng thì Leonard, người không bao giờ chịu nổi sự im lặng, buột miệng: “Mặt mày Lỡ Làng ...”

“Im coi,” Henry xua tay.

Cửa quán Jolly Jackal xịch mở. Arthur xuất đầu lộ diện.

“Ông bạn mình kìa,” Henry nói. “Ngó bộ đi cà nhắc rồi.”

Puggy xuất hiện tiếp theo, lặc lè xách va-li.

“Thằng nào vậy?” Leonard nói.

“Tao tin rằng đó là Tarzan,” Henry nói, ngồi thẳng dậy.

“Ai cơ?” Lenoard nói.

“Thằng hạ cánh xuống tao từ trên cây, ở nhà ông bạn tụi mình,” Henry nói.

làm đéo gì ở đây kia chứ?” Leonard hỏi. “Mà cái cặp đó đựng gì?”

“Sớm biết thôi,” Henry nói.

Snake khập khiễng bước ra với khẩu súng trên tay, theo sau là Eddie.

“Ý tưởng thiên tài, đội quần vớ lên đầu,” Henry tấm tắc. “Sao tụi nó không mặc cái áo nào in chữ Cướp Có Vũ Trang luôn cho khỏe?”

Bốn thằng lững thững tiến đến chỗ chiếc Lexus của Arthur. Snake biểu Puggy để cái va-li vào trong cốp xe. Rồi cả bọn lục tục chui vào chiếc Lexus – Arthur cầm lái, Snake ngồi cạnh lão, dưới băng sau là Puggy và Eddie, Puggy được xếp ngồi ngay sau Arthur để Snake có thể dòm chừng nó. Một phút thảo luận, rồi chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Năm giây sau, Henry rồ máy chiếc xe thuê và bám theo.

“Mày nghĩ tụi nó đi đâu?” Leonard hỏi. “Nhà ông bạn mình?”

“Lỡ Làng,” Henry nói.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
BẢY




Cảnh sát viên Miami Monica Ramirez, cảm nhận được luồng oán khí tỏa ra từ người cộng sự đang bĩu môi của cô, Walter Kramitz, khi họ đang tảo thanh theo hướng tây Đại Lộ Grand. Walter đã bĩu môi suốt bốn lăm phút vừa qua, từ sau khi hai người kết thúc bữa trưa ở tiệm Burger King trên Đại lộ 27th.

Sự thể là, Walter rốt cục đã vung cần câu tình ái. Monica biết ông tướng này đã sẵn sàng rồi, bởi hổm rày hắn khoe chuột với tần suất cao hơn hẳn ngày thường. Walter tự hào sở hữu hai bắp tay to vật vã; bí quyết giữ cơ của hắn là ngày nào cũng cử tạ vài trăm cái. Cảnh phục đã là sơ mi ngắn tay rồi, song lúc nào bận Walter cũng xắn lút tay áo lên để phơi bày cái độ phồng nam tính, thành quả luyện công của hắn. Ở Burger King, hắn cho Monica hít no thính khi đưa cả hai tay cầm cái Burger bò nướng cho vào mồm, in hình nó nặng tới hai chục kí lô.

“Hổng ấy ...” hắn khởi sự, bằng một giọng thản nhiên có tính toán, “tôi đang nghĩ là, tôi với cô, chúng ta nên gặp nhau lúc nào đó?”

“Walter,” cô nói, “mình gặp nhau miết mà. Mình đang gặp nhau nè.”

“Cô hiểu ý tôi mà,” hắn nói.

Dĩ nhiên là cô hiểu. Ý hắn là, mình thử làm tình nghen. Monica đã giác ngộ cách mạng đó là cái ý của tất cả đàn ông khi họ bảo, Chúng ta nên thử gặp nhau. Bài khác của họ là, Ta nên tìm hiểu về nhau nhiều hơn. Cái họ thực tâm muốn tìm hiểu là bạn trông thế nào khi không mặc quần áo, thế thôi. Song họ đâu thể nào cứ thẳng sợi thừng mà nói: Này, mình làm tình nghen.

“Không,” Monica nói, “tôi không hiểu ý anh. Ý anh là gì?”

“Ý tôi là, ta cứ ngồi trong xe hoài cũng chán, tôi nghĩ ... ta nên tìm hiểu về nhau nhiều hơn.”

Monica thở dài. “Walter,” cô nói, “anh muốn làm tình với tôi chứ gì?”

Walter cứng họng ngay giữa lúc đang nhồm nhoàm cái burger, mắt tròn mắt dẹt ngó Monica. Hắn đang mơ chăng? Monica sẽ để hắn đi qua lối tắt đến thiên đàng ư? Bằng cách nào đó hắn đã tìm được lỗ đen vũ trụ mà người đời đã vô vọng tìm kiếm hằng bao thế kỷ? Cái lỗ đen giúp ta nhảy cóc qua hết những chuyện trò lê thê lẩn thẩn mà phi thẳng lên giường! Hắn căng óc suy nghĩ nên phản ứng ra sao trước câu hỏi của Monica.

Sau cùng, hắn trả lời, “Đúng vậy.”

“Ây dà,” Monica nói, “Tôi thì không muốn làm tình với anh.”

Walter sững sờ nhìn cô. Đây là một cú lừa!

“Đừng nghĩ tôi ghét gì anh tội nghiệp,” Monica dịu giọng, “Anh là một cộng sự tốt, một cảnh sát mẫn cán. Nhưng anh đã có vợ rồi.”

“À tưởng gì chuyện đó, tôi và vợ ...

“Walter, tôi không muốn nghe chuyện giữa anh và vợ anh. Tôi không quan tâm anh và vợ anh có thuận thảo hay không. Tôi không quan tâm cô ấy có thấu hiểu lòng anh không. Tôi không quan tâm anh có đang nghiêm túc cân nhắc chuyện ly thân không. Tôi chỉ quan tâm mỗi một chuyện: anh đã có vợ rồi, nên chuyện yêu đương với anh cho tôi xin kiếu.” Monica mừng vì Walter đã có vợ, nó giúp cô đỡ mất công suy nghĩ những cách khác để cự tuyệt hắn, chẳng hạn như việc hắn có chiều sâu trí tuệ ngang với sốt mayonnaise.

“Nói không phải để khoe,” Walter nhọng nhịu, “nhưng nhiều phụ nữ khen tôi đẹp trai lắm đó.” Nữa, tưởng chuyện gì chứ chuyện đó đương nhiên. Một sĩ quan như hắn, vai u thịt bắp, đồng phục bó sát, chuột to, đâu khó gì để kiếm vài bóng sắc để tâm sự sau giờ làm; hoặc nếu có một đồng nghiệp biết lắng nghe và thấu hiểu, trong giờ làm.

“Tôi biết chứ, Walter,” Monica nói. “Anh rất đẹp trai” – dù đầu ông nom như cái đe và ông xức dầu thơm nhiều tới mức đủ làm chim muông giãy chết – “nhưng với việc anh đã có vợ, và chúng ta là cộng sự chuyên nghiệp thì tôi chỉ nghĩ đây là ý tồi, làm vậy mất hay. Nhưng chúng ta vẫn là cộng sự, OK? Chúng ta vẫn có thể là bạn, OK?”

“OK,” Walter đáp khan, dù với hắn đó khác nào một tin tức thảm họa. Walter đã mài đít suốt hai tháng trời trong con xe nhà nước cạnh người đàn bà này, người trong mắt hắn có một thân hình cực nuột, thân hình mà hắn khao khát được chiêm ngưỡng một cách chân phương nhất, không đồng phục. Khả năng đó, viễn ảnh đó tiếp cho hắn động lực, trao cho hắn một mục tiêu, một lý do để ngóng chờ ngày làm việc. Và giờ nó đã tan thành mây khói. Công nhận, hắn vẫn được ngồi chung xe với cô ta suốt hàng giờ liền, ngày này qua ngày khác. Nhưng để chi? Nói chuyện khơi khơi thôi hả? Tìm hiểu con người cô ta? Trời, phí thì giờ quá.

Vậy nên đó không phải một chiếc xe cảnh sát hạnh phúc đang tảo thanh theo hướng tây Đại lộ Grand. Monica lẫn Walter không ai mở miệng từ lúc rời Burger King.

Chính Monica, người cầm lái, trông thấy thằng Andrew ở đằng trước. Nó vừa phi ra khỏi con hẻm bên tiệm chạp phô, tay lăm lăm một khẩu súng lục.

“Một người đàn ông cầm súng, ở phía anh,” Monica nói và nhấn ga. “Gọi tiếp ứng đi.” Vừa lúc chiếc xe vọt lên, Walter chộp ngay cái micrô radio. Phía trước, Andrew đã vọt ra khỏi con hẻm, băng qua vỉa hè vào trong Đại lộ Grand. Nó quẹo sang trái, đối đầu trực diện với chiếc xe cảnh sát. Monica dậm phanh, gài số về mo, mở cửa và tuột xuống đường cái, cô khom người sau cửa xe và rút khẩu súng lục bán tự động Glock 40 ra khỏi bao da. Walter gọi tiếp ứng xong, cũng từ ghế tuột xuống đường. Cả hai sĩ quan nhô đầu lên từ cửa xe và chĩa súng vào Anrew.

“Cảnh sát đây! Monica quát. “Dừng lại và bỏ súng xuống lập tức.”

“FREZZE!” Walter quát.

Andrew dừng lại, mắt hấp háy trước ánh đèn pha của xe tuần tiễu.

“FREZZE!” Walter lặp lại.

“Bỏ súng xuống,” Monica nói.

“Đâu phải súng tui,” Andrew nói. “Của thằng cha ...”

“Bỏ súng xuống,” Monica nói.

Andrew cúi xuống và đặt khẩu súng lên mặt đường. Chừng nó đứng thẳng dậy thì sĩ quan Walter đã lù lù ngay sát nách, kéo quặp hai cánh tay nó ra sau và ấn mặt nó xuống mui xe. Monica thận trọng nhặt khẩu súng lên – loại súng lục ổ quay 38 rẻ tiền; chương trình phim kinh điển đặc biệt đêm thứ Bảy đây mà! Cô cho nó vào trong chiếc xe tuần tiễu, rồi gọi radio thông báo đã khống chế được đối tượng.

Walter tháo cặp còng số tám giắt ở thắt lưng ra. Hắn giở hai cánh tay thằng Andrew lên cao ngang lưng nó.

“Oái! Andrew hức lên. “Làm ơn nghe dùm! Tui hỏng phải ...”

“Câm mồm, thằng yêu,” Walter giở tay Andrew lên cao hơn.

“Úi!” Andrew lại ré lên. “Làm ơn, tui hỏng phải ...”

“TAO ĐÃ BẢO CÂM MỒM,” Walter nạt.

