Nhất bối tử (Một đời) - Cập nhật - Mưa miên man

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 3: CẦM VÂN HẠC NHÀN (2)

Người đầu tiên ta nhìn thấy vào sáng hôm sau lại là tỷ tỷ của ta.

Tỷ ấy thậm chí còn chẳng mang bất kỳ người hầu nào theo, ngồi bên giường ta, cười đon đả mà nói:

- Muội dậy sớm thật đấy, tỷ còn nghĩ mình phải chờ lâu lắm.

Ta chỉ bất ngờ chút ít, nhưng rồi cũng nhanh chóng đáp lại:

- Tỷ đâu cần làm vậy, cứ đánh thức muội dậy rồi muốn dặn dò gì cũng được.

- Thế sao được, tỷ đến đây là để chăm sóc muội mà.

- Sao cơ?

- Phụ thân nói rồi, người hầu trong phủ này chẳng có phép tắc gì cả, lại dám coi thường muội. Bây giờ phụ thân giao cho tỷ chăm sóc muội, ngày ngày đều ở bên cạnh muội, để xem bọn họ còn dám giở trò nữa không.

Ta cười khách sáo:

- Muội đâu dám làm phiền tỷ tỷ như vậy.

Ấy vậy mà mọi nỗ lực từ chối của ta đều bằng thừa, suốt một tuần sau đó, tỷ tỷ dọn hẳn đến Lục Liên viện ở cùng ta. Mỗi bữa còn đích thân nấu thức ăn cho ta, bón thuốc cho ta uống, thiếu điều cung phụng ta còn hơn cả phụ mẫu của tỷ ấy.

Việc này làm ta đặc biệt khó chịu.

Nhưng ai bảo tỷ ấy lại làm bánh phù dung ngon như vậy, mỗi bữa đều chuẩn bị một đĩa bánh đầy ắp cho ta. Ta ghét vị đắng của thuốc, tỷ ấy luôn mang theo kẹo ngọt cho ta ngậm, lần nào cũng dỗ dành ta uống hết thuốc mà đại phu kê đơn. Không dừng ở đó, tỷ ấy còn tặng ta rất nhiều y phục và trang sức mới, ân cần tư vấn cho ta cách làm đẹp, trang điểm thích hợp. Mỗi tối, tỷ ấy kiên nhẫn đợi ta đi ngủ rồi mới về phòng, trước đó còn chu đáo đắp chăn cho ta, đóng cửa sổ, tắt nến giúp ta.

Trương Hạc Nhàn, tỷ đúng là rất giỏi trong việc chăm sóc người khác đấy.

Và cũng giỏi trong việc đâm sau lưng người khác nữa, giống hệt mẫu thân của tỷ.

Ngày đó, nếu không phải được tận mắt chứng kiến, cả đời này ta cũng không thể nào tin được đằng sau khuôn mặt thánh thiện, xét ra cũng giống ta đến vài phần kia, lại là một người độc ác đến như vậy. Mười sáu năm cuộc đời, ta đã từng phải trải qua rất nhiều chuyện bất hạnh, nhưng chưa từng có hồi ức nào làm ta đau đớn bằng hồi ức ấy…

Huynh ấy đã lấy lại được ánh sáng, đã có thể mở mắt mà nhìn thấy mọi thứ xung quanh. Nhưng người đầu tiên huynh ấy nhìn thấy lại không phải là ta.

Huynh ấy đưa tay lên, vuốt nhẹ tóc mai của người trước mặt, giọng nói từ lúc nào đã trở nên nghẹn ngào:

- Muội… muội là Tiểu Bối đấy sao?

- Quân ca ca.

- Tiểu Bối của huynh, đã lớn lên rồi… đã trở nên xinh đẹp thế này rồi sao?

Giây phút nhìn thấy huynh ấy vui mừng ôm chầm lấy người trước mặt vào lòng, tim ta bỗng chốc vỡ ra làm trăm mảnh, nát tan như thể không cách nào hàn gắn được nữa. Từng lời, từng chữ huynh ấy nói với tỷ tỷ, cả đời này ta không bao giờ quên:

- Muội đã từng nói, vào ngày huynh nhìn thấy muội, sẽ cho huynh biết tên của muội. “Cầm vân hạc nhàn”, muội tên là gì?

- Là Hạc Nhàn, tên của muội là Trương Hạc Nhàn. - Tỷ tỷ bẽn lẽn đáp lời.

Trớ trêu thay, chính ta là mới là người từng nói với huynh ấy, tên của ta nằm trong bốn chữ “cầm vân hạc nhàn”(5).

Từ bỏ bản thân vì giang sơn xã tắc mới cao đẹp làm sao!

Bởi vì đó là lý tưởng cả đời của phụ thân ta, cũng chính là ước mơ sau này của huynh ấy. Nên khi còn nhỏ, ta lúc nào cũng tự nhủ trong lòng, tên của ta nhất định phải nằm trong bốn chữ đó. Đến bây giờ ta vẫn còn rất hối hận vì việc làm ngu ngốc ngày ấy. Nhưng hối hận cũng đâu thay đổi được sự thật, đến cuối cùng, ta không phải Hạc Nhàn, cũng chẳng phải Cầm Vân.

Ta là Hy Nhàn.

Ngày đó sư phụ cũng từng hỏi ta trước khi đặt tên cho ta:

- Tỷ tỷ của con tên là Hạc Nhàn, vậy sư phụ đặt cho con cái tên Cầm Vân nhé?

- Không ạ. - Ta dứt khoát đáp.

- Nếu đặt tên quá lạc ý so với người trong nhà, e rằng phụ thân con sẽ không hài lòng đâu.

Chỉ có mình ta biết, phụ thân vốn dĩ cũng chẳng muốn ta mang cái tên Cầm Vân ấy.

Sư phụ trước nay là người không cần hỏi nhiều cũng nhìn ra được tâm ý của người khác, nên nhìn thái độ đó của ta, chỉ khẽ thở dài bảo:

- Chấp niệm của con quá nặng rồi. Thôi thì sư phụ tặng cho con một chữ “hy” (6), mong rằng sau này cuộc đời con sẽ luôn có hy vọng, nhìn thấy ánh sáng cho dù là ở nơi tối tăm. Trương Hy Nhàn, từ nay sẽ là tên của con.

Ngay cả tên gọi vẫn phải dùng tên gần giống tỷ ấy. Phải chăng số phận đã định ta luôn là người đứng sau tỷ ấy? Nhưng từ lúc quay trở về, ta đã quyết tâm, ta sẽ không chịu thua số phận lần nữa.

Sau một tuần, nhờ buổi tối lén bôi thuốc trị thương của sư huynh lên chân, cuối cùng ta cũng có thể đi lại bình thường. Đại phu rất ngạc nhiên trước tốc độ hồi phục của ta, nhưng để nhận thêm bạc từ phụ thân, ông ấy không chất vấn gì ta nữa. Nhốt mình trong phòng lâu như vậy, ta vui vẻ đứng thật lâu nơi hiên nhà, tắm mình trong ánh nắng ban mai vàng rượi như mật ngọt. Ta tự nhủ phải hong khô đầu óc, nếu không ta sẽ những bị kỷ niệm cứ ùa về liên tiếp làm cho mốc meo mất.

Đảo mắt một vòng quanh vườn hoa, ta bất chợt bắt gặp một bóng dáng đang lén lút núp sau gốc cây tử đằng (7) trăm tuổi.

Ta trước nay thích nhất loài hoa đó, lúc nhỏ cũng hay chơi đùa dưới gốc cây ấy. Thế nên nhìn kẻ kia cứ ngang nhiên dùng tay ngắt lá bẻ hoa của cây tử đằng, thứ đã chứng kiến những kỷ niệm đẹp đẽ thời thơ ấu của ta, lòng ta lại khó chịu vô cùng. Khi ta đến gần, thì nhận ra đó chỉ là một đứa bé gái, ước chừng chỉ mới tám, chín tuổi. Trẻ con nghịch ngợm là chuyện thường, ngày còn nhỏ ta cũng chẳng ngoan hiền gì mấy. Vậy là bao nhiêu bực dọc bay biến hết, ta nhẹ nhàng chọc chọc đầu ngón tay vào người đứa bé ấy mà gọi:

- Này, ngươi đang làm gì vậy?

Bé gái ấy giật bắn người, lập tức quay ra đằng sau nhìn ta, giọng quở trách:

- Này, ngươi nhỏ tiếng chút thôi.

Đôi mắt không vui của đứa bé ấy nhìn ta, sao lại quen thuộc đến vậy nhỉ?

Thế nên ta không bàng quan đứng nhìn nữa, lén lút quỳ sụp xuống, cùng nấp vào phía sau gốc cây với nó, tò mò nhìn theo hướng nó đang nhìn. Qua những cành hoa tử đằng đong đưa trong gió, ta thấy lòng mình chợt buốt lạnh.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên, đứng tâm tình bên bờ hồ, họ thật sự đẹp giống hệt một bức tranh thủy mặc. Xa như vậy chẳng biết họ đang nói chuyện gì, nhưng nhìn cái cách tỷ tỷ vui vẻ cho cá dưới hồ ăn, ánh mắt sóng sánh đầy ý cười cứ liếc nhìn huynh ấy, trong lúc huynh ấy ân cần gỡ một cánh hoa vừa bị cơn gió thổi qua, vướng lại trên tóc tỷ ấy xuống, ta bất chợt cảm thấy nếu bây giờ mà phá đám họ, thì ta mới chính là tiểu tam (8) xấu xa nhất trần đời.

Họ đúng là sinh ra để dành cho nhau mà.

Nhưng mà ta không ngờ trên đời này đâu phải chỉ có một mình ta muốn làm tiểu tam. Một âm thanh nhộn nhạo vang lên bên tai, ta quay sang thì thấy đứa bé kia đang giơ một cái ná bắn chim lên, có gài sẵn một viên đá lớn, nhắm thẳng về phía hai người họ.

Ta hoảng hồn chụp tay nó lại mà hỏi:

- Làm gì vậy?

Bé gái ấy đưa tay chỉ về phía tỷ tỷ, giọng sâu xa:

- Thấy chiếc lục lạc đó không, là đồ gia truyền của nhà ta thế mà cô nương kia lại dám bảo là tín vật tình yêu rồi suốt ngày đeo bên người, làm ta vô cùng ngứa mắt. Ta đang muốn bắn đá vào chân cô nương ta, để cô ta ngã xuống nước.

- Sao lại làm vậy, cô ta đắc tội gì với muội sao?

- Ta không thích cô ta, chỉ đơn giản vậy thôi. - Nhóc con đó bướng bỉnh đáp lại.

Suýt chút nữa là ta đã phì cười mà bảo, ta cũng rất ghét cô ta.

Thế nên ta chẳng thèm ngăn cản, để nhóc con đó vô tư giương cái ná lên, chỉ một giây sau, viên đá bay thẳng đến chỗ tỷ tỷ. Vậy mà Mạc Thịnh Quân vẫn rất nhạy bén trong những chuyện “anh hùng cứu mĩ nhân” này, chưa gì đã nhìn thấy viên đá đó mà kéo tỷ tỷ tránh khỏi đường bay của nó.

Viên đá rơi tõm xuống mặt hồ yên ả, làm những gợn sóng nhấp nhô lăn dài.

Tỷ tỷ bình an vô sự, làm ta tiếc ngẩn ngơ một phen.

Đột nhiên, Mạc Thịnh Quân sải bước tiến nhanh lại chỗ ta và nhóc con kia đang nấp. Do quá bất ngờ, ta chỉ biết trơ mắt nhìn huynh ấy thẳng thừng vạch những cành hoa tử đằng dài thượt đang đong đưa trước mặt ra, trong đôi mắt mang đầy vẻ bực dọc lúc nhìn thấy ta. Ta ngơ ngác chưa kịp giải thích rằng không phải do ta làm, huynh ấy đã lên giọng:

- Nha đầu này, muội muốn bị đánh đòn phải không?

Ta có chút ngạc nhiên trước kiểu nói chuyện chẳng hề câu nệ không giống ngày thường này của huynh ấy. Không lẽ huynh ấy nổi giận thật rồi sao? Nhưng ta vẫn bướng bỉnh đáp:

- Huynh dám đánh ta sao, thách huynh đấy.

Huynh ấy đột ngột giơ tay lên, làm ta hoảng hồn một phen. Theo phản xạ, ta nhắm chặt hai mắt lại, cam chịu chờ cái tát đó giáng xuống.

Nhưng chờ mãi chẳng thấy chuyện gì xảy ra cả.

Chỉ nghe thấy một tiếng khóc đinh tai nhức óc bên cạnh, à không, phải miêu tả là tiếng gào thét mới đúng:

- Thả muội ra, huynh trưởng xấu xa này, mau thả muội ra!

Ta ngỡ ngàng mở mắt ra, thấy Mạc Thịnh Quân đang nắm cổ áo nhóc con kia mà xách lên, trong lúc nhóc con đó ra sức đấm đá huynh ấy để thoát ra nhưng vô dụng. Hoá ra là huynh ấy giơ tay lên là để bắt nhóc con đang trốn sau lưng ta. Ta bỗng dưng cười phá lên. Nhóc con kia thấy vậy thì không chống cự với Mạc Thịnh Quân nữa mà quay sang trừng mắt với ta:

- Ngươi cười cái gì?

Ta vẫn cười nắc nẻ, cười đến chảy cả nước mắt, sau đó khó khăn lắm mới đáp lời được:

- Nhìn huynh… nhìn giống hệt như người ta xách heo con đem bán vậy.

Nhóc con ấy lại được dịp gào khóc một phen. Trong một khoảnh khắc, khi thấy Mạc Thịnh Quân cũng bật cười trước câu nói đó, ta bất chợt nhớ về đêm giao thừa ở Hàng Châu, vào lần đầu tiên ta được chứng kiến pháo hoa thắp sáng cả mặt nước rộng lớn của Tây Hồ.

Đối với ta, huynh ấy rực rỡ và đẹp đẽ như pháo hoa.

Nhưng cũng chóng tàn giống hệt pháo hoa.

Một lúc sau, trong cái đình nhỏ bên hồ, ta và nhóc con kia cùng ngồi nhai ngấu nghiến bánh phù dung ngon lành. Tỷ tỷ gảy đàn cho bọn ta nghe, Mạc Thịnh Quân thì ngồi thưởng thức thứ âm thanh hoa lệ ấy, với ánh mắt mang nét cười trong lúc ngắm nhìn tỷ tỷ.

Bọn họ lại một lần nữa vẽ tranh thủy mặc.

Chỉ có ta và nhóc con ấy là phàm phu tục tử mà thôi. Có chút bực dọc, ta mắng nhỏ nhóc con ấy:

- Không biết xấu hổ, muội bảo ghét cô ta, vậy sao còn ăn bánh do cô ta làm.

Nhóc con ấy thản nhiên đáp lại:

- Ai bảo cô ta làm bánh ngon quá làm gì.

Lý lẽ cũng thật giống ta, nên ta không thèm chấp nhất nhóc con ấy nữa. Nhưng rồi, nghĩ đi nghĩ lại, ta vẫn ra vẻ rộng lượng mà nhắc nhở nhóc con ấy:

- Dù sao muội và cô ta cũng sắp trở thành người một nhà rồi, muội đừng nên suốt ngày bày trò phá rối cô ta nữa.

Nhóc con ấy phụng phịu đáp:

- Lại nữa rồi, suốt ngày đem muội gắn với cô ta. Tỷ cũng thế, huynh ấy cũng thế, rốt cuộc các người thấy muội và cô ta giống nhau chỗ nào chứ.

Ta cười gian, thì thào:

- Giống nhau ở chỗ, cả hai người đều rất quan tâm Mạc Thịnh Quân.

Thực ra ta cũng thế, nhưng ta chẳng muốn liên can gì đến cuộc chiến chị dâu - em chồng thường ngày như ở huyện này đâu nha. Nhóc con ấy đơ ra mất một lúc, sau đó mới gật đầu thừa nhận:

- Tỷ tỷ thật thông minh, nói chẳng sai chút nào. Thôi thì, ai bảo huynh trưởng lại thích cô ta như vậy, có lẽ huynh ấy hy vọng muội và cô ta một ngày nào đó sẽ hoà hợp như tỷ muội ruột.

Đừng có mơ đi, ngay cả ta còn không hoà hợp được với tỷ ấy.

- Ngay cả tên cũng đặt giống nhau như vậy, quả thật đáng ghét mà. - Nhóc con ấy đột ngột nói tiếp.

- Muội nói gì cơ?

- Tỷ không biết sao, lúc muội ra đời, huynh trưởng nằng nặc đòi phụ thân để huynh ấy đặt tên. Rốt cuộc lại đặt cho muội cái tên như vậy, thật chẳng ra làm sao cả. Chỉ trách phụ mẫu của muội, sao lại sinh muội sau huynh ấy những mười lăm năm, để huynh ấy muốn làm gì thì làm.

Ta bất giác bật cười, Mạc Thịnh Quân vốn văn võ song toàn, chẳng lẽ đặt tên cho muội muội cũng không thể đem một bụng thi ca học được ra mà đặt sao? Để cho nhóc con này ấm ức tới tận ngày hôm nay.

- Thế muội tên gì vậy? - Ta tò mò hỏi.

- Cầm Vân, muội tên là Mạc Cầm Vân. Quá đáng phải không, “cầm vân hạc nhàn”, nếu không phải khác họ, người ta sẽ tưởng muội và cô ta là tỷ muội ruột đấy.

Giây phút đó, bỗng chốc những hình ảnh trước mắt ta như bị một tầng sương mù bao phủ. Nước mắt ta không thể rơi, nhưng sóng mũi ta tự lúc nào đã cay xè trong lúc nhìn về phía người đó. Huynh ấy đã từng nói, huynh ấy không tin vào duyên phận. Thế nên ta cũng giống huynh ấy, trước nay chỉ tin tưởng vào một thứ, đó là lòng người. Chỉ tiếc rằng, dù ta cố gắng thế nào, tấm lòng của huynh ấy trước sau vẫn không thay đổi. Muội muội duy nhất của huynh ấy, lại mang cái tên là Cầm Vân, do chính huynh ấy đặt cho.

Là cái tên mà ta từng cho rằng sẽ thuộc về ta.

Phụ thân cũng thế, huynh ấy cũng thế, bọn họ chưa bao giờ xem ta giống tỷ tỷ, dù chỉ là một chút. Thế nên "cầm vân hạc nhàn", trước nay ta chưa từng có phần. Giống như tình yêu thương và sự chiều chuộng tỷ tỷ luôn có được từ hai người họ, ta cũng không bao giờ có thể tranh giành.

Mạc Thịnh Quân, ta hiểu huynh ấy còn hơn cả bản thân mình, nên ta biết, người huynh ấy yêu… chính là Trương Hạc Nhàn. Ta đã thua từ giây phút huynh ấy nhìn thấy tỷ tỷ trước tiên sau khi sáng mắt mất rồi. Dù quá khứ có bao nhiêu Tiểu Bối đi chăng nữa, thì thời điểm hiện tại, người trong lòng huynh ấy vẫn chỉ có một mình tỷ tỷ. Còn ta, rốt cuộc cũng chỉ là một đứa ích kỷ, dùng đủ mọi thủ đoạn, để cướp đoạt từ tỷ ấy thôi phải không?

Lần đầu tiên, bánh phù dung ngọt ngào tan chảy trong miệng ta, lại trở nên đắng đến vậy.

***
(hết chương 3)​

Chú thích:

(1) Gia gia: cách gọi ông nội của người Trung Quốc.

(2) Hành lang cửu khúc: loại hành lang quanh co uốn khúc, thường được dùng trong các kiến trúc nhà cổ Trung Quốc.

(hình minh họa)
lWJpSOhm.jpg

(3) Tiết thanh minh: thường diễn ra vào khoảng đầu tháng tư. Vào thời gian này để nhớ tới tổ tiên, các gia đình quý tộc hay tổ chức những buổi ăn chay, cầu nguyện, cùng người thân đi viếng mộ, nên thường chọn cách ăn mặc giản dị để thể hiện thành ý.

(4) Sứ thanh từ: là một loại sứ có độ cứng cao, men đều, toàn bộ đều có màu xanh lục, tạo cảm giác trong suốt.
(hình minh họa)
8xYFck7m.jpg

(5) Cầm vân hạc nhàn: một thành ngữ, ý chỉ một vị quan thanh liêm, dốc lòng dốc sức vì giang sơn xã tắc. Thành ngữ được đặt theo một điển tích, tương truyền Triệu Thanh Hiếu vào thời Tống là một vị quan thanh liêm, được người đời ca tụng, đi đâu cũng mang theo một cây cổ cầm và một con hạc. Mơ ước cả đời của ông là được sống phiêu diêu tự tại, xem mọi việc nhẹ như bóng mây, thanh bần mà nhàn hạ. Nhưng do thời thế loạn lạc mà ông phải hy sinh ước mơ đó để giúp đời, chính vì vậy ông luôn mang hai vật ấy theo bên mình để nhớ về mộng tưởng ngày xưa.

(6) Hy: nghĩa là bình minh.

(7) Hoa tử đằng: Đây là một loài dây leo thân gỗ, rụng lá, lâu năm bản địa của Trung Quốc ở các tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hà Bắc, Hà Nam, Hồ Bắc, Sơn Tây, và Vân Nam. Hoa thường có màu tím, mọc thành dạng chùm rũ xuống giống cây liễu.

(hình minh họa)
hgB57YIm.jpg

(8) Tiểu tam: người thứ ba, phá hoại hạnh phúc của người khác.

>> Chương 4.1
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 4: CẦU THÂN (1)

Bất tri bất giác, mùa thu đã đến.

Không như đa số mọi người, ta thật sự không thích mùa thu, khi thời tiết cứ dở dở ương ương, không nóng cũng không lạnh. Ta chỉ mong những cơn gió tuyết lạnh buốt của mùa đông mau kéo tới, để cho sự giá băng trong lòng ta có thứ bầu bạn mà thôi. Nhưng mùa thu có một ngày lễ ta đặc biệt ưa thích, đó là tiết trung thu, hay còn gọi là lễ đoàn viên.

Đoàn viên, tức là sum họp, tất cả thành viên trong gia đình cùng tập trung lại, đoàn tụ vui vẻ bên nhau. Vì thế suốt một tháng trước trung thu, phủ thừa tướng đặc biệt náo nhiệt. Nhã thị không ngừng đề ra cả đống kế hoạch chuẩn bị thật chu đáo cho buổi tiệc vào đêm trung thu, ngày mà toàn bộ gia tộc họ Trương đều tụ họp ở nhà ta. Phụ thân ta là trưởng nam, trọng trách trong dòng họ không thể coi nhẹ, Nhã thị vì thế cũng ra sức làm con dâu hiền thảo. Trong lúc mọi người bận rộn, ta lại vô cùng thảnh thơi. Ta không có hứng thú giúp Nhã thị, cũng không có hứng thú chuẩn bị váy áo xinh đẹp để ra mắt họ hàng như tỷ tỷ.

Mỗi ngày ta đều đi chùa lễ phật.

Hôm nay cũng không ngoại lệ, chỉ qua giờ Mão (1) là ta đã thức dậy, sửa soạn tươm tất rồi sai người đánh xe của phủ đưa ta đến chùa Vĩnh Thụy ở ngoại ô. Dù trước đó phụ thân đã ngỏ ý, nhưng ta cũng dứt khoát nói mình không cần bất kỳ nha hoàn nào phục vụ.

Ta có tay có chân, đâu cần người ta phải hầu hạ.

Thế nên khoảng thời gian này ta rất tự do, không phải sợ ai nhòm ngó mọi hành động của mình nữa. Dù trong thành có nhiều chùa chiền, nhưng vào thời điểm này sẽ có rất nhiều người dân đi lễ phật, vô cùng xô bồ. Ta chỉ thích sự thanh tịnh nên chọn đến ngôi chùa vắng vẻ ở ngoài ngoại ô này. Hoặc giả, là bởi vì ta đang chờ một người.

Sau lúc cầu nguyện xong, ta cầm ống tre đựng quẻ trên bàn thờ lên mà xóc mấy cái, muốn xin một quẻ bói. Khi ta đem quẻ bói đi giải nghĩa, sư trụ trì nói rằng:

- Sắp tới vận hạn của tiểu thư rất tốt, mọi việc đều như ý muốn.

- Thế còn đường tình duyên?

- Cầu gì được nấy.

Ta cười tủm tỉm một cái rồi lại hỏi:

- Vậy có điềm gì xấu không?

- Bản thân tiểu thư thì không có vấn đề gì, nhưng tiểu thư lại vì người khác, mà hy sinh bản thân mình, đó chính là điềm xấu.

Nghe ra chẳng giống ta một chút nào.

Vừa lúc đó, ta nghe có người gọi ta:

- Hy Nhàn, là cháu đấy sao?

Ta vội vàng đứng lên, quay người xác nhận chủ nhân của tiếng gọi đó xong liền cúi người chào:

- Nhị thẩm (2), thẩm cũng đến đây lễ phật sao?

Nhị thẩm cười tươi rói:

- Trùng hợp thật, không ngờ đến nơi thanh tịnh mà cũng gặp được thừa tướng tiểu thư thế này.

Ta khách sáo đáp:

- Nhị thẩm quá lời, là Hy Nhàn phúc khí tốt, mới gặp được nhị thẩm.

- Thôi, người trong nhà cả mà, cháu khách sáo làm gì. Lát nữa cháu có bận rộn gì không, đến nhà nhị thẩm dùng bữa cơm, nhị thúc của cháu cứ nhắc cháu mãi. Ông ấy bảo rằng có đứa cháu là đệ tử của Họa Vi chân quân là phúc phận của dòng họ chúng ta, thế mà vẫn chưa có cơ hội được dịp thỉnh giáo cháu.

- Cháu nào dám, cháu chỉ bậc hậu bối, được nhị thúc và nhị thẩm coi trọng, thật sự hổ thẹn thay.

Sau khi đợi nhị thẩm bái phật xong, ta cùng bà ấy trở về phủ của nhị thúc. Trong gia tộc họ Trương lúc này, ngoài phụ thân ta ra, thì nhị thúc là người có tiếng nói nhất. Gia gia ta có tổng cộng năm người con trai và bốn người con gái. Thế nên nếu chỉ tính sơ các thúc thúc, cô cô và gia đình của họ, ta cũng có cả đống người thân.

Chỉ tiếc rằng ta chưa từng coi họ là người thân.

Trong gia đình, chỉ có mình phụ thân ta là dấn thân vào chốn quan trường, những người còn lại đều làm nghề buôn bán, sở hữu những thương đoàn nổi tiếng nhất nhì kinh thành này. Thế nên nếu nói không ngoa thì gia tộc của ta vừa có tiền vừa có quyền. Buồn thay phụ thân ta không phải tham quan. Nếu không thì e rằng tài sản của Trương gia còn giàu có hơn cả quốc khố của hoàng đế mất!

Bữa cơm ở nhà nhị thúc lại diễn ra khá đầm ấm. Khác với Nhã thị, nhị thẩm là một người phụ nữ biết chừng mực, tuy rằng thông minh, nhưng chưa bao giờ khiến người khác cảm thấy bà là người đáng sợ cả. Bằng chứng là tất cả thê thiếp trong phủ nhị thúc đều chung sống hoà bình suốt bao nhiêu năm trời.

Dùng cơm xong, nhị thúc bảo ta cùng ra hoa viên trò chuyện. Thúc ấy trước nay cũng không thân thiết với ta, nên ngoài hỏi han về sư phụ ta, cũng không đào sâu vào cuộc sống riêng tư của ta suốt sáu năm ở núi Doãn Duật đó.

Điều này làm ta đặc biệt cảm kích.

Bởi vì có người đã cho ta biết, nếu ta muốn giành lại vị trí của mình trong gia tộc, người duy nhất ta có thể nhờ vả, chỉ có mình nhị thúc. Ngày xưa lúc phụ thân ta muốn cho ta thân phận đại tiểu thư, cũng chính nhờ có thúc ấy ủng hộ mà thành công, dù cho Nhã thị có phản đối thế nào. Ta không cho rằng thúc ấy coi trọng ta hơn tỷ tỷ. Ta chỉ đoán rằng, ta có thứ để thúc ấy có thể lợi dụng mà tỷ tỷ không có. Thương nhân chẳng phải đều như vậy hay sao, trước sau đều chỉ nghĩ về lợi ích của bản thân.

Nhị thẩm từ lúc nào cũng đã ra ngoài hoa viên, cùng tham gia vào cuộc trò chuyện của ta và nhị thúc. Nhị thẩm khéo léo hỏi ta:

- Năm nay cháu bao nhiêu tuổi rồi nhỉ. Theo nhị thẩm nhớ không lầm, thì là mười sáu phải không?

- Dạ phải, năm nay cháu đã mười sáu tuổi.

- Thế thì không còn nhỏ nữa đâu, cũng nên tính chuyện chung thân đại sự đi.

Ta bẽn lẽn đáp:

- Tỷ tỷ còn chưa xuất giá, cháu làm sao dám đi trước chứ ạ.