Andrew câm mồm. Nó đang bận quần dài kaki và áo polo đan len. Mũi nó xịt máu, và nhìn là thấy ngay cu cậu đang sợ mất mật. Monica thấy mức độ nguy hiểm của nó cũng ngang với Chú Ếch Kermit.

“Sĩ quan Kramitz,” cô nói, “Cũng không nhất thiết phải còng tay cậu ấy lúc này đâu, OK?”

Walter liếc Monica. “Phải còng chớ,” hắn cự. Hắn nôn thử cặp còng này chết được. Ở nhà, cứ canh lúc mụ vợ đi vắng là hắn lại lôi nó ra, diễn tập bằng cách còng cái ghế vào cái bàn ăn, duy hắn vẫn chưa có dịp để thử với người.

“Để tôi nói chuyện với cậu ấy một phút thôi, OK? Monica nói.

Walter đã tính cự lại. Hắn thấy bất đồng hẳn với cô trên phương diện nghiệp vụ, khi hi vọng được thấy cô trần truồng giờ đã tiêu tan. Mặt quạu đeo, hắn ậm ừ, “OK.”

Với Walter đứng sát bên, Monica chỉ bảo Andrew những quyền mà nó có và hỏi nó có hiểu hết không. Andrew gật đầu. Monica hỏi tên nó.

“Andrew Ryan,” nó nói.

“OK, Andrew,” Monica nói. “Cậu đang làm gì với khẩu súng vậy?”

“Tôi nhặt nó ở chỗ kia,” Andrew nói, hất đầu về phía con hẻm. “Có một gã bắn vào bọn tôi, cái hắn làm rơi nó, cái tôi nhặt nó lên rồi bỏ chạy.”

Walter khịt mũi, chuyện nhảm vậy có chó nó tin.

“Kẻ nào bắn cậu, Andrew?” Monica hỏi.

“Không biết. Một cha mập quái đản nào đó, cứ la ông ổng ‘Freeze’ rồi nhắm bọn tôi mà bắn.”

“Bọn tôi là những ai?”

“Thằng Matt bạn tôi và nhỏ Jenny.”

Như có một tia lửa điện đánh xẹt trong trí Monica. Andrew, Matt, và Jenny, sao nghe quen quen ta. Cô không nhớ chắc ở đâu, song nhất định có nghe qua mấy cái tên này rồi.

“Mà mấy đứa làm gì ở đó?”

“À Matt định giết Jenny ở đó,” Andrew nói.

“Nó làm gì cơ?”

“Bằng súng nước,” Andrew vội đáp. “Chỉ là trò chơi thôi.”

“Trời đất,” Monica vỗ trán chạch chạch. Andrew, Matt, Jenny, đủ mặt anh hào rồi. “Có phải cậu đang nói về cái trò gì gì ấy, Killer?”

“Đúng đúng!” Andrew gật đầu lia. “Chính nó! Killer!”

Monica thở dài, tự hỏi sao bọn chíp hôi này chẳng chịu hài lòng với những thú vui trong sáng lành mạnh như cô hồi trước - uống bia này, sờ mó nhau này, thiếu gì.

Một xe cảnh sát chi viện đã tới, còi hụ inh ỏi. Monica kéo Walter sang một bên và nói, “Để thằng nhỏ cho các thầy chú kia lo, anh và tôi củ soát phía sau tiệm chạp phô, xem thử có tay súng nào ở đó không.”

Walter lại khịt mũi, “Cô tin lời thằng yêu đó hả?” hắn hỏi.

“Thì ngó qua thôi chứ có mất mát gì đâu, OK?” Monica nói.

“OK,” Walter làu bàu, “rồi cô sẽ chỉ thấy ...”

“CẢNH SÁT! CẢNH SÁT! GIÚP VỚI!”

Tiếng la khàn đặc phát ra từ một dáng hình trùng trục. Còn dáng ai nữa ngoài Jack Pendick, Dũng Sĩ Trừ gian, loạng choạng phới ra từ con hẻm. Vừa nhác thấy xe pháo của người nhà nước là hắn ba chân bốn cẳng chạy tới liền.

“CẢNH SÁT! CẢNH SÁT!” Hắn cứ vừa chạy vừa quang quác như thế, cho đến khi hơi thở nồng nặc mùi rượu rum của hắn phà thẳng vào mặt Monica

“CẢNH SÁT!”

“Chính xác,” Monica nói và đẩy nhẹ ngực hắn, khiến thằng cha suýt ngã ngửa. “Chúng tôi là cảnh sát. Còn ông là?”

“Tụi nó tính bắn con nhỏ!” Pendick nói.

“Tụi nào?” Monica hỏi.

“Tụi gian phi!” Pendick giải thích. “Tụi nó kéo con gái người ta vô hẻm vắng, một thằng cầm súng và ... Ế! Nó là một thằng trong bọn!”

Pendick nheo mắt nhìn Andrew.

“Thằng đó là tòng phạm!” hắn khẳng định.

“Đó là súng nước, đồ ngu,” Andrew phản pháo.

“Bởi vậy mà ông... xin ông cho biết tên?” Monica hỏi.

“Jack Pendick,” hắn đáp.

“Vậy là, ông Pendick,” Monica nói, “ông đã thấy những kẻ cầm súng, sau đó thì sao?”

“Tôi bám theo chúng liền,” Pendick đáp với vẻ hãnh diện. “Nói chớ tôi cũng sắp vào làm bên công lực.”

“Mừng cho ông,” Monica gật gù. “Ông có mang theo súng không?”

“Có một khẩu,” Pendick nói. “Công việc của tôi cần đến nó.”

“Công việc gì vậy ông?” Monica hỏi.

“Kính râm,” Pendick nói.

“Kính râm?” Monica nhíu mày.

“Tôi mới bị cho thôi việc,” Pendick giải thích.

“Hiểu rồi,” Monica day day thái dương. “Rồi súng ông đâu?”

“À tôi làm mất nó ở chỗ kia,” Pendick hất đầu về phía con hẻm, nỗ lực đó khiến hắn suýt té gãy cổ.

Monica lấy khẩu 38 ra khỏi xe, chìa cho hắn xem thử.

“Đây có phải súng của ông?” cô hỏi.

Pendick nheo mắt nhìn.

“Đúng nó rồi!” hắn reo lên. “Cho tôi lấy lại nghen? Cần nó cho công việc của mình.”

“Tạm thời chưa được,” Monica nói. “Vậy là, ông bám theo các đối tượng vào hẻm, sau đó thì sao?”

“Nó định bắn con nhỏ!” Pendick nói. “Thằng gian phi! Nó chĩa súng vào con nhỏ!”

Súng nước,” Andrew chỉnh lại.

“Cái tôi la lên, “ĐỨNG IM!” Pendick nói.

“Sau đó thì sao?” Monica hỏi tới.

“Sau đó ...” Pendick ấm ớ. Lần đầu tiên, sâu trong bộ não tí hi đầm alcohol của mình, hắn nhận thức được đáng ra phải suy nghĩ kỹ trước khi nói gì.

“Sau đó thì sao?” Monica giục.

“Ờ ... Tôi không nhớ,” Pendick giả lả.

“Ông không nhớ ư?” Monica chất vấn.

“Không,” Pendick nói, lắc đầu như điên. “Không không không không.”

Hơn chục du khách, bị mê hoặc bởi ánh đèn nhấp nháy của xe cảnh sát, nô nức đổ xô từ CocoWalk đến để hóng biến. Coi không đâu đủ, phải chụp hình, quay phim. Nào cảnh sát hình sự, nào tội phạm, nào súng ống – Miami danh bất hư truyền đây chứ đâu! Phen này về khỏi lo bị chê kể chuyện thiếu muối.

Xuất hiện một Búp Bê Barbie Sống với đôi chân dài miên man, diện quần soóc ôm cũn cỡn và chiếc áo dây chịu phép hoàn toàn trước bộ ngực núi lửa 94% silicon. Nàng đon đả tiến lại chỗ Walter, ríu rít hỏi: “Thầy cảnh sát ơi, có vụ án gì vậy ạ?”

“À, một vụ nổ súng nhỏ,” Thầy Walter bình thản đáp, in hình một người đã vào sinh ra tử nhiều lắm rồi. “Nhưng chúng tôi đã kiểm soát được tình hình.”

“Đó có phải kẻ nổ súng không thầy?” Búp Bê Barbie Sống thỏ thẻ hỏi, chỉ vào Pendick.

“Cái đó thì chúng tôi đang xác minh, làm rõ.” Walter đáp, đoạn khởi sự rặn cho bắp tay phồng to hết mức có thể, cố không để phát ra tiếng hừ hự. Búp Bê Barbie trao cho chàng cái nhìn chan chứa ngưỡng mộ và biết ơn đối với công việc của người chiến sĩ nhân dân. Nàng ưỡn cặp bong bóng song sinh về phía chàng sĩ quan. Tình yêu lấp đầy không gian.

“Sĩ quan Kramitz,” Monica nói.

“Gì vậy?” Walter tiếc rẻ rời mắt khỏi BBBS.

“Nhờ anh trông chừng khu vực này nghen, tôi vào con hẻm kia coi qua chút.” Monica nói.

“Yên chí đi,” Walter đáp, lại đưa mắt sang cặp bong bóng.

Monica cùng hai sĩ quan khác rà soát con hẻm, và dành mười phút để ngó nghiêng bãi đỗ xe. Họ tìm thấy một ô tô với kính chắn gió rạn nứt, trên đó là một lỗ thủng với kích cỡ một viên đạn; rồi đến một ô tô khác với một thứ trông như lỗ đạn trong tấm bọc cửa. Không thấy bóng người nào.

Vào lúc họ trở ra Đại lộ Grand, đám đông du khách đã lên đến gần trăm mạng. Xuất hiện các tín đồ Hare Krishna đánh trống ì xèo và nhảy tưng tưng để truyền tải những thông điệp tâm linh. BBBS vẫn đang quấn quít bên sĩ quan Walter, người có khuôn mặt đỏ như quả cà chua bởi gồng suốt nãy giờ chưa nghỉ. Thêm vài chiếc xe cảnh sát góp mặt ở hiện trường. Trong số ấy có thám tử cảnh sát Harvey Baker, người đã được Monica tóm lược sự vụ.

“Vậy là,” Baker nói, “như cô nói, lần thứ hai, ba cô cậu này nghịch súng nước, và lần thứ hai, một tay súng thật sự xuất hiện?”

“Nhìn sơ qua là vậy. Ngoại trừ việc tay súng thứ hai này” – cô chỉ Pendick – “biểu hắn bắn xuống đất dám cũng còn trật.”

“Thì cứ cho là vậy đi,” Baker nói, “vẫn trùng hợp quá đáng, cô không nghĩ vậy sao? Một tay súng thật xuất hiện, trong cả hai lần?”

“Thì đây là Miami mà,” Monica nhắc.

“Ừ cũng có lý,” Baker gật gù. “OK, giờ thế này. Tôi sẽ đưa anh này - chỉ Pendick - “và cậu này” - chỉ Andrew - tới sở cảnh sát thành phố làm rõ ngọn ngành sự việc.”

“Cho tôi gọi mẹ mình được không ạ?” Andrew líu ríu.

“Được chứ,” Baker đáp.

“Tôi muốn gọi cho người đó,” Pendick lên tiếng, nhớ mài mại gã luật sư hắn đã thấy trên quảng cáo TV đài địa phương, cái gã đứng bên một kệ sách luật và nhắn nhủ: vấp ngã ở đâu, đòi bồi thường ở đó.

“Người nào?” Baker hỏi.

“Tôi không nhớ,” Pendick nói.

“Dĩ nhiên, anh có thể gọi cho người đó,” Baker nói.

“Tốt,” Pendick nói, “bởi tôi có các quyền của mình chớ bộ.”

“Dĩ nhiên là anh có,” Baker tán thành. Quay sang Andrew ông nói, “Tôi muốn nói chuyện với cả hai người bạn của cậu. Cậu có đoán được họ đang ở đâu không?”

“Tụi nó bỏ chạy lúc hắn bắt đầu bắn,” Andrew nói.

“Đoán được họ đi đâu không?”

Andrew nghĩ ngợi một chặp. “Tôi đoán hai đứa sẽ lên xe của Matt rồi chạy về... hoặc căn hộ của ba nó hoặc nhà nhỏ Jenny.”

“Nhà Jenny,” Monica lên tiếng. “Là cái nơi có kẻ bắn bể TV, đúng không? Và cậu nấp ở sân sau, với Matt?”

“Dạ đúng,” Andrew nói. “Í lộn, dạ không.”

“Người bạn tưởng tượng đây mà,” Monica gật gù, đoạn quay sang Thám Tử Baker cô nói, “Hay để tôi ghé qua nhà Jenny, xem thử mấy cô cậu có ở đó không nghen?”

“Được vậy tốt quá,” Baker nói.

Monica đưa mắt sang Walter, kẻ vẫn đang khóa chặt hai nhãn cầu của mình vào BBBS.

“Sĩ quan Kramitz,” cô gọi, “chúng ta đi được chưa?”

“OK,” Walter đáp rồi quay sang BBBS, “Bọn anh phải đi xử lí vài chuyện. Gặp em lát nữa nghen.” Walter đã điều tra được BBBS đang ngụ tại khách sạn Doubletree, phòng 312, chung phòng với hai con bạn gái nhưng tụi nó không phải vấn đề, bởi nàng và hắn đã hứa hẹn sẽ quẩy xuyên đêm tại một club ở South Beach có tên Cực Khoái.

“Bảo trọng,” BBBS thỏ thẻ, ấp bàn tay nàng lên cánh tay Walter.

“Yên tâm đi,” dứt lời hắn sửa thế gồng để con chuột từ trước chạy ọt ra sau. “Bọn anh là dân chuyên nghiệp mà.” Dứt lời hắn quay phắt lại, sải những bước thật chuyên nghiệp đến bên chiếc xe tuần tiễu. Chừng đến chỗ Monica, hắn bỏ nhỏ, “Để tôi lái nghe?”

Monica tròn mắt, đoạn đưa chìa khóa xe cho hắn rồi leo vào ghế khách. Walter để BBBS chiêm ngưỡng lần cuối những bắp tay của mình xong điệu đà phóng người vào ghế tài, rồ máy, đạp lút ga khiến con xe gầm lên hung hãn. Hắn bật còi báo động và, sau một thao tác khiến các bánh xe ré lên lãng xẹt, cho con xe gầm gừ phi xuống Đại lộ Grand.

Sau một phút, Monica mở miệng, “Walter, tắt cái còi chết tiệt đó đi.”

Sau khi liếc gương chiếu hậu để chắc ăn BBBS đã khuất khỏi tầm nhìn, Walter tắt còi báo động. “Mà này,” hắn hỏi, “chúng ta đang đi đâu vậy?”

“Ngôi nhà trên đường Garbanzo tối hôm nọ, chỗ có thằng nhỏ bắn súng nước, và thằng nào bắn TV ấy.”

“Trời, ưng cái gì mà tới đó nữa?”

“Thì coi thử tụi nhỏ có đó không, Matt và Jenny ấy mà,” Monica nói. “Ông thám tử muốn nói chuyện với tụi nó.”

“Gì, tự nhiên mình thành xe buýt trường học hồi nào vậy?” Walter cau có. “Trời đất ơi.”

Walter chỉ biết kêu trời, bị lôi khơi khơi khỏi một hiện trường tội ác, với sự hiện diện của một mỹ nhân bốc lửa để chạy đi làm mấy chuyện ba lăng nhăng. Walter đâu làm cảnh sát để đi chăn tụi con nít đít xanh nghịch súng nước! Walter muốn hành động kìa.



MATT NHẬP MÃ số Jenny đọc cho, và cánh cổng điện án ngữ trước lối vào nhà – mới được sửa sau khi bị cảnh sát phá – từ từ mở ra. Matt tấp vào lối đi rồi lẹ làng chui ra khỏi xe cùng Jenny, hai đứa thoăn thoắt rảo bước về phía cửa trước của ngôi nhà. Jenny giữ bình tĩnh khá tốt suốt dọc đường, giờ đang run lập cập, ba trật ba vụt xỏ chìa khóa. Sau cùng cánh cửa cũng được mở ra và cô chạy ngay vào tiền sảnh.

“Mẹ ơi!” cô gọi lớn. “Mẹ đâu rồi?”

“Jenny hả con?” Tiếng Anna vọng ra từ phòng khách. “Con không sao chứ, bé cưng?”

“Mẹ!” Jenny vụt chạy đến bên Anna, ôm chầm lấy nàng và òa khóc. “Có thằng bắn tụi con mẹ ơi! Nó bắn, bắn!”

“Ai cơ?” Anna quàng tay quanh người Jenny, líu ríu hỏi. “Ai bắn con vậy, bé cưng? Ở đâu kia?”

Mải nức nở trên vai Anna, Jenny sức mấy còn tâm trí để trả lời. Rồi Matt bước vào phòng khách. “Đã xảy ra chuyện gì?” Anna hỏi nó. “Chuyện gì đã xảy ra?”

“Thì tụi con ở chỗ quán Grove?” Matt ấp úng. “Chơi trò Killer? Và con sắp bắn Jenny? Rồi có thằng bắn tụi con.”

“Bằng súng nước hay sao?” Anna hỏi.

“Dạ không,” Matt nói. “Súng thiệt. Có đạn.”

“Lạy Chúa!” Anna rùng mình. “Mà đứa nào?”

“Tụi con chịu,” Matt gãi đầu. “Nó kiểu, kiểu như ... một thằng điên.”

“Chúa ơi!” Anna bàng hoàng, ôm Jenny chặt hơn.

“Rồi tụi con bỏ chạy, kẹt là giờ không biết thằng Andrew đang ở đâu,” Matt nói. “Hai đứa tính về đây rồi mới gọi cảnh sát.”

“Ừ, đúng rồi,” Anna nói, cố trấn tĩnh. “Gọi cảnh sát đi.”

“Con gọi ba trước được không cô?” Matt hỏi.

“Ừ được,” Anna gật đầu, “gọi cho ba đi, nói ba biết con đang ở đây, rồi gọi cảnh sát sau.”

“Mẹ ơi,” Jenny sụt sịt, “Con sợ quá trời.”

“Mọi chuyện ổn rồi, bé cưng à,” Anna âu yếm vuốt ve mái tóc con gái. “Ổn rồi. Con về nhà rồi. Ở đây con được an toàn.”



NGOÀI ĐƯỜNG PHỐ, trên ghế trước của con Lexus, Snake ngó kĩ bóp của Arthur Herk để đảm bảo địa chỉ trên bằng lái xe - 238 Garbanzo - chính là ngôi nhà mà Herk đã lái đến.

Gật đầu hài lòng, nó bảo, “OK, mở cổng đi.”

Herk bấm mã số và cánh cổng trượt mở. Snake hỏi, “Tụi này sẽ được ai đón tiếp đây đại ca?”

“Làm gì có ai,” Arthur nói. “Chỉ có con vợ tôi, và con gái nó thôi.”

“Hết rồi hả? Toàn đàn bà con gái thôi hả?” Snake gặng hỏi, nó biết tụi trùm thường hay cho thủ hạ túc trực tại nhà.

“Thì có sao tôi nói vậy mà,” Arthur nói.

“Biết điều đừng có mà trở quả,” Snake hằm hè, “vô trỏng rồi là khẩu súng này với cái đầu mày không rời nhau đâu. Thằng nào xớn xác, tao cho óc não mày tung tóe lên tường như mì spaghetti liền.”

“Nghe này,” Arthur khẩn khoản, “bắn tôi đâu có té vàng té bạc gì. Mọi thứ ông muốn đều là của ông, OK? Ông muốn lấy gì cũng được.”

Snake suy nghĩ về chuyện đó.

“Vợ mày,” nó hỏi, “nhìn nó mướt mát không?”

Arthur quay phắt lại, nhìn thẳng vào mắt Snake.

“Mướt lắm,” lão nói. “Mà con gái nó cũng thế.”



Buffy thận trọng di chuyển xuyên qua bóng tối và đường hầm nhớp nhúa, tay lăm lăm cái cọc gỗ, biết rằng nàng phải diệt bằng được cái sinh vật gớm guốc này trước khi nó tiêu diệt nàng. Sinh vật đó đang ở rất gần, nàng cảm nhận được nó.

Eliot cũng cảm nhận được nó. Vào cao trào kịch tính, anh đã phải hoãn lại công chuyện nhai Cheez-It. Mẩu bánh vuông vắn ươn ướt bất động trên đầu lưỡi anh với một cảm giác lờm lợm.

Buffy nhác thấy một khe hở phía trước theo hướng tay mặt của nàng, một cái hang thấp và tối om bên trong bức tường. Nàng dừng lại trước cửa hang, cố nhìn vào bên trong, mắt nàng không thể xuyên thấu bóng tối trập trùng, song nàng biết nó đang ở đây. Và nàng biết mình phải vào trong đó. Rạp mình xuống, cọc gỗ đưa ra phía trước, nàng khởi sự trườn vào bóng tối, bất thình lình ...

RENNGG!

Eliot giật bắn người, khiến viên Cheez-It nẩy xóc ra khỏi mồm, rơi xuống cái quần soóc.