Nhị thẩm lại nói:

- Quan trọng là cháu có ý trung nhân chưa kìa. Chứ tỷ tỷ của cháu, cũng do phụ thân cháu quá nể mặt bằng hữu của ông ấy, đã mười bảy tuổi rồi mà nhà họ Mạc ấy cũng chẳng đả động gì đến chuyện kết hôn. Ta mà có con gái, không đời nào để cho con mình chịu thiệt thòi như vậy.

- Dù sao tỷ tỷ và Mạc công tử cũng là thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm. Bảo tỷ ấy gả cho người khác, tỷ ấy có chết cũng không chịu. Phụ thân cháu cũng không còn cách nào khác.

Nhị thúc đột ngột lên tiếng:

- Thực ra nếu cháu đã ưng ý công tử nhà nào, cứ nói với thúc một tiếng. Thúc sẽ làm chủ cho cháu, không cần đến phụ thân cháu làm gì. Huynh trưởng bận rộn quốc gia đại sự, có những chuyện sẽ không thể lo chu toàn. Mẫu thân cháu lại mất sớm, bao nhiêu thiệt thòi về phần cháu rồi.

- Cháu nào dám làm phiền nhị thúc. Chỉ là cháu nhớ đến người mẫu thân đã qua đời của mình, ngày đó rời bỏ phụ thân, cũng vì không muốn cháu phải gả cho người ta với thân phận con gái thứ thiếp, rồi lại phải làm thiếp.

Ta nói đến đó, nhị thúc và nhị thẩm khẽ trao đổi ánh mắt với nhau, rồi nhị thẩm cười xoà mà đỡ lời:

- Xem cháu kìa, thế mà không chịu nói sớm, chuyện đơn giản như vậy, nếu không giúp được cháu thì nhị thúc và nhị thẩm cũng phải nên tự hổ thẹn mới đúng. Chỉ có điều…

Ta như hiểu ý, tiếp lời:

- Nhị thẩm không phải không biết, phụ thân cháu chỉ có hai người con gái. Trước sau gì cũng phải gả đi, làm dâu nhà người ta. Hương hoả của nhà họ Trương, chắc cũng chỉ biết nhờ cậy vào đường huynh Trương Kiệt, con trai của nhị thúc mà thôi. Thế nhưng mẫu thân của cháu dù sao cũng đã qua đời, người đã chết rồi thì chẳng sẽ tranh giành được. Gả cháu đi rồi, mọi chuyện xem như đã an bài, nhị thẩm nói có phải không? Chứ ai biết được người sống sẽ còn làm ra được những chuyện gì?

Nhị thẩm nghe thế, ánh mắt lộ nét cười, đon đả nói:

- Nha đầu này, không ngờ lại ăn nói thẳng thừng như thế. Nhị thúc và nhị thẩm trước nay đều yêu thương các cháu, nào dám có lòng riêng. Chỉ là ta cảm thấy tiếc cho cháu, nếu ngày đó không có lời sấm truyền ấy, thì ngày hôm nay cháu vẫn là đại tiểu thư của Trương gia, đâu cần phải đứng sau con gái của Nhã thị kia. Cháu vừa xinh đẹp, lại vừa là đệ tử của Hoạ Vi chân quân, xét về học vấn, thì chẳng thua kém bất kỳ ai. Xét về tính cách, vừa hiểu lòng người, vừa đối với bậc trưởng bối lại lễ độ như vậy. Ai mà không yêu mến chứ?

Ta chỉ biết khiêm tốn đáp:

- Nhị thẩm quá khen.

Đột nhiên nhị thúc quay sang sai bảo người hầu đi lấy vật gì đó. Đợi một lúc, nha hoàn cầm một hộp vàng được chạm khắc tinh xảo mang lên. Thúc ấy mở hộp ra, để ta nhìn thấy rõ một cây trâm bằng ngọc trong đó. So với trang sức bình thường, cây trâm này chẳng có bất kỳ nét chạm khắc nào, tính ra cũng không phải hàng thủ công đặc sắc, chỉ trơn bóng một màu xanh lục của ngọc bích. Nhưng khi ánh mắt ta dừng lại ở ký hiệu hình chim công ở đầu cây trâm, thì nét cười trên đôi môi cong cũng không che giấu được.

Nhị thúc ôn tồn bảo:

- Đây là vật gia truyền của nhà họ Trương, trước nay chỉ dành cho con dâu trưởng của gia tộc. Chỉ là Nhã thị không sinh được con trai, làm phật lòng gia gia cháu, nên thứ này mới thuộc về nhị thẩm. Bây giờ ta thấy cháu đã trưởng thành, mẫu thân cháu vẫn luôn được Trương gia công nhận là chính thê của phụ thân cháu, thì vật này phải thuộc về cháu mới phải.

Ta ra sức từ chối:

- Nhị thúc đừng như vậy, cháu làm sao dám nhận vật quý báu này.

- Cháu đừng ngại, đây là tấm lòng của nhị thúc và nhị thẩm, chỉ mong cháu sau này được gả vào gia đình tốt, không phải chịu bất cứ thiệt thòi nào. Cứ coi như đây là của hồi môn nhị thúc dành sẵn cho cháu.

Sau mấy lượt từ chối, rốt cuộc ta cũng nhận lấy cây trâm ấy rồi mới ra về.

Trên đường về phủ, ta ghé qua phố Bạch Mi. Vào trà quán Thương Ca kia, ta không cần phải gọi món, tiểu nhị cũng biết ý dọn lên đúng những thứ ta thích. Trà quán cũng ngừng hẳn vở tuồng đang hát dở, chuyển thành độc tấu cổ cầm như yêu cầu của ta.

Có thể nói ở đây ta được đối đãi như thượng khách.

Khi chủ quán ra đi ra chào hỏi ta, ta đưa cho ông ta một phong thư rồi hỏi han:

- Sư huynh của ta có ở kinh thành không?

- Dạ bẩm tiểu thư, công tử mấy tháng rồi không về kinh thành.

Ta thoáng buồn vu vơ, đã bao lâu rồi ta không được gặp y.

Phải nói là nhớ y đến chết đi được rồi!

Tuy rằng đi xa, nhưng tuần nào ta cũng nhận được thư của y. Mọi kế sách để đối phó với Nhã thị, giành lại thân phận đại tiểu thư cũng hoàn toàn do y bày cho ta. Ngay cả việc nhị thẩm thường đi lễ chùa Vĩnh Thụy, cũng là do y sai người điều tra rồi báo cho ta biết mà nhân cơ hội tiếp cận với gia đình nhị thúc. Trên đời này, thật lòng quan tâm ta như vậy, cũng chỉ có một mình y. Nếu không phải do còn quá nhiều vướng bận, ta sẽ tình nguyện đem thân này ra báo đáp cho y.

Những ngày sau đó ta một bước cũng không ra khỏi Lục Liên viện. Cho rằng ta đã không còn muốn gây chuyện nữa, Nhã thị và tỷ tỷ cũng nơi lỏng cảnh giác với ta.

Tới tận buổi tiệc đoàn viên vào đêm trung thu, ta cũng chỉ đến bái kiến phụ thân, rồi thỉnh cầu ông cho ta được cắt bánh trung thu cùng người mẫu thân đã khuất của mình. Phụ thân có khuyên bảo vài câu, nhưng thấy ta kiên quyết như vậy cũng không nài ép, để cho ta đến từ đường suốt buổi tối hôm ấy. Chỉ là trong từ đường, khi ta được một mình an tịnh cầu nguyện trước bài vị mẫu thân, thì ở buổi tiệc huyên náo ngoài kia, suýt chút nữa đã xảy ra chiến tranh.

Ngoại trừ phụ thân, tất thảy các cô cô và thúc thúc của ta đều đồng lòng để ta quay về với vị trí đại tiểu thư của Trương gia. Bọn họ từ tranh luận dẫn đến gây gổ, phụ thân ta đứng giữa các em mình và Nhã thị cũng khó xử một phen. Cuối cùng nãi nãi (3) của ta đành phải ra mặt.

Bà cho gọi ta đến bữa tiệc.

Do chỉ chuẩn bị đến từ đường mà bái tế mẫu thân, nên ta trang điểm rất giản dị, trên đầu chỉ cài độc nhất một cây trâm. Thế nhưng khi ta bước vào bữa tiệc, chính vì cây trâm ngọc nổi bật trên nền tóc đen của ta, đã khiến cho khuôn mặt của Nhã thị trở nên tái dần.

Ta mặc kệ những ánh nhìn soi mói hay tò mò nhất loạt hướng về mình, vẫn nhất mực giữ vẻ mặt bình thản, như thể những chuyện lộn xộn này chưa từng liên quan đến ta. Lúc ta đến gần, quỳ xuống hành lễ với nãi nãi, thì bà run run đưa đôi bàn tay nhăn nheo lên mà chạm vào đầu ta. Ngón tay bà khẽ lướt qua trán ta, nơi trước đây từng tồn tại cái bớt oan nghiệt kia. Thấy nơi đó bây giờ chỉ còn lại làn da trắng mịn không tì vết, bà nở một nụ cười. Ánh mắt bà đảo qua cây trâm trên đầu ta xong lại thở dài mà nói:

- Mẫu thân của con, là đứa con dâu hiền thảo nhất của ta. Ngày đó nhà họ Trương chẳng có gì, mà nó cũng tình nguyện đi theo con trai ta. Hổ thẹn thay cho phu quân ta vì cái lợi trước mắt mà ruồng bỏ nó, bắt con trai ta đi theo xu nịnh đám quý tộc. Chỉ tiếc rằng nó không chịu làm thiếp, mới xảy ra cớ sự kia, biến con thành một đứa trẻ mồ côi. Hy Nhàn, là nhà họ Trương này có lỗi với con.

Nói rồi bà gỡ chiếc vòng ngọc phỉ thuý trên tay xuống, đeo vào tay ta, rồi đỡ ta đứng dậy. Bà khẽ đưa tay lên lau một giọt nước mắt chực chờ rơi xuống, sau đó dõng dạc tuyên bố:

- Từ giây phút này, Trương Hy Nhàn là đại tiểu thư của nhà họ Trương. Ta cũng chỉ có một mình An thị, mẫu thân của Hy Nhàn, là con dâu. Chừng nào bà lão này còn sống, thì điều đó mãi mãi cũng không thay đổi.

Nãi nãi đã nói thế, dù Nhã thị có uất ức đến bật khóc nức nở trước mặt tất cả quan khách cũng chẳng thay đổi được gì.

Ta cố gắng không biểu hiện bất kỳ cảm xúc nào, nhưng vẫn không quên cúi đầu cảm ơn nhị thúc. Ngày hôm nay, tất cả mọi người, ngay cả người nãi nãi đã cao tuổi của ta đều trở thành diễn viên giỏi như vậy, chắc cũng nhờ công không nhỏ của thúc ấy. Nhìn vào vẻ mặt như muốn cầm dao đâm ta ngay lập tức của tỷ tỷ, ta chỉ muốn đến nói với tỷ ấy, ai bảo mẫu thân của tỷ còn sống làm gì.

Phải, nhị thúc lựa chọn ta chứ không phải tỷ tỷ cũng bởi vì mẫu thân của ta đã qua đời. Mà người đã qua đời, thì làm sao biết bày mưu tính kế được như Nhã thị. Phụ thân ta không có con trai, thúc ấy lại có, thế nên gia nghiệp của họ Trương, trước sau gì cũng thuộc về con trai thúc ấy, cháu đích tôn của dòng họ. Nhưng Nhã thị và gia tộc của bà ta đời nào lại chịu bỏ qua một món sản nghiệp lớn như vậy. Cho dù tỷ tỷ có xuất giá, bà ta nhất định cũng có cách độc chiếm gia sản của họ Trương.

Cùng lắm thì bắt hiền tế (4) của bà ta ở rể vài năm là được chứ gì.

Nhị thúc của ta biết rõ điều đó, chúng ta đều là họ Trương, tính ra là người thân cận hơn Nhã thị kia, vẫn là nên hợp tác giúp đỡ nhau mới phải đạo. Thúc ấy giúp ta lấy lại địa vị đại tiểu thư, sau khi xuất giá với danh phận cao quý, ta sẽ một tay dâng toàn bộ gia sản của phụ thân để lại cho con trai thúc ấy.

Thế là vẹn toàn cả đôi đường.

Nhã thị có lẽ có nằm mơ cũng không ngờ rằng Tiểu Bối Tử ngốc nghếch ngày xưa từng bị bà ta dùng thủ đoạn đuổi ra khỏi phủ, ngày hôm nay cuối cùng cũng có thể đâm sau lưng bà ta rồi. Còn Trương Hạc Nhàn, tỷ hãy chống mắt lên mà xem ta làm sao cướp đoạt vị hôn phu của tỷ. Để cho tỷ ấy hiểu cảm giác của ta, lúc tỷ ấy trơ trẽn tự nhận bản thân là Tiểu Bối trước mặt huynh ấy sáu năm về trước.

Không ngoài dự đoán của ta, giữa lúc phủ thừa tướng đang xảy ra một trận sóng gió, ai ai cũng e sợ ta, một nữ nhân thủ đoạn khôn lường, đến mức không ai dám đặt chân đến Lục Liên viện, thì có người lại xin cầu kiến ta.

Người đó không ai khác ngoài Mạc Thịnh Quân.

Đương lúc ta có nhã hứng, thế là liền bảo người hầu dẫn huynh ấy đến cái đình bên cạnh hồ nhỏ ở hậu viên, nơi huynh ấy vẫn thường hẹn hò với tỷ tỷ, mà gặp ta. Không biết Trương Hạc Nhàn đang bận rộn an ủi mẫu thân mình kia có thời gian rảnh rỗi để đến đây để “bắt gian” không?

Huynh ấy vẫn như mọi khi, vừa nhìn thấy ta thì liền đi thẳng vào vấn đề:

- Xin muội hãy tha cho Hạc Nhi một con đường sống.

Ta thản nhiên đáp lại:

- Ta muốn giết tỷ ấy lúc nào chứ?

- Muội không phải không biết, đẩy nàng ấy xuống thân phận con gái của thứ thiếp, thì đã tước đoạt đường lui của nàng ấy rồi.

- Ta chẳng hiểu huynh đang nói gì cả.

- Có, muội có hiểu. Ba năm tuyển tú một lần, đây là đợt cuối cùng của Hạc Nhi rồi, muội không thể chờ qua năm nay được hay sao. Muội rõ ràng biết, suốt bao nhiêu năm qua nhờ thân phận đại tiểu thư của Trương gia, mà nàng ấy không phải nhập cung. Bây giờ muội làm như vậy, chẳng khác nào hại chết nàng ấy rồi.

- Còn ta thì sao?

- Sao cơ?

Ta nhìn thẳng vào mắt huynh ấy, gay gắt hỏi:

- Nếu không lấy lại thân phận đại tiểu thư, ta cũng phải nhập cung, huynh nghĩ so với tỷ ấy thì ta muốn làm phi tần hơn sao?

- Muội… muội không thể nào nhập cung. - Giọng huynh ấy gượng gạo thấy rõ.

- Thế sao? Ta ngu muội, đành nhờ Mạc hiệu úy chỉ giáo vậy.

- Muội… - Huynh ấy đã không thể nhìn thẳng vào mắt ta nữa.

Ta đành chua xót tiếp lời:

- Vì ta là yêu nữ phải không. Hoàng thượng sẽ không hồ đồ đến mức để một yêu nữ đã từng được tiên đoán là sẽ đẩy Trần quốc đến cái hoạ vong quốc ở bên cạnh. Nên cho dù có tuyển tú, ta cũng bị loại đầu tiên. Đó chính là suy nghĩ của huynh và mọi người đúng không? Thế nên chỉ có Trương Hạc Nhàn mới xứng đáng làm đại tiểu thư của Trương gia, còn ta thì không ư?

- Tiểu Bối…

- Đừng gọi tên ta.

- Muội muốn như thế nào, mới chịu buông tay đây.

Ta cười nhạt một tiếng, cố đè nén mọi cảm xúc trong lòng rồi mới đáp lời:

- Huynh lấy ta đi.

- Sao?

- Nãi nãi cùng với các thúc thúc và cô cô của ta đã nói rồi, là họ Trương nợ ta, nợ mẫu thân ta, nên họ phải đường hoàng gả ta đi, để ta được làm phu nhân của gia đình danh giá. Họ mới cho ta danh phận đại tiểu thư. Bây giờ huynh mang lễ vật đến cầu thân phụ thân ta, bảo rằng muốn lấy ta làm chính thê của huynh, đem kiệu hoa tám người khiêng đến rước ta vào cửa lớn của Mạc phủ, thì ta sẽ không cần thân phận đại tiểu thư nữa. Mạc Thịnh Quân, huynh làm được không?

Huynh ấy ngỡ ngàng nhìn ra suốt một lúc, sau đó mới khàn giọng mà hỏi:

- Đây là điều muội thực sự muốn sao?

- Nếu không làm đại tiểu thư, với thân phận thứ nữ, dù cho có là con gái của thừa tướng, muốn được bước vào cửa lớn của danh môn còn khó khăn. Huống chi ta vẫn còn mang cái tiếng xấu là yêu nữ kia, huynh nghĩ có công tử quý tộc nào trong kinh thành này muốn lấy ta chứ. Thế nên, được làm con dâu của thượng thư đại nhân, là phúc phận của ta.

Lúc nói ra những lời đó, ta đã chuẩn bị sẵn tinh thần mà chờ phản ứng gay gắt của huynh ấy. Huynh ấy yêu Trương Hạc Nhàn như vậy, bảo huynh ấy lấy người khác mà làm tổn thương tỷ ấy, huynh ấy có đồng ý hay không? Đổi lại nếu ta là huynh ấy, ta nhất định sẽ thành thân với tỷ tỷ ngay bây giờ, rồi nhờ thượng thư đại nhân tạ lỗi với Hoàng đế một phen vậy. Hoàng đế không thể nào chỉ vì một nữ nhân đáng tuổi con cháu mình mà xử chém con trai của trọng thần, bằng hữu thân thiết của mình được.

Chỉ là ta vốn hiểu rõ con người của Mạc Thịnh Quân, bằng không ta đã không phí công dựng nên màn kịch cướp đoạt thân phận vô vị này, để đạt được mục đích của mình. Thế nên ta biết, trong tình cảnh hôm nay, huynh ấy sẽ nói ra câu trả lời mà ta muốn nghe nhất.

- Được, vậy thì huynh sẽ cho muội hưởng phúc phận đó cả đời. - Giọng huynh ấy không chút cảm xúc cất lên thật rành rọt bên tai ta.
----
(còn tiếp)​
>> Chương 4.2
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 4: CẦU THÂN (2)

Dứt lời, huynh ấy thẳng thừng quay lưng rồi rời đi ngay sau đó.

Đến khi bóng dáng huynh ấy đã không còn trong tầm mắt, trái tim của ta vẫn đập liên hồi những nhịp bối rối. Cảm giác kinh hỷ đến quá nhanh, khiến cho ta không còn nhớ cách để cười vui vẻ. Hoặc giả, là do bất hạnh quá lâu rồi, nên ta đã quên mất cách làm sao để có được hạnh phúc.

Trong lúc khoé môi khẽ cong lên một nụ cười tê tái, ta tự thì thầm:

- Nam tử hán đã nói rồi thì phải giữ lời, muội đợi huynh… làm cho muội được hưởng phúc phận cả đời. Quân ca ca, đừng làm muội thất vọng lần nữa.

Đột nhiên chẳng biết từ đâu một bóng người bước nhanh đến trước mặt ta. Một thanh âm chát chúa vang lên, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ta đã bị tát mạnh đến nỗi choáng váng mặt mày, ngã qụy xuống đất. Theo phản xạ, ta đưa tay sờ lên một bên má đã đỏ ran vì cái tát đó, cười lạnh mà hỏi người vừa hành hung ta:

- Tỷ không phục sao?

Tỷ ấy nước mắt giàn dụa trên khuôn mặt, giọng nói đầy uất hận:

- Hồ ly tinh, ngươi giống hệt mẫu thân của ngươi, chỉ giỏi cướp phu quân của người khác.

Ta mím môi một cái, rồi đột ngột đứng lên, thẳng thừng tát vào khuôn mặt như hoa như ngọc của tỷ ấy, giọng cảnh cáo:

- Muốn mắng chửi ta thế nào cũng được, đừng bao giờ đụng đến mẫu thân của ta.

Tỷ ấy đã đánh mất hết vẻ bình tĩnh và đoan trang ngày thường, như nổi điên lên mà mắng liên tiếp vào mặt ta:

- Ta nguyền rủa ngươi, nguyền rủa mẫu thân ngươi, nguyền rủa cả cháu ngoại của bà ta, đời đời kiếp kiếp chỉ biết làm hồ ly tinh đi giựt phu quân của người khác.

Lúc này ta cảm thấy có chút mệt mỏi nếu phải đôi co với tỷ ấy, liền đáp:

- Con của ta sau này cũng là con của Mạc Thịnh Quân, tỷ còn nguyền rủa nữa, không biết sẽ đắc tội với những ai đâu.

- Ngươi… đồ không biết xấu hổ… ngươi…

Lần này tỷ ấy thật sự đã bị ta làm uất ức đến nói không nên lời, chỉ biết ngồi sụp xuống trên nền đất mà khóc nức nở. Nha hoàn của tỷ ấy ba bốn người túm tụm quanh tỷ ấy, đồng loạt nhìn ta bằng ánh mắt căm phẫn thay chủ nhân của bọn họ. Còn ta thì thảnh thơi cất bước trở về Lục Liên viện, không phí hơi sức gây chuyện với bọn họ nữa.

Ngày hôm sau quả nhiên thượng thư đại nhân mang sính lễ tới cầu thân.

Cả phủ thừa tướng như chấn động trước việc Mạc Thịnh Quân khẳng định người huynh ấy muốn cưới làm chính thê là ta, Trương Hy Nhàn, chứ không phải tiểu thư vừa thất thế Trương Hạc Nhàn của bọn họ. Phụ thân ta tất nhiên càng lúc càng khó xử, nên không thể nhận lời ngay được, đành gọi ta đến tiền sảnh. Khác với mọi ngày, hôm nay ta quyết định phải ăn vận thật đẹp đẽ… để gặp phu quân tương lai của mình. Vì không có nha hoàn hầu hạ, ta đích thân đến phòng giặt lấy bộ y phục bằng lụa Tô Châu được thợ may giỏi nhất kinh thành may cho ta.

Ấy vậy mà khi đến đó, ta được nghe một cuộc trò chuyện không mấy dễ chịu:

- Ngươi xem, cô ta trông thế mà chẳng hiền lành chút nào nhỉ.

- Người ta nói con chó không sủa mới là con chó cắn người cơ mà.

- Chỉ tội cho đại tiểu thư, bị muội muội ruột cướp đi phu quân như vậy.

- Mà Mạc công tử cũng thật quá đáng, vừa thấy tiểu thư của chúng ta bị mất đi địa vị thì lại chuyển sang ngay ả hồ ly kia. Rốt cuộc thì công tử ấy chỉ muốn thành thân với người có thân phận cao quý mà thôi, có yêu thương gì tiểu thư đâu.

- Thế mới nói, không phải cứ trông anh tuấn nho nhã thì sẽ là người tốt. Nam nhân toàn là những kẻ khốn nạn như vậy.

Ta bỗng chốc thấy tội lỗi, vì Mạc Thịnh Quân vừa bị ta làm cho mang cái án oan lớn như vậy. Nhưng mà ta không quan tâm, cho dù cả thiên hạ có chửi ta và huynh ấy là đôi cẩu nam nữ, ta cũng tình nguyện bị nguyền rủa cùng huynh ấy. Có lẽ quẻ bói lần trước ở chùa Vĩnh Thụy đã đúng được một phần, đường tình duyên của ta, quả thật là cầu gì được nấy.

Ta đằng hắng một tiếng, những nha hoàn đang nấp sau cửa mà nhỏ to chuyện thị phi kia giật thót, vội vàng bước ra hành lễ với ta:

- Tiểu thư an hảo.

- Y phục của ta đã chuẩn bị xong chưa?

Bọn họ nhanh chóng lấy cái khay gỗ có đựng sẵn y phục của ta trên đó, kính cẩn đưa đến trước mặt ta. Nhìn lướt qua y phục, thấy vẫn còn nhiều nếp nhăn, ta thoáng nhíu mày. Bọn họ nhận ra nét mặt khó chịu của ta, liền cố gắng lấp liếm sai sót, tỏ ra niềm nở với ta:

- Để chúng nô tỳ giúp tiểu thư thay đổi xiêm y.

Ta gạt tay ả người hầu đó ra ngay lập tức, lãnh đạm đáp:

- Nếu không có việc gì làm, thì trước tiên nên làm tốt nhiệm vụ của các ngươi. Những con chó vô dụng, cho dù có biết sủa hay không, cũng không được lưu giữ lại đâu.

Nói rồi ta mạnh tay ném bộ y phục kia xuống nền đất, làm bọn họ hoảng sợ vội quỳ sụp xuống xin ta tha tội. Ta chẳng thèm liếc họ đến lần thứ hai, đi thẳng ra cửa, dặn dò một người hầu đến chuyển lời cho Hạ quản gia:

- Đừng bao giờ để những kẻ dơ bẩn như vậy đụng tới y phục của ta lần nào nữa.

Về tới phòng, ta lựa ra một bộ y phục khác rồi tự mình ướp hương, ủi thẳng một cách hoàn hảo. Ta không nên nhiễm thói hư tật xấu được hầu hạ, phải nhớ lời sư phụ, việc mình có thể làm, đừng bao giờ nhờ người khác.

Sau khi sửa soạn chỉn chu, ta cất bước ra ngoài tiền sảnh gặp phụ thân và phụ tử họ Mạc. Nhưng ta không ngờ ngoài đó còn có một khách quý khác.

Thấy ta bối rối không biết chào hỏi thế nào, phụ thân liền lên tiếng nhắc nhở:

- Hy Nhàn, mau chào hỏi đi con. Đây cũng là một trong những người bằng hữu thân thiết của phụ thân, đại tướng quân Cảnh Bình.

Ta nghe vậy, liền ý thức cung kính hành lễ trước người đàn ông trung niên ấy, lễ độ chào hỏi:

- Tiểu nữ Trương Hy Nhàn xin ra mắt đại tướng quân. Tướng quân từ Dự Châu xa xôi về kinh thành thăm hỏi phụ thân tiểu nữ, đã nhọc lòng nhiều rồi. Nếu phủ đệ có điều gì đón tiếp không được chu đáo, mong tướng quân thứ lỗi.

Do không muốn thất lễ, ta không ngẩng đầu ngay, vẫn giữ tư thế cúi người khiêm tốn trước ông ấy. Thế nhưng, dù không nhìn thấy, ta vẫn cảm nhận được người đàn ông này đã nhìn chằm chằm vào ta suốt một lúc lâu. Nhìn đến lúc ta dường như sắp phát run, ông ấy mới nhẹ nhàng buông một câu:

- Lão Trương à, vừa xinh đẹp lại vừa lễ độ đến thế này, ông bảo ta làm sao bỏ qua người con dâu này được cơ chứ.

Ta nhất thời không hiểu được chuyện gì.

Đưa mắt nhìn Mạc Thịnh Quân, ta thấy sắc mặt huynh ấy có vẻ căng thẳng. Nhưng vì Mạc thượng thư vẫn đang chào hỏi bằng hữu cũ nên huynh ấy chưa dám lên tiếng.

Đại tướng quân Cảnh Bình, danh tiếng người này ta đã từng nghe qua.

Ngày xưa lập ra Trần quốc, ngoài hoàng đế, thì Cảnh Bình, Mạc Khanh, Liễu Khiêm và phụ thân ta là những người có công lớn nhất. Nghe nói ngày đó họ còn kết nghĩa huynh đệ ở sông Nhạc, cùng nhau gây dựng nghiệp lớn. Lúc đoạt ngôi của ấu chúa nhà Hậu Lương, cả năm người cùng có công, nhưng vì hoàng đế là người lớn tuổi nhất, để tỏ lòng kính trọng, nên được bốn người kia tôn làm vua.

Sau khi lên ngôi, hoàng đế ban cho bốn người huynh đệ của mình những chức tước cao quý, trở thành rường cột của nước nhà. Trải qua bao nhiêu biến cố, Liễu Khiêm làm phản bị tru di tam tộc, Cảnh Bình bất mãn trước cái chết của huynh đệ nên bỏ đi trấn giữ biên cương, bây giờ trong triều chỉ còn phụ thân ta và Mạc thượng thư vẫn một lòng phụng sự hoàng đế.

Thế nhưng ngày hôm nay Cảnh tướng quân đã trở về, cùng phụ thân ta và Mạc thượng thư trò chuyện vui vẻ, có lẽ cũng không khác cảnh tượng ngày xưa họ ở bên nhau là mấy. Điều này làm cho có chút tò mò về mục đích trở về lần này của Cảnh tướng quân.

Phụ thân cũng không để ta đợi lâu, liền chuyển hướng chủ đề của cuộc trò chuyện:

- Lão Cảnh, lão Mạc, chúng ta vốn là bằng hữu lâu năm, hôm nay hội ngộ ở đây thật vui mừng khôn xiết. Nhưng hãy đợi dịp thích hợp rồi hẵng ôn lại chuyện xưa. Bọn trẻ vẫn còn đứng ở đây, bậc trưởng bối không nên bắt chúng chờ lâu.

Hai người Cảnh, Mạc đều đồng tình, phụ thân ta liền đi thẳng vào vấn đề:

- Được rồi, mọi chuyện là thế này. Ta có hai đứa con gái, Hạc Nhàn và Hy Nhàn. Do ngày đó đã có đính ước với con trai của lão Mạc, nên ta coi như hôn sự của Hạc Nhàn đã không có gì phải bận tâm nữa. Con gái Hy Nhàn của ta thời gian này lại trở về đoàn tụ với gia đình, xa cách đã lâu, ta cũng muốn bù đắp thiệt thòi cho nó. Thế nên mấy tháng qua ta đã nhờ người mai mối, dạm hỏi rất nhiều gia đình, để kiếm nơi gửi gắm chung thân đại sự của nó. Tất nhiên ta cũng đã ưng ý vài nơi, còn đang định hỏi ý nó thì bỗng dưng nhận được thư của người bằng hữu cũ là lão Cảnh đây. Con trai của lão Cảnh nếu ta nhớ không nhầm thì hình như bằng tuổi Quân Nhi thì phải.

- Đúng vậy, là bằng tuổi. - Cảnh tướng quân bổ sung.

- Phải, thêm vào đó lão Cảnh trước nay ít khi nhờ vả, lần này lại gửi thư chỉ đích danh muốn cầu thân Trương Hy Nhàn cho con trai ông ấy. Lão Mạc à, ông nói xem làm sao ta có thể từ chối được. Hôm nay ông lại mang sính lễ đến cầu thân Hy Nhàn chứ không phải Hạc Nhàn, quả thật đã đẩy ta vào tình cảnh khó xử rồi.

Nghe đến đó, tim ta như lỡ mất một nhịp, chỉ biết ngỡ ngàng nhìn phụ thân, chưa biết phải mở lời thế nào.

Không ngờ ngay lúc đó Mạc Thịnh Quân đã bước đến nắm lấy tay ta, cùng quỳ xuống trước mặt phụ thân ta, kiên quyết nói:

- Trương bá bá, cháu biết bá bá từ ngày còn nhỏ, thân thiết như người trong gia đình. Con người cháu không phải bá bá không hiểu rõ, trước nay cháu cũng chưa từng cầu xin bá bá việc gì. Nhưng ngày hôm nay, cháu muốn cầu xin bá bá một việc. Xin bá bá hãy gả Hy Nhàn cho cháu, cháu xin hứa sẽ luôn đối xử tốt với muội ấy, không để muội ấy phải chịu thiệt thòi.

Nói rồi huynh ấy còn dập đầu mấy cái trước phụ thân ta, làm cho trái tim ta, trong phút chốc, như bị búa tạ đánh mạnh từng cơn, đau đớn đến mức không thể cất lời. Nếu là một nữ nhi bình thường, chứng kiến nam nhân mình yêu thương trước mặt phụ thân mình, bất chấp mọi thứ cầu xin ông gả mình cho anh ta, thì hẳn đó sẽ là nữ nhi hạnh phúc nhất thế gian. Thế nhưng ta không thể hoàn toàn cảm động trước hành động này của huynh ấy, chỉ vì ta vẫn còn băn khoăn, rốt cuộc huynh ấy phí tâm như vậy, là vì thật lòng muốn cưới ta, hay vì thật lòng muốn cứu tỷ tỷ thoát khỏi việc tuyển tú kia.

Phụ thân ta từ đầu vẫn cố giữ nụ cười gượng dù ở trong tình cảnh khó xử, nhưng trước hành động hấp tấp này của Mạc Thịnh Quân, đã không còn giữ bình tĩnh được nữa. Ông giận dữ phất tay áo:

- Ban đầu thì đòi đính ước với Hạc Nhàn khi nó chỉ mới mười một tuổi, bắt nó chờ đợi cháu bao nhiêu năm trời mà vẫn không mang lễ vật đến cầu thân. Bây giờ thì lại sống chết đòi cưới Hy Nhàn. Mạc Thịnh Quân, rốt cuộc cháu coi con gái của ta là loại nữ nhi rẻ mạt đến vậy, thích yêu ai, bỏ ai lúc nào cũng được sao?

- Trương bá bá… cháu không phải có ý đó.

- Tình tỷ duyên muội sao? Lão Mạc à, ta không ngờ lệnh tôn nhà ông lại có nhã hứng phong lưu đến vậy đấy. - Cảnh tướng quân đột nhiên nói xen vào.

Mạc thượng thư lúc này cũng có chút phật ý với Mạc Thịnh Quân, nhưng ông vẫn giữ thái độ điềm tĩnh mà đáp lại Cảnh tướng quân:

- Lão Cảnh à, thế còn lệnh tôn nhà ông, bảo là cầu thân, mà đến ngay cả mặt mũi cũng không cho lão Trương được nhìn thấy, phép tắc lễ nghĩa với nhạc phụ tương lai mà cũng không biết, thì còn thể hiện thành ý sao. Nam nhân trước nay ba thê bảy thiếp là chuyện bình thường, thay đổi lòng dạ trong một sớm một chiều cũng khó trách. Ngày còn nhỏ vội vã đính ước đã là sai lầm, bây giờ lớn lên sửa sai vẫn chưa muộn. Con trai ta đã dập đầu như thế rồi, mọi người còn chưa rõ tâm ý của nó rốt cuộc là dành cho tỷ tỷ hay muội muội ư?

Cảnh tướng quân cười nhạt:

- Con trai ta Cảnh An Huy trước nay là thiếu niên anh hùng, mười lăm tuổi đã ra trận đánh giặc, chém đầu tướng địch, lập được đại công mà được hoàng thượng trọng thưởng rất hậu. Bây giờ nó đã làm tới chức phiêu kị tướng quân, trọng trách nặng nề, phải trấn giữ nơi biên cương quanh năm suốt tháng, làm gì có thời gian để mắt đến cô nương nào. Lần này là ta thay mặt nó mà đi cầu thân. Ta vốn nghe nói nhị tiểu thư nhà lão Trương là đệ tử của Hoạ Vi chân quân, lại mến mộ tài năng và đức độ của chân quân đã lâu, nên mới quyết định lựa chọn mối nhân duyên này cho con ta.

Lúc nghe những lời đó, trong đầu ta chỉ có một suy nghĩ, nguyền rủa cái tên chết bằm Cảnh An Huy tự nhiên xuất hiện kia. Vì hắn mà đấng lang quân ta mơ ước đến tận cửa cầu hôn, ta cũng không thể yên ổn được gả đi.

Thấy cuộc nói chuyện giữa Cảnh tướng quân và Mạc thượng thư bắt đầu trở nên căng thẳng, phụ thân đành phải can ngăn:

- Thôi được rồi, tâm ý của cả hai người, ta đều hiểu rõ. Bằng hữu lâu năm gặp lại, không nên vì bọn trẻ mà cãi nhau chứ. Sự việc đã ra thế này, thôi thì để cho con gái ta suy nghĩ thêm ít lâu nữa rồi sẽ quyết định chọn Cảnh công tử hay Mạc công tử được không?

Nghe phụ thân ta nói vậy, Cảnh tướng quân khoan thai đứng dậy, bước đến chỗ ta rồi tỏ ý khuyên bảo:

- Hy Nhàn, có việc này ta muốn nói cho cháu biết. Thư cầu thân ta đã gửi cho phụ thân cháu từ ba tháng trước, là lúc mà cháu vẫn còn mang thân phận thứ nữ trong phủ đệ này. Ta trước nay chỉ nhìn người tài chứ không nhìn xuất xứ, cho dù cháu có xuất thân hèn kém, ta sẵn sàng đem kiệu hoa tám người khiêng đến rước cháu vào cổng lớn của Cảnh gia. Còn Mạc công tử chỉ mới ngỏ lời cầu thân vào ngày hôm nay, tức là sau khi cháu được mọi người trong gia tộc ủng hộ làm đại tiểu thư một ngày. Cháu có từng suy xét xem thứ họ muốn lấy là bản thân cháu hay thân phận đại tiểu thư của Trương gia hay không? Ta chỉ muốn nhắc nhở cháu vài lời như thế. Dù sao hoàng thượng cũng đã từng hứa, chỉ cần là người mà con trai ta muốn lấy, hoàng thượng nhất định sẽ ban hôn, cháu sẽ có được một hôn lễ theo nghi thức hoàng tộc, linh đình nhất cả Trần quốc này. Ta sẽ không để cháu thiệt thòi ngày nào, cháu còn không nhìn thấy lòng thành của Cảnh gia hay sao?

Mạc thượng thư bỗng dưng cũng tiến đến trước mặt ta cất lời:

- Hy Nhàn, ta biết Mạc gia cầu thân đường đột thế này làm cháu rất khó xử. Nhưng Mạc gia trước nay cũng là một gia tộc bề thế chẳng thua gì Trương gia, con trai ta lại là đích tôn, trưởng tử của dòng họ, thế nên lựa chọn con dâu phải cân nhắc thật kỹ càng. Ta muốn có được một cô con dâu có học thức, bản lĩnh và có khả năng thu phục nhân tâm, để sau này thay phu nhân ta quán xuyến mọi việc trong gia tộc. Ta vốn dĩ ưng ý cháu đã lâu, thêm vào đó, sau những gì ta nghe được từ buổi tiệc đoàn viên ngày hôm qua ở Trương phủ, ta mới hoàn toàn tin cháu là người có đủ phẩm hạnh mà ta tìm kiếm. Bây giờ cho dù cháu có là con gái của thứ thiếp đi chăng nữa, ta vẫn sẽ dùng lễ của đại tiểu thư mà đón cháu về phủ nhà ta, để cháu làm chính thê, sau ba năm mới cho Quân Nhi nạp thiếp. Cháu thấy có được không?

Giây phút đó, là lần đầu tiên trong đời, có người muốn tranh giành ta.

Một Tiểu Bối Tử đã từng ra đường ăn xin mà sống.

Một Tiểu Bối Tử đã từng bị người ta đối xử tàn nhẫn, cướp đoạt mọi thân phận và hạnh phúc.

Một Tiểu Bối Tử đã từng bị tất cả người dân Trần quốc ghét bỏ, bị gọi là yêu nữ suốt bao nhiêu năm trời.

Đến năm mười sáu tuổi, lại cùng một lúc nhận được hai lời cầu thân. Một người là công tử nhà đại thượng thư, một người là công tử nhà đại tướng quân. Lại còn không câu nệ cái danh phận thứ nữ của ta, hứa hẹn không để cho ta chịu bất kỳ thiệt thòi nào. Nếu là công chúa kén phò mã, chắc là cũng vinh dự thế này phải không?

Làm cho ta cảm thấy, mọi chuyện đã trở nên quá hoang đường rồi.

Quẻ bói ngày đó ở chùa Vĩnh Thụy bảo rằng vận hạn sắp tới của ta rất tốt, nhưng như thế này, không biết là phúc hay là họa nữa. Phải chăng vì thế mà ta mới phải hy sinh bản thân, để người khác có được hạnh phúc?
***
(hết chương 4)​

Chú thích:

(1) Giờ Mão: khoảng sáu giờ sáng. Cách tính giờ của người Trung Quốc thì hai tiếng sẽ được gọi là một canh giờ. Vì vậy bắt đầu từ một giờ sáng thì gọi là giờ Tý, cứ như vậy liên tiếp cho đến mười hai giờ tối thì gọi là giờ Hợi.

(2) Thẩm: cách gọi thím, vợ của chú của người Trung Quốc.

(3) Nãi nãi: cách gọi bà nội của người Trung Quốc.

(4) Hiền tế: ý chỉ con rể.

>> Chương 5.1
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 5: BẤT HẠNH (1)

Sau một lúc bị cả hai vị trưởng bối làm cho choáng ngợp trước những điều kiện cầu thân dường như đã quá coi trọng ta, ta quyết định phải lấy lại bình tĩnh để có quyết định sáng suốt nhất.

Ta đưa mắt nhìn phụ thân, đọc được ý tứ không vui trong vẻ mặt của ông, cuối cùng đành cất tiếng:

- Mạc thượng thư, Cảnh tướng quân, được cả hai vị đại nhân coi trọng, quả là phúc phận của Hy Nhàn. Nhưng bây giờ cháu vẫn là Trương Hy Nhàn, là con gái của phụ thân cháu. Nữ nhi tam tòng tứ đức (1), khi ở nhà vẫn là nên nghe lời phụ thân mới phải đạo. Phụ thân bảo muốn cháu suy nghĩ thêm, thì cháu đành phải khất hẹn với hai vị đại nhân vậy. Ngày hôm nay nhọc công cả hai người đến tận phủ đệ, Hy Nhàn xin ghi nhớ tấm lòng thành này. Xin hai vị lượng thứ vì đã đón tiếp không chu đáo, lần sau Hy Nhàn nhất định sẽ cẩn trọng hơn.

Nói rồi ta khẽ khàng rút tay ra khỏi bàn tay đang nắm chặt của Mạc Thịnh Quân, từ tốn đứng lên bước về phía sau lưng phụ thân ta.

Mấy người họ thấy thái độ ta rõ ràng như thế thì cũng không tiện nài ép thêm. Sau vài lời xã giao thì họ cũng cáo biệt ra về. Phụ thân cùng ta tiễn họ đến tận cửa, sau lúc hai chiếc xe ngựa sang trọng ấy khuất bóng khỏi con đường lát gạch trước phủ nhà ta, phụ thân dùng một giọng lạnh như băng mà nói với ta:

- Vào thư phòng nói chuyện riêng với phụ thân.

Một linh cảm xấu hiện rõ trong đầu ta. Nhưng trong tình cảnh này, ta còn lựa chọn nào chứ.

Sau lúc cùng phụ thân vào thư phòng, ông cũng không vòng vo nữa mà đưa cho ta một tấm lệnh bài. Chỉ sau một ánh nhìn, ta liền biết tấm lệnh bài đó dùng để làm gì. Trên đó có chạm khắc hình long vân, lại thêm ba chữ Vĩnh Thọ cung. Ta run giọng hỏi:

- Phụ thân muốn con nhập cung sao?

- Không cần lo lắng, trong danh sách tú nữ đợt này, tên của con đã bị loại từ đầu.

- Nhưng thứ này…

- Là lệnh bài nhập cung của thái hậu ban cho con. Thái hậu đã ngỏ lời với phụ thân, bảo rằng người rất mến mộ danh tiếng của Hoạ Vi chân quân, nên muốn mời đệ tử của ngài ấy vào cung thỉnh giáo. Thái hậu tuy tin Phật, nhưng đối với giáo lý của Đạo giáo cũng không bài trừ. Thái hậu còn cho xây hẳn một Thanh Vân lầu để xem tinh tượng trong cung, mời rất nhiều đạo sĩ đến làm việc tại nơi đó. Phụ thân tin rằng mấy năm qua chân quân cũng đã truyền dạy cho con không ít tinh thuật, nếu có thể đem tài năng phục vụ cho hoàng tộc, thì hãy cố gắng hết sức.

Ta vô thức cười nhạt một tiếng:

- Phụ thân có từng nghe câu, thâm cung sâu không đáy, vào dễ mà khó ra hay không? Cho dù phụ thân có không muốn con lấy Mạc Thịnh Quân mà làm tỷ tỷ đau lòng, thì cũng đừng nên ném con vào hang hùm miệng cọp như vậy chứ.

Phụ thân đột ngột vung tay lên, giáng thẳng vào mặt ta một cái tát.

Do quá bất ngờ, ta loạng choạng lùi về đằng sau, lấy tay giữ chặt một bên khuôn mặt đã nóng ran đến tê rần. Hai tai ta có hơi ù đi, trước mắt cũng hiện lên vô số điểm đen. So với cái tát này, tính ra ngày hôm qua, tỷ tỷ vẫn còn nương tay với ta rất nhiều. Mất một lúc, ta mới lấy lại bình tĩnh để ngẩng lên nhìn phụ thân mà hỏi:

- Tại sao?

Một câu hỏi ngu ngốc làm sao, một câu hỏi lẽ ra ta không nên hỏi.

Bởi vì ta đã biết rõ câu trả lời từ rất lâu rồi.

Ta nghe ông gằn giọng mà nói:

- Ngươi đắc ý lắm hay sao? Ngày hôm nay cả hai người bằng hữu của ta đều ra sức tranh giành ngươi về làm con dâu của bọn họ. Ngươi cho rằng bản thân đã một bước lên mây, có thể không cần coi tỷ tỷ ngươi, kế mẫu ngươi và phụ thân ngươi ra gì sao? Đừng tưởng ta không biết ngươi và nhị thúc ngươi đã ngầm liên thủ với nhau ra sao, cũng đừng tưởng ta không biết ngày hôm qua ngươi đã ép buộc Mạc Thịnh Quân ra sao. Vào cung đã là sự nhân nhượng cuối cùng ta dành cho ngươi rồi, đừng có mà không biết lượng sức, đem chút tài trí cỏn con đó ra mà đấu với phụ thân ngươi.

- Con không nhập cung - Ta kiên quyết đáp - Cho dù có không gả cho Mạc Thịnh Quân, thì con cũng sẽ lấy Cảnh An Huy, dù sao người đó cũng là phiêu kị tướng quân, nhà họ Cảnh cũng là danh gia vọng tộc, đủ sức làm cho con sống trong vinh hoa phú quý suốt đời. Cớ gì phụ thân lại bắt con phải nhập cung, để rồi chết già trong đó cùng lão thái bà kia.

- Hỗn xược! - Phụ thân quát lên một tiếng.

Bị ánh mắt bướng bỉnh của ta làm cho nổi cơn thịnh nộ, phụ thân quay sang đập vỡ một bình hoa bằng sứ ngay gần đó. Người hầu bên ngoài tưởng rằng xảy ra chuyện vội vàng chạy vào xem tình hình, nhưng cũng bị ông quát tháo rồi đuổi ra ngay sau đó. Trút giận được một chút, phụ thân vẫn chưa đủ bình tĩnh mà nói chuyện nhẫn nại như ngày thường. Ông gần như phun ra từng chữ vào mặt ta:

- Ngươi nghĩ mọi chuyện đơn giản như thế sao? Ngươi làm cho hai người bằng hữu của ta mâu thuẫn như vậy, cho dù có gả ngươi cho ai, ta cũng đắc tội với người còn lại. Còn nữa, loại con gái hư hỏng như ngươi gả đi làm chính thê nhà người ta chỉ làm cho Trương Quyền ta không dám ngẩng mặt nhìn ai mà thôi. Ngươi tự đi soi gương mà nhìn lại cái bản mặt của mình đi. Ngươi tự hào lắm sao khi thứ ở giữa trán ngươi đã biến mất, làm mọi người tin rằng ngươi đã không còn là yêu nữ nữa? Nhưng mỗi lần nhìn vào thái độ đó của ngươi, ta chỉ thấy một nữ nhân đã trơ trẽn quá mức rồi. Ngươi chỉ mới mười sáu tuổi, sống ở ngoài bao nhiêu năm, làm sao phụ thân quản được ngươi. Thế là ngươi muốn làm gì là làm phải không? Thủ cung sa đã không còn, thân nữ nhi đã vấy bẩn như vậy, ngươi bảo ta làm sao dám gả ngươi đi cơ chứ.

Trong phút chốc, nụ cười chế giễu trên môi ta trở nên cứng ngắc.

Hoá ra ông luôn biết, chỉ là ông đã không chọn cách bảo vệ ta mà thôi.

Trên đời lại có người phụ thân như vậy sao?

So với người trước mặt, tính ra tên la đạo ngày đó đã đánh đập ta vẫn tốt hơn gấp ngàn lần. Nếu cho ta quay ngược thời gian, ta thà gọi hắn là phụ thân, bán thân để lấy tiền chôn hắn. Còn hơn phải gọi người này là phụ thân suốt bao nhiêu năm trời. Khoé môi ta run rẩy cất tiếng hỏi:

- Phụ thân đã biết rõ, sao ngày đó còn nói dối trước mặt hoàng thượng cơ chứ? Phụ thân không sợ hoàng thượng giết con sao?

Phụ thân dường như đã nín lặng suốt một lúc lâu trước câu hỏi của ta, sau đó mới khàn giọng trả lời:

- Một mình ngươi hy sinh, có thể cứu được cả Trương gia. Hơn nữa ngày đó thái hậu cũng đã hứa với phụ thân, nhất định không để ngươi xảy ra chuyện, mới an bài cho ngươi đến núi Doãn Duật.

- Thế nên các người nhẫn tâm biến con thành yêu nữ bị cả Trần quốc này ghét bỏ sao? - Ta gần như đã hét lên câu hỏi đó.

Phụ thân không đáp lời ta nữa, ông chỉ đứng lặng im nhìn ta bằng một ánh mắt xen lẫn giữa chán ghét và mệt mỏi. Ánh mắt giống hệt ngày đó khi ta cầu xin ông cứu ta, xin ông tin ta, nhưng ông không hề đáp lại. Thậm chí giây phút này ta còn căm ghét cả cái người đã chỉ cho ta dùng cách này để thử lòng người đã sinh thành nên ta. Y bảo ta sẽ nhìn thấy bộ mặt thật của ông, cả tình cảm thật sự ông dành cho ta. Chỉ trách vì sao y lại tài trí như vậy, chẳng khác gì Gia Cát Lượng ngày xưa, liệu việc gì cũng như thần. Kết quả này y đã nói cho ta từ trước, chỉ là ta không tin, muốn tự mình đi kiểm chứng.

Để rồi khiến bản thân tổn thương đến thế này đây.

Ta ước gì mình có thể khóc được, nhưng rốt cuộc ta chỉ nắm chặt hai bàn tay mình, đưa đôi mắt trống rỗng giống hệt trái tim mình nhìn phụ thân, lãnh đạm cất tiếng:

- Hai ngày nữa con sẽ nhập cung.

Ta cũng không nhớ mình đã về phòng bằng cách nào. Ta thậm chí còn không nhớ mình đã ngồi như người mất hồn, nhìn đăm đăm vào tấm gương phản chiếu thật rõ ràng hình ảnh của ta trước mặt bao lâu.

Mọi hồi ức, cứ thế mà dần minh bạch…

Mấy tháng đầu sau khi được phụ thân đón về phủ, ta thậm chí còn không biết nói chuyện. Ta vẫn quen với việc sống trong chuồng chó cùng Ngô Mễ như ngày xưa. Ta không chịu ngủ trên giường, cũng không chịu ngồi trên bàn ăn cơm. Mỗi tối đều ngồi trước cửa phòng mà sủa to mấy tiếng. Tất cả mọi sinh hoạt của ta ngày thường đều bị mọi người cười nhạo bằng hai chữ “cẩu hoang”.

Ta thậm chí còn không biết ý nghĩa của hai từ đó.

Nhưng rồi có một người phụ nữ rất dịu dàng mà phụ thân bảo ta gọi là mẫu thân đã kiên nhẫn uốn nắn ta suốt một năm trời. Bà ấy dạy ta cách đi đứng, cách cầm đũa, cách ăn cơm, cách mặc đồ, cách phát âm tên của mọi người. Để rồi lần đầu tiên ta thật sự chủ động cất tiếng nói chuyện, ta đã gọi bà ấy hai tiếng “mẫu thân”.

Cho dù ta có là Tiểu Bối Tử, thì bà ấy cũng không cho phép bất kỳ người hầu nào trong phủ được cười nhạo tên của ta. Mỗi khi đứng cùng tỷ tỷ trước gương, bà ấy luôn bảo rằng, cả hai chúng ta đều rất xinh đẹp, đều là hai đứa con gái ngoan ngoãn của bà ấy. Cho dù ta thấp hơn tỷ tỷ, đen hơn tỷ tỷ, thậm chí tóc tai cũng ngắn cũn cỡn, mọi cử chỉ đều thô kịch xấu xí hơn tỷ tỷ. Nhưng ta chưa bao giờ có cảm giác mình là một con vịt bầu, mà cũng giống tỷ tỷ, ta tự cho bản thân là thiên nga.

Tỷ tỷ chưa bao giờ ghen tị khi thấy bà ấy đối xử tốt với ta, thậm chí tỷ ấy tối nào cũng ôm ta trong lòng mà nói:

- Tiểu Bối Tử đáng thương của tỷ, bao nhiêu năm qua muội đã chịu cực khổ rồi. Từ nay phụ thân, mẫu thân và tỷ tỷ sẽ luôn yêu thương muội.

Ta nghĩ mình đã có một gia đình hạnh phúc, thậm chí ta còn chưa từng mong cầu điều gì hơn. Nhưng ta đâu biết sóng ngầm là tập hợp của nhiều cơn dư chấn nhỏ, nó rất ít khi xuất hiện, vậy mà một khi đã trỗi dậy, thì sẽ tàn phá tất cả mọi thứ.

Chưa đầy một năm sau khi ta về phủ thừa tướng, gia đình ta lại đón thêm một thành viên mới. Ngày phụ thân đưa huynh ấy về phủ, chỉ giới thiệu ngắn gọn rằng:

- Đây là con trai bằng hữu thân thiết của phụ thân. Nhà người đó xảy ra chuyện, tạm thời Quân Nhi sẽ ở đây cùng chúng ta.

Mạc thượng thư bị gian thần hãm hại, vu khống ông ấy tham ô quốc khố. Hoàng thượng tạm thời bắt giữ ông ấy trong ngục để điều tra, gia quyến cũng bị tịch thu mọi tài sản. Do con trai bị bệnh nặng, ông ấy đã nhờ phụ thân ta thu nhận rồi giúp huynh ấy chữa khỏi bệnh. Phụ thân ta vì tình bằng hữu mà không hề từ chối, thậm chí sau lúc đón huynh ấy về phủ còn ra sức mời đại phu đến chữa trị cho huynh ấy.

Khi đại phu chẩn đoán bệnh cho huynh ấy, ta cũng vì tò mò mà đứng bên giường nghe nghóng:

- Mắt của công tử là do bị trúng độc mà gây tổn hại niêm mạc, chưa phải là hoàn toàn hết hy vọng. Nhưng muốn chữa khỏi, cần phải kiên trì. Chỗ của bổn phu có một loại thuốc rất hiệu quả, nhưng nếu không phải sau bốn năm dùng thuốc đều đặn thì sẽ không có tác dụng.

Phụ thân ta không nề hà, khẳng định:

- Không cần biết tốn kém bao nhiêu, chỉ cần trị khỏi cho Quân Nhi là được.

Đại phu lắc đầu:

- Vấn đề không phải ở tiền bạc, mà là ở tâm.

Mấy tuần sau đó ta rốt cuộc cũng đã hiểu ẩn ý sau lời nói của đại phu.

Thuốc của đại phu ấy thực sự cũng không phải dùng dược liệu đắt tiền gì cả. Chỉ là nó phải dùng một loại thuốc dẫn rất quái lạ. Sương đêm trên hoa sen lấy vào giờ Sửu (2) mỗi ngày, hoà với một giọt máu của đồng nữ. Một nửa lấy bỏ vào thuốc uống, một nửa trộn vào thuốc cao để bôi trực tiếp lên vùng mắt bị trúng độc.

Bốn năm liền, ngày nào cũng phải làm như thế.

Tính ra nếu không có tâm, thì tuyệt đối sẽ không bao giờ có thể làm được đến cùng.

Bên cạnh đó, còn phải tuân theo một chế độ ăn uống rất khắt khe, chỉ thích hợp với người tu đạo. Huynh ấy năm đó là một thanh niên mới lớn, tính tình rất thất thường. Mấy ngày đầu còn thấy e ngại mà làm theo mọi chỉ dẫn của đại phu, sau này dần dần bắt đầu khó ở, đòi hỏi đủ điều. Lúc thì không chịu dùng thuốc vì bảo mùi máu quá tanh, lúc thì lại bảo không ăn nổi những thức ăn chay thanh tịnh, chỉ đòi ăn thịt heo, thịt bò. Mấy cô hầu nữ chưa chồng trong phủ mỗi ngày đều chỉ phải cho huynh ấy một giọt máu mà ai cũng thấy tiếc đứt ruột, bởi vì nếu huynh ấy giở chứng lên mà ném chén thuốc đi, thì họ lại phải nhỏ máu từ đầu.

Máu chứ có phải nước lã đâu mà người ta không tiếc!

Ngay cả Nhã thị ngày thường rất kiên nhẫn, thậm chí còn uốn nắn được cả một nha đầu ương bướng như ta mà còn không chịu nổi huynh ấy. Cuối cùng phụ thân đành để huynh ấy dọn ra một biệt viện ở cuối hậu viên, là nơi vắng vẻ nhất trong phủ, để huynh ấy không làm phiền người khác nữa. Vì phụ thân không còn nhiệt tâm như lúc đầu, bọn người hầu cũng dần lơ là nhiệm vụ. Riết rồi chẳng còn ai dậy sớm đi hứng sương, chịu đau mà nhỏ máu vào thuốc cho huynh ấy nữa. Huynh ấy sống một mình ở nơi biệt viện đó, cô đơn đến mức từ một người hiền lành biến thành một kẻ hung dữ, suốt ngày đập phá đồ đạc, ai đến gần cũng dễ bị tổn hại.

Rốt cuộc chỉ còn mình ta là quan tâm huynh ấy.