“Thiệt tình,” anh lầm bầm đoạn với lấy chiếc phôn. “A lô?”

“Ba hả, có thằng bắn tụi con, giờ tụi con phải gọi cảnh sát,” Matt xổ một tràng.

“Matt hả?” Eliot nói. “Con có sao không?”

“Không sao, nhưng tụi con phải gọi cảnh sát.”

“Con đang ở đâu?”

“Nhà Jenny. Chiếc Kia đang ở đây.”

“Khoan, có thằng bắn con ư? Bằng súng nước hay sao?”

“Không! Súng thiệt đó!”

“Mà thằng nào?”

“Thằng trời đất nào đâu không biết. Rồi thằng Andrew chạy đâu mất tiêu không biết luôn, thôi nhen, con phải gọi cảnh sát.”

“OK, gọi cảnh sát đi, ba đi taxi tới liền.”

Eliot gác máy, lật đật chụp cái bóp, xỏ vội đôi dép tông rồi phóng như bay ra cửa, không phí chút thì giờ nào để tắt TV.

Con Quái lao ra từ bóng tối và đẩy Buffy ngã nhào xuống mặt đất. Cọc gỗ văng khỏi bàn tay, rơi ra ngoài tầm với của nàng. Con Quái hiện đứng sừng sững ngay bên trên nàng, mồm ngoác rộng, những chiếc nanh của nó xoắn lại trong một cái cười kinh dị cổ quái. Buffy đang lâm nguy!



Matt gác máy, nhìn sang má con Anna và Jenny đang thu lu trên trường kỷ. Anna choàng tay quanh Jenny, cô vẫn đang sụt sùi, nhưng đã bình tĩnh hơn.

“Ba con đang tới,” Matt nói. “Giờ con gọi cảnh sát nghen cô.”

Anna gật đầu. Matt bốc máy lên để phôn 911. Vừa bấm 9 thì bỗng nghe cánh cửa trước bật tung, giộng vào tường đánh rầm một cái. Tiếng động bất tử khiến Jenny hốt hoảng hét lên. Matt gác máy, lom dom bước ra xem ai vừa vào nhà.
 

viet trung

Gà con
Tham gia
12/11/21
Bài viết
15
Gạo
1.466,0
Re: Đại Rắc Rối - Dave Barry - Hoàn
TÁM




Tại Jolly Jackal, Leo đang lúi húi dọn dẹp đống tàn tích của đèn hình TV, trong khi John cân nhắc điện cho người của Penultimate để báo chuyện vừa xảy ra với Arthur Herk. Vừa lúc hắn quyết định thây kệ chúng nó – hơi đâu lo chuyện bao đồng – thì cửa quán lại xịch mở. Hai gã vận com-lê, một cao một thấp, lững thững bước vào. Gã cao xòe ví ra, cho thấy chiếc phù hiệu bên trong.

“FBI,” y dõng dạc. “Tôi là đặc vụ Pat Greer, còn đây là đặc vụ Alan Seitz.”

John đưa mắt nhìn Leo. Cả hai đang có cùng ý nghĩ: với cái điệu mà đêm nay diễn ra, chúng chẳng thà trở lại Grzkjistan, nhậu dung môi từ mấy thùng hóa chất.

John nói với Đặc vụ Greer, “Tôi giúp gì được FBI?”

“Anh có thể cho FBI biết cái va-li ở đâu,” Greer nói, ngừng một nhịp rồi tiếp, “Ivan.”

John nhìn y chằm chặp. “Tôi tên John mà,” hắn nói.

“Ấy đương nhiên,” Greer nói. “Anh là John, một thương nhân nhập cư chăm chỉ, sống và làm việc theo pháp luật, điều hành cái quán bar cùi hủi chẳng có lấy mống khách này.”

“Đúng vậy,” John nói.

“Chứ gì nữa,” Greer cười xòa. “Vậy hẳn anh không phiền nếu bọn tôi nhìn sơ qua căn phòng ở nhà sau đâu nhỉ? Căn phòng với lu bù ổ khóa ấy?”

“Ông có giấy phép không?” John hỏi.

Greer liếc Seitz, rồi khẽ lắc đầu. “Cảm động thiệt,” y nói, “Chuyện một thằng nhập cư khi đặt chân lên đất nước này chẳng có gì ngoài mảnh áo lấm lưng, và có lẽ mấy trăm ngàn đô ít ỏi nó kiếm được nhờ buôn lậu vũ khí quân đội. Ấy thế mà mới ở Mỹ ít lâu thôi, nó đã tài khôn tài khéo tới mức chất vấn tụi mình chuyện giấy phép luôn kìa. Sao hả, thấy ấm lòng không Đặc vụ Seitz?”

“Cháy lòng luôn ấy chứ,” Đặc vụ Seitz nói. “Lòng tôi đang cháy phừng phừng đây.”

Ivan cau mày nhìn Leo. Leo nhún vai, ra bộ cũng chịu thua tụi văn hay chữ tốt này.

Greer lại quay sang John. “Nghe đây, Ivan,” y nghiêm giọng. “Một, bọn tao đã nắm mày rồi. Mày không cẩn trọng chuyện làm ăn với ai, bạ đâu xâu đó. Bọn tao đã nắm mày sát đến mức, nếu bọn tao muốn, thì ngày mày rời khỏi nhà tù liên bang chắc Key West cũng có sông băng luôn rồi, hiểu chửa? Đó là một. Hai, bọn tao cóc cần giấy phép. Bọn tao thi hành dựa trên ... bọn mình thi hành dựa trên cái gì nhỉ, Đặc vụ Seitz?”

“Lệnh Hành Pháp Đặc Biệt 768 gạch ngang 4,” Seitz nói.

“Trúng phóc,” Greer nói, “Lệnh Hành Pháp Đặc Biệt 768 gạch ngang 4. Nói đơn giản là vầy, nếu đó là chuyện liên quan đến an ninh quốc gia, mà vụ này thì liên quan quá đi chứ, bọn tao được quyền củ soát bất cứ nơi nào nếu muốn, khỏi giấy phép. Bọn tao có thể điều động cả một đội lục soát và xịt một con Doberman đớp đít mày nếu muốn, Ivan à.”

John liếc nhanh Leo, rồi quay sang Greer, hắn nói, “Tôi muốn có luật sư.”

“Nghe gì không, Đặc vụ Seitz?” Greer cười khẩy. “Nó muốn có luật sư! Đúng quyền của nó còn gì, hiến pháp của ta đó! Cái mà ta hết lòng sùng kính đó!”

“Muốn tôi cho nó một phát vô trán không?” Đặc vụ Seitz nói, rút khẩu súng lục từ bao da trên vai ra.

“Để thủng thẳng đã,” Greer đáp rồi nhìn sang John, “Bạn tao muốn bắn vô trán mày, điều mà tao dám chắc hắn có thể làm một cách hợp pháp, dưới Lệnh Hành Pháp Đặc Biệt 768 gạch ngang 4. Còn tao, tao cho rằng sẽ tốt hơn cho tất cả các bên liên quan, nếu mày làm siêng lấy chìa khóa ra, rồi dẫn tao đi tham quan căn phòng phía sau, OK?”

John đứng tần ngần một đỗi, sau cùng cho tay vào túi quần.

“Từ từ thôi bạn,” Seitz nói, chưa vội chĩa súng vào John, chỉ khẽ hếch đầu súng.

Rất từ tốn, John lấy ra một xâu chìa khóa.

“Hết xẩy!” Greer nói. “Thế mới là tinh thần của Lệnh Hành Pháp Đặc Biệt 768 gạch ngang 4! Nào, giờ hai đứa mình cùng vào xem có gì ở sau đó. Đặc vụ Seitz sẽ túc trực ngoài này sẵn sàng hỗ trợ Leonid, trường hợp khách vô đông quá, chạy bàn không kịp!”

Greer và John xuôi theo hành lang dẫn xuống căn phòng nhà sau. Seitz bước đến quầy bar, vắt một chân lên ghế đẩu và hất hàm chỉ về phía cái TV vỡ toác.

“Có chuyện gì vậy?” y hỏi Leo.

“Jerry Springer,” Leo nói.

“Biết cũng có ngày mà.” Seitz thở dài.



“MÀY TÍNH SAO?” Leonard nói. “Mình vô bằng ngõ trước luôn chớ?”

Hắn và Henry đã theo đuôi con Lexus của Arthur Herk đến số 238 đường Garbanzo, nhìn nó lăn bánh qua cổng. Chúng tấp xe ở một đoạn lề đường chỉ vừa quá khỏi cánh cổng.

“Không,” Henry nói. “Tao nghĩ nên vòng qua sân sau lần nữa.”

“Với mấy con muỗi mắc dịch đó?” Leonard ca thán. “Chi khổ vậy trời? Cứ đi thẳng vô trong, mần thịt thằng đó, bùm, lên máy bay về Newark. Sướng ích gì mà đi dây vô mấy thằng đội quần xì đó?”

“Tao muốn biết tụi nó đang làm giống gì,”Henry nói. “Có gì trong cái va-li đó. Và để đảm bảo không có động bất tử, kiểu như thằng nào núp trên cây.” Hắn vào số và cho chiếc xe vòng sang bên kia tư gia.

Leonard thở dài. “Làm ơn bắn ai đó lẹ dùm,” hắn càu nhàu, “làng xàng riết là lụt nghề đó mày.”



NGƯỜI ĐẦU TIÊN Matt thấy khi ra đến tiền sảnh là Arthur Herk, lù lù trên ngưỡng cửa. Matt toan mở miệng “chào bác” nhưng á khẩu bởi sắc diện Arthur nom phát khiếp, ngay cả với Arthur.

“Ai vậy Matt?” Tiếng Anna cất ra từ phòng khách.

Matt định trả lời, nhưng lại á khẩu tiếp, bởi nó vừa nhác thấy sau lưng Arthur, một gã thấp lùn vạm vỡ đang khệ nệ xách một cái va-li. Đằng sau gã là ... quỷ thần ơi ...

Ai vậy?” giọng Anna lại vọng ra, róng riết hơn.

Matt thoái lui về góc phòng, với Arthur và Puggy lết thết theo sau. Vừa trông thấy họ, Anna buột miệng thốt lên “Arthur! Ai ...” Chợt nàng nín thở, còn Jenny vọt miệng la hoảng, khi cái dung mạo méo mò trùm quần vớ của thằng Snake hiện ra.

“CÂM HỌNG, không tao bắn bỏ hết,” Snake vừa hăm vừa chĩa súng vào Anna và Jenny. Hai má con nín bặt, kinh hãi nhìn khẩu súng. Snake khoái chí tử. Nó chết mê chết mệt cảm giác cầm một khẩu súng, in hệt một cây đũa phép vậy, cứ vẩy nó vào ai là họ sẽ nghe lời ta răm rắp.

Nó đưa mắt đong hai người phụ nữ trên sô pha, ra đây là bọn mái của tên trùm. Nó nhớ đã gặp qua cái con già hơn, đâu đó ở Grove ... Đúng rồi, chính nó, quày quạy bước qua mình như sợ dặm phải cứt. Đêm nay gió đổi chiều rồi nghe cưng.

Snake xáp lại chỗ Anna và Jenny; những người đang rụt mình lại trên sô pha.

“Duyệt hàng cái coi,” Snake chắt lưỡi. “Chậc. Mấy gái này nhìn ngon mắt quá đi chớ. Mướt thiệt.” Nó hí hửng nhìn sang Arthur. “Ông anh uy tín ghê.”

Anna quắc mắt nhìn Arthur. Lão vội ngó lảng sang chỗ khác.

Snake nói với Anna, “Đêm nay tụi mình sẽ vui vẻ nghen cưng.” Với bàn tay không cầm súng, nó mày mò xuống đũng quần và mân mê hạ bộ.

“Mày mà rờ tới con gái tao,” Anna gắt lên, “Thề có Chúa, tao cắt dái mày liền.”

“Con gái cưng hở?” Snake chép miệng, săm soi Jenny trong lúc bàn tay vẫn chà chà giữa hai bắp đùi. “Gái chưa cắt chỉ đúng không? Bám mẹ lắm chứ gì?” Nó chĩa súng thẳng mặt Anna, và nhìn vào mắt nàng nó biết, bạo mồm bạo miệng vậy thôi chứ nàng đã bị nó thao túng rồi. Chừng nào còn nắm cây đũa phép này, nó hãy còn thao túng tất cả.

“Tao thích rờ cái gì tao rờ,” dứt lời nó đưa bàn tay vừa mân mê hạ bộ về phía Jenny. Jenny khóc thét, co rúm mình như một con thú nhỏ tuyệt vọng.

Matt quát lên, “Bỏ súng xuống, không tôi bắn à!”

Vẫn chĩa súng vào Anna, Snake ngóc đầu qua và thấy một thằng ranh đang chĩa súng vào mình. Hẳn nhiên đó là khẩu súng nước JetBlast Junior, song Snake lại tưởng là hàng thật.

“Đừng có làm bậy, thằng yêu,” nó quắc mắt.

“Tôi nói là làm đó,” Matt gằng giọng.

“Mày bắn tao,” Snake nói, “tao bắn con bồ mày.” Snake hích nòng súng qua Jenny. Đời nào nó chịu buông cây đũa phép của mình.

Trạng huống ấy được giữ nguyên trong năm giây, Matt chĩa súng vào Snake, Snake chĩa súng vào Jenny, không ai biết phải làm gì tiếp theo. Sự bí bách bị phá vỡ bởi một tiếng động như có gì đó đổ ngoài tiền sảnh. Ra là thằng Eddie, mù căm bởi cái quần tất, đã vấp nhào lên giá cắm dù. Tiếng động làm tất cả giật mình, Matt không ngoại lệ, nó vô thức siết cò khẩu JetBlast Junior, xịt một tia nước lên người Snake.

“Hờ ...” Matt thất sắc.

Chỉ với hai bước, Snake đã áp sát Matt, giộng mạnh báng súng vào đầu địch thủ trẻ hơn.

“Unnnhh,” Matt liểng xiệng rồi ngã phịch xuống sàn, hai tay ôm đầu. Snake quì xuống, dí báng súng vào tai Matt.

“Thằng ranh chó đẻ,” nó phồng mang trợn mắt. “Trước khi giết mày, tao sẽ cho mày no mắt với cảnh tao làm với con bồ mày, nghe không? Nghe không hả?” Nó ấn mạnh báng súng vào tai Matt.

“Có,” Matt quằn quại thốt lên. “Oái! Có.”

“Ráng mà nghe đi, thằng yêu,” Snake nói. “Eddie! Vô đây coi!”

“Đệt, Snake,” Eddie càu nhàu từ tiền sảnh, “sao cứ léo nhéo tên tao hoài vậy!”

“Khỏi lo chuyện đó nữa,” Snake nói. “Vô đây và bỏ luôn thứ đó khỏi mặt mày đi.”

“Nhưng tụi nó sẽ thấy mình,” Eddie nói, lịch xịch bước vào phòng khách.

“Không quan trọng nữa,” Snake nói, giật phăng cái quần tất ra khỏi đầu. Nó đang suy nghĩ như một vì vua; nó đã có một kế hoạch.

Eddie tháo quần tất, phủi mấy sợi lông tóc nhờn nhờn dính vào mắt và nhìn thoáng qua cảnh tượng phòng khách. Trên sô pha là hai người phụ nữ, một người trong đó đã bị nó xin đểu vài hôm trước ở Grove, người kia còn trẻ măng, cả hai đều xa tầm với của Eddie hàng năm ánh sáng. Thu lu trong góc nhà là hai thằng chúng đã lôi đầu về từ quán bar, thằng trùm và thằng lùn khỏe như trâu đã lãnh mấy cú đá của Snake. Trên sàn nhà là một thằng nhóc nào đó, tay đang bưng mặt.

Eddie xán lại Snake, thủ thỉ, “Snake, mày làm cái đéo gì vậy?”

“Điều chúng ta làm là,” Snake thì thầm đáp lại, “ta trói tụi chó đẻ này lại,” – nó chỉ Arthur, Puggy và Matt, “sau đó hưởng thụ chút đỉnh” – nó chỉ Anna và Jenny, “rồi tìm hiểu về thứ trong va-li và chỗ thằng trùm cất tiền, rồi dọn dẹp sạch sẽ, rồi sau đó dông đến Bahamas và ngồi chơi xơi nước đến hết đời.”

“Bahamas?” Eddie trố mắt. “Snake, mình có biết đách gì Bahamas đâu.”

“Cái đó tìm hiểu sau,” Snake nói. Nó nghe đồn Bahamas rất bao dung với dân buôn ma túy.

“Mà ‘dọn dẹp sạch sẽ’ là ý gì?” Eddie hỏi.

“Là cái gì không cần nữa thì bỏ,” Snake nói. “Giờ đi kiếm dây thừng đi.”


ĐẶC VỤ GREER nốt gót John, trở ra từ căn phòng nhà sau của quán Jolly Jackal. Y lắc đầu.

“Nó không có ở đó,” y nói với Đặc vụ Seitz. “Tụi này có đủ hỏa lực để chiến tranh trường kì với Bắc Triều Tiên, nhưng không có cái va-li. Ivan nói ông ấy chẳng biết tôi đang nói đến cái va-li nào cả.”

“Thật vậy sao, Ivan?” Seitz hỏi.

John gật đầu.

“Phải mày đang nghĩ ... có thể dùng cái va-li như kiểu, gì ta, một quân bài để mặc cả?” Seitz nói. “Kiểu như, bọn tao thèm muốn nó tới nỗi phải tính chuyện thương thuyết với mày, chẳng hạn mày nói bọn tao biết nó ở đâu, và bọn tao sẽ giơ cao đánh khẽ chứ gì? Bất quá gửi trả tụi mày về Nga thôi? Mày đang nghĩ vậy đúng không?”

John nín thinh. Hắn đang nghĩ vậy thật.

“Hmmm,” Seitz nhíu mày. “Anh nghĩ sao, Đặc vụ Greer?”

“Hmmm,” Greer nhíu mày. “Anh nghĩ sao, Đặc vụ Seitz?”

“Tôi nghĩ là,” Seitz khựng lại một nhịp, rồi nói tiếp, “miễn đi.” Thế rồi, vẫn ngồi im trên ghế quầy bar, y nổ một phát súng vào bàn chân John. Y vốn là một tay thiện xạ.

John lăn lê bò toài trên sàn nhà, rên la thảm thiết. Tay hắn bưng lấy chiếc giày, máu đang phọt như vòi từ cả hai lỗ thủng trên và dưới.

“Ế, sao mít ướt quá vậy Ivan,” Greer nhìn xuống. “Mới bàn chân chớ mấy.”

“Ở Bureau bọn tao gọi đó là ‘phát đường biên,’ Seitz cắt nghĩa. “Nhìn chung, nạn nhân vẫn sống. Họ không có tiên lượng tốt lắm với cái bọn tao gọi là ‘xuyên tâm tiễn.’”

Greer, cúi xuống cái thân thể đang quằn quại trên sàn nhà, nói, “Mày nghĩ sao, Ivan? Muốn trải nghiệm ‘xuyên tâm tiễn’ không?”

John, nghiến răng kèn kẹt và nói, “tôi sẽ nói ai giữ cái va-li đó.”

Greer nhìn Seitz, “Cưng ghê cái Lệnh Hành Pháp Đặc Biệt 768 gạch ngang 4.”



ROGER CÚI NGƯỜI trên sân hiên, mũi nó cách Cóc Thù Địch độ năm tấc. Con cóc đang xễm xệ trên cái tô của Roger, thủng thỉnh đánh chén khẩu phần của chú chó, trong khi Roger gầm gừ uy hiếp tinh thần địch thủ. Tình trạng này đã diễn ra hơn hai giờ đồng hồ, duy Roger chưa thấy chán. Gầm gừ con cóc là hoạt động quan trọng trong ngày của nó.

Roger chợt ngóc đầu lên khi nghe tiếng xoẹt xoẹt như có gì đó chà xát vào bức tường cuối sân vườn. Tiếng động tố cáo có kẻ đột nhập, và với Roger, nó chỉ có duy nhất một ý nghĩa: thức ăn có thể đến! Ngay tức khắc, nó bỏ lại con cóc và phi vù qua bụi rậm, như một viên đạn lông lá háu đói.



EDDIE KHÔNG TÌM thấy sợi dây thừng nào, nên theo khuyến nghị của Snake, nó đi xà quần quanh phòng khách, phòng ăn, phòng gia đình và phòng bếp đặng rứt bằng hết các đoạn dây điện thoại, thứ mà Snake bất quá phải nghĩ đến. Nó na đống dây lùng nhùng vào phòng khách nơi Snake vẫn giữ nguyên hiện trạng: Anna và Jenny bó gối trên sô pha, Puggy và Arthur ngồi xếp re trên sàn nhà, bên cạnh Matt. Mặt Matt đỏ dừ và máu loang từ hai lỗ mũi nó, in hệt lần sau cùng nó viếng thăm gia đình Herk và bị Anna nện nhừ tử.

“OK,” Snake nói, hất hàm về phía ba gã mày râu trên sàn nhà. “Trói chúng lại.”