Ai bảo lần đầu tiên phụ thân đưa huynh ấy về phủ, ta đã nhận ra huynh ấy chính là người đã giúp ta đoàn tụ với phụ thân, tên tiểu tử kỳ lạ ngày ấy đã ở trong chuồng chó của ta suốt một ngày một đêm. Tự cho rằng huynh ấy chính là ân nhân của ta, thế là ta dốc lòng dốc sức… mà trả ơn cho huynh ấy.

Vì muốn bồi dưỡng cho ta và tỷ tỷ những thứ tốt nhất, phụ thân mời hẳn phu tử dạy cầm kỳ thi hoạ và kinh thư về phủ để dạy dỗ hai chúng ta. Thế mà ta không có ngày nào là chịu ngồi học đàng hoàng, chỉ toàn lén đi thăm huynh ấy. Nhã thị cho rằng ta ham chơi, nghịch ngợm nên cũng không bắt ép, để ta muốn làm gì thì làm. Phụ thân thường bận rộn triều chính mà không ở phủ, thế là chẳng có ai quản thúc ta.

Ngày đầu tiên ta tự mình đến Nhã Hợp viện của huynh ấy là một ngày cuối cùng của mùa đông, tuyết đã phủ trắng cả đất trời, đóng băng những cành hoa tử đằng bên ngoài, làm nó không còn đong đưa trước gió được nữa. Ta thức dậy từ giờ Tý ba khắc, mặc áo bông thật ấm mà ra ngoài hồ sen. Hồ nước cũng đã đóng băng, những đài hoa sen chỉ còn loe hoe vài cành. Nhưng không phải là sẽ không thu được sương đêm, thế nên ta không vội bỏ cuộc. Ta bước đi từng bước thận trọng trên mặt hồ đã đóng băng, tuy rằng lớp băng rất dày, nhưng ta vẫn không ngăn được cảm giác mình sẽ sảy chân rơi xuống bất kỳ lúc nào cứ lởn vởn trong đầu óc. Ta lại không biết bơi, giờ này mọi người đều ngủ say, biết đâu ta sẽ chết mất xác trong hồ sen này thì sao?

Vậy mà cuối cùng chẳng biết ta lấy đâu ra can đảm, bước đến tận giữa hồ, nơi vẫn còn sót lại những đài hoa sen chưa tàn hẳn. Sương giáng mùa đông toàn là băng đọng, ta phải mang theo cái lò than nhỏ thường dùng sưởi ấm tay để làm chúng chảy ra, hứng đủ sương trong một bình đầy. Vì đã nghe các nha hoàn trong phủ kể lể về tính khí thất thường của cái người trong Nhã Hợp viện kia, nên ta phải dự trữ sẵn thứ sương đêm khó kiếm vào mùa đông này.

Khi trời hửng sáng, ta chờ bên gốc cây tử đằng đến lúc người hầu sắc thuốc rồi mang đến để trước cửa phòng huynh ấy. Đợi người hầu đi rồi, ta liền đi đến cầm lấy chén thuốc mà đi vào bên trong. Đặt chén thuốc lên bàn, ta hít sâu mấy hơi để lấy can đảm rồi dùng cây kim đâm vào đầu ngón tay mình để máu chảy ra. Ta suýt chút nữa hoảng sợ đến mức bật khóc, nhưng vẫn cố gắng chờ máu nhỏ vào chén thuốc kia xong mới băng ngón tay bị thương lại. Sau khi đổ sương vào, chén thuốc đã sẵn sàng.

Ta lặp lại lần thứ hai trên cả thuốc cao bôi lên mắt.

Vậy mà đợi mãi cái người kia vẫn không chịu ra khỏi giường dùng thuốc. Ta thấy thuốc gần như nguội dần, liền bực bội đi đến giường, kéo màn che ra, xẵng giọng nói:

- Này, mặt trời đã lên cao hơn ngọn tre rồi mà huynh còn chưa chịu dậy sao?

- Cút đi, ta không muốn dùng thứ thuốc đó nữa đâu. - Huynh vùng vằng đáp lại từ trong tấm chăn dày cộm.

Cái đồ ỏng ẹo như nữ nhi này, huynh ấy giở chứng cho ai coi vậy hả?

Ta không bỏ cuộc dễ dàng, liền bưng chén thuốc đến trước mặt huynh ấy. Ai ngờ huynh ấy lại hất tay một cái, chén thuốc rơi xuống vỡ tan tành.

Sương đêm của ta, máu của ta, phút chốc là đi tong.

Ta tiếc đến tím tái mặt mày, thế mà huynh ấy vẫn dửng dưng như chưa từng có chuyện gì xảy ra, thậm chí còn thản nhiên nằm xuống ngủ tiếp. Ta lại quay sang thuốc bôi, cầm đến trước mặt huynh ấy mà kiên nhẫn khuyên bảo:

- Huynh mau bôi thuốc cho mắt khỏi đi.

Huynh ấy giựt lấy miếng thuốc cao, ném xuống đất rồi dùng chân đạp lên.

Thế là thuốc cao cũng chẳng xài được nữa.

Ta tức mình hét lên:

- Đồ xấu xa, ta mặc kệ huynh!

Dứt lời, ta quay lưng bỏ đi trong bực bội, không thèm nhìn lại tới lần thứ hai.

Vậy mà sáng sớm hôm sau ta lại tự động dậy sớm, mặc áo bông đi ra ngoài hồ sen. Huynh ấy cũng không phải dạng vừa, tổng cộng đã làm lãng phí hết gần cả trăm giọt máu và hơn cả chục buổi dậy sớm lấy sương đêm của ta. Thế mà ta chưa từng nghĩ đến chuyện bỏ cuộc, dù chỉ một lần. Có lẽ đó là do tính khí ngang bướng của ta, một khi đã quyết làm việc gì, thì phải làm cho bằng được.

Tuổi thơ của những đứa bé gái khác là chơi đồ hàng, là tập tành làm đẹp. Hoặc như tỷ tỷ của ta, là tập tành biến thành một tài nữ, thông thạo cầm kỳ thi hoạ. Còn tuổi thơ của ta thì lại dành cho huynh ấy, tập biến thành một “nhũ mẫu” riêng của huynh ấy, chịu đựng tính khí thất thường của huynh ấy suốt một thời gian dài.

Mùa đông lạnh lẽo đã qua, cây tử đằng cũng dần dần nở hoa.

Việc lấy sương cũng dễ dàng hơn mùa đông, vì để pha trà Long Đằng, nha hoàn trong phủ lúc nào cũng phải thu thập sương đêm. Ta không cần phải đích thân đi lấy sương, chỉ cần xin họ mỗi ngày để dành cho ta một lọ nước sương. Ta như ngày thường vẫn chờ dưới gốc cây cho tới lúc người hầu mang thuốc tới. Kết quả là ta làm được nguyên một cái vòng hoa tử đằng mà đội lên đầu. Tự ngắm hình bóng mình dưới mặt nước, ta thấy bản thân rất xinh xắn, nên cười vô cùng hí hửng.

Lúc mang thuốc đến trước mặt huynh ấy, ta đã có kinh nghiệm đến nỗi biết huynh ấy lúc nào sẽ vung tay mà tránh né từ trước. Thế nên huynh ấy chỉ có bỏ thuốc vào đúng cái ngày đầu tiên ta đến Nhã Hợp viện này, còn những ngày còn lại, ta đều có cách làm cho huynh ấy chịu bỏ thuốc vào miệng, không cho huynh ấy lãng phí máu và sương đêm của ta nữa.

Lúc thì ta cắn tay huynh ấy, lúc thì đè huynh ấy ra mà đổ thuốc vào mồm huynh ấy. Thậm chí còn có lúc ta xài ngược lại chiêu ăn vạ, nằm khóc lóc ngay trong phòng huynh ấy, khiến cho huynh ấy vì quá đau đầu mà phải uống thuốc. Nhưng hôm nay huynh ấy khắc hẳn ngày thường, ta chỉ vừa đưa thuốc đến thì đã cầm lấy mà uống ngay.

Ta ngạc nhiên nói:

- Hôm nay chắc trời mưa lớn.

Huynh ấy thậm chí còn không khó chịu trước thái độ chế giễu của ta, ngoắc tay ra hiệu cho ta đến gần. Khi ta đứng trước mặt huynh ấy rồi, huynh ấy đưa tay lên, lần mò từ bàn tay mà sờ đến tận mặt ta. Bị đụng chạm như vậy, ta cảm thấy rất nhột, liền bật cười khúc khích, làm huynh ấy phút chốc cũng bật cười. Nụ cười hiền lành của tiểu tử kỳ lạ ngày ấy lại một lần xuất hiện trước mặt ta, khiến ta thấy tim mình thoáng rung động.

Huynh ấy khẽ khàng cất tiếng:

- Nha đầu này, rốt cuộc muội làm bằng gì mà lại cứng đầu vậy? Ngay cả đá tảng còn không khó bảo bằng muội.

Ta thản nhiên đáp lại:


- Thế huynh làm bằng gì mà lại ngang bướng như vậy? Ngay cả con chó còn dễ bảo hơn huynh.

Huynh ấy lại bật cười, thuận miệng thốt lên:

- Mai hoa hay đào hoa thì cũng là xuân hoa (3).

Ta không hiểu được mấy thứ thơ văn đó, chỉ biết cười hì hì đáp lại.

Huynh ấy lại hỏi:

- Thời gian qua nhận sự giúp đỡ của muội mà vẫn chưa biết muội là ai? Tên là gì?

Ta không chút do dự đáp:

- Muội tên Tiểu Bối Tử, là nha hoàn trong nhà bếp.

- Tên nghe thật lạ.

Sao huynh ấy không nói thẳng ra là khó nghe, nhận xét này ta đã nghe nhiều rồi. Huynh ấy đột ngột chuyển chủ đề:

- Hôm nay thuốc không có mùi nữa. Ngược lại, còn rất thơm.

Ta chợt nhận ra chính là hương thơm toả ra từ vòng hoa tử đằng trên đầu ta.

Ta thích tử đằng vì màu sắc sang trọng của nó, chứ cực kỳ ghét hương thơm của nó. Bởi lẽ mỗi lần ngửi ta đều bị hắt hơi, giống hệt Ngô Mễ ngày xưa lúc ngửi y phục của huynh ấy. Nhưng nhờ vậy ta mới nhận ra, y phục của huynh ấy lúc nào cũng có mùi thơm đó, có lẽ đó là mùi thơm huynh ấy yêu thích. Vì ngửi thấy nó mà huynh ấy mới không cảm thấy mùi máu tanh trong thuốc nữa. Phút chốc cũng làm ta yêu thích hương thơm của tử đằng, ngày nào cũng bỏ loài hoa đó vào túi thơm luôn đeo bên mình. Thực ra sau này huynh ấy có nói với ta, ngày ngày uống thuốc huynh ấy đều ngửi thấy mùi máu tanh rất khó chịu, nên mới không chịu uống nữa.

Huynh ấy ghét cảm giác người khác hy sinh vì mình.

Thế nhưng huynh ấy lại yêu cái cách ta ngốc nghếch hy sinh vì huynh ấy. Ta không làm huynh ấy cảm thấy mắc nợ ta, huynh ấy chỉ… cảm kích ta. Huynh ấy có hỏi ta rất nhiều lần, tại sao lại làm như vậy.

Ta do dự mãi mới trả lời, chừng nào sáng mắt huynh ấy sẽ biết.

---
(còn tiếp)
>> Chương 5.2
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 5: BẤT HẠNH (2)

Bởi vì khi nhìn thấy rồi, huynh ấy sẽ nhận ra ta chính là đứa bé ở cùng huynh ấy trong chuồng chó năm xưa. Chiếc lục lạc mà huynh ấy tặng ta năm xưa, ta vẫn luôn cất giữ rất cẩn thận.

Ngày đó phụ thân cũng nói, nó là một vật rất quý báu của nhà họ Mạc, là bùa bình an của trưởng tử được lưu truyền trong dòng họ. Mạc thượng thư có một cái giống hệt như vậy, nên phụ thân nhận ra vật đó ngay tức thì, mới không bỏ qua ta, một đứa bé mồ côi quỳ khóc trên phố có chiếc lục lạc ấy, để rồi đoàn tụ với đứa con gái đã thất lạc bao năm của ông.

Chỉ có điều khi đưa huynh ấy về phủ, ông dặn dò ta không bao giờ được nhắc đến việc ta đã từng quen biết huynh ấy trong quá khứ. Có lẽ ông sợ ta bị gia đình Mạc thượng thư đang chịu án oan kia liên lụy. Nên việc ngày ngày ta đến chỗ huynh ấy, ta cũng không dám để lộ ra cho bất kỳ ai biết.

Nhưng mà so với trí tuệ của một đứa trẻ sáu tuổi, thì tất cả mọi người trong phủ đệ này chẳng qua đều đang mắt nhắm mắt mở mà dung túng cho ta thôi.

Bốn năm trời, ta ngày ngày đi lấy sương đêm, trích máu mình mà làm thuốc trị khỏi cho đôi mắt mù loà của huynh ấy. Hơn bất kỳ ai hết, ta là người mong mỏi huynh ấy một ngày sẽ lấy lại được ánh sáng nhất. Khi bắt đầu thân thiết với ta, huynh ấy luôn gọi ta là Tiểu Bối (4). Còn tặng cho ta một cái vòng bằng vỏ sò ngũ sắc (5) do huynh ấy tự tay làm.

Ta còn quá nhỏ để hiểu tâm ý đó, liền bật cười trêu chọc:

- Đây là cái vòng xấu nhất muội từng thấy đấy.

Vẻ thất vọng hiện rõ trên mặt huynh ấy, nhưng ta chỉ tiếp tục cười mà không nói gì. Đợi lúc huynh ấy uống thuốc xong rồi thiếp ngủ, ta nhẹ nhàng đến gần, cầm lấy hai bàn tay đã in hằn khá nhiều vết trầy xước của huynh ấy, rồi bôi thuốc nghệ giúp liền sẹo lên đó.

Ngày hôm sau, ta quét sạch hết đám vỏ sò vỏ ốc trang trí ấy ra khỏi sân vườn của Nhã Hợp viện. Vừa làm ta vừa lầm bầm:

- Mắt đã không nhìn thấy còn khoái bày vẽ, lỡ như huynh để vỏ sò cắt vào tay mà chảy máu, muội sẽ không thèm đến gần huynh nữa đâu. Huynh không biết muội sợ nhất là máu sao?

Có một hôm ta mang thuốc tới, thì thấy huynh ấy cầm một quyển sách lên mũi mà ngửi, dáng vẻ rất kỳ quái liền hỏi:

- Huynh đói đến mức muốn ăn sách sao?

Huynh ấy bật cười mà bảo:

- Phải chi muội biết chữ thì hay quá.

- Để làm gì?

- Huynh sẽ nhờ muội đọc sách cho huynh nghe, đã lâu lắm rồi huynh không được đọc sách. Huynh rất nhớ mùi thơm của giấy Tuyên và mực Hồ Nghiên.

Huynh ấy có sở thích về mùi hương thật là kỳ lạ.

Những thứ ấy chả thơm tho gì cả, bằng chứng là chỉ ngửi một chút khi mở quyển sách ra thôi mà hai mắt ta đã híp lại rồi. Thế nên ta mới không thèm học chữ. Tuy vậy, ta vẫn nghênh mặt lên mà đáp:

- Ai bảo huynh muội không biết chữ chứ. Để muội viết cho huynh xem nhé.

Huynh ấy rất hồ hởi, liền giơ bàn tay về phía ta.

Ta lấy trong ngực áo ra mảnh vải có chữ viết bằng máu mà huynh ấy đã để lại cho ta vào cái đêm hôm đó, trước khi rời đi mà không lời từ biệt. Sau đó ta dùng ngón tay chấm vào nước trà, hì hụi bắt chước theo những đường nét rắc rối trên đó mà viết lên lòng bàn tay huynh ấy.

Ban đầu huynh ấy còn trêu chọc khi cảm nhận được sự lóng ngóng của ta:

- Muội có biết viết thật không vậy?

Ta vẫn cố chấp viết.

Đến khi ta hoàn thành xong nét cuối cùng, huynh ấy đột nhiên nắm lắm tay ta, kéo ta vào lòng huynh ấy mà ôm chặt. Ta có hơi bất ngờ, vội hỏi:

- Huynh sao vậy?

- Cảm ơn muội.

- Sao lại cảm ơn muội?

- Vì đã lâu lắm rồi, huynh không được nghe lại tên của mình.

Ta gọi tên huynh ấy lúc nào chứ nhỉ? Ta chợt đoán ra, có khi nào trên mảnh vải đó, huynh ấy đã ghi lại chính tên của mình, để mai này ta sẽ không quên huynh ấy. Trong vô thức, ta cất tiếng gọi huynh ấy như cách ngày trước huynh ấy đã dạy ta:

- Quân ca ca.

Có một hôm, ta trốn buổi học cổ cầm, đến Nhã Hợp viện ngồi chơi với huynh ấy cả ngày rồi ngủ quên mất ở đó. Xui xẻo thay, hôm ấy phụ thân lại đến xem ta và tỷ tỷ học hành, Nhã thị vội vã cho người đi tìm ta. Cả phủ như náo loạn cả lên, nhờ vậy mà huynh ấy đã phát hiện ta là tiểu thư của Trương gia.

- Muội là con gái của Trương bá bá sao? - Huynh ấy hỏi ta.

Ta suỵt một tiếng, ra vẻ bí ẩn:

- Cái này là bí mật.

Huynh ấy bật cười bất lực:

- Huynh nghe bọn họ gọi muội là tiểu thư đấy. Muội không giấu huynh được nữa đâu.

Ta giận dỗi hỏi:

- Thế bây giờ huynh muốn sao?

- À không, chỉ là nếu vậy thì Tiểu Bối Tử đâu phải là tên thật của muội.

- Huynh muốn biết tên thật của muội sao?

- Ừ.

Ta đảo tròn hai mắt, sau đó tinh nghịch đáp:

- Tên của muội nằm trong bốn chữ “cầm vân hạc nhàn”.

Lúc ấy ta thậm chí còn không hiểu ý nghĩa của thành ngữ đó, chẳng qua là khi ta hỏi ý nghĩa tên của tỷ tỷ, thì tỷ ấy bảo lấy ý từ câu đó, ta cứ thế mà học theo thôi. Trong vẻ ngỡ ngàng, huynh ấy buột miệng nói:

- Trùng hợp thật, "cầm vân hạc nhàn" chính là ước mơ của huynh.

Trong ta lại hiện lên một quyết tâm, khi ta làm lễ trưởng thành, nhất định phải bắt phụ thân đổi tên cho ta. Tỷ tỷ đã là Hạc Nhàn rồi, thì ta sẽ làm Cầm Vân.

Vào sinh thần năm mười lăm tuổi của huynh ấy, ngoài món trứng gà đỏ ta làm cho huynh ấy như mọi năm, huynh ấy còn nhận được một món quà khác. Phụ thân huynh ấy được giải oan, từ nơi đi đày ở Du Sa ngoài Đông Hải được hoàng đế triệu về kinh thành, phục hồi chức vị. Hoàng đế còn chém đầu tên gian thần đã hãm hại thượng thư đại nhân, ban thưởng rất hậu cho nhà họ Mạc để bù đắp.

Huynh ấy sắp được đoàn tụ với gia đình.

Ta nhớ như in nụ cười rạng rỡ của huynh ấy lúc huynh ấy khoe với ta:

- Tiểu Bối, huynh đã có thêm một muội muội đấy.

- Huynh thích đến vậy sao?

- Ừ thì… huynh mong muội muội của huynh khi lớn lên sẽ ngoan ngoãn và nhân hậu giống như Tiểu Bối vậy.

Hoá ra huynh ấy chỉ luôn coi ta là muội muội thôi sao?

Trái với sự vui vẻ của huynh ấy, ta lại tiếc nuối nói:

- Thế là huynh sắp phải rời khỏi đây ư?

Huynh ấy không trả lời câu hỏi đó của ta, chỉ là sau cái ngày Mạc thượng thư cùng phu nhân đến phủ thừa tướng đón huynh ấy, thì huynh ấy đã không theo họ ra về. Dù cho đứa em gái nhỏ xíu vô cùng dễ thương của huynh ấy cứ bám riết lấy huynh trưởng sau khi được huynh ấy bế bồng, huynh ấy vẫn kiên quyết ở lại Nhã Hợp viện cho đến khi hai mắt khỏi hẳn.

Chỉ có ta là người duy nhất biết lý do huynh ấy muốn ở lại.

Tối hôm đó, ta lén trốn khỏi phòng mà đến chỗ huynh ấy. Ta muốn đến nói với huynh ấy điều ta luôn cất giấu trong lòng.

- Quân ca ca, muội yêu huynh. - Ta hùng hồn nói thật dõng dạc trước mặt huynh ấy.

Huynh ấy chỉ bật cười, vung nhẹ bàn tay trong không trung để tìm đến má ta, trêu chọc véo một cái mà hỏi:

- Muội còn nhỏ như vậy, thì biết gì là yêu thương chứ?

- Muội yêu huynh, giống như mẫu thân muội yêu phụ thân muội vậy. – Ta ngây ngô trả lời.

Phải, ta còn nhỏ như vậy, thì biết gì là yêu thương cơ chứ. Ta chỉ biết, trong ký ức mơ hồ của mình, ngày xưa, mỗi khi nhớ đến phụ thân, mẫu thân đều để dành cho ông những thứ tốt nhất.

Lúc ta ăn món gì ngon, mẫu thân đều nói phải nhớ mời phụ thân ăn cùng, cho dù phụ thân không có bên cạnh thì ông vẫn sẽ biết được. Lúc dắt ta vào chùa lễ phật, mẫu thân đều xin bùa bình an cho phụ thân, bởi vì bà bảo phụ thân làm việc lớn, sẽ nguy hiểm đến tính mạng, nên cần người cầu nguyện cho ông. Thậm chí cả lúc ta và mẫu thân không có chỗ để trú chân, mẫu thân vẫn lẩm bẩm cầu xin ông trời cho phụ thân sẽ không bị bệnh, đêm đến cho chăn ấm để đắp, mỗi bữa có cơm mà ăn no. Mẫu thân mà biết phụ thân đã làm thừa tướng, ăn ngon mặc đẹp, ở trong phủ đệ sang trọng nhất nhì kinh thành, tốt hơn cả vạn người thì chắc không cần phải phí hoài tâm sức như vậy đâu.

Tuy là thế, nhưng ta đã tự nhủ, đã yêu thương ai đó, thì phải giống như mẫu thân, một lòng một dạ vì người mình yêu, luôn nghĩ cho người đó trước bản thân mình. Ta vẫn nhớ rõ vào ngày hôm đó, chiếc bánh cam mà ta đang ăn dở, miếng ăn duy nhất và cuối cùng ta được phát trong ngày, dù bụng ta vẫn còn rất đói, ta cũng muốn đem cho huynh ấy. Thế thì… đó có phải là tình yêu hay không?

Ta ngưỡng mộ tình yêu mẫu thân dành cho phụ thân, nên cũng muốn bản thân mình có được một tình yêu khắc cốt ghi tâm như vậy. Có lẽ do lúc đó ta còn quá nhỏ để hiểu rằng, kết cục của việc yêu thương dại khờ như vậy, trước nay cũng chỉ có bất hạnh mà thôi.

Mạc thượng thư tuy chiều theo ý muốn của con trai mà cho huynh ấy ở lại trong phủ nhà ta, nhưng khác với thân phận là người ăn nhờ ở đậu như ngày trước, bây giờ huynh ấy đã là công tử nhà đại thượng thư. Cho nên có rất nhiều người muốn thay ta tận tâm chăm sóc huynh ấy.

Nhưng huynh ấy trước sau chỉ muốn một mình ta ở bên cạnh huynh ấy trong Nhã Hợp viện mà thôi. Tỷ tỷ cũng hay hỏi han ta về huynh ấy, như ngày thường huynh ấy thích làm gì, ăn gì, hay có thói quen nào. Ta và tỷ tỷ vốn thân thiết, đêm đêm đều ngủ cùng nhau, nên có bao nhiêu chuyện ta đều tâm sự với tỷ ấy. Ta còn cho tỷ ấy xem chiếc lục lạc mà huynh ấy tặng ta ngày xưa.

Vì ta vốn không biết đọc chữ, nhưng lại có trí nhớ tốt nên tỷ tỷ thường đọc thơ cho ta nghe, bắt ta học thuộc để đến đọc cho huynh ấy mỗi ngày. Huynh ấy vui mừng ra mặt vào lần đầu tiên nghe ta đọc thơ. Thấy huynh ấy vui như vậy, bao nhiêu bài thơ tỷ tỷ đọc, ta đều cố gắng học thuộc lòng. Vậy mà ta đã không biết bản thân vô tình kéo huynh ấy và tỷ tỷ, càng lúc càng gần nhau hơn, dù bọn họ chưa từng một lần nói chuyện.

Sinh thần mười tuổi của ta, ta được nghe phụ thân báo một tin vui. Phụ thân sẽ dẫn ta ra mắt nãi nãi, vì ta sắp được trở thành đại tiểu thư của Trương gia. Phụ thân còn tổ chức một buổi tiệc sinh thần linh đình cho ta. Tiệc mừng ngoài họ hàng thì còn mời rất nhiều bằng hữu của phụ thân, toàn là những vị quan đại thần trong triều. Thế mà chẳng hiểu sao ngay cả đương kim thánh thượng cũng nổi hứng muốn đến phủ chúc mừng sinh thần ta. Ai ai cũng bảo là ta may mắn, vì biết đâu hoàng thượng đang có ý định tuyển thái tử phi cho thái tử trong số con gái các đại thần, mới tỏ ra nhiệt tình như vậy, do đã nhắm đến Trương gia ta từ trước.

Nhưng lúc đó ta mới biết trong cái may cũng có cái hoạ là như thế nào.

Buổi sáng ngày sinh thần, cả phủ bận rộn chuẩn bị. Sau khi khoe khoang với huynh ấy về buổi tiệc tối nay xong, ta liền hứa chắc nịch:

- Sau khi tiệc tàn muội nhất định sẽ đến thăm huynh, đừng buồn nhé.

Huynh ấy khẽ lắc đầu, lấy tay xoa đầu ta:

- Sinh thần năm sau, rồi còn những năm sau nữa của muội, lúc đó huynh đã sáng mắt rồi, huynh nhất định sẽ đích thân tổ chức tiệc chúc mừng cho muội.

Trong lòng ta hồ hởi chờ đến sinh thần những năm sau còn hơn cả sinh thần năm nay.

Lúc về đến phòng, ta thấy mọi rèm cửa đều được buông xuống, cả không gian đều rất kín đáo. Ngay cả những nha hoàn hầu hạ ngày thường cũng không thấy bóng dáng. Khiến ta tự hỏi tỷ tỷ và Nhã thị đang làm gì vậy nhỉ?

Nghe đằng sau bức bình phong có tiếng nói chuyện rì rầm, ta liền lon ton chạy đến. Chẳng ngờ lại nhìn thấy một cảnh tượng rất kỳ quái. Tỷ tỷ nằm trên một cái phản gỗ, cả người chẳng mặc gì, hai chân giang ra để cho một người phụ nữ nào đó xem xét phần hạ thân rất lâu.

Thấy ta xuất hiện làm ồn, Nhã thị có chút không vui liền kéo ta ra ngoài.

Ta thắc mắc hỏi:

- Mẫu thân ơi, tỷ tỷ làm gì vậy?

- À, tỷ tỷ lớn rồi, phải làm kiểm tra.

- Kiểm tra gì vậy?

- Mai mốt lớn rồi Tiểu Bối Tử sẽ biết.

Thế là ta không hỏi nhiều nữa.

Sau khi người phụ nữ mặt khó đăm đăm kia xong việc, cho phép tỷ tỷ mặc lại y phục thì ta vô tình nhìn thấy sau lưng tỷ tỷ, ngay phía vai trái có một cái bớt hình ngọn lửa nhìn rất lạ. Người phụ nữ kia đợi tỷ tỷ mặc xong y phục rồi, thì lấy ra một hộp mực đỏ, cầm bút lông mà chấm một nốt đỏ lên tay trái của tỷ tỷ.

Một lúc sau, nhân lúc bà ta nói chuyện với Nhã thị, ta liền mon men đến gần nghịch thử thứ mực màu đỏ son rất đẹp ấy. Ta chộp lấy một tờ giấy Tuyên gần đó, bắt đầu vẽ nghuệch ngoạc mấy nét. Tỷ tỷ nhìn thấy có nhắc nhở ta vài câu, nhưng ta đã nghịch rồi thì đời nào chịu ngừng. Nhớ lại cái bớt kia trên vai tỷ tỷ, ta cố gắng vẽ lại y chang. Khi người phụ nữ kia quay lại, nhìn thấy hình vẽ kia liền thốt lên:

- Trời ơi, sao tiểu thư lại vẽ ký hiệu đó.

Ta vô tư đáp:

- Tỷ tỷ có cái bớt hình giống vầy nè, dùng mực đỏ vẽ lên là giống hệt ngọn lửa.