Eddie bước đến sau lưng Matt.

“Mày muốn tao thắt kiểu gì?” nó hỏi Snake.

“Còn bày đặt kiểu cọ gì nữa?” Snake nói. “Cứ trói con mẹ tụi nó lại.”

“OK,” Eddie nói, “có điều tao hổng phải Hướng Đạo Sinh đâu đó. Tao biết mỗi kiểu nút vuông với kiểu ... à, ghế kép. Mày muốn kiểu nào?”

“KIỂU TRÓI CHÚNG LẠI CHO TAO!” Snake nạt. Nó đã quyết định, một khi gầy dựng xong cơ đồ như một trùm ma túy ở Bahamas, nhất định nó sẽ thâu nạp một thuộc hạ đẳng cấp hơn.



LEONARD, GIỜ MỚI thấm thía hệ quả của suất đúp spaghetti và xúc xích, rên hừ hự khi nhấc thân mình qua khỏi bức tường sân sau nhà Herk. Hắn đáp uỵch xuống đất bên cạnh Henry, kẻ đang nhìn chòng chọc lên cây chi sung.

“Tìm Tarzan hả?” Leonard hỏi. “Nó đang trong nhà mà?”

“Có khi súng tao ở trên ấy cũng nên,” Henry nói. “Có cái gì giống như một tấm phản gỗ, chắc nó nhảy xuống từ đó.”

Leonard ngước lên cây và nói, “Mà nó ở trển làm đéo – OOOM!

Roger vừa trao cho Leonard màn đón tiếp theo đúng nghi thức truyền thống: sục đầu nó vào háng Leonard khiến hắn ngã chổng vó.

Buông tao ra, đồ khốn nạn!” Leonard chí chóe, luống cuống không biết đối phó sao với con Roger. Nó đã phát hiện chút nước sốt marninara còn vương trên cằm Leonard và đang hau háu liếm sạch trước khi kẻ địch tìm thấy. “Henry, kéo nó ra dùm tao!”

Henry túm vòng cổ của Roger và kéo phăng nó khỏi người Leonard. Cố nhiên nhiêu đó đâu ép phê gì với Roger, một chú khuyển lực sĩ với bộ não tương đương một viên chocolate Raisinet. Roger còn thấy vui nữa là đằng khác: Còn một con người nữa ở đây! Hên hên lại có lộc ăn!

Xuống mau coi, mẹ kiếp,” Henry nạt, cố hất con chó ra, thấy bắn cũng tội mà nhây quá đừng trách tao ác. Thình lình Roger ngóc đầu lên. Nó đã phát hiện ra gì đó mà Henry và Leonard không thể nghe thấy từ khoảng cách này: tiếng chuông của máy nội đàm! Roger biết âm thanh này; nó báo hiệu có người đến. Và có người nghĩa là có thể có đồ ăn. Thế rồi, cũng đột ngột như khi đến, Roger lao như chớp về phía ngôi nhà.

Henry nói, “tao lên cây kiểm tra nghen.”

Xãi lai dưới mặt đất, Leonard ca cẩm, “Còn tao sẽ không đời nào rời New Jersey nữa.”



EDDIE, SAU MỘT hồi lày quày mướt mồ hôi với sợi dây điện thoại, cũng cho ra được một nút thắt trên hai cổ tay chụm lại của Matt – nó nghĩ đó là nút vuông, nhưng thực ra đó là nút bà ngoại. Đúng lúc đó máy nội đàm trong tiền sảnh reo vang.

Mọi ánh mắt hướng về phía Snake. Máy nội đàm lại reo, lần này kéo dài hơn.

“OK,” Snake túm cánh tay Anna và kéo nàng dậy một cách thô bạo. “Ra coi đứa nào ngoài đó, kêu nó đi đi. Xổ bóng gió gì ra là tao xổ đạn liền đó.” Nó lò dò theo chân Anna một đoạn vào tiền sảnh, lựa một chỗ đứng để quan sát được cả nàng lẫn phòng khách. Máy nội đàm lại reo. Anna nhấn vào nút đàm thoại.

“Ai đấy ạ?” nàng hỏi.

“Cảnh sát Miami đây,” một giọng đàn ông trả lời.

Đệt,” Snake gắt khẽ.

Giọng ồm ồm trên máy tiếp tục, “Đây là Sĩ quan Kramitz và Sĩ quan Ramirez. Chúng tôi có thể vào nhà được không, thưa bà?”

Anna đưa mắt qua Snake, kẻ đang chĩa súng vào nàng. “Hỏi coi tụi nó muốn gì,” nó thì thào.

“Có chuyện gì ư?”Anna nói.

“Chúng tôi muốn nói chuyện với Jenny Herk,” giọng nói đáp lại.

Snake nhắc tuồng, “Nói nó đi vắng rồi.”

“Con bé chưa về,” Anna nói.

Một khoảng lặng, rồi giọng ồm ồm tiếp tục, “À, vậy chúng tôi có thể vào nhà nói chuyện với bà một phút được không, thưa bà?”

Anna lại nhìn Snake, nó lầm bầm “Chó má,” rồi tiếp “OK, mở cổng, cho tụi nó tới cửa trước.”

“Tôi sẽ ra mở cổng,” Anna nói và bấm mã số.



“NGHE NHƯ CÓ ai đó đang sai khiến bà ấy,” Walter nói lúc cánh cổng trượt ra.

“Ừ, tôi cũng thấy vậy,” Monica nói. “Tôi nghi đó là gã chồng.”

“Thằng cha thiên lôi đó hả?” Walter nói.

“Còn ai nữa,” Monica nói, “chắc Jenny đã kể họ nghe chuyện ở tiệm chạp phô, họ nói con bé không có nhà để tránh lôi thôi.”

“Bọn họ không muốn liên can,” Walter kết luận.

“Chắc vậy,” Monica nói.

“Hừm,” Walter nói, dừng xe trên đường vào ga-ra, “bọn họ phải liên can thôi.”

Hắn chui ra khỏi xe cùng Monica, hai người rảo bước đến cửa trước. Walter gõ cửa và nói, “Cảnh sát đây.”

Cánh cửa hé ra chỉ vừa đủ để thấy khuôn mặt Anna.

“Vâng, sĩ quan,” nàng nói. “Tôi giúp được gì chăng?”

Quai hàm nàng đanh lại; đôi đồng tử như giãn ra hết cỡ. Ạch đụi cỡ Walter cũng thấy được rõ ràng có chuyện gì không ổn. Hắn và Monica đoán thằng chồng đáng ghét đã lệnh cho nàng phải nói gì, và hắn đang canh chừng từng lời nàng nói.

“Bà Herk này,” Monica lên tiếng, “chúng tôi muốn nói chuyện với Jenny về ... một chuyện đã xảy ra ở Grove. Chúng tôi nghĩ cô ấy và cậu bạn Matt là nhân chứng. Con gái bà không gặp phiền phức gì đâu, chúng tôi nói chuyện với cô ấy cho xong thủ tục thôi mà.”

“Tôi nói rồi. Jenny nó chưa có về,” Anna lí nhí.

“Bà Herk,” Monica nói, “Bà có phiền nếu chúng tôi vào nhà, chỉ một phút thôi không?”

“Tôi ... tôi ... Không,” Anna ấp úng. “À có, tôi có phiền. Làm ơn đừng vào.”

“Bà Herk, có chuyện gì rồi đúng không?” Monica hỏi tới.

“Không,” Anna lắc đầu, gương mặt méo xệch vì căng thẳng. “Không.”

Monica và Walter đưa mắt nhìn nhau. Họ đều hiểu, không có giấy phép, họ không thể xông đại vô nhà người ta.

“OK, thôi thế này, bà Herk,” Monica nói. “Tôi sẽ đưa bà một danh thiếp, và khi Jenny về nhà, tôi sẽ rất cảm kích nếu bà gọi cho tôi, OK?”

“Vâng,” Anna nói, cầm tờ danh thiếp với bàn tay run lẩy bẩy. Monica đọc được gì đó trong mắt nàng và, trước khi cho bản thân mình một cơ hội để quay đầu, cô tì vai vào cánh cửa, huých tung nó và dấn bước vào nhà.



“ANH TÀI ƠI, đi nhanh lên chút được không?” Eliot giục gã tài taxi. Gã tài ngước nhìn cái kính hậu trong xe và săm soi gương mặt Eliot một chặp, hành động này tuy vậy không mang đến quá nhiều hiểm họa, bởi hắn chỉ đang chạy có 12km/h. Eliot biết qua kinh nghiệm, rằng trái ngược với những đô thị khác nơi các bác tài luôn là những người chạy máu nhất, ở Miami họ lại di chuyển với vận tốc của gia súc đau bại. Eliot nghi thằng này chắc mới chơi đồ xong.

“Chuyện gì mà vội vậy ông?” gã tài hỏi, vẫn nhìn Eliot qua gương hậu.

“Chuyện khẩn cấp đó cha,” Eliot nói.

“Hờ,” gã tài ừ hử, chẳng buồn tăng tốc. Sự thực hắn còn chạy chậm hơn, bởi còn mải suy nghĩ về chuyện đó.

Sau vài giây, hắn lên tiếng, “Caramba là đường nào nhỉ?”

“Caramba gì cha,” Eliot nói. “Nó là đường Garbanzo. Garbanzo.

Thông tin mới này khiến gã tài càng giảm tốc độ.

“Tôi tưởng ông nói Đường Caramba,” hắn vặn lại.

“Làm gì có!” Eliot nói, bắt đầu mất bình tĩnh, “Garbanzo.”

Gã tài lại nhíu mày đăm chiêu. Hiện họ đang di chuyển với vận tốc còn thua Eliot đi bộ.

“Thú thực với ông,” hắn nói, “ chạy nào giờ tôi chưa từng nghe đến đường Caramba.”

“Này anh,” Eliot cựa mình trên ghế, “anh làm ơn ...”

“Không phải tôi nói không có đường Caramba,” hắn lắc đầu. “Tôi chỉ nói chưa nghe qua cái tên ấy.”

“Làm ơn đi, đưa tôi đến đường Garbanzo nhanh nhất có thể được không?” Eliot khẩn khoản.

“Có chuyện gì vội vậy ông?” gã tài lại thắc mắc.

“CHUYỆN KHẨN CON MẸ NÓ CẤP!” Eliot quát.

“OK, OK, OK,” gã tài đáp lia, đoạn thả hai bàn tay khỏi vô lăng rồi ngửa ra trước người, tỏ ý: ssííí, hỏi tí mà làm thấy ghê. “Ông đâu cần phải nạt nộ chớ.”



CÚ HUÝCH CỬA của Monica khiến Anna nẩy ra sau một bước. Monica cấp kì vượt lên, không chắc mình đang trông đợi điều gì. Bất giác cô khựng người lại.