Nhã thị trong một lúc đã sầm mặt, vội kêu nha hoàn tiễn người phụ nữ đó ra về. Ta thì trong một lúc chẳng hiểu chuyện gì, chỉ có chút hí hửng khi bà ta quên mang hộp mực đỏ ấy theo. Thấy ta vẫn mải mê nghịch hộp mực ấy, Nhã thị tự nhiên hỏi:

- Con có muốn được chấm mực đỏ lên da giống tỷ tỷ không?

Nhìn sang cái vết đỏ người phụ nữ kia chấm lên tay tỷ tỷ, ta thích chí gật đầu. Nhã thị từ tốn ngồi xuống ghế, kéo ta đến đứng trước mặt bà ấy, chỉ lên hình ta đã vẽ trên giấy mà hỏi:

- Con muốn vẽ hình thế này không?

Ta lại gật đầu.

- Hình vẽ đẹp thế này phải nên vẽ chỗ nào bắt mắt một chút để mọi người đều nhìn thấy. Hay là ta vẽ ở giữa trán con nhé.

Ta không do dự mà gật đầu.

Ta không hề biết, đó chẳng phải là hình ngọn lửa nào cả, mà là hình đuôi cửu vĩ hồ, ký hiệu cấm kị ở Trần quốc này. Bởi vì năm xưa khi hoàng đế mới lên ngôi, từ dưới đất mọc lên một cột đá lớn, viết rằng Trần quốc sẽ diệt vong về tay một nữ nhân có ký hiệu đó trên người, bởi vì cô ta là chuyển thế đầu thai của hồ ly Đát Kỷ.

Đến lúc Nhã thị đã vẽ xong, ta còn vui vẻ soi mình trong gương, tự thấy bản thân rất đẹp mà thích chí nói lớn:

- Con cảm ơn mẫu thân.

Buổi tiệc hôm đó, ta vô tư tiến đến trước mặt hoàng thượng với hình vẽ ấy trên trán. Ngay ngày hôm sau, ta đã bị tống giam vào ngục. Xung quanh nhà ngục, người ta còn dán cả đống bùa chú các loại, vì sợ ta chính là yêu nữ. Khi phụ thân đến thăm ta, ta ra sức giải thích:

- Cái này không phải bớt đâu, chỉ là hình vẽ mà thôi. Là mẫu thân đã vẽ cho con, tỷ tỷ mới là người có cái bớt này, ở ngay sau lưng tỷ tỷ có một cái y chang thế này, phụ thân hãy đi kiểm chứng đi, rồi nói với hoàng thượng rằng con không phải là yêu nữ.

Phụ thân nhìn ta bằng ánh mắt vô cảm, lạnh lùng đáp:

- Nếu chỉ là hình vẽ, tại sao rửa nước bao nhiêu lần cũng không ra. Còn tỷ tỷ của con, sau khi nghe tin con bị tống vào ngục, do quá thương tâm mà làm rơi bàn ủi than lên người, cả lưng đều bị phỏng, con làm sao bảo phụ thân kiểm chứng cái bớt kia được nữa đây.

- Phụ thân là phụ thân của tỷ ấy mà, làm sao không biết tỷ ấy có bớt trên lưng hay không được. Còn nữa, suốt bốn năm qua ở phủ, trên trán con chẳng có cái bớt nào cả, chẳng lẽ phụ thân lại không nhớ sao? - Ta gần như đã gào lên với phụ thân.

- Phụ thân chẳng hiểu con đang nói gì cả.

Phụ thân dửng dưng nói một câu như vậy, rồi quay người rời khỏi nhà ngục, mặc cho ta có gào khóc gọi ông bao nhiêu lần.

Mấy ngày sau, hoàng thượng hạ lệnh giải ta đến Hồi Quang Điện, để các đại thần cùng bàn cách xử trí ta, yêu nữ của Trần quốc. Giữa đại điện rộng lớn đó, không một người nào là không nhìn ta với ánh mắt thù ghét. Ta chỉ biết chạy đến, quỳ dưới chân phụ thân, lại tiếp tục gào khóc:

- Phụ thân, phụ thân mau giải thích với mọi người đi, con không phải yêu nữ, con là con gái của phụ thân cơ mà.

Ông không nhìn ta lấy một lần, chỉ liên tục dập đầu trước mặt hoàng đế, miệng nói lớn:

- Thần bất tài, bao che cho yêu nữ, hại dân hại nước, tội thần đáng chết.

Hoàng đế đập bàn một tiếng thật lớn, nghiêm giọng hỏi:

- Trương Quyền, con gái của khanh một mực khẳng định đó chỉ là hình vẽ. Khanh giải thích làm sao đây?

- Bệ hạ tha tội, vì sợ bị xử phạt mà con bé mới nói dối như vậy. Thực ra thì khi sinh ra, nó đã có cái bớt đó trên người, nên mẫu thân của nó mới phải đem nó đi thật xa khỏi kinh thành này để không bị phát hiện mà vạ lây cả Trương gia. Sau này, mẫu thân nó qua đời, thần vì một phút hồ đồ, đã đem nó về nuôi dưỡng, mà không ngờ đến ngày hôm nay.

Lúc đó ta không biết, cùng với lời khai của phụ thân, tất cả người hầu trong phủ, bao gồm Nhã thị và tỷ tỷ, ai ai cũng đều bảo rằng ta đã có ký hiệu ấy trên trán từ rất lâu rồi. Những người có thể làm chứng rằng ký hiệu đó không phải là từ khi ta sinh ra đã có, cũng chẳng còn ai. Mạc Thịnh Quân thì bị mù, mẫu thân và tên la đạo ngày đó hành hạ ta, đã chết từ lâu. Nếu Ngô Mễ biết nói chuyện, ta nhất định sẽ đi tìm nó về, để nó minh oan cho ta.

Ít nhất bọn họ cũng sẽ không để ta gánh chịu hàm oan một cách vô lý thế này.

Nhiều đại thần nghe phụ thân ta nói vậy thì tiếp tục lên tiếng:

- Thế thì đúng là thừa tướng đã bao che cho thê tử và con gái rồi.

- Đáng lẽ từ khi sinh ra, nếu phát hiện có dấu hiệu đó trên người thì phải giết không tha mới là một trung thần.

- Hay là thừa tướng ngay từ đầu đã muốn học theo Liễu Khiêm năm xưa, không muốn làm trung thần nữa.

Phụ thân ta nghe đến đó, tiếp tục dập đầu trước hoàng đế, một mực khẳng định:

- Xin bệ hạ tin thần, thần trước nay chưa từng có suy nghĩ đại nghịch bất đạo đó. Chẳng qua vì là cốt nhục ruột thịt của thần, làm sao thần nỡ xuống tay được. Ngày hôm nay thần đã biết sai, xin giao con bé cho bệ hạ xử phạt, muốn chém muốn giết, thần cũng dám không can dự.

Khoảnh khắc đó, cả đất trời như sụp đổ trước mắt ta, ngay cả phụ thân ruột của ta mà còn không thể cứu ta, thì còn ai muốn giúp ta bây giờ.

Ấy vậy mà sau khi đã bị nhốt vào ngục để chờ đến ngày bị hành hình, ta lại nghe nói rằng Tử Minh Họa Vi chân quân trên núi Doãn Duật biết chuyện của ta, muốn xin hoàng thượng mở lòng từ bi, tha cho ta một con đường sống, để ta được làm đệ tử của ông. Ông hứa rằng nhất định sẽ mang đạo hạnh mà ông tu luyện được suốt chục năm qua để độ kiếp cho ta, giúp ta và Trần quốc thoát khỏi lời nguyền đáng sợ kia.

Hoàng đế cuối cùng cũng đồng ý, vì ta chỉ là một đứa trẻ nên bọn họ quyết định nhân từ tha cho ta một con đường sống.

Trước khi lên đường đến núi Doãn Duật, ta nghĩ mình sẽ không bao giờ trở về được nữa, nên cầu xin phụ thân cho ta đến nói một lời từ biệt với huynh ấy. Được sự cho phép của phụ thân, ta không màng tới việc chuẩn bị hành lý mang theo mà chỉ tức tốc chạy đến Nhã Hợp viện.

Ta phải gặp huynh ấy trước khi quân lính kéo tới áp giải ta đi.

Nghe người hầu trong phủ nói hôm nay là ngày đại phu đến cắt băng mắt cho huynh ấy, công sức suốt bốn năm trời ta ở bên huynh ấy, chăm sóc huynh ấy, chỉ mong chờ huynh ấy sáng mắt, cuối cùng cũng đợi đến lúc thấy được kết quả. Đây cũng có thể là lần cuối cùng ta được gặp huynh ấy, nên ta quyết tâm phải đến trước mặt huynh ấy, cho huynh ấy được nhìn thấy ta. Vậy mà khi ta đứng sau bức bình phong trong phòng, chỉ cách huynh ấy có vài bước, ta đã không tài nào cất tiếng gọi huynh ấy, để huynh ấy biết đến sự tồn tại của ta.

Bởi vì miệng của ta đã bị Nhã thị bịt chặt, hai tay hai chân ta bị đám tỳ nữ của bà ấy suýt nữa bẻ gẫy để không cho ta chống cự. Qua lớp vải mỏng nơi bình phong, ta thấy đại phu đứng bên giường, từ từ giúp huynh ấy gỡ lớp băng cuối cùng trên mắt xuống. Thứ băng gạc đó, cả mùi thuốc nồng nặc ấy, là những thứ ta đã quen thuộc suốt bốn năm trời.

Đôi mắt huynh ấy, từng chút, từng chút khó khăn cử động.

Ta như cảm nhận được từng nỗi đau đớn và niềm hy vọng của huynh ấy khi huynh ấy cố gắng mở mắt ra. Huynh ấy từng nói với ta rất nhiều lần, người huynh ấy muốn nhìn thấy đầu tiên sau khi sáng mắt, chính là ta.

Huynh ấy muốn biết khi cười trông ta rạng rỡ đến thế nào.

Huynh ấy muốn biết khi khóc trông ta đau đớn đến thế nào.

Để huynh ấy có thể cùng ta chia sẻ mọi chuyện, an ủi ta, che chở ta.

Huynh ấy muốn biết… Tiểu Bối của huynh ấy, rốt cuộc là cô gái như thế nào.

Để huynh ấy có thể nhớ đến ta, từng giây từng phút, luôn khắc họa hình bóng ta trong tim.

Khi mắt huynh ấy đã hoàn toàn mở ra, đại phu ôn tồn hỏi:

- Công tử có nhìn thấy gì không?

Huynh ấy khẽ khàng gọi:

- Tiểu Bối!

Một thân ảnh bước đến bên cạnh huynh ấy, nhanh nhẹn nắm lấy tay huynh ấy. Trong một khoảnh khắc, nụ cười trên môi huynh ấy như được hàng vạn tia nắng thắp sáng, rực rỡ đến ấm áp cả trái tim. Huynh ấy đưa tay lên, vuốt nhẹ tóc mai của người trước mặt, giọng nói từ lúc nào đã trở nên nghẹn ngào:

- Muội… muội là Tiểu Bối đấy sao?

- Quân ca ca.

- Tiểu Bối của huynh, đã lớn lên rồi… đã trở nên xinh đẹp thế này rồi sao?

Giây phút nhìn thấy huynh ấy vui mừng ôm chầm lấy người trước mặt vào lòng, tim ta như vỡ ra làm trăm mảnh, nát tan như thể không có cách nào hàn gắn được nữa. Từng lời, từng chữ huynh ấy nói với tỷ tỷ, cả đời này ta không quên giờ quên được:

- Muội đã từng nói, vào ngày huynh nhìn thấy muội, sẽ cho huynh biết tên của muội. “Cầm vân hạc nhàn”, muội tên là gì?

- Là Hạc Nhàn, tên của muội là Trương Hạc Nhàn. - Tỷ tỷ bẽn lẽn đáp lời.

Vào ngày hôm đó, ta đã đánh mất huynh ấy, Quân ca ca của ta… vĩnh viễn.

Họ là người ta từng coi như là người thân, từng rất tin tưởng, đem lòng yêu quý và trân trọng. Thế mà tất cả đều lập ra âm mưu hãm hại ta, cướp đoạt mọi hạnh phúc của ta. Khi quân lính của triều đình tới phủ, áp giải ta lên đường đến núi Doãn Duật, ta vẫn còn cố chấp ngoái đầu lại, ngu ngốc gào khóc mà gọi phụ thân, mẫu thân, tỷ tỷ và Quân ca ca.

Nhưng tất cả bọn họ, đều ngoảnh mặt đi, hoặc là, thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của ta.

Ta đã khóc nhiều đến nỗi, nước mắt hoàn toàn khô cạn.

Từ sau ngày hôm đó, ta đã không thể nào rơi nước mắt lần nữa.

Bởi vì ta nhận ra, bản thân ta đã quá bất hạnh, cho dù có rơi nước mắt, thì ông trời cũng chẳng đoái thương đến ta, dù chỉ là một lần.

***
(hết chương 5)​


Chú thích:

(1) Tam tòng tứ đức: quy tắc lễ giáo phong kiến mà nữ nhi ngày xưa phải tuân theo. Tam tòng gồm “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà nghe lời cha, xuất giá nghe lời chồng, chồng chết thì nghe lời con trai). Tứ đức gồm “công, dung, ngôn, hạnh.” (thủ công, dung nhan, ngôn từ và phẩm hạnh)

(2) Giờ Sửu: khoảng hai giờ sáng.

(3) Nguyên văn là câu thơ “mai hoa dĩ, đào hoa dĩ, nhất nhất dĩ xuân hoa”: ý chỉ những sự việc có cùng chung bản chất, cho dù bên ngoài có khác biệt ra sao. Mai hoa vốn là hoa của người quân tử, đào hoa là hoa của nữ nhi, đều là những loại hoa nở vào mùa xuân, nên ý sâu xa của câu thơ đó là sự đồng điệu về tâm hồn của một cặp đôi được sinh ra dành cho nhau.

(4) Tiểu Bối: nghĩa là con sò nhỏ.

(5) Vỏ sò ngũ sắc: vỏ của con mài, khi nắng chiếu vào thường phản xạ nhiều màu, hay được dùng rải trong các chậu cây cảnh và vườn hoa để giữ đất không bị nước mưa cuốn trôi đi.

>> Chương 6.1
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 6: TAM SƯ HUYNH (1)

Lần đầu tiên ta gặp Tử Minh Họa Vi chân quân diễn ra không mấy tốt đẹp.

Lúc đó ta không nhận thức được nếu không có ông thì ta đã hoá người thiên cổ từ lâu. Thế nên một chút biết ơn ta cũng không có, lại đem tất cả những uất ức ta đã gánh chịu, trút hết lên những người ở cùng ta trong đền Bạch Cư trên núi Doãn Duật đó.

Khi người của triều đình đưa ta đến trước mặt chân quân, một tiếng sư phụ ta cũng không chịu gọi, còn lấy tay giựt chòm râu bạc của ông lúc ông cúi người xoa đầu ta. Vị quan phụ trách rối rít xin lỗi chân quân, khi trở về lại được dịp nói xấu ta một phen.

Trước ta, chân quân đã nhận hai đồ đệ nam, một người tên Lục Lăng, một người tên Tử Kỳ. Đó không phải tên thật của họ, mà chỉ là pháp danh sư phụ đặt cho.

Ta nghe ra mà chỉ toàn thấy màu mè (1).

Sau khi người của triều đình đã rời khỏi núi Doãn Duật, ta lại càng không nghe lời. Mấy tiếng sư phụ, sư huynh gì đó, ta nhất quyết không chịu gọi. Họ bắt ta ăn rau, ta đòi ăn thịt. Họ bảo ta đọc kinh cầu nguyện, ta lại phá tan cả điện thờ. Họ dặn ta hằng ngày phải giữ thân thể sạch sẽ, ta lại nhất quyết không thay đồ tắm rửa.

Mỗi ngày khi chân quân dạy các sư huynh đọc kinh thư, luyện võ công, ta lại chạy vòng vòng quanh đền Bạch Cư, quậy phá một phen, giấu hết đồ đạc của họ đi. Hôm thì vài cuốn sách của đại sư huynh, hôm thì cây trâm giữ tóc của nhị sư huynh, đến cây phất trần của sư phụ ta cũng không tha. Thật ra từ lúc lên núi ta đã biết họ chẳng phải là thần tiên gì cả, chỉ là những con người tu đạo, nói trắng ra thì cuộc sống… tẻ nhạt hơn người bình thường gấp trăm lần. Ngoài mấy việc tu thân, dưỡng tính, luyện tập những thứ học vấn phi thực, họ hầu như chẳng làm gì cả.

Nhờ ta mà họ có chuyện để làm đấy chứ!

Sư phụ là người tu đạo, tất nhiên không muốn đối xử tàn nhẫn với ta. Hai vị sư huynh vốn lớn hơn ta rất nhiều, đều là thanh niên trưởng thành nên chẳng thèm chấp nhặt những trò nghịch ngợm của ta. Ba người bọn họ, bị ta giở đủ mọi thủ đoạn từ khóc lóc đến quậy phá, cầu xin họ thả ta về nhà. Mà tính ta một khi đã quyết tâm làm gì, sẽ làm cho bằng được. Cứ thế mà cuối cùng ta đã chọc cho họ mất kiên nhẫn, quyết định phải phạt ta. Ta còn tính làm cho họ nổi khùng lên, không chịu nổi ta nữa mà cho ta xuống núi.

Đại sư huynh dùng roi mây đánh mấy cái vào chân ta, ta không khóc.

Nhị sư huynh thử bỏ đói ta mấy hôm, ta không khóc.

Sư phụ bắt ta quỳ trước bàn thờ hai canh giờ, ta không hề rơi một giọt lệ nào.

Thậm chí ta còn tìm cách trốn đi vào ban đêm khi họ đã ngủ, nhưng giữa chừng bị hai sư huynh bắt gặp, cuối cùng họ đành phải ngủ trước cửa phòng để canh chừng ta. Có cảm giác mình vừa tìm được ba người bảo mẫu mới, ta cảm thấy rất đắc ý. Thế mà cái cảm giác ấm ức của ta vẫn không nguôi đi chút nào, bởi vì bọn họ không ghét ta. Khi ta làm sai thì có mắng đó, đánh đó, nhưng mắng được có hai câu, đánh phất phơ vài cái thì lại thôi. So với những việc tàn ác tên la đạo ngày xưa đã làm với ta thì chẳng thấm vào đâu.

Ngay cả sư phụ, sau khi phạt ta quỳ, lại lấy thuốc bôi lên đầu gối bị bầm cho ta, rồi nhìn ta bằng ánh mắt xót xa mà nói:

- Nha đầu ngốc, ngay cả khóc mà con cũng không khóc, thì làm sao sư phụ chữa khỏi tâm bệnh cho con đây.

Ta ngang ngược đáp trả:

- Con không có bệnh.

Sư phụ lại chỉ tay vào ngực trái của ta, nơi trái tim ta lúc nào cũng bị một thứ gì đó rất nặng đè lên:

- Ở đây… đau lắm phải không?

Giây phút đó, mọi tâm tư của ta đều bị sư phụ nhìn thấu.

Nhưng ta vẫn nhất quyết không mở lòng với mọi người. Ta sợ bị lừa dối thêm một lần nữa.

Có vẻ sư phụ và hai người sư huynh đã tìm rất nhiều cách để ta chịu hoà nhập với cuộc sống ở đây. Nhưng rốt cuộc tròn hai tháng kể từ lúc ta đặt chân lên núi Doãn Duật, khi thấy ta vẫn lầm lì, cả ngày không chịu nói chuyện với ai, hễ bảo làm gì thì sẽ làm ngược lại, bướng bỉnh không nghe lời, họ dường như đã bỏ cuộc.

Bằng chứng là họ đã mặc kệ ta.

Sau một đêm ngủ dậy, họ đã biến mất, để lại một mình ta trong đền Bạch Cư rộng lớn. Ta đã cười khoái chí cả một ngày trời vì nghĩ rằng cuối cùng họ đã không thể chịu nổi ta, quyết định bỏ ta một mình. Nhưng sang tới ngày thứ hai, ta đã không cười được nữa. Không có đại sư huynh hiền như cục đất để ta chọc ghẹo. Không có nhị sư huynh độc miệng nhưng thiện tâm, lúc nào cũng nấu đồ ăn ngon cho ta ăn. Không có cả sư phụ lúc nào cũng tìm cách xoa đầu ta, nhưng lại bị ta giật đứt mấy sợi râu dài của ông.

Ta cảm thấy thật trống vắng.

Ta đã tính nhân cơ hội này bỏ trốn xuống núi, nhưng rốt cuộc khi đêm đến, nghe tiếng chó sói trên núi tru mấy tiếng, ta lại trốn vào phòng sư phụ, không dám ra ngoài nửa bước. Sang đến ngày thứ ba, ta mềm lòng thừa nhận ta có chút ít nhớ họ. Thế nên khi vừa thấy ba bóng người mặc áo trắng đẩy cửa lớn bước vào, ta đã nhảy bổ ra sân đón họ.

Ta gần như hỏi không kịp thở:

- Tại sao không nói lời nào mà đã bỏ đi như vậy? Hằng ngày không ai nấu cơm, tối đến chó sói kéo vào nơi này thì biết làm sao?

Nhị sư huynh cười gian mà hỏi:

- Tiểu Bối Tử nhớ sư phụ các và các sư huynh rồi sao?

Ta vội vã phủ nhận:

- Không thèm.

Nói rồi ta vùng vằng bỏ vào trong.

Nhưng rốt cuộc là ta vẫn giả vờ chạy lăng xăng trong tiền sảnh để nghe bọn họ nói chuyện, để biết mấy ngày qua họ đã đi đâu. Đại sư huynh nhìn bộ dạng đó của ta, bật cười mà bảo:

- Sư phụ và sư huynh xuống núi bắt yêu quái, có mang quà về cho Tiểu Bối Tử đấy.

Ta tò mò nhìn ra bên ngoài theo hướng tay đại sư huynh chỉ, thì thấy một kẻ lù lù tiến đến trước mặt ta. Ban đầu ta còn lo sợ đó là yêu tinh, nhưng thấy y mang dáng vẻ của một con người, thì đã lấy lại bình tĩnh mà nhìn thẳng vào y.

Chỉ là cách ăn mặc của y có chút kỳ quái.

Không giống sư phụ và các sư huynh, lúc nào cũng mặc trang phục màu trắng đặc trưng của sư môn, thể hiện sự thanh khiết của tâm hồn người tu đạo. Khắp người y toàn là một màu đen, võ phục của y màu đen, khuôn mặt bị che kín bằng một chiếc khăn màu đen, bên ngoài y còn đội một chiếc mũ trùm có phủ tấm mạn màu đen xung quanh.

Thế này thì làm sao thấy đường mà đi nhỉ?

Ta tiến đến gần, hiếu kỳ thử đưa tay chọc chọc vào người y. Y không phản ứng gì, chỉ đứng im như tượng gỗ.

Ta hỏi đại sư huynh:

- Người này là ai vậy?

- Sư huynh nói rồi, là yêu quái sư phụ mới thu phục được, đem về làm quà cho muội.

- Thế này mà gọi là quà sao? Chẳng thú vị gì cả.

Nhị sư huynh tiếp lời:

- À, người này từ nay sẽ là thần hộ mạng của muội.

- Thần hộ mạng?

- Từ nay về sau, hắn sẽ luôn ở cạnh muội, bảo vệ cho muội. Khi muội làm sai, không nghe lời sư phụ và sư huynh, thì bọn ta sẽ không đánh mắng muội nữa, bọn ta sẽ đánh hắn.

Ta nhướng mày hỏi:

- Hắn chịu sao?

- Bọn ta đã yểm bùa lên người hắn rồi, hắn sẽ tuyệt đối nghe lời.

- Bùa đâu muội chẳng thấy?

- Chính là cái mũ trùm và khăn che mặt của hắn đấy, muội tuyệt đối không được gỡ ra, nếu không hắn sẽ biến mất.

Ta cứ tưởng sư phụ và các sư huynh đang đùa giỡn nên không hề có ý định tin lời họ. Cái người kỳ quái mặc đồ đen kia đi theo ta suốt ngày, chỉ trừ lúc ta vào nhà xí hay phòng tắm thì mới đứng bên ngoài cửa, còn lại lúc nào cũng bám dính lấy ta. Cho rằng sư phụ tìm ra trò mới để quản thúc ta, nên ta không thèm để tâm. Ngày hôm sau, ta vẫn tiếp tục không nghe lời. Sư phụ gọi ta đến chính điện tĩnh tâm, ta không đi. Bọn họ quả thật không la mắng ta, mà chỉ lôi cái người mặc đồ đen kia ra ngoài sân.

Đại sư huynh một chưởng, nhị sư huynh một chưởng, đánh cho y đập cả người xuống nền đất, nghe thấy cả tiếng xương cốt gãy.

Ta hoảng hồn một phen, vội la ầm lên:

- Các người muốn giết người sao?

Sư phụ thản nhiên nói:

- Tội không nghe lời sư phụ, sẽ bị xử phạt như vậy. Chẳng qua vì con còn quá nhỏ, lại là nữ nhi, hai sư huynh không xuống tay với con được. Bây giờ có kẻ này rồi, chỉ cần là con làm sai, hắn sẽ phải chịu phạt.

- Ở đâu ra chuyện vô lý như thế?

- Đệ tử mà cãi lời sư phụ mới là vô lý.

Lần đầu tiên sư phụ cãi chày cãi cối với ta đến cùng, làm ta tức đến nỗi không nói nên lời. Cho rằng bọn họ chỉ hù doạ ta, ta đóng cửa trốn biệt trong phòng. Đến giờ ăn cơm, thấy chỉ có rau và đậu hũ, ta bỏ đũa không thèm ăn nữa. Đại sư huynh và nhị sư huynh như có chuẩn bị từ trước, lôi ra hai cây gậy thật lớn, đè người kia xuống đất, đánh cho y mấy gậy liền.

Ta hoảng sợ chạy lại ngăn họ:

- Đừng đánh nữa.

Nhị sư huynh dửng dưng nói:

- Không chịu ăn cơm, phạt mười gậy.

Bọn họ thật sự đánh xong mười gậy mới dừng tay.

Ta quỳ xuống bên cạnh người kia, rối rít xin lỗi y:

- Xin lỗi ngươi, ta không nghĩ là bọn họ sẽ đánh ngươi thật.

Người đó không trả lời, chỉ ho khùng khục vài cái trong cổ họng, sau đó đưa một bàn tay lên xoa đầu ta. Làn vải mỏng nơi mũ trùm của y bị một cơn gió nhẹ vô tình lướt qua lúc đó tốc lên, ta thấy một đôi mắt nhìn ta rất đỗi dịu dàng. Ta ngây người mất một lúc, sau đó vội vàng lấy hai tay bịt mắt lại, la lớn:

- Cứu muội với, yêu quái muốn mê hoặc muội.

Hai sư huynh được một phen cười no bụng trước sự ngờ nghệch của ta.

Tối hôm đó, ta giả vờ đi ngủ. Đợi qua giờ Tuất ba khắc, sư phụ và các sư huynh đều ngủ hết rồi, ta mon men leo xuống giường, đến chỗ tên yêu quái đang ngồi xếp bằng ngay cái trường kỷ ở đối diện giường ta. Ta kéo vạt áo y, gọi nhỏ:

- Này, dậy đi.

Thấy y khẽ động đậy, ta liền nắm lấy tay y, lôi y đi ra ngoài cùng ta. Tên này quả nhiên rất biết nghe lời, y không hề ngăn cản ta lén lút kéo y ra khỏi khuôn viên của đền Bạch Cư mà vào rừng. Đi được một quãng, cảm thấy đã đủ xa, ta thả tay y ra rồi nói:

- Từ giờ ngươi được tự do, đừng ở lại đây để bọn họ bắt nạt ngươi nữa.

Y không đáp lời ta, chỉ đứng lặng im một chỗ, trong đêm tối vô tận, ánh trăng đã biến bóng hình cao lớn của y trở nên sừng sững.

Giống hệt một cây cổ thụ vững chãi mà ta muốn dựa vào cả đời này.

Thấy y không phản ứng gì, ta mất kiên nhẫn nhắc:

- Mau đi đi.

Y vẫn không nhúc nhích.

Ta chợt nhớ ra, sư huynh nói bọn họ đã yểm bùa lên người y, có khi nào vì vậy mà y không đi được hay không? Thế là ta hít sâu một hơi để lấy can đảm, sau đó tiến lại gần y, nhón chân, giơ tay lên định giựt cái mũ trên đầu y xuống. Cơ mà rốt cuộc là ta với không tới, vì y cao quá!

Thấy ta cứ với với tay như cầu cứu, y không hiểu chuyện gì, lần đầu tiên cất tiếng hỏi ta:

- Muội muốn gì?

- Cúi người xuống, muội sẽ nói cho huynh nghe.

Y thật sự nghe lời, cứ thế mà cúi xuống. Ta lại vung tay một cái thật mạnh, làm chiếc mũ trùm của y bay lên, nhưng đồng thời ngay lúc đó, trước mắt ta tối đen một mảng, tiếng gì đó sắc lạnh lướt qua tai ta. Lúc ta theo phản xạ muốn gỡ thứ đang bịt mắt ta ra thì nghe thấy rất nhiều tiếng chó sói tru. Cả người ta bị một cánh tay cứng cáp ôm chặt, rồi những tiếng chó sói tru thảm thiết cứ thế mà vang lên dồn dập, trong lúc ta vừa nhận ra thứ đang che mắt ta chính là bàn tay của y. Được một lúc, y bế thốc ta lên, giọng nói gấp gáp thì thầm vào tai ta:

- Đừng mở mắt, ôm chặt lấy ta.

Ta nghe lời không hề mở mắt ra lấy một lần, ngay sau đó, cả người ta như được bay lên cả chín tầng mây.

Thực chất thì chỉ là y bế ta mà nhảy lên một ngọn cây để trốn lũ chó sói đang đuổi theo bọn ta ráo riết mà thôi. Đang nhắm mắt, một chút tình hình ta cũng không biết, chỉ biết ôm chặt lấy y, nghe tiếng hơi thở y gấp gáp, nhịp tim y dồn dập bên tai. Chẳng biết đã trải qua bao lâu, không còn nghe tiếng chó sói tru nữa, ta từ từ mở mắt ra. Ta muốn ngẩng đầu lên nhìn y, nhưng y ngay lập tức dùng tay ép chặt đầu ta vào lồng ngực cứng cáp của y. Ta ngỡ ngàng hỏi:

- Sao huynh chưa biến mất?

Không nghe y đáp lời, ta lại nói tiếp:

- Muội đã gỡ mũ trùm đầu của huynh ra rồi, mà huynh vẫn không biết mất. Muội biết huynh không phải yêu quái mà, bọn họ chỉ lừa muội thôi. Trên đời này làm gì có yêu quái cơ chứ.

Y đột ngột lên tiếng:

- Họ không lừa muội, ta thật sự bị họ bắt đến đây, cũng tình nguyện làm thần hộ mạng của muội.

- Tại sao vậy?

- Bởi vì thấy muội hạnh phúc, là tâm nguyện cả đời của ta.

Giây phút đó trong đầu ta chỉ có một suy nghĩ, có khi nào y chính là loại yêu quái chuyên dụ dỗ con gái nhà lành mà ăn thịt hay không?

Nói ra lời nào lời nấy nghe cảm động đến tận tâm can.

Giao ta cho một kẻ như vậy, sư phụ và hai sư huynh, các người cũng thật thất đức mà!

Không biết khi nào mới đủ an toàn để leo xuống khỏi cái cây này vì sợ rằng bọn chó sói vẫn còn lởn vởn phía dưới, đêm đó ta và y đã ngủ trên cành cây cho tới sáng. Trước lúc thiếp ngủ hoàn toàn, ta như nhớ ra một chuyện, buột miệng hỏi y:

- Huynh tên là gì vậy?

Mất một lúc sau, y mới khàn giọng trả lời:

- Lam Thiên

Theo suy luận của ta, đại sư huynh đã có chữ “lục”, nhị sư huynh có chữ “tử”, người này lại có chữ “lam”, tên ai cũng màu mè, vậy có khi nào y cũng là đệ tử của Họa Vi chân quân hay không? Nghĩ thế, ta liền gọi y:

- Tam sư huynh.

Đêm đó, khi ta thiếp ngủ trong lòng y, một cảm giác ấm áp cứ thế mà len lỏi vào tim ta, xua tan hết mọi đau đớn. Thứ luôn đè nặng trong lòng ta kia, bất tri bất giác biến mất như cơn gió thổi qua không lưu hình.

Sáng hôm sau, sư phụ và hai sư huynh tìm thấy bọn ta đang ngủ trên cây. Lúc trở về đi ngang qua cổng, ta phát hiện có rất nhiều xác chó sói nằm vương vãi trên mặt đất, máu me bắn ra khắp nơi. Ta giật mình nhìn người đi bên cạnh, có phải y biết ta sợ máu, nên ngày hôm qua mới bịt chặt mắt ta, không cho ta nhìn thấy cảnh chém giết kia hay không?

Sau khi vào đền Bạch Cư, hai sư huynh ngay lập tức đè tam sư huynh xuống, lấy gậy ra chuẩn bị đánh y vì tội bỏ trốn của ta. Nhưng lần này ta không bướng bỉnh nữa, vội vàng quỳ xuống mà nói lớn:

- Con biết sai rồi, từ nay con sẽ nghe lời mà.

Sư phụ nhướng mày hỏi:

- Con chắc chứ?

Ta giơ một bàn tay lên ngang ngực, trịnh trọng thề:

- Từ nay về sau, sư phụ và các sư huynh muốn con làm gì, con sẽ nhất nhất nghe theo.

Nhận được nụ cười hài lòng trên mặt sư phụ, ta liền an tâm chạy đến đỡ lấy tam sư huynh, hứa chắc nịch với người đó:

- Muội sẽ không để huynh bị đánh nữa đâu.

Lúc đó ta đâu có biết, bọn họ rõ ràng là dùng… “nam nhân kế” để lừa ta vào tròng mà.

Sư phụ thấy ta đã chịu nghe lời thì bắt đầu dạy ta học hành. Nhưng việc đầu tiên ông làm, là đổi tên của ta, mặc cho ta kiên quyết khẳng định:

- Con thích cái tên Tiểu Bối Tử của mình.

Thực ra ta chẳng thích chút nào, nhưng vì ta đã gọi quen rồi, nên nhất thời không muốn đổi. Sư phụ lại kiên nhẫn giảng giải:

- Đặt tên mới cho con, không phải là vì chê bai tên cũ của con xấu. Mà vì sư phụ muốn giúp con có lại tự tin vào bản thân mình. Tuy rằng con đã theo sư phụ tu đạo, nhưng con vẫn là con gái của thừa tướng Trần quốc, điều này không bao giờ thay đổi được. Phụ thân con có thể để người khác coi thường con, nhưng đã là đệ tử của ta, thì tuyệt đối không được để bất kỳ ai khác coi thường, ngay cả chính bản thân con.

Lý lẽ của sư phụ cũng thật gàn dở nha.

Tuy vậy, khi thấy ta có ý định cãi bướng đến cùng, sư phụ đã lôi cây roi mây ra, trong tư thế chuẩn bị đánh tam sư huynh vẫn đứng bên cạnh ta từ nãy đến giờ. Ta vội vã trở lại bộ dạng ngoan ngoãn mà nói:

- Đệ tử xin nghe theo mọi an bài của sư phụ.

Sư phụ ôn tồn hỏi:

- Tỷ tỷ của con tên là Hạc Nhàn, vậy sư phụ đặt cho con cái tên Cầm Vân nhé?

- Không ạ. - Ta dứt khoát đáp.

- Nếu đặt tên quá lạc ý so với người trong nhà, e rằng phụ thân con sẽ không hài lòng đâu.

Chỉ có mình ta biết, phụ thân vốn dĩ cũng chẳng muốn ta mang cái tên Cầm Vân ấy. Đối với phụ thân, ta chỉ là một đứa con ghẻ mà thôi, ông mới lựa chọn cách từ bỏ ta như vậy. Sư phụ trước nay là người không cần hỏi nhiều cũng nhìn ra được tâm ý của người khác, nên trước thái độ đó của ta, chỉ khẽ thở dài bảo:

- Chấp niệm của con quá nặng rồi. Thôi thì sư phụ tặng cho con một chữ “hy”, mong rằng sau này cuộc đời con sẽ luôn có hy vọng, nhìn thấy ánh sáng cho dù là ở nơi tối tăm. Trương Hy Nhàn, từ nay sẽ là tên của con.

Ta đắn đo suy nghĩ một lát, cuối cùng dập đầu nói:

- Hy Nhi xin cảm tạ sư phụ đã ban tên.

Dù cho có phải đặt tên gần giống tỷ ấy, ta cũng nhất quyết phải cắt đứt mọi thứ có liên quan đến những người đó khỏi cuộc đời ta. Từ lúc đó, sư phụ và ba người sư huynh đều gọi ta là Hy Nhi.

Một cái tên nghe ra tương đối thanh tao.

Duy chỉ có tam sư huynh, mỗi lúc y cất tiếng gọi ta, lại khiến cái tên ấy nghe vô cùng thân thương. Thậm chí lúc buồn, ta chỉ cần nghe y gọi: “Hy Nhi của huynh”, ta lại cảm thấy như bình minh đã thực sự soi rọi vào cõi lòng tăm tối của ta.

Đối với ta, sư phụ và các sư huynh là một gia đình mới. Họ đối xử với ta rất tốt, thật lòng quan tâm ta. Tuy không thể cho ta sống trong nhung lụa, vinh hoa phú quý giống phụ thân, nhưng ít ra, họ đã cho ta một mái ấm. Khi còn nhỏ ta vẫn có lúc bướng bỉnh không nghe lời, nhưng lớn hơn một chút, ta đã biết, họ là người đã đưa một đứa trẻ bị cả thế giới này ghét bỏ quay về với vòng tay yêu thương. Sự kiên nhẫn họ dành ra trong việc dạy dỗ ta, có lẽ chẳng có ai khác có thể làm được.

Và người mà ta biết ơn nhất, chính là tam sư huynh.
---
(còn tiếp)
>> Chương 6.2
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 6: TAM SƯ HUYNH (2)

Suốt sáu năm trời, y vẫn như ngày đầu gặp, tình nguyện làm thần hộ mạng cho ta.

Sư phụ muốn phạt ta, y sẵn sàng chịu thay.

Các sư huynh la rầy ta, y kiên nhẫn bao che cho ta.

Khi ta lười biếng không chịu đọc kinh thư, y sẽ dỗ dành ta, dùng đủ mọi biện pháp để ta chịu học hành đàng hoàng, chong đèn ngồi bên cạnh bắt muỗi cho ta đọc sách mỗi tối.

Khi ta không muốn cầm bút tập viết chữ, y luôn ngồi kế bên, dùng bàn tay to lớn nắm trọn lấy tay ta, từng chút giúp ta đồ theo nét chữ thanh thoát của sư phụ viết sẵn trên mặt giấy. Cho đến ngày nét chữ của ta hoàn toàn mang dáng dấp non cao nước biếc giống hệt sư phụ.

Khi ta tập gảy cổ cầm, bàn tay chưa quen với việc dùng lực, sau vài buổi thì bắt đầu đau nhức khắp đầu ngón tay, y dịu dàng bôi thuốc cho ta mỗi ngày, kiên nhẫn ngồi nghe từng giai điệu đứt quãng do ta đàn. Cho đến ngày nó trở thành những thanh âm điêu luyện, uyển chuyển đến động lòng người.

Khi ta tập vẽ tranh, y sẵn sàng ngồi im như tượng mấy canh giờ liền để làm mẫu cho ta, trở thành đối tượng bị ta nghịch phá trét mực đầy người. Từ đó trong mỗi bức tranh của ta, dù là vẽ sông núi, cỏ cây hay sự vật, cũng đều có một bóng dáng người mặc áo đen ẩn hiện.

Khi ta học thuật chiêm tinh, hằng đêm y đều cõng ta lên đỉnh núi Doãn Duật, để cho ta có thể thu trọn bầu trời đầy sao vào tầm mắt, ghi nhớ nó, rồi về học thuộc những tấm bản đồ sao chằng chịt của sư phụ.

Để rồi ta nhớ nhiều kinh thư hơn cả đại sư huynh, đàn hay hơn cả nhị sư huynh, học thuật chiêm tinh giỏi nhất trong số các đồ đệ của sư phụ.

Ta dần dần trở thành một người ưu tú, công lao dạy dỗ của sư phụ không nhỏ, nhưng công sức tam sư huynh dành ra để giúp ta học hành, đối với ta, chưa bao giờ là ít cả. Mặc cho ta có càn quấy đến mức nào, y cũng không hề nặng lời với ta dù chỉ một lần. Chỉ có một việc duy nhất y không thể chiều theo ý ta, đó là để cho ta nhìn thấy mặt y. Dù ta có cố gắng làm tất cả mọi việc để năn nỉ y, thậm chí còn kiêng ăn cả đồ ngọt vì y bảo thứ đó không tốt cho ta, thì trước giờ y vẫn chưa một lần gỡ chiếc mũ trùm kín mít ấy xuống trước mặt ta.

Cũng giống như Mạc Thịnh Quân mù loà, không thể nào nhìn thấy khuôn mặt của Tiểu Bối đã từng giúp đỡ huynh ấy mà ghi nhớ ta trong trái tim, tam sư huynh luôn đứng trong bóng tối mà lặng lẽ quan tâm ta, không hề đòi hỏi một chút báo đáp nào. Tình cảm của tam sư huynh dành cho ta tựa hồ một cơn mưa phùn vào tiết thanh minh, nhẹ nhàng rơi rả rích, nhưng phủ kín khắp đất trời, tinh tế hủy hoại cả không gian, để rồi khi chạm vào thì lại thấm sâu đến tận tim tủy.

Tiếc thay, mỗi năm, y chỉ có thể ở cạnh ta vào mùa hè và mùa đông.

Ta chưa từng hỏi y đã đi đâu, vì lúc ta còn nhỏ y đã bảo, chỉ cần ta ngoan ngoãn, y sẽ trở về. Ta đã thật sự tin như vậy cho đến lúc trưởng thành. Dù đi bặt tăm bặt tích, y vẫn gửi thư cho ta đều đặn. Lá thư nào cũng dài, kể về cuộc sống của y, hỏi thăm về cuộc sống của ta. Ta nhận ra y thích viết hơn là nói, vì chưa bao giờ y mở miệng nói nhiều hơn năm câu khi ở bên cạnh ta. Thế nên ta cũng rất siêng năng viết thư hồi âm cho y, dùng mùa xuân và mùa thu, để mà nhớ nhung y. Rốt cuộc cũng chỉ tội đại sư huynh, mỗi lần xuống núi mua những vật dụng cần thiết, đều bị biến thành người đưa thư bất đắc dĩ cho ta và tam sư huynh.

Khi mười ba tuổi, ta bắt đầu chững chạc hơn, không còn bắt sư phụ và sư huynh nhắc nhở mỗi ngày nữa. Thậm chí ta còn trở thành người chăm sóc cho họ.

Ta nhớ rõ sở thích dùng nước chè đặc vào mỗi sáng của sư phụ, thói quen luôn giữ gìn kiếm cẩn thận của đại sư huynh và cả những tiêu chuẩn khắt khe đối với việc ăn uống của nhị sư huynh. Ta luôn là người dậy sớm nhất, phụ trách việc nấu nướng hằng ngày, dọn dẹp mọi nơi trong đền Bạch Cư; giúp đại sư huynh lau thanh kiếm tuỳ thân của huynh ấy sáng bóng; làm thêm nhiều món ngon cho nhị sư huynh khi huynh ấy đau đầu ngồi hoàn thành bài tập chiêm tinh; xoa bóp vai và tấm lưng sắp lão hoá của sư phụ.

Nhưng sự tự giác đó luôn biến mất mỗi khi tam sư huynh trở về. Bên cạnh y, lúc nào ta cũng chỉ là một cô bé mà thôi, luôn thích làm nũng, dựa dẫm vào y. Ba người kia có lần đã nói đùa, mỗi khi có tam sư huynh, bọn họ đều bị ta liệt vào hàng “phi tần thất sủng”. Không phải vì ta có tình cảm đặc biệt hơn đối với tam sư huynh, mà vì bọn ta đã chia sẻ cho nhau quá nhiều bí mật. Nhiều đến nỗi ta cho rằng, y chính là người hiểu ta nhất trên đời.

Trong số những bí mật đó, còn có cái lần đầu tiên ta trở thành một thiếu nữ.

Lớn lên ở nơi toàn nam nhân, những việc tế nhị đó, ta chẳng hay biết gì. Cho nên khi thấy bản thân mình bị chảy máu, ta chỉ biết trốn lên một cái hang sâu trong núi, để không ai tìm ra ta. Một phần vì ta cảm thấy xấu hổ, một phần vì ta nghĩ rằng mình sắp chết, nên không muốn ai đau lòng vì ta.

Không ngờ ta đã trốn kĩ như vậy, mà cuối cùng tam sư huynh vẫn tìm ra ta.

Lúc bàn tay ấm áp của y đặt lên hai gò má đã tái đi của ta, ta chỉ biết vùi mặt vào ngực y để che giấu vẻ xấu hổ, khi y phục màu trắng của ta đã hoàn toàn bị thứ máu đó vấy bẩn. Ta rất sợ máu, sợ đến mức muốn bật khóc ngay lập tức. Nhưng nước mắt ta không thể rơi, nên ta chỉ còn cách nấc lên từng tiếng nghẹn ngào với y:

- Sư huynh ơi, có phải muội sắp chết rồi không? Vì muội là yêu nữ, nên ông trời trừng phạt muội, để cho muội mắc bệnh lạ, chảy máu mà chết phải không?

Y dùng tay dịu dàng vỗ nhẹ lên lưng ta, giọng an ủi:

- Hy Nhi, nhớ cho kỹ, muội chưa bao giờ là yêu nữ, hiện tại không phải, sau này không phải, mãi mãi cũng không phải.

Lúc nào câu nói đó của y cũng vang vọng trong chỗ mềm yếu nhất nơi trái tim ta.

Để cho ta can đảm mặc kệ tất cả mọi định kiến mà mọi người đã bắt ta phải gánh chịu, vững vàng mà sống đến tận ngày hôm nay.

Sau lúc đó, y đưa ta xuống núi, nhờ vả một goá phụ sống dưới chân núi giúp đỡ ta, chỉ dạy cho ta mọi chuyện. Có lẽ y đã thay ta giải thích mọi chuyện với sư phụ và hai sư huynh kia, nên sáng hôm sau khi ta trở về, mọi người không tò mò hỏi những câu làm ta xấu hổ mà chỉ quan tâm dặn dò ta ăn nhiều đồ bổ dưỡng để giữ gìn sức khoẻ. Kể từ ngày hôm đó, mỗi lần ta khoác lên người bộ y phục màu trắng đặc trưng của sư môn, ta dần cảm thấy màu sắc đó thật sự rất hợp với ta. Ta có quyền tin rằng, ta chưa bao giờ là yêu nữ, mà chỉ là một thiếu nữ có tâm hồn trong sáng và thuần khiết giống hệt màu trắng kia.

Thế nên ta đã chọn pháp danh là Bạch Vân.

Tam sư huynh là Lam Thiên, ta là Bạch Vân, mây trắng dựa vào trời xanh mà trôi đi, ta và y sẽ mãi mãi không lạc mất nhau, cho dù ta có đi xa đến đâu, y cũng sẽ tìm thấy ta. Sau này, ta còn tâm sự với y rất nhiều chuyện. Ta kể cho y nghe về phụ thân ta, Nhã thị và tỷ tỷ. Ta còn kể về tình cảm ngây ngốc thời thơ ấu mà ta dành cho Mạc Thịnh Quân.

Ta nói với y, ta muốn quay về.

Sáu năm trôi qua, ngày ngày đọc kinh thư, sử ký, rốt cuộc ta cũng đã hiểu ra sự bất hạnh của ta năm xưa là do đâu mà ra. Hoá ra những con người trần tục đó, thích làm tổn thương nhau để mà tồn tại. Trong quá khứ cũng đã từng xảy ra những âm mưu hãm hại nhau, để rồi huynh đệ tương tàn, thủ túc chém giết lẫn nhau, máu chảy thành sông, bi kịch cứ lặp lại liên tiếp. Nhưng ta vốn thông minh như vậy, chẳng lẽ không thể đòi lại chút công bằng cho bản thân sao. Ít nhất, cũng phải đấu với họ một trận, dù cho kết cục có là ngọc nát hoa tan, ta cũng cảm thấy dễ chịu hơn một mình nhận lấy mọi uỷ khuất.

Sư phụ không ủng hộ chuyện ta dùng những gì học được mà trả thù, ta đành hứa với ông sẽ nương tay vào phút cuối cùng. Ông lại ra sức khuyên bảo ta, thậm chí còn muốn truyền dạy cho ta thứ học vấn ông tâm đắc nhất cả đời, trước nay ông chưa từng dạy ai, để mong có thể giữ ta ở núi Doãn Duật.

Nhưng thứ học vấn đó, lại là y thuật, là thứ ta không muốn học nhất. Bởi vì ta biết, trong lòng ta có chấp niệm, hành y là để cứu người, nhưng ta không chắc được bản thân có giữ vững lòng mình đến cùng, mà không đem những thứ học được đi hại người hay không. Ta không muốn tâm huyết cả đời của sư phụ bị huỷ hoại vì ta.

Sư phụ cuối cùng cũng đồng ý cho ta xuống núi. Trước khi ta rời đi, ông ân cần hỏi ta còn thỉnh cầu nào đối với ông hay không. Ta lấy can đảm mà hỏi:

- Thứ ở giữa trán con, rốt cuộc là thứ gì, làm sao có thể xoá bỏ nó?

Ta nhìn thấy rõ nét khó xử trong ánh mắt sư phụ, cuối cùng ông khó khăn cất lời:

- Đó là thủ cung sa (3), chỉ biến mất khi con đã thành thân hoặc thất thân với nam nhân.

Ta như đang cắn chặt vào môi mình mà hỏi:

- Bất kỳ người làm đại phu nào, hoặc có chút ít hiểu biết, đều có thể nhận ra nó phải không?

-Hy Nhi…

- Nhưng bọn họ vẫn chọn cách im lặng, đổi trắng thay đen bảo đây là một cái bớt từ khi sinh ra đã có, để đẩy con vào bước đường này. - Ta đau đớn cất lời, kết thúc những gì sư phụ định nói.

Sư phụ thở dài một tiếng, nhẹ nhàng giải thích:

- Thực ra bình thường nếu không phải chấm lên cánh tay sẽ không có công dụng lâu như vậy, nhưng vì ngày đó con còn nhỏ, da thịt còn quá non nớt. Thủ cung sa lại thuộc tính âm, rất dễ ăn sâu, nên mới xảy ra cớ sự đó.

Nghe những lời ấy, ta chỉ biết chua xót thừa nhận, chính là Nhã thị, người mà ta gần như đã coi như mẫu thân của mình, lại sử dụng thủ đoạn thâm độc đó với ta. Dùng thủ cung sa để biến ta thành yêu nữ thế mạng cho con gái bà ta. Lúc ấy ta chỉ mới mười tuổi, dù có muốn xoá nó đi, thì cũng không cách nào làm được, đẩy ta vào con đường chết mà vẫn không thể kêu oan như thế, tàn nhẫn biết bao nhiêu.

Bây giờ lại một lần nữa đẩy ta vào tình thế khó xử, khi việc ta khao khát muốn làm nhất trước khi xuống núi, đó là xoá bỏ dấu thủ cung sa ấy đi. Ta chưa thành thân, nhưng bây giờ với tiếng xấu yêu nữ này, ta biết thành thân với ai bây giờ, có ai chịu lấy ta chứ. Huống chi, trong lòng ta vẫn luôn ấp ủ hy vọng, sẽ được thành thân với đấng lang quân như ý của mình, người mà ta đã đem lòng yêu thương từ mười năm trước.

Sinh thần mười sáu tuổi của ta, ta cùng sư phụ và hai sư huynh tổ chức một bữa tiệc nhỏ, coi như là để tiễn biệt ta xuống núi. Sư phụ đích thân dùng một chiếc lược gỗ, chải hết tóc mái của ta lên, để lộ vầng trán cao, hoàn thành nghi thức trưởng thành của ta (4). Đại sư huynh tặng ta một con dao nhỏ, mũi dao làm bằng thép, là thứ kim loại rất quý hiếm, có thể chém gãy đao kiếm thông thường, kêu ta lúc nào cũng phải mang theo mà phòng thân. Nhị sư huynh lại tặng ta một bộ trang sức rất tinh xảo được chạm khắc từ bạch ngọc, thứ ngọc mà ta thích nhất.

Duy chỉ tam sư huynh, người có thể tặng ta món quà mà ta mong chờ, lại không thấy bóng dáng.

Đã nửa năm trôi qua, y chưa hề lên núi Doãn Duật, khác hẳn với lúc thường. Những bức thư y gửi cho ta, lúc nào cũng ghi rằng y đang bận làm một chuyện quan trọng. Nhưng ta không tin là ngay cả sinh thần của ta mà y cũng không xuất hiện. Thế nên ta quyết tâm không đi ngủ, mà thức đợi y đến.

Đến nửa đêm, bỗng nhiên ta thấy một bóng người quen thuộc đứng bên cửa sổ phòng ta. Ta vui đến nỗi chỉ kịp khoác lên người một tấm áo choàng, rồi lập tức đẩy cửa ra ngoài, lao vào vòng tay y. Y có hơi ngỡ ngàng trước sự nhiệt tình của ta, mãi mới cất lời:

- Huynh xin lỗi, đã để muội đợi lâu rồi.

Ta lắc đầu, sau đó ra vẻ làm nũng như mọi ngày mà nói:

- Đưa muội đến nơi đó đi.

Vẫn như lúc thường, y luôn hiểu rõ ý ta, chỉ một lúc sau, đã đưa ta đến chỗ hằng năm vào ngày sinh thần ta luôn đến. Đó là một nơi nằm sâu trong núi, chỗ có dòng suối nhỏ róc rách chảy qua, uốn lượn dưới chân một thác nước lớn chảy dài tựa hồ một mái tóc bạc trắng xoá giữa không trung. Giống như một thung lũng nhỏ trong lòng núi, chỗ ấy không có nhiều cây cối cao to che khuất tầm nhìn lên bầu trời, là nơi lý tưởng nhất để ngắm trăng vào ngày rằm.

Mỗi năm vào ngày sinh thần ta đều phải ngắm mặt trăng lên cao nhất trên bầu trời, khi mà ánh sáng dịu dàng của nó trải dài khắp đất trời, mới chịu tính rằng ta đã trưởng thành thêm một tuổi. Bước đến bên dòng suối đang phản chiếu ánh trăng lấp lánh, ta soi bóng mình trên mặt nước. Tự nhiên lại nghĩ có khi nào vì sinh ra vào đúng ngày rằm, nên nữ nhân đang ở đối diện với ta kia mới xinh đẹp chẳng kém gì ánh trăng đang toả sáng một cách lộng lẫy trên cao hay không. Ta đã trưởng thành, thậm chí còn là một cô nương có dung nhan kiều diễm, khiến cho nam nhân nào gặp cũng phải động lòng theo như lời nhận xét của nhị sư huynh. Đại sư huynh thì bảo ta đẹp hơn những cô nương luôn hát tình ca với huynh ấy ở chợ phiên dưới chân núi.

Sư phụ chỉ thở dài mà nói:

- Hồng nhan bạc mệnh.

Còn tam sư huynh, ta vẫn mong chờ lời nhận xét của y nhất, thế nên giây phút này đây, ta khẽ khàng vén suối tóc mềm mượt buông dài qua một bên, để lộ chiếc cổ cao trắng ngần, đưa đôi mắt rạng rỡ nét cười nhìn y mà hỏi:

- Sư huynh, huynh thấy muội có đẹp không?

Y lại đáp rằng:

- Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi.

Ta đã đủ lớn để hiểu, đó không phải là một lời khen đơn thuần.

Ta nhẹ nhàng đưa tay ra cho y nắm lấy, rồi kéo y đến đứng trước mặt ta. Khác hẳn với sáu năm trước, bây giờ ta đã cao hơn rất nhiều. Tuy vẫn chưa cao bằng y, nhưng cũng đủ để ta dễ dàng tựa đầu mình vào bờ vai vững chãi của y, chứ không phải suốt ngày ôm chân y mà nhõng nhẽo.

Trưởng thành hoá ra có cái lợi như vậy đấy!

Trong lúc dựa vào y, lần đầu tiên ta đặt tay lên khuôn ngực cứng cáp của y, cảm nhận thật rõ từng nhịp đập mạnh mẽ nơi trái tim đó trong lòng bàn tay ta. Ta khẽ khàng hỏi:

- Sư huynh có quà cho muội không?

- Huynh vội trở về, không kịp chuẩn bị quà cho muội.

Thấy ta không nói gì đáp lại, y vội hỏi:

- Muội giận sao?

Ta lắc đầu, một cách đột ngột ngẩng lên nhìn y, chỉ trong khoảnh khắc, đã mặt đối mặt đối y trong gang tấc, nghe thấy cả tiếng hơi thở hoà quyện vào nhau. Ta cất lời:

- Giúp muội một việc, muội sẽ coi như huynh đã tặng quà rồi.

- Việc gì?

Ta chỉ tay lên trán mình:

- Giúp muội… làm nó biến mất đi.

Tuy rằng cả khuôn mặt của y đã bị chiếc mũ trùm che kín, nên ta không đọc ra thần thái trong mắt y. Nhưng ta biết, sự kích động ta gây ra cho y, đã biểu hiện hết nơi đôi bàn tay nắm chặt đến nổi cả gân xanh của y.

Cảm thấy mọi lời nói thật dư thừa, khiến cho bản thân ta mất can đảm vào những việc mình dự định làm, ta chỉ im lặng đưa tay cởi chiếc áo choàng đang khoác bên ngoài xuống. Áo ngủ bên trong của ta vốn là loại dùng vào mùa hè, may bằng vải mỏng, tuy rằng không ôm sát cơ thể, nhưng không đủ che chắn những đường nét xuân quang của thiếu nữ mới lớn đã ẩn hiện trong tầm nhìn của người đối diện.