Phía sau cô hai bước là Walter, sửng sốt trước hành động tự tiện xông vào nhà dân của Monica, lắp bắp “Trời đất, Monica, cô làm cái ...” Đến lượt hắn ngây ra như tượng khi trông thấy cảnh tượng trước mắt Monica: cách Anna vài bước là thằng Snake, đang chĩa súng vào họ từ ngưỡng cửa phòng khách. Walter xác định đó là một khẩu 45.

“Tao giết hai đứa bay,” Snake nồ. “Thử nói trời nói đất gì coi, tao cho phăng teo hai đứa bay liền.”

Monica mấp máy, “Chúng tôi không ...”

“Câm miệng!” Snake nói. “Câm miệng và giơ tay lên. Eddie! Mày ra đây.”

Eddie vòng qua góc phòng, thấy lù lù hai sĩ quan cảnh sát đang đưa tay lên trời.

“Trời đất quỷ thần ơi, Snake,” nó thảng thốt.

“Nín mẹ mày đi,” Snake nói. “Cứ làm như tao nói. Ra đóng cửa lại rồi lấy hết súng của tụi nó đem qua đây.”

Eddie quày quả bước ra khép cửa đoạn tiến lại Monica, rón rén mở bao da nơi thắt lưng cô và rút khẩu Glock 40 ra. Coi vậy mà nặng gớm. Kế đến nó tước súng của Walter. Sẵn hai tay đang đưa lên, Walter gồng một phát và ném cho Eddie một cái nhìn đằng đằng sát khí, mất công vô ích bởi Eddie đâu có nhìn đến hắn.

Eddie xách hai khẩu Glock như đang xách hai con chồn dại, lép bép bước đến bàn giao cho Snake. Snake cho mỗi khẩu vào mỗi túi quần, cảm giác mình như độc cô cầu bại, khi giờ nó đang có tận ba cây đũa phép. Việc bọn cớm xuất hiện quả là ngoài định liệu, nhưng nó đã giải quyết gọn tơn, chứ gì nữa? Nó đã có một kế hoạch mới, và nó có dự cảm tốt lành về kế hoạch đó, vạch ra từng nước cờ mà nó sẽ đi.

Snake ngoắc Anna và hai sĩ quan vào phòng khách. “Tất cả vô đây,” nó ra lệnh.

“Ông đang phạm sai lầm đấy,” Monica nói.

“Chỉ sai lầm nếu mày không chịu khép mỏ lại thôi, con cớm,” Snake nói. “Cớm cái cũng đổ máu như cớm đực thôi.” Nó khoái lối diễn đạt đó. Nghe như giọng điệu trùm ma túy thứ gộc.

Đợi cho phòng khách đông đủ các mặt, Snake lên tiếng, “Con cớm, đi lấy cặp còng của thằng lực sĩ kia rồi còng nó vô ... cái thứ đằng kia.”

Nó chỉ vào một cái kệ audio, dọc hai mét rưỡi ngang hai mét rưỡi, làm bằng những ống thép. Trong các ngăn của nó là một dàn âm li, vài lọ hoa trang trí và một bức ảnh lộng khung của Anna và Jenny.

Monica gỡ cặp còng trên thắt lưng của Walter ra, tròng một đầu vào cổ tay Walter, đầu còn lại vào một ống thép nằm dọc của kệ audio.

“Làm cho chặt vô nghen,” Snake nói.

Monica, nhìn Walter như muốn nói xin lỗi nghen, so chiếc còng khít rịt vào cổ tay hắn.

“Giờ liệng chìa khóa cho tao,” Snake nói.

Monica liệng xâu chìa khóa của Walter cho Snake.

“Giờ, con cớm,” Snake nói, “lấy cặp còng của mày rồi còng thằng chó này” – nó chỉ Arthur – “vô đầu kia của cái kệ đó, làm cho gọn và khít vào.” Snake xác định tên trùm ma túy và tên cớm lực sĩ là những mối nguy lớn nhất trong phòng; còn lại chỉ là mấy thằng cắc ké và đàn bà con gái.

Monica còng tay Arthur vào đầu kia của kệ audio.

“Đưa chìa khóa qua đây,” Snake nói. Nó khoái sai bảo con mụ cớm quá.

Monica quăng chùm chìa khóa qua.

“Giờ,” Snake nói, chĩa súng vào thẳng mặt Monica, “cởi áo ra, cho tao coi vú cái.”

Monica đưa mắt nhìn khẩu súng.

“Rốp rẻng lên,” Snake chắt lưỡi. “Ngó bộ cưng có cặp ức ngon lành đó.”

Monica rời mắt khỏi khẩu súng và trừng trừng nhìn Snake.

“Mẹ kiếp mày,” cô nói.

Thằng Snake ngó cô dưới nòng súng hồi lâu. Sau cùng nó chép miệng, “Thôi để lát nữa.” Đoạn nó biểu Eddie, “Trói thằng yêu này lại” – nó chỉ Matt, “xong rồi trói con cảnh sát với con mẹ này luôn,” – nó chỉ Anna.

“Còn hai đứa kia?” Eddie hất hàm chỉ Puggy và Jenny.

“Tao có kế hoạch cho tụi nó,” Snake liếc Jenny.

Eddie quơ mớ dây điện thoại và lụi hụi bắt tay vào việc. Nó muốn một số gợi ý về cách thắt nút, nhưng lại nghĩ đây không phải lúc thích hợp để hỏi, chuyện thằng Snake giờ đã có đến ba khẩu súng và đã trở nên, như Eddie thấy, hoàn toàn điên loạn. Nó đành lầm lũi mần mò trong khả năng tốt nhất có thể, gói cổ tay các tù nhân vào trong một nùi dây nhợ hầm bà lằng.

Đợi Eddie xong việc, Snake đến nghiệm thu mấy cái cổ tay. Các nút buộc xấu mù, nhưng đủ chắc. Gật đầu hài lòng, nó xán lại Arthur rồi hất hàm hỏi, “Tiền để đâu đại ca?”

“Ủa tiền gì?” Arthur ngơ ngác.

Snake thúc mạnh đầu gối của bên chân lành vào hạ bộ Arthur. Lão rống lên ồng ộc và gục xuống sàn, cánh tay bị còng của lão quàng theo cái kệ audio, thứ tất sẽ đổ nhào nếu không có Walter ở đầu kia ghìm lại.

“Mày để tiền chỗ nào?” Snake hỏi lại, chuẩn bị cho cú lên gối thứ hai.

“Trong túi quần tôi,” Arthur hổn hển, nước mắt nước mũi lã chã. “Nó ở trong túi quần tôi! Đừng có đá nữa!”

Vừa mếu máo, Arthur vừa mò mẫm bàn tay không bị còng xuống túi quần bên phải. Lão lôi ra một xấp dày cộm toàn giấy 20$, tổng cộng 4,500$ - phần còn lại của 5,000$ cướp từ tiền hối lộ của Pennultimate, Inc.. Lão run rẩy trao xấp giấy bạc cho Snake, kẻ cả đời chưa từng thấy chứ huống hồ được cầm nắm một số tiền lớn đến thế. Snake càng bị thuyết phục hơn lúc nào hết, rằng trùm ma túy là lựa chọn nghề nghiệp tối thượng, loại nghề nghiệp mà ở đó một thằng có thể nhơn nhơn đi khắp nơi với cái túi quần căng phồng tiền mặt.

“Còn nữa không?” Snake hỏi, lại co chân lên. Nó không nghĩ là còn, chỉ khoái hù cho thằng trùm khúm rúm coi chơi. Tụi sếp sòng này hả, cứ thẳng dái chúng mà đá, chúng nhũn như con chi chi liền à.

“KHÔNG!” Arthur bù lu bù loa. “Làm ơn cứ lấy tiền, lấy va-li, lấy con nhỏ đi, nhưng hãy để tôi yên.”

Nghe đến câu lấy con nhỏ, Anna lồng lên như mãnh hổ, bất chấp đôi tay bị trói, nhào đến như muốn ăn tươi nuốt sống Arthur.

“Thằng súc sinh!” nàng gào lên, “Sao mày dám?”

Snake sấn tới, rồi với một vẻ khoan thai bộ tịch, giơ chân đạp cho Anna bật ngửa xuống sàn. Matt vùng phắt dậy, xồ tới như muốn che chắn cho nàng, chỉ để lãnh trọn một cước lộng óc của Snake vào khuôn mặt dập dụa bê bết máu của mình. Matt đổ mọp xuống sàn, ầng ậc rên rỉ. Đến phiên Monica rục rịch chồm dậy, song Snake tốp cô lại bằng một cái lườm, đoạn nó chĩa súng vào Walter, kẻ đang phì phò hồng hộc như muốn lao đến cùng cái kệ audio.

“Tới đi, thằng lực sĩ,” Snake nói. “Cố lên.”

Jenny chật vật lết tới và quì xuống bên mẹ cô. Lìa mắt khỏi Walter, Snake quay sang nắm tóc Jenny kéo đi xềnh xệch khiến cô la lên oai oái.

Tay nắm tóc cô gái đang nức nở, nó bảo Anna, “Yên chí đi, mama. Tôi có ăn thịt ăn cá gì cổ đâu mà mẹ lo.”

“Làm ơn,” Anna nghẹn ngào. “Làm ơn buông nó ra. Cứ lấy tôi nè. Ông muốn làm gì tôi cũng được. Xin ông.”

Vụ này làm thằng Snake suy nghĩ.

“Mày sẽ cho tao coi vú chớ?” nó hỏi.

“Gì?” Jenny rùng mình.

Anna nhìn thẳng vào Snake. “Được,” nàng nói.

“Eddie,” Snake nói. “Mở áo của bà đây ra.”

“Trời ơi trời, Snake,” Eddie ú ớ, “tao không ...”

“Làm mau,” Snake nói.

Eddie tiu nghỉu cúi xuống Anna và khởi sự mò mẫm các cúc áo trên chiếc blouse của nàng. Nó cố để nói với nàng, bằng ánh mắt, rằng nó rất tiếc, duy nàng không nhìn nó; nàng đang nhìn trừng trừng Snake. Eddie đã cởi hết các cúc và mở chiếc blouse ra, phơi bày một cóc xê trắng viền đăng ten.

“Giở nó lên,” Snake liếm môi.

Nín thở, Eddie nhấc cái cóc xê lên. Đôi gò bồng đào đầy đặn, mềm mại của Anna lộ ra.

“Lạy Chúa,” Jenny thều thào dưới chân Snake. Cô nhắm mắt, nguyện cầu cho khoảnh khắc này qua đi. “Lạy Chúa.”