Thấy y không có bất kỳ phản ứng nào, ta gạt bỏ sự sợ hãi của bản thân, cầm lấy bàn tay y, đặt lên bờ vai gần như đã run rẩy của ta. Xong rồi ta lại đưa hai tay chạm vào mũ trùm của y, e dè hỏi:

- Cho phép muội.. được không?

Ta coi sự im lặng của y là đồng ý, liền hít sâu một hơi, sau đó gỡ chiếc mũ trùm mà chưa một lần rời khỏi khuôn mặt y xuống. Ta biết đằng sau chiếc mũ ấy, y vẫn còn đeo một chiếc khăn che mặt, nên không hề ngạc nhiên khi chỉ nhìn thấy đôi mắt của y.

Nhưng ta chỉ cần đôi mắt lúc nào cũng nhìn ta thật dịu dàng đó là quá đủ rồi.

Đột nhiên, bàn tay đang để trên vai ta của y dần chuyển động, khiến trống ngực ta cứ thế mà đập liên hồi, dường như không có điểm dừng. Bàn tay ấy nhẹ nhàng đưa lên, vuốt ve nơi gò má ta, rồi từ từ di chuyển ra sau giữ lấy gáy ta. Khuôn mặt vẫn bị vải đen che kín kia của y từng chút, từng chút tiến đến gần mặt ta hơn.

Trong một khoảnh khắc, ta theo phản xạ nhắm mắt lại, cùng lúc đó cảm nhận được bờ môi mềm mại sau lớp vải che kia của y thân mật áp lên trán ta. Một nụ hôn chỉ nhẹ nhàng như chuồn chuồn điểm mặt nước, thậm chí ta còn chưa cảm nhận hết tình cảm nồng nhiệt y vẫn cố đè nén sau cái hôn đó, thì y đã buông ta ra.

Trước khi ta mở mắt, bàn tay y lướt nhẹ qua trán ta, sau đó y cất tiếng:

- Muội đã đụng chạm thân mật với nam nhân rồi, dấu thủ cung sa này từ nay sẽ không còn nữa.

Tim ta như nhảy cẫng lên một nhịp vì vui mừng, nhưng rồi ngay sau đó cũng rơi xuống tận cùng của nỗi hụt hẫng.

Hoá ra việc này chỉ đơn giản như thế thôi sao?

Biết vậy ta đã nhờ y giúp ta từ lâu rồi, thế mà ta còn tin lời nhị sư huynh, bảo rằng việc này sẽ làm cho con người đánh mất hết lý trí, chỉ biết gieo mình vào bể trầm luân của tình ái. Rồi còn gì mà đối với nữ nhân, lần đầu tiên rất đau, làm ta lo lắng một phen. Vậy mà lúc nãy ta còn chưa cảm thấy bất kỳ cảm giác lạ lẫm nào nữa.

Nhị sư huynh lúc nào cũng chỉ thích trêu chọc ta.

Khi ta mở mắt ra, nhìn bóng mình soi rõ trên mặt nước, thì quả thật dấu thủ cung sa trên trán ta đã không còn. Ta vui mừng cười vang mấy tiếng, cái thứ quái ác đã hại ta thành yêu nữ của Trần quốc, cuối cùng cũng biến mất rồi. Ta đã chờ đợi ngày này suốt bao nhiêu năm qua. Dưới ánh trăng sáng tỏ đêm đó, nụ cười rạng ngời của ta đã soi rọi một ánh mắt thâm tình luôn dành cho ta, nhưng lại che lấp sự chân thành ấy trước mắt ta. Khiến ta không nhận ra, việc ở lại bên tam sư huynh, mới là lựa chọn sáng suốt nhất của ta.

Cuối cùng ta lại từ bỏ y, từ bỏ mái ấm có sư phụ và các sư huynh ở núi Doãn Duật, để quay về đây. Ta muốn cho Mạc Thịnh Quân, cho phụ thân ta, những người mà ta luôn yêu thương bằng cả trái tim, một cơ hội nữa.

Để họ đối xử tốt với ta, để họ yêu thương ta.

Nhưng thời điểm hiện tại, nhìn khuôn mặt với một bên má đã sưng đỏ của ta trong gương, ta bất giác hối hận tràn trề. Mạc Thịnh Quân vì tỷ tỷ mới nhận lời lấy ta, phụ thân lại chê ta là loại con gái lăng loàn, làm mất mặt ông. Phải rồi, những người biết rõ thứ ở giữa trán ta năm xưa là thủ cung sa, khi thấy nó đã biến mất như thế này, suốt sáu năm qua ta lại sống ở một nơi cô quạnh với ba người nam nhân, thì có cho mười cái miệng ta cũng không thể nào nói minh bạch được.

Ta nhẹ nhàng nhúng chiếc khăn tay vào một chén nước đang để trên bàn, thứ nước mà ta đã chuẩn bị sẵn từ lúc nãy. Dùng thứ nước đó lau vài lần qua trán, chỉ trong phút chốc, hình vẽ đuôi cửu vĩ hồ màu đỏ son năm xưa hiện rõ trên da thịt ta. Thậm chí ngày đó, trước khi ta xuống núi, nếu sư phụ không giải thích rõ cho ta, thì ta đã thật sự cho rằng mình đã thất thân với tam sư huynh như ý định ban đầu của ta.

Đêm hôm ấy, giữa ta và y, chỉ dừng lại ở một nụ hôn trán đơn thuần mà thôi, vì ta có quá ít hiểu biết về chuyện nam nữ, nên mới bị y lừa như vậy. Y đã dùng một loại nước thuốc rất đặc biệt mà bôi lên trán ta, để làm dấu thủ cung sa ấy tạm thời biến mất. Loại thuốc đó không hề dễ bào chế, vậy mà y đã dành ra thời gian nửa năm trời để tìm kiếm tất cả những dược liệu cần thiết đem về cho sư phụ. Cuối cùng là trước lúc ta xuống núi, sư phụ đã đưa cho ta một hộp đầy những lọ sứ đựng thứ thuốc đó, có thể đủ cho ta dùng cả đời.

Phí hoài tâm sức cho ta như vậy, bởi vì tam sư huynh biết rõ, ta đã quyết tâm phải trở về, nên y muốn ta được sống một cách thoải mái nhất, có thể đường hoàng cho mọi người thấy ta đã không còn là yêu nữ nữa rồi. Nước thuốc này bình thường rửa không trôi, mồ hôi ra cũng không bị ảnh hưởng, cách sử dụng cũng dễ dàng như bôi phấn thơm lên mặt mà thôi. Nhưng dấu thủ cung sa thật sự vẫn không biến mất, mà bị thứ nước thuốc đó che đậy, chỉ khi dùng chính thứ nước thuốc ấy bôi lên da một lần nữa, nó mới hiện ra.

Tam sư huynh còn nói, dùng việc này để kiểm chứng sự chân thành mà những người xung quanh dành cho ta. Chỉ cần bọn họ chán ghét ta ra mặt vì nghĩ ta đã làm chuyện bại hoại đạo đức, ta có thể chắc chắn rằng trong việc hại ta trở thành yêu nữ năm xưa, họ cũng có góp phần.

Vậy mà ta không ngờ ngoài Nhã thị và tỷ tỷ, ngay đến cả phụ thân cũng chán ghét ta.

Đáng lẽ lúc nãy ta nên cho phụ thân nhìn thấy dấu thủ cung sa vẫn còn đúng không? Để chứng minh cho ông thấy, ta vẫn còn là xử nữ, trước nay chưa từng làm chuyện khiến ông mất mặt.

Thế mà ta lại chọn cách giữ im lặng.

Bởi vì ta không còn ngây thơ như năm mười tuổi, gào khóc đến kiệt sức mà vẫn bị ông bỏ mặc. Phụ thân vốn dĩ chưa bao giờ muốn tin ta.

Biết rằng bản thân không thể rơi lệ, bao nhiêu thương tâm chỉ có thể để những giọt nước mắt đang chảy ngược vào tim xoa dịu, ta gạt bỏ vẻ mặt đau đớn qua một bên mà nở nụ cười an ủi bản thân. Dưới ánh nến nhập nhoè, ta lấy giấy bút ra, viết một bức thư, dự định ngày mai sẽ tự mình mang đến trà quán Thương Ca.

Trong thư chỉ có vỏn vẹn một dòng:

“Tam sư huynh, muội nhớ huynh”.
***
(hết chương 6)​

Chú thích:

(1) Vì “lục” là màu xanh, “tử” là màu tím, nên nữ chính cho rằng tên của các sư huynh toàn dùng những chữ mang màu sắc.

(2) Thủ cung sa: trong truyền thuyết Trung Quốc, thủ cung sa là dấu vết chứng tỏ người con gái còn trinh tiết. Thủ cung vốn là một giống tắc kè (thạch sùng, còn có tên là yển đình) được nuôi bằng bảy cân chu sa khiến thân thể có màu đỏ. Giã nát thủ cung bằng chày, được một chất nước đỏ như son, chấm vết son vào cánh tay trái con gái, cách vai khoảng một tấc, nếu chưa thất thân thì vết này còn mãi không phai.

(3) Nghi thức trưởng thành: nữ nhi thời đó lúc nhỏ thường để tóc mái dài che khuất trán, khi đủ mười sáu tuổi, là lúc trưởng thành, sẽ dùng một chiếc lược gỗ chải lên, biểu thị cô nương đó không còn là bé gái nữa.



>> Chương 7.1
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 7: LIỄU THÁI HẬU (1)

Ta cảm thấy bản thân có chút hồ đồ lúc nói với phụ thân ta sẽ nhập cung sau hai ngày nữa.

Cổ nhân nói giận quá mất khôn quả là chẳng sai chút nào. Bởi vì sau khi mang thư đến trà quán Thương Ca kia, ta đã ngồi ở đó chờ tam sư huynh trọn một ngày một đêm, nhưng vẫn không nhìn thấy bóng dáng người ta mong đợi. Tin tức ta nhập cung đã sớm lan truyền khắp kinh thành, ngay cả Mạc Thịnh Quân còn đến phủ tìm ta mấy lần, thì chắc chắn tai mắt của y sẽ không bỏ qua. Lại thêm bức thư ta đã nhờ chủ trà quán gửi cho y, y sẽ biết, tâm ý của ta là muốn trở về bên y. Chỉ cần lúc này tam sư huynh xuất hiện ở kinh thành, ta nguyện đi cùng y đến chân trời góc bể, mặc kệ hết hận thù hay những chấp niệm trong lòng ta.

Thế mà cuối cùng ta vẫn không đợi được tới lúc y đến.

Thực ra ta không hề trách y, bởi vì ta biết y vốn chẳng phải thần thánh, cho dù có mọc cánh thì cũng không thể trở về nhanh như vậy được. Sang ngày thứ hai, phụ thân đích thân đến trà quán Thương Ca đón ta về phủ, giúp ta chuẩn bị đầy đủ mọi việc để nhập cung.

Suốt cả buổi, ta không hề nói với ông bất kỳ lời nào.

Về tới phủ, ông nói qua loa về việc đã chuẩn bị đồ đạc cho ta mang theo ra sao, rồi đột nhiên bảo người hầu lui ra ngoài hết. Biết rằng phụ thân có chuyện riêng muốn nói với ta, ta đợi ông ngồi xuống rồi mới ngồi đối diện với ông.

Khác hẳn với thái độ hung dữ hôm trước, ông nhẹ nhàng hỏi ta:

- Mặt con không sao chứ, có cần phụ thân bảo người hầu mang thuốc bôi tới cho con không?

Ta lạnh lùng đáp:

- Không cần ạ, con muốn không muốn khoe khoang cho cả phủ này biết phụ thân đã nặng tay với con ra sao đâu.

Ông như đang hít sâu một hơi để nhẫn nhịn trước thái độ đó của ta, sau đó ông đưa tay nắm lấy tay ta, ân cần nói:

- Phụ thân xin lỗi, hôm đó ta hơi nóng nảy một chút. Dù gì… con cũng là con gái của ta, thế nên con phải hiểu, ta làm mọi điều chỉ vì muốn tốt cho con mà thôi.

Ta không đời nào tin vào những lời như vậy nữa.

Thấy ta không đáp lời, ông lại nói tiếp:

- Hy Nhàn này, thực ra thì… không phải phụ thân thương yêu tỷ tỷ hơn con. Chỉ là so với Hạc Nhàn, con thông minh hơn, cũng bản lĩnh hơn, ở nơi cung cấm đó, con có thể tự bảo vệ bản thân. Huống chi lần này, không phải chỉ đơn giản vì phụ thân muốn bắt con nhập cung, mà vì phụ thân không còn cách nào khác. Nếu con không đi, Hạc Nhàn cũng phải đi.

Ta nghe như vậy, như chợt đoán ra mọi chuyện, cười nhạt một tiếng rồi hỏi:

- Phụ thân đã đắc tội gì với hoàng đế, để ông ta muốn con gái của phụ thân vào cung làm con tin sao?

- Vẫn là con sáng suốt - Phụ thân thở dài một hơi - Lần này Cảnh tướng quân trở về chỉ đơn thuần là cầu thân, nhưng hoàng thượng cho rằng phụ thân đang có âm mưu liên thủ với ông ấy để độc chiếm binh quyền Dự Châu.

- Phụ thân lại một lần nữa bắt con làm vật hy sinh cho Trương gia rồi. - Ta cố gắng kìm nén sự chua xót trong lòng khi nói những lời đó.

- Con đừng lo, thái hậu sẽ bảo vệ cho con. Chuyện này chỉ là hiểu lầm mà thôi, đợi qua một thời gian, hoàng thượng thấy được tấm lòng trung thành của phụ thân, người sẽ cho con xuất cung thôi.

Ta nhẹ nhàng rời khỏi ghế, sau đó quỳ xuống trước mặt ông rồi bình thản nói:

- Coi như đây là con đang trả lại công ơn sinh thành của phụ thân. Sau việc lần này, dù con sống hay chết hoặc làm bất cứ chuyện gì, cũng không can dự gì đến phụ thân và nhà họ Trương nữa, có được không?

Ông vội vàng đỡ ta đứng dậy:

- Đừng nói những lời giận dỗi đó nữa, con là con gái của ta, lúc nào cửa của Trương gia cũng rộng mở đón con về. Con là Trương Hy Nhàn mà, có nhớ không?

Ta chỉ im lặng.

Phụ thân thấy vậy cũng không nhiều lời nữa, dặn dò ta lần cuối, sau đó sai gia nhân trong phủ chất đồ của ta lên xe ngựa. Bản thân ta vốn dĩ không chú trọng đến những vật ngoài thân, nha hoàn hầu hạ cũng chẳng có ai nên rất nhanh chóng chuẩn bị lên đường.

Khoác lên người một tấm áo choàng, ta nhìn hoàng hôn đang từ từ buông xuống phía chân trời bên ngoài cửa sổ. Lục Liên viện đẹp nhất vào lúc hoàng hôn, khi nắng nhuộm vàng cả vườn hoa lục liên màu trắng ở ngoài sân. Bỗng đâu ta nghe có tiếng huyên náo bên ngoài, nên khẽ vén tấm màn sáo nhìn ra. Cả người ta như đông cứng mất một giây, hoá ra... là có người muốn đến tiễn ta.

- Mạc công tử, xin dừng bước đi ạ, lão gia mà biết chuyện này sẽ phạt chúng nô tỳ đấy. - Tiếng nha hoàn kêu xin huynh ấy vang vọng vào tới cả phòng ta khi mà huynh ấy chỉ vừa bước tới cửa.

Cảm thấy đã ồn ào quá mức, ta bước ra bảo bọn họ:

- Các người lui hết đi.

Bọn họ nghe vậy thì dùng dằng một lát rồi cũng lui đi, để ta và huynh ấy đứng đối diện với nhau trong bóng chiều lặng lẽ.

Ta mở lời trước:

- Mạc hiệu úy có chuyện gì sao?

Huynh ấy tiến tới một bước, nắm lấy cổ tay ta, thần thái vô cùng mất bình tĩnh mà hỏi:

- Là ai đã ép muội nhập cung?

- Chẳng ai cả, đó là quyết định của ta.

- Nói dối.

- Ta nói dối cũng không cần huynh quản.

- Tiểu Bối!

- Đủ rồi - Ta lên giọng - Từ nay về sau, đừng bao giờ gọi ta bằng cái tên đó nữa. Ta là Trương Hy Nhàn.

- Rốt cuộc muội làm sao vậy?

- Chẳng sao cả, chỉ là cảm thấy cuộc sống buồn chán, nên muốn bày trò đùa giỡn với huynh và tỷ tỷ, làm hai người hoảng sợ một phen rồi phải không? Yên tâm đi, từ nay về sau sẽ không ai đe doạ hạnh phúc của hai người nữa đâu. Còn vào cung việc ta đã quyết, huynh cũng không có tư cách đến đây ngăn cản ta. Không khéo lại làm tỷ tỷ giận huynh, thì sau này huynh đừng mơ làm hiền tế nhà họ Trương.

- Huynh thật sự chẳng thể hiểu nổi muội nữa. - Huynh ấy rốt cuộc cũng phải bất lực cất tiếng.

Thực ra huynh ấy chưa bao giờ hiểu ta cả.

Vừa lúc đó, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của phu xe đang đứng bên ngoài đợi ta, ta liền cúi đầu chào huynh ấy mà nói:

- Mạc hiệu úy, đến giờ tiểu nữ phải lên đường rồi, ngài có thể nhường lối được không?

Huynh ấy thoáng do dự trong phút chốc, nhưng rồi cuối cùng cũng tránh qua một bên để ta bước ra bên ngoài. Ta quyết định bước đi thật nhanh, không quay đầu nhìn lại lần nào. Bởi vì ta sợ mình sẽ yếu lòng mà lao vào vòng tay huynh ấy, cầu xin huynh ấy đưa ta rời khỏi nơi đây.

Chỉ tiếc rằng, huynh ấy lại không phải là người ta có thể dựa vào cả đời.

Khi vừa lên xe ngựa, ta nhìn thấy Lương cô cô đã ngồi sẵn ở trong, vẻ mặt chờ đợi ta. Ta hồ nghi hỏi:

- Bà làm gì ở đây vậy?

- Lão gia bảo nô tỳ đi cùng tiểu thư nhập cung, thay lão gia chăm sóc cho tiểu thư.

Ta cười nhạt một tiếng.

Chăm sóc ta hay là giám sát ta chứ, phụ thân trước sau gì cũng không tin ta, còn phái người thân tín của ông đi theo ta như thế này. Nhưng dù sao ta cũng biết có từ chối cũng không có tác dụng, nên đành để Lương cô cô đi cùng.

Trên đường đi, bỗng dưng bà ấy lại hỏi ta:

- Tiểu thư có muốn nghe chuyện không?

Ta lãnh đạm đáp:

- Ta không phải trẻ con, nghe chuyện làm gì?

- Chẳng qua tiểu thư làm nô tỳ nhớ đến một chuyện xưa cũ mà thôi.

Tuy rằng không có chút hứng thú trước lời nói của bà ta, nhưng ta nghĩ dù sao lúc này cũng không có gì để làm, thôi thì nghe một chút chuyện xưa cũ cho đỡ buồn tai cũng được. Thế nên ta gật đầu.

Nhận được sự đồng ý của ta, Lương cô cô bắt đầu chậm rãi cất tiếng:

- Tiểu thư có biết cố đại tư mã Liễu Khiêm không?

Ta gật đầu, bà ấy lại nói tiếp:

- Người đó, vì làm phản mà bị tru di tam tộc, cả nhà chết thảm. Thế nhưng ngày xưa, Liễu tư mã là người có cuộc sống bất kỳ ai cũng ngưỡng mộ. Từ nông dân áo vải mà lập nên Trần quốc này, cùng với các huynh đệ vào sinh ra tử của mình một bước lên mây, trở thành khai quốc công thần được mọi người trọng vọng. Thê tử của ông ấy hiền lành, xinh đẹp, lại có một cô con gái rất dễ thương. Nô tỳ còn nhớ rất rõ ngày đó lão gia đến mừng tiệc đầy tháng của con gái Liễu tư mã, nô tỳ cũng đi theo, được tận mắt chứng kiến khung cảnh hạnh phúc của gia đình ấy. Còn nữa, cũng trong buổi tiệc đầy tháng, bé gái ấy đã nhận được tới hai lời cầu thân, một người Cảnh tướng quân, một người là Mạc Thượng thư, họ đều muốn cô bé ấy trở thành con dâu tương lai của mình.

Ta ngỡ ngàng hỏi:

- Giống… giống như tình cảnh của ta vào mấy hôm trước sao?

- Dạ phải, thế nên nô tỳ mới bồi hồi nhớ lại chuyện cũ. Ai bảo họ là bằng hữu thân thiết, người có con trai, người có con gái, thế nên lúc nào cũng nghĩ đến chuyện làm thông gia của nhau. Nhưng điều mọi người không ngờ nhất, đó là người lớn chỉ vô ý tác hợp, nhưng trẻ con thì lại thật lòng chấp nhận. Cả Cảnh công tử và Mạc công tử ngày đó đều luôn miệng khen con gái của Liễu tư mã đáng yêu, còn tranh giành làm hiền tế của ông ấy. Nô tỳ nghĩ lúc đó Liễu tư mã thật sự cũng đã muốn chọn hiền tế rồi, nên bảo hai người họ cùng thi xem ai làm ông ấy hài lòng nhất. Mạc công tử liền bảo cậu ấy đã chọn được một cái tên rất đẹp cho Liễu tiểu thư, gọi là Dao Quang, theo tên ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Bắc đẩu. Còn Cảnh công tử thì lại tặng cho Liễu tiểu thư một món trang sức rất đẹp, bảo rằng đó là tấm lòng cậu ấy dành cho tiểu thư sau này. Liễu tư mã đều rất hài lòng trước hai món quà đó, cuối cùng lại trở nên lưỡng lự không biết chọn ai.

Ta rốt cuộc cũng tò mò mà cất tiếng hỏi:

- Thế ông ấy đã chọn ai?

Ánh mắt Lương cô cô thoáng hiện lên một nét buồn, bà đáp nhanh:

- Chuyện lâu quá, nô tỳ không nhớ rõ. Với lại đâu còn quan trọng nữa, bởi vì Liễu Dao Quang, đã không còn trên cõi đời rồi. Bây giờ hai nhà Cảnh, Mạc vẫn tiếp tục tranh giành con dâu… chỉ khác là, người đó là tiểu thư Trương Hy Nhàn mà thôi.

Ta cười chế giễu trong lòng một phen. Một Liễu Dao Quang mất đi, lại có một Trương Hy Nhàn thay thế, hai người Cảnh Bình và Mạc Khanh này, cũng thật có nhã hứng nha.

Thế nhưng tại sao ta cảm thấy trong lời nói của Lương cô cô, lại ẩn chứa một uẩn khúc khác nhỉ? Lẽ nào bà ta cho rằng, người ngoài nhìn vào câu chuyện cầu thân ồn ào mấy hôm trước của ta, sẽ liên tưởng đến Liễu Dao Quang năm xưa sao?

Một dự cảm không lành đột ngột xâm chiếm tâm trí ta.

Lúc xe ngựa đưa ta đến trước Long Trì quan, là cổng lớn của hoàng cung thì trời cũng vừa sập tối. Nhìn thấy tấm lệnh bài của ta, vũ lâm quân (1) không hỏi nhiều, liền mở cổng cho ta vào trong. Xe ngựa bị buộc phải dừng lại trước khi vào đến nội cung. Có một nội thị (2) được phái đến đón ta. Ông ta tự giới thiệu mình tên là Phúc Toàn.

Ta lễ phép chào hỏi:

- Phúc đại nhân an hảo.

Ông ta nở một nụ cười nghề nghiệp, sau đó sai người sắp xếp đồ đạc của ta vào Hàm Minh các. Ta ngạc nhiên hỏi:

- Không phải là ở Thanh Vân lầu sao?

- Dạ không ạ, tiểu thư là khách quý của thái hậu, làm sao nô tài dám để tiểu thư ở nơi chỉ toàn đạo sĩ như vậy. Đây là thái hậu đã đặc biệt căn dặn, xin tiểu thư đừng ngại.

Ta nghe vậy thì không hỏi nhiều nữa, rồi cùng ông ta đi bộ đến Vĩnh Thọ cung của thái hậu. Quãng đường tuy không xa, nhưng dù sao đây cũng là lần đầu tiên ta vào sâu trong hậu cung đến vậy, cảm thấy có nhiều thứ làm ta choáng ngợp. Chỉ tiếc rằng, từ lâu vinh hoa phú quý, của cải vật chất đã không làm ta động lòng nữa rồi. Khi ta bước lên bậc thềm hành lang dẫn đến chính cung của thái hậu, nền đá hoa cương sáng bóng đến nỗi ta có thể soi rõ dung mạo của mình trên đó. Phút chốc, ta lại thấy thứ này giống như một mặt hồ đóng băng, lạnh lẽo và mỏng manh.

Không cẩn thận bước nhầm vào một kẽ nứt, là có thể làm vỡ cả mặt băng.

Ta vào đến bên trong, Phúc Toàn bảo sau cánh cửa kia là tẩm cung của thái hậu, ta không được ngẩng đầu khi chưa được phép. Lễ nghi cung cấm không phải ta chưa từng đọc qua, nên không cần ông ta nhắc nhở ta cũng biết phải làm gì. Mọi cử chỉ của ta đều rất nề nếp, bước đi không gây ra một tiếng động nào. Khi chuẩn bị quỳ xuống, ta còn xem xét nên quỳ chỗ nào mới là thích hợp nhất.

Vừa thấy thấp thoáng có bóng người chuyển động sau tấm mành màu vàng đồng, ta liền hạ đầu gối, hành đại lễ:

- Tiểu nữ Trương Hy Nhàn tham kiến thái hậu. Thái hậu thiên tuế, thiên thiên tuế!

Chỉ nghe một giọng nói hơi khàn phát ra:

- Trương tiểu thư, bình thân đi.

Ta lại dập đầu thêm một lần nữa:

- Tạ ơn thái hậu.

Khi ta hơi đưa mắt lên, thì thấy tấm mành đã được cung nữ vén lên tự lúc nào, để cho ta nhìn thấy tới tận bên trong giường ngủ của thái hậu. Lén lút nhìn thử dáng vẻ của thái hậu, ấn tượng đầu tiên lọt vào mắt ta đó chính là dù năm nay đã ngoài ngũ tuần, nhưng những vết nhăn nheo vẫn không thể che lấp vẻ đẹp mặn mà trên khuôn mặt bà ấy. Nhất là ánh mắt của bà ấy, chứa đựng một sự sắc bén đến lạnh người. Bà ấy đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, lưng lót gối, thần sắc có chút mệt mỏi mà nói với ta:

- Ai gia không khỏe trong người, không tiện tiếp kiến Trương tiểu thư lâu. Ngày hôm nay chỉ cần nhìn thấy Trương tiểu thư thế này đã là an lòng rồi.

- Thái hậu quá lời. - Ta lễ phép đáp lại.

Sau lúc đó, thái hậu cho phép ta về Hàm Minh các nghỉ ngơi.

Đêm đầu tiên của ta trong hoàng cung trôi qua một cách thanh bình. Sáng hôm sau, ta dậy sớm để vào thỉnh an thái hậu, không ngờ bà còn dậy trước cả ta, đã đến Phật đường tụng kinh.

Thế là ta cũng đến Phật đường.

Cũng may lúc sáng ta chỉ ăn vận giản dị, nên khi bước vào không gian thanh tịnh của Phật đường cũng không thấy bản thân quá nổi bật. Thái hậu có vẻ hài lòng khi ta đích thân đến đây, bảo ta ngồi chép kinh phật trong lúc bà lần chuỗi hạt. Sau buổi sáng cầu nguyện, ta được dùng bữa cơm chay với thái hậu. Vì đã quen với cuộc sống tu đạo, nên ta cũng không quá khó khăn khi phải thích ứng với thói quen ăn uống thanh đạm của thái hậu. Cứ thế, mỗi ngày ta đều cùng thái hậu đến Phật đường, tụng kinh, ăn chay.

Đôi lúc bà cũng dẫn ta đi thăm thú ngự hoa viên, hồ Uyển Đình, đều là những cảnh đẹp trong hoàng cung. Những cuộc đàm thoại giữa ta và bà cũng chỉ xoay quanh những kiến thức ta đã học từ sư phụ về việc tu thân, thuật chiêm tinh và kinh thư. Biết ta am hiểu cầm kỳ thi hoạ, lâu lâu bà cũng bắt ta trổ tài một chút.

Chẳng ngờ lúc ở trong cung thời gian lại trôi qua rất nhanh, mùa đông cũng gần kết thúc. Như vậy là đã hơn ba tháng kể từ ngày ta vào cung, nhưng ta chưa một lần được diện kiến hoàng thượng hay hoàng hậu. Ngay cả thái tử và các hoàng tử, công chúa khác cũng không thấy xuất hiện ở Vĩnh Thọ cung này mà thăm hỏi hoàng tổ mẫu của họ. Có lẽ không phải do bọn họ không hiếu kính với thái hậu, mà là đang sợ gặp phải yêu nữ là ta đây, sẽ mang đến điềm không may cho họ. Cho rằng thái hậu đã thực sự giữ lời hứa sẽ bảo vệ ta, nên ta cứ thế mà an nhàn sống qua ngày ở nơi cung cấm này, không ngờ sóng gió lại ập tới sớm hơn là ta tưởng.