“Im mồm,” Snake vừa nói vừa giật tóc cô, nhưng vẫn không rời mắt khỏi bộ ngực Annna. Nó đang cương. Đoạn nó bảo Anna, “Cho tao bú cái được không?”

“Ôi trời,” Monica thốt lên. “Thằng biến thái mất dạy bệnh hoạn, mày ...”

“Được,” Anna cắt lời, vẫn nhìn thẳng vào Snake. “Được. Thả con bé ra, rồi mày cứ bú mặc sức.”

Snake làm bộ đắn đo, ôi chao, lời đề nghị từ người đàn bà ngực trần tuyệt vọng trước mặt nó. Có cái tuyệt nào bằng cái tuyệt này.

“Mà thôi,” nó nói, giật tóc Jenny thêm lần nữa, kéo xích khuôn mặt giàn giụa nước mắt về phía hạ bộ của nó. “Tao nghĩ vú của nhỏ này chắc ngon hơn.”

“KHÔNG!” Anna gầm lên, nhìn Snake với ánh mắt tóe lửa như muốn thiêu sống nó. Nàng ra sức để trấn tĩnh. “Mày mà làm hại con bé,” nàng nói, “Thề có Chúa tao sẽ xé xác mày!”

“Chắc rồi,” Snake cười khẩy. “Mày có thể bem tao với cặp vú bự đó.” Nó lè lưỡi liếm liếm vào không khí, đoạn kéo Jenny đứng dậy và quay sang Walter.

“Cậu bé lực sĩ,” hắn nói, “ai giữ chìa khóa xe cảnh sát?”

Walter, phát điên bởi nỗi uất hận không thể tự tay mình bóp nát thằng tiểu nhân bỉ ổi này, nghiến chặt quai hàm và mắt long sòng sọc nhìn Snake, cố để giết hắn bằng cơn giận của mình.

Snake chĩa súng thẳng mặt Walter và nói, chậm rãi, “Nói tao biết đứa nào giữ chìa khóa.”

Walter thở phì phò qua đằng mũi. Sau cùng, hắn trè trẹ qua kẽ răng, “Nó ở trong xe, đồ cặn bã.”

Nghe tiếng “đồ cặn bã” là thằng Snake bóp cò liền. Nó định bắn Walter – nó đã nhắm vào đầu hắn – duy lúc bóp cò, nó đã để khẩu súng bị giật, và viên đạn đâm xuyên qua tường cách đầu Walter chỉ vài phân. Snake ngạc nhiên: nó đã đinh ninh mình là một tay thiện xạ bẩm sinh, sau cái lần hô biến Jerry Springer trong một nốt nhạc. Duy nó sớm hí hửng trở lại khi nhìn thằng to xác kia co ro rúm ró, sợ té đái rõ! Snake định bụng sẽ làm như đó là phát súng cảnh cáo.

“Phát tiếp theo là ngay thẳng cái mặt mẹt của mày đó, đồ cặn bã,” nó nói. Đoạn nó hướng súng vào Puggy, người từ nãy đến giờ vẫn ngồi xổm trên sàn nhà, như thường lệ, hi vọng được người đời lãng quên.

“Xách va-li lên,” nó nói.

Thở dài, Puggy đứng dậy nhấc va-li.

Snake chộp cánh tay Jenny, rồi biểu Eddie, “Lượn thôi. Ta phải lên máy bay cho kịp.”

Eddie nghĩ bụng, máy bay nào vậy trời? Nhưng nó không có gan hỏi. Quả tình nó không muốn đi chung với cái thằng Snake mới, thằng điên này chút nào. Song ý tưởng ở lại đây cùng bọn cớm cũng chẳng mấy hấp dẫn Eddie. Nó đành miễn cưỡng theo chân Snake, kẻ đang kéo tay Jenny và đang lùa Puggy về phía tiền sảnh.

Snake đã định đồ sát hết thảy mọi mạng trong phòng khách, nhưng rồi nó cân nhắc – vô nghề này phải biết nhìn xa trông rộng – về việc để dành ít đạn phòng khi cần dùng đến ở Bahamas, trong bước khởi nghiệp làm trùm ma túy. Hơn nữa, nó có nghe loáng thoáng sẽ lôi thôi to nếu giết cớm. Mà nhìn đường nào bọn tù binh cũng có gì đáng ngại đâu: hai thằng đàn ông đã bị cùm, bọn đàn bà và thằng oắt thì bị trói. Snake có một xấp tiền mặt dày cui và một cái va-li – giờ thì nó hoàn toàn tin chắc – chất đầy ma túy xịn. Nó có ba khẩu súng. Nó có một con bé xinh xẻo, một con thỏ non đang run sợ để tận hưởng sau đây, khi thư thư chút. Nó đang trên đỉnh của thế giới, đúng thế thật. Và cứ nghĩ mà xem: mới sáng hôm đó thôi, nó hãy còn là một thằng bụi đời rẻ rách.

Chừng Snake mở cánh cửa trước ra, Anna cất tiếng gọi sau lưng nó, giọng nàng khô khốc tuyệt vọng. “Làm ơn,” nàng van lơn. “Lạy Chúa, làm ơn đừng bắt nó đi.”

“Yên chí đi, mama,” giọng thằng Snake vọng vào. “Tôi sẽ cho cổ được sung sướng mà.”

Đoạn nó sập cửa lại, và mãi một lúc sau, âm vang độc nhất trong ngôi nhà là tiếng than khóc não lòng của Anna.



“MÀY CÓ NGHE tiếng súng không?” Leonard hỏi.

“Nghe như tiếng một khẩu pistol,” Henry nói. “Trong ngôi nhà đó.”

Bộ đôi sát thủ đang đứng bên cái cây của Puggy. Henry đang nghỉ lấy hơi; hắn vừa dành ra mười phút để trèo lên cái sàn gỗ của Puggy – nơi hắn tìm thấy khẩu súng trường còn nguyên đạn được gói trong một tấm nhựa dẻo – rồi sau đó cẩn trọng trèo xuống.

“Mày có nghĩ ông bạn mình bị thịt rồi không?” Leonard nói. “Băng Quần Tất đã đi trước mình chăng?”

“Có thể,” Henry nói, tiến về phía ngôi nhà. “Hoặc, ai đó đã thịt chúng.”

“Hoặc,” Leonard nói, tất tả chạy theo, “cuối cùng cũng có người chịu bắn con chó.”


SNAKE LÙA PUGGY vào nằm chung với cái va-li trong cốp xe cảnh sát, rồi đóng mạnh nắp thùng. Đoạn nó tống Jenny lên băng sau và chui vào ngồi cạnh cô.

“Mày lái đi,” nó bảo Eddie.

“Tao chưa lái xe cớm bao giờ,” Eddie nói. Đúng hơn, đã mười lăm năm kể từ lần cuối nó cầm lái một chiếc ô tô, đương nhiên là ô tô ăn cắp được, và hành trình của nó khép lại với việc phi chiếc xe xuống một con kênh.

“Xe đéo nào chả vậy,” Snake nói cứng, dù nó cũng thuộc dạng ù ù cạc cạc về xe hơi, bởi vậy nó mới sai thằng Eddie làm tài xế. “Cứ lái đại đi.”

“Tới đâu?” Eddie hỏi.

“Sân bay,” Snake đáp.

“Biết đường không đó?” Eddie hỏi.

“Tao đoán em bé này biết,” Snake đặt tay ra sau gáy Jenny và bấu mạnh. “Đúng không, em bé?”

Jenny hức lên và gật đầu.

Snake lại bấu vào gáy Jenny cái nữa.

“Vậy mới là bé ngoan chớ,” nó cười gằn.



“ÔNG BẢO LÀ đường Garbanzo, đấy nhỉ?” gã tài taxi nói.

“Đúng rồi,” Eliot nói. “Garbanzo. Đường bên phải kế tiếp đó.”

Gã tài hạ vận tốc để tiếp nhận thông tin ấy.

“Đường bên phải, kế tiếp, đây hả?” nó hỏi.

“Đúng rồi, quẹo phải liền đi,” Eliot bấu chặt ghế để không phải hét lên.

Gã tài tốp xe ở ngã tư và chăm chú ngó lên tấm bảng chỉ đường, như thể đang nghiên cứu một chòm tinh tú trên bầu trời đêm. Cuối cùng, hắn thốt lên: “Garbanzo.”

“Mày ăn gì tao cúng,” Eliot lầm bầm rủa đoạn đẩy mạnh cửa xe, vứt một tờ hai mươi đô, tờ nhỏ nhất anh có, lên ghế trước và chui ra ngoài. Anh dập cửa cái rầm và tức tốc chạy về phía nhà Herk.

Gã tài taxi ngó xuống tờ hai mươi, rồi ngó theo dáng hình xấp xãi xa dần của Eliot.

“Gì gấp dữ vậy trời?” hắn tặc lưỡi.



EDDIE VẶN CÁI khóa điện, và con xe cảnh sát V-8 gầm lên hung hãn. Radio lạo xạo một giọng nói đang đọc mấy con số, khiến Eddie càng căng thẳng hơn. Nó ngoái cổ nhìn qua lớp cửa kính sau xe.

“Ở sau có cái cổng,” nó bảo Snake.

“Tao biết ở sau có cái cổng,” Snake nói. “Cứ lụi thẳng vô, tự khắc nó mở à.”

Eddie hồi hộp cài số de rồi dậm chân ga. Máy nổ ầm ầm. Chiếc ô tô rung lên, nhưng không nhúc nhích.

“Ủa, sao nó không chạy ta,” Eddie lúng búng.

Snake chồm lên ghế trước coi thử. “Chưa kéo thắng tay kìa, thằng ngu,” nó chỉ vào một thanh cứng có chữ PHANH bên đầu gối trái Eddie.

Eddie vẫn dậm chân ga, đồng thời kéo thanh cứng đó xuống. Bánh xe rít lên và chiếc ô tô vọt lùi ra sau, xô đổ cánh cổng. Vừa ra tới đường Garbanzo, Eddie cuống cuồng đạp mạnh chân phanh và xoay vô lăng; chiếc xe cảnh sát xoay tít một vòng mù khói trước khi ngừng hẳn, lò xo chống xóc rung lên hai lần.

“Má ơi,” Eddie tái mặt.

Chợt nó thấy một dáng người trên vỉa hè sát cạnh cái cổng đổ. Một cha nội bận quần soóc đang chửi um sùm.

“Dông lẹ!” Snake hối. “Lẹ lên!”

Eddie lật đật cài số tiến và dậm mạnh chân ga. Con xe lao đi theo hình zigzag, suýt lụi vào một chiếc taxi. Rồi như tỉnh khỏi cơn say, nó tìm được sự thăng bằng cần có và xé gió vút đi trong đêm thâu.
 
Bên trên