Hôm đó là một ngày đầu xuân nắng đẹp.

Cảm thấy muốn hít thở chút khí trời trong lành, thái hậu lại nhiễm phong hàn không đến Phật đường được, ta liền muốn đi thả diều. Thực ra ta đã cẩn trọng không đi cách xa Vĩnh Thọ cung, ấy thế mà cứ đụng phải sao chổi. Vận xui của ta lại rơi ngay vào mấy cây cầu còn đọng băng của mùa đông chưa tan hết, do quá hăng say thả diều, lúc bước lên cầu, ta đã bị trượt chân, ngã xuống hồ nước.

Trong cung có biết bao nhiêu cung nữ, nội thị, vũ lâm quân biết bơi, thế mà cuối cùng người cứu ta lại là người không nên cứu nhất.

Lúc được người đó kéo lên bờ, ta ho sằng sặc mấy hơi. Vừa vặn khi ta ngẩng đầu nhìn người trước mặt, thì đập ngay vào mắt chính là hình thêu mãng xà màu vàng đồng trên y phục của người đó. Dù hình dạng nó rất giống con rồng, nhưng vì nó chỉ có bốn móng nên ta biết ngay đây không phải long bào. Mà trong cung cấm này, người được sử dụng màu vàng trên y phục có mấy ai đâu chứ.

Chưa đến một giây sau, ta đã lùi ra xa, quỳ xuống hành lễ với hắn:

- Tiểu nữ Trương Hy Nhàn xin tham kiến thái tử điện hạ.

Hắn ho lên mấy tiếng vì bị sặc vài ngụm nước, sau đó khẽ thì thầm một câu vu vơ:

- Hy Nhàn, Hy Nhàn, tên thật đẹp.

Nói rồi hắn rời đi ngay sau đó.

Thậm chí cả mặt mũi hắn ra sao ta còn chưa kịp nhìn thấy rõ, vậy mà hôm sau ta đã nghe cả cung Vĩnh Thọ xôn xao bàn tán, thái tử giữa buổi thiết triều đã cầu thân phụ thân ta trước mặt văn võ bá quan. Chẳng lẽ hắn chỉ mới gặp ta một lần mà đã động lòng thật rồi sao? Khẽ thở dài, tự trách bản thân không có đủ can đảm để lấy dao rạch lên khuôn mặt “họa thủy” này của ta mấy đường.

Chưa kể đến phụ thân ta không dám tuỳ tiện quyết định, mà hoàng thượng cũng thể hiện ý phản đối. Tất nhiên hoàng thượng chưa hồ đồ đến nỗi để cho con trai mình lấy yêu nữ. Huống chi với thân phận con tin của ta bây giờ, không phải ở trong cung để mà làm tình nhân của thái tử điện hạ, mà chính là kẻ thù của hắn. Sau buổi thiết triều, hoàng thượng đã bãi giá đến Vĩnh Thọ cung ngay lập tức. Do mỗi sáng ta luôn hầu hạ thái hậu chải đầu, nên lúc mẫu tử họ cãi nhau ở ngoài chính điện, ta một chút cũng không nghe được vì đã bị thái hậu nhốt trong tẩm cung của bà suốt một buổi.

Cuộc nói chuyện không mấy dễ chịu ở Vĩnh Thọ cung đó kéo dài đến tận trưa. Khi ra về, hoàng thượng hạ lệnh thái tử phải đến Quang Hy điện chịu phạt để hối lỗi cho hành vi lỗ mãng của hắn. Còn việc hắn đã cầu thân ta, thì tuyệt đối không được nhắc đến trong cung nữa. Dù bên ngoài mọi người tưởng rằng mọi việc đều đã được an bài yên ổn, nhưng bản thân ta biết rõ, có người đang không chĩa mũi nhọn vào ta trong hoàng cung này.

Mà ta không ngu ngốc đợi người khác kề dao vào cổ ta mới hành động, ngay ngày hôm sau, ta ở trong phòng, dùng khăn lụa trắng treo cổ lên xà nhà. Tất nhiên cung nữ phát hiện kịp lúc, ta được cứu sống, nhưng cũng suýt mất mạng một phen.

Chỉ tự hỏi tại sao lúc nào ta cũng phải dùng khổ nhục kế thế này?

Khi thái hậu đến thăm ta, lần đầu tiên ta nhìn thấy thần thái lo lắng trong mắt bà:

- Ngốc quá, có ai trách mắng gì con đâu mà phải làm chuyện dại dột như vậy?

Ta ra vẻ đau khổ nói:

- Là lỗi của con, làm cho thái tử bất hoà với hoàng thượng, làm thái hậu khó xử với hoàng thượng. Thái hậu cứ để con chết đi, sẽ không gây hại đến ai được nữa.

Thái hậu ra sức khuyên giải ta, cuối cùng cũng ép được ta uống hết một chén thuốc an thần để giảm bớt kích động. Chỉ là ta vốn ngủ không sâu, nghe thấy loáng thoáng có tiếng nói chuyện lầm rầm, ta liền tỉnh giấc, nhưng không vội mở mắt ra.

- Cuối cùng mẫu hậu cũng chịu thừa nhận rồi sao?

- Ai gia không hiểu hoàng thượng đang nói gì cả.

- Cô ta không tệ chút nào, biết dùng cả khổ nhục kế để tự mình thoát khỏi vũng lầy do Hiền Nhi gây ra. Nhưng có ai ngờ lại làm mẫu hậu lo lắng cho cô ta đến thế này phải không?

- Trương tiểu thư là người hiền lành, lại hiểu chuyện, rất hợp ý ai gia, để nó chịu uỷ khuất, ai gia không nỡ.

- Mẫu hậu không nỡ hay sợ Liễu Khiêm trên trời không nỡ?

- Hoàng thượng!

Một tiếng cười lạnh đến rợn cả tóc gáy phát ra, đi cùng một câu đe doạ ngay sau đó:

- Mẫu hậu yên tâm, bọn chúng là đường huynh muội (3), trẫm sẽ không bao giờ để chuyện loạn luân xảy ra được. Chỉ là Hiền Nhi trước nay ít khi cố chấp như vậy, lưu giữ lại cô ta chỉ gây thêm hoạ, nên trẫm mong mẫu hậu có thể đưa ra quyết định sáng suốt nhất.

Lúc tiếng bước chân của hai người họ lần lượt rời khỏi phòng ta nhỏ dần, ta mới bàng hoàng mở mắt ra mà thở dốc mấy hơi. Tim ta đập thình thịch những nhịp khó khăn, lần đầu tiên, ta bất giác sợ hãi đến cực độ.

Ta tĩnh dưỡng được mấy hôm thì đã khoẻ lại, việc đầu tiên ta làm là đến Hoạt Kinh các. Chỗ này là nơi lưu trữ sách của Hoàng cung, có rất nhiều tài liệu quan trọng. Ta bảo rằng muốn kiếm vài cuốn sách đọc, lại đưa cho viên quan trông coi mấy nén bạc thế nên ông ta cũng không canh chừng kỹ càng, để cho ta lén lút lại gần kệ sách ghi chép của Đình Úy phủ (4).

Ta tìm đến ghi chép những vụ án tru di tam tộc mười sáu năm về trước.

Quả nhiên vào năm đó, chỉ có một sự kiện làm phản của đại tư mã Liễu Khiêm. Trước đây ta đã từng nghe về việc làm phản này, nên đọc lướt qua rất nhanh những ghi chép, chỉ để tìm đến tên của gia đình ông ấy. Phu nhân tên là An Nhược Linh, có một con gái là Liễu Dao Quang, tất cả đều qua đời trong vụ thảm sát năm Nguyên Trường thứ nhất sau khi Liễu tư mã làm phản.

Mà Liễu Dao Quang, lại sinh vào ngày mười lăm tháng tư, năm Nguyên Trường thứ nhất, chính là ngày sinh của ta. Còn mẫu thân của ta, bài vị được đặt trong từ đường ở Trương phủ, trùng hợp thay lại luôn đề tên là An thị. Câu chuyện của Lương cô cô kể cho ta cách đây không lâu, phút chốc lại hiện lên trong đầu óc ta. Phải rồi, sao ta không nhận ra hành động cùng một lúc cầu thân của hai người Cảnh, Mạc đó rất kỳ lạ nhỉ?

Có khi nào, trong thâm tâm, họ không phải tình cờ coi ta giống Liễu Dao Quang, mà họ biết… ta chính là cô bé đó. Bởi vì nhớ đến lời hứa với người bằng hữu đã chết thảm là Liễu Khiêm, mà họ nhất quyết muốn đón ta vào cửa lớn nhà họ, thực hiện lời hứa chăm sóc ta cả đời như đã hứa ngày xưa.

Tim ta như lỡ mất một nhịp, nhất thời cảm thấy choáng váng cả đầu óc.

Lẽ nào ta thật sự là Liễu Dao Quang sao?

Cả ngày hôm đó, tâm trạng của ta nặng nề như có hàng vạn tấn đá tảng đè lên. Ta bỗng nhớ tam sư huynh kinh khủng, nếu có y ở đây, nhất định y sẽ giúp ta điều tra mọi chuyện. Chỉ tiếc rằng bây giờ mọi tự do của ta đã bị khoá chặt giữa những bức tường của hoàng cung này, muốn làm gì cũng không được. Dù thất vọng nhưng vì không nghĩ ra cách nào khác, ta đành tạm gác lại chuyện đó sang một bên.

---
(còn tiếp)
>> Chương 7.2
 
Chỉnh sửa lần cuối:

hquyen01224

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
13/8/14
Bài viết
82
Gạo
180,0
CHƯƠNG 7: LIỄU THÁI HẬU (2)

Một thời gian nữa lại trôi qua, khi mùa hè đến, trong hoàng cung lại bắt đầu xôn xao.

Số là hoàng đế Bắc Tề sẽ thân chinh đến Trần quốc.

Quan hệ giữa hai nước trước nay rất tốt, luôn là đồng minh cùng nhau chống lại Bắc Chu đang bành trướng thế lực ở phương Bắc. Ta lại nghe ngóng được từ một số cung nữ nói rằng thái hậu năm xưa là quận chúa của Bắc Tề. Tính ra cũng có chút quan hệ với vị hoàng đế Bắc Tề này, nên y mượn danh thăm họ hàng, mà đích thân mang tấm thân bệnh tật đến Trần quốc.

Ta chỉ lờ mờ cảm nhận được, sóng gió dường như sắp nổi lên. Hoàng đế Bắc Tề dù còn trẻ tuổi nhưng mắc bệnh nan y khó chữa bao nhiêu năm nay là điều ai cũng biết, thế nên y mới phải dựa dẫm vào Trần quốc lâu như thế. Tuy vậy trước giờ, vì bệnh nặng mà y chưa từng rời khỏi Bắc Tề, bây giờ lại có nhã hứng đích thân đi thăm họ hàng xa mà bắn mấy chục mũi tên cũng không tới hay sao?

Lần này, kẻ ngu ngốc cũng nhìn ra được trong chuyến viếng thăm sẽ có không ít chuyện thú vị đây. Chỉ là ta đã không ngờ, ta lại chính là trung tâm của thị phi mà thôi.

Vào một ngày kia, bỗng dưng thái hậu cho truyền ta đến tẩm cung của bà. Ta vừa bước vào thì đã bị rất nhiều cung nữ tiến đến khống chế, lột sạch y phục trên người ta. Bọn họ đẩy ta nằm lên một cái phản gỗ, banh rộng hai chân của ta. Ban đầu ta còn cảm thấy rất xấu hổ khi ở trong tư thế kỳ quái này, nhưng rốt cuộc ta cũng nhớ ra hình ảnh ta thấy tỷ tỷ ngày đó, nên biết rõ họ đang làm gì.

Thế là ta đành nằm yên để cho họ kiểm tra. Sau khi được họ buông tha, ta nhanh chóng mặc y phục lên người. Vừa lúc đó, thái hậu cũng bước vào, nhìn ta bằng ánh mắt sắc lạnh mà hỏi:

- Tại sao lại nói dối phụ thân ngươi?

Ta thẳng thừng trả lời:

- Là vì ông ấy không tin tiểu nữ.

- Ngươi rõ ràng vẫn còn là xử nữ, làm sao thủ cung sa có thể biến mất được?

- Tiểu nữ không hiểu thái hậu đang nói gì cả.

Bà đột ngột nắm mạnh lấy vai ta, nói trong giận dữ:

- Trương Hy Nhàn, rốt cuộc ngươi đã dùng cách gì? Mau nói cho ai gia biết.

Ta hỏi với giọng chế giễu:

- Làm sao tiểu nữ có thể tin thái hậu đây?

Thái hậu nhìn ta với ánh mắt dò xét, thấy ta không tỏ thái độ gì, đành phải ra lệnh cho tất cả người hầu lui xuống. Đợi không còn ai trong phòng, bà mới thở dài một hơi, cuối cùng ngồi xuống bên cạnh ta, dịu dàng nắm lấy tay ta:

- Dù con có tin hay không, nhưng cả ai gia lẫn phụ thân của con, đều rất quan tâm con. Chúng ta làm mọi chuyện, cũng vì muốn tốt cho con. Ai gia đã hứa, sẽ không để bất kỳ chuyện gì xảy ra với con. Nếu như con không chịu tin ai gia thì ai gia biết làm sao bây giờ?

Không để ta xảy ra chuyện gì ư, vậy thì suốt bao nhiêu năm qua, ta chịu đựng biết bao ấm ức, bà ấy ở đâu chứ? Chưa kể bà ấy còn có liên can vào việc biến ta thành yêu nữ nữa kìa, mới biết rõ thứ ở trên trán ta là thủ cung sa. Tự cười nhạt trong lòng, nhưng ta vẫn điềm đạm đáp lại:

- Con cũng chỉ muốn hỏi thái hậu một câu thôi.

- Con hỏi đi.

- Liễu Khiêm là phụ thân của con sao?

Mất một lúc lâu, thái hậu mới khó khăn gật đầu.

Một cảm giác ngứa ngáy đến đau đớn dần lan tỏa khắp tim ta, như bị hàng ngàn chiếc gai nhọn đâm thẳng vào. Hoá ra những gì ta tìm hiểu được là hoàn toàn đúng. Ta là Liễu Dao Quang, con gái của Liễu Khiêm, người mà năm xưa làm phản để bị tru di tam tộc. Thế thì… ta có khác nào đang ở ngay dưới chân kẻ thù giết chết cả nhà ta năm xưa đâu?

Nếu như hoàng thượng biết được thân phận của ta, liệu ông ta có muốn giết ta để diệt cỏ tận gốc hay không? Còn nữa, thái hậu rõ ràng là mẫu thân của ông ta, tại sao lại muốn giúp ta, con gái của tội thần phản nghịch chứ? Ta nở một nụ cười máy móc, sau đó nắm chặt hai bàn tay mình, một lần nữa nhìn thẳng vào ánh mắt xót xa thái hậu dành cho ta. Ngay cả dáng vẻ lo lắng đến thất thần khi ngày đó ta giả tự tử của bà, tất cả đều không giống nói dối.

Ta biết tin vào ai đây?

Ta che giấu mọi vẻ hoang mang của mình, bình tĩnh mà giải thích với bà:

- Chân quân đã giúp con điều chế một loại thuốc, có thể tạm thời giấu đi thủ cung sa.

Sợ rằng bà chưa tin, ta nhờ cung nữ quay về phòng lấy thuốc đến giúp ta. Sau đó trước mặt bà, ta tự mình lau đi nước thuốc, để lộ dấu thủ cung sa hình đuôi cửu vĩ hồ trên trán. Ánh mắt kinh ngạc của thái hậu dần hiện lên một nét cười sâu sa. Còn ta, thì muốn đánh cược với người phụ nữ đầy tâm cơ này một lần.

Một lúc sau, khi ra khỏi Vĩnh Thọ cung, trên cánh tay trái của ta đã có một chấm nhỏ màu son, là dấu thủ cung sa như những cô nương bình thường. Những việc thái hậu dặn dò, ta nhất định sẽ làm thật tốt.

Tốt đến nỗi ngày nào đó bà ấy sẽ phải ân hận mà thôi.

Vì là khách quý của Trần quốc, vào ngày hoàng đế Bắc Tề đến Kiến Khang, y đã được thiết đãi rất nồng hậu. Hoàng thượng từ lúc lên ngôi đã cho xây một hành cung ở thung lũng Hồ Mặc trên núi Bình Hà gần Kiến Khang. Vì thời tiết ở đó quanh năm mát mẻ, nên thường được làm chỗ lui tới thường xuyên của hoàng tộc vào mùa hè.

Bây giờ trời cũng bắt đầu vào hè, vì vậy hoàng thượng hạ lệnh bãi giá đến hành cung Hồ Mặc để hoàng đế Bắc Tề được thưởng thức phong cảnh nên thơ của nơi này. Không chỉ mình hoàng tộc khởi hành mà ngay cả các quan triều đình cũng đi cùng đoàn hộ tống đến đây, để đảm bảo hoàng Thượng ngày ngày vẫn thiết triều, giải quyết mọi công vụ đều đặn. Chỗ này tuy không rộng lớn bằng hoàng cung, nhưng bù lại vì được xây trong một thung lũng nên cảnh sắc rất đẹp, thiết kế kiến trúc cũng hài hoà với thiên nhiên, không tạo cảm giác gò bó như trong cung.

Ngày đầu tiên đến hành cung, ta đã dành cả ngày chơi đùa bên bờ cái hồ lớn nhất nằm ở giữa lòng thung lũng. Mặt hồ rộng lớn trải dài giữa những cánh rừng dương tử, nước có màu xanh lục đẹp đẽ không kém gì Tây Hồ ở Hàng Châu. Nhưng tất nhiên ta đâu phải chỉ vui chơi không mục đích. Nghe cung nữ kháo nhau thái tử cũng sẽ đến đây ngắm cảnh sau buổi thiết triều, thế là ta ngồi chờ hắn cả ngày trời. Ta đang dự định để hắn đóng vai anh hùng cứu mĩ nhân lần nữa.

Vậy mà chưa đợi được thái tử, ta đã gặp phải quý nhân khác.

Để đảm bảo tính chân thực cho khán giả của màn kịch sắp tới, ta đã leo lên hẳn một chiếc thuyền nhỏ mà chèo ra giữa hồ, một mực khẳng định với những cung nữ hầu hạ rằng ta biết bơi. Vậy mà ta không ngờ rằng bản thân mình đối với bất kỳ việc gì có liên quan đến nước đều không thông thạo. Bằng chứng là sau khi thuyền được dòng nước đẩy đưa thế nào mà ra tới giữa hồ, ta đã không tài nào chèo vào bờ được nữa. Ta có cố gắng chèo thế nào thì chiếc thuyền cũng chỉ quay vòng vòng một chỗ. Lúc nãy để đảm bảo không ai tranh công với thái tử, ta còn không cho bất kỳ cung nữ hay thị vệ nào đi theo.

Rốt cuộc là tự mình hại mình thế này đây.

Bây giờ ta ở cách xa bờ như vậy, có gào thét khản cả cổ chưa chắc gì có ai nghe được. Nhảy xuống nước bơi vào cũng không xong, vì ta có biết bơi đâu. Trời gần về trưa, dưới cái nắng chói chang, những kẻ hầu hạ ta kéo nhau vào mấy cái đình ngồi hết, chẳng còn ai đứng bên bờ hồ mà thấy ta vẫy tay cầu cứu cả.

Số ta cũng thật là xui xẻo mà!

Đúng lúc ta đang tính lăn ra ngủ một giấc, chờ cho chiếc thuyền tự trôi vào bờ thì ta thấp thoáng thấy một chiếc thuyền lớn đang tiến về phía này. Thuyền này xem ra là của vương tôn quý tộc vì nó có chạm khắc họa tiết tinh xảo, trên thuyền cũng có màn che gấm phủ, chứ không đơn sơ như chiếc thuyền nhỏ của ta.

Cho rằng đó chính là thuyền của thái tử, ta đứng lên hướng về phía nó mà la lớn:

- Cứu tôi với!

Quả nhiên một lúc sau, chiếc thuyền lớn đó dần dần cập sát vào thuyền của ta. Ấy vậy mà ta chưa kịp bước lên thì đã bị ba bốn thị vệ chặn lại, nghiêm giọng hỏi:

- Là kẻ nào?

Ta lấy lệnh bài của cung thái hậu ra cho họ xem, kiên nhẫn đáp:

- Tiểu nữ là Trương Hy Nhàn, con gái của thừa tướng Trương Quyền.

Họ săm soi lệnh bài một chút, mới ngần ngại đưa mắt xem xét ta. Sau đó một tên thị vệ đưa tay cho ta, giúp ta lên thuyền. Ai ngờ ta chỉ mới đặt chân lên mạn thuyền, một kẻ từ trong bước ra, hạ lệnh:

- Lục soát người cô ta.

Ta cảm thấy có chút kỳ quái, bọn họ không nể mặt thái hậu thì cũng phải nể mặt phụ thân ta. Dám đắc tội đến ta thế này, lẽ nào họ không phải người trong cung? Ngay lập tức, ta lùi khỏi bọn họ mấy bước, giọng cảnh cáo:

- Các người đừng vô lễ.

Vừa lúc ấy, có một cơn gió vô tình thổi qua, màn trướng trên thuyền bị tốc lên, giúp ta nhìn sâu vào bên trong. Ta thấy một người ngồi trên trường kỷ, dáng vẻ và cử chỉ đều cao quý, đang được rất nhiều người cung kính quỳ xung quanh. Nhìn kỹ vào y phục của kẻ đó, ta nhận ra hình thêu long vân đặc trưng của long bào, nhưng lại mang hai màu đen và đỏ.

Bây giờ, ta mới ý thức được mình đang ở trên thuyền của ai. Hoàng tộc phương Nam xưa nay luôn dùng màu vàng hoàng kim để biểu thị đấng cửu ngũ chí tôn. Nhưng khác với phương Nam, hoàng tộc phương Bắc lại ưa chuộng hai màu đen và màu đỏ. Thầm than trong lòng, hôm nay ta đúng là ra ngoài mà không xem ngày rồi, xui xẻo thế nào lại bước nhầm lên thuyền của hoàng đế Bắc Tề thế này. Trong lúc hoảng loạn, ta lại đang định tránh khỏi bọn quân lính muốn động tay động chân với mình, thế là bước hụt ra khỏi mạn thuyền, rơi tõm xuống nước.

Một lúc lâu sau đó, khi đã được thay đổi y phục khô ráo, ngồi trong khoang thuyền ấm áp với bình trà nóng trước mặt, mà ta vẫn còn giận đến nỗi cả người cứ run rẩy không ngừng. Có cần nhắc cho ông trời biết rằng ta là một con vịt cạn hay không? Sao lần nào cũng tìm cách khiến ta rơi xuống nước thế này? Ta run rẩy chưa được bao lâu thì một giọng nói khàn khàn liền phát ra từ trong màn trướng:

- Đinh Thanh, lấy chăn ấm cho Trương tiểu thư đi, đừng để tiểu thư bị nhiễm phong hàn. Xem chừng tiểu thư thật sự đã bị nước hồ làm cảm lạnh rồi. Thật có lỗi với tiểu thư, chỉ tại bọn thị vệ của trẫm cẩn thận quá mức, ngay cả thừa tướng tiểu thư của Trần quốc cũng muốn mạo phạm.

Dù đi kèm với câu nói đó là một trận ho dữ dội, nhưng ta vẫn nghe được ý chế giễu của người vừa nói. Đúng là gian xảo, không có lệnh của y, bọn quân lính kia còn lâu mới dám đụng đến ta. Đã hại ta ngã nước, còn giả vờ lo lắng cho sức khoẻ của ta, y cũng đừng nên giả nhân giả nghĩa một cách lộ liễu thế chứ. Nhưng khi tên thái giám của hoàng đế Bắc Tề mang chăn dày đến cho ta, ta vẫn không phủ nhận rằng mình đang cảm thấy cả người lạnh run, thế nên không chút ngần ngại thu gọn cả người trong chiếc chăn ấm áp đó.

Không được ngã bệnh, ta còn chuyện quan trọng phải làm.

Hoàng đế Bắc Tề đột ngột hỏi ta:

- Tiểu thư có thích phong cảnh ở nơi đây không?

Ta khịt mũi mấy cái, nheo mắt nhìn thân ảnh mờ mịt sau màn trướng rồi đáp:

- Sức khoẻ của bệ hạ không tốt, mà vẫn có nhã hứng đi thuyền ngắm cảnh trên hồ, vậy thì phong cảnh này tất nhiên là phải đẹp rồi.

- Xem tiểu thư kìa, vẫn còn giận trẫm sao, miệng lưỡi sắc sảo quá rồi đấy.

- Tiểu nữ không dám.

- Thực ra không phải hỏi cũng biết. Thấy tiểu thư vừa không biết chèo thuyền vừa không biết bơi, mà vẫn mạo hiểm ra đến tận giữa hồ để cầu cứu trẫm, thì tất nhiên tiểu thư rất thích phong cảnh nơi này rồi.

Lại một lần nữa y giở giọng trêu chọc ta.

Ta nóng nảy đáp lại:

- So với Tây Hồ, nơi này cũng chỉ gọi là tạm được.

- Tiểu thư đã từng đến Hàng Châu rồi sao? – Giọng y tò mò thấy rõ – Trẫm nhớ trước nay chưa từng nghe nói thừa tướng Trần quốc đã từng đến Bắc Tề, hơn nữa còn dẫn gia quyến đi cùng.

Ta giật thót, suýt nữa tự cắn lưỡi mình. Ta đang nói cái gì vậy, Tây Hồ của Hàng Châu rõ ràng là ở Bắc Tề mà, như thế chẳng phải đã để lộ việc năm xưa ta thường trốn qua Bắc Tề để đến Hàng Châu chơi hay sao. Ai bảo núi Doãn Duật lại nằm ngay biên giới của hai nước, ta muốn đến Bắc Tề cũng dễ dàng như đi xuống chợ phiên dưới chân núi mà thôi.

Cứ kiểu này không khéo y lại cho rằng ta là gián điệp chứ chẳng chơi.

Hoàng đế Bắc Tề bật cười một tràng dài khi thấy biểu hiện lúng túng như một kẻ ngốc của ta. Cười xong rồi y mới bảo:

- Yên tâm đi, trẫm không nghi ngờ tiểu thư là gián điệp đâu. Gián điệp mà bất cẩn như vậy, còn không biết bơi thì tiêu chuẩn chọn người của hoàng đế Trần quốc quả là hơi thấp đấy.

Nói rồi y còn bật cười thêm một đợt nữa, làm ta chỉ biết kéo cái chăn lên tới tận đầu để che giấu hai má nóng bừng vì xấu hổ của mình. Thật sự từ trước đến giờ ít có người nào miệng lưỡi đanh đá hơn ta, chọc cho ta đánh mất hết kiên nhẫn như kẻ này cả. Tuy vậy, có lẽ là do cười nhiều quá mà y càng lúc càng ho dữ dội hơn. Cuối cùng y đành phải khất lễ với ta, đóng cửa phòng lại, che kín màn trướng để dùng thuốc. Tự nhiên cảm thấy có chút xót thương, bị bệnh lâu ngày như vậy hẳn là y khó chịu lắm nhỉ? Có khi nào ta nên giới thiệu cho y đến gặp sư phụ một lần hay không?

Ta ngồi ở phòng bên ngoài một mình không biết làm gì, xung quanh lại có sẵn nệm êm chăn ấm, phút chốc đã tựa đầu vào gối rồi thiếp ngủ lúc nào không hay. Trong mơ màng, ta cảm thấy xung quanh đầu mũi ta, vấn vương một mùi hương vừa thanh tao, lại vừa lạnh lẽo, giống hệt như mùi thơm của muôn vàn cánh hoa mai chôn vùi trong tuyết. Chỉ trong phút chốc mà bản thân ta đã đắm chìm trong mùi hương ấy, làm cả cơ thể lâng lâng như đang trôi nổi giữa đại dương mênh mông.

Không ngờ lúc tỉnh lại thì ta đã nằm trong phòng ngủ của mình ở Mặc Lan viện.

Có chút bàng hoàng, ta vén màn ra hỏi cung nữ:

- Giờ gì rồi?

- Bẩm tiểu thư, là giờ Dậu hai khắc ạ.

- Sao…sao ngươi không gọi ta dậy? Thái hậu có cho người tìm ta không?

- Dạ không ạ, thái hậu bảo tiểu thư cứ nghỉ ngơi. Hôm nay thái hậu dùng cơm với hoàng hậu và Hiền phi nương nương ạ.

Ta thở phào một hơi rồi lại hỏi:

- Là ai đã đưa ta về?

- Dạ… - Cô cung nữ đó tự nhiên cười khúc khích.

Ta thấy lạ, nhíu mày hỏi:

- Có chuyện gì vậy?

- Tiểu thư khéo nói đùa quá ạ, rõ ràng là người đã lọt vào mắt xanh của hoàng đế Bắc Tề, được người đó dùng kiệu đưa về tới tận đây. Bây giờ tất thảy mọi người đều biết việc này, còn bảo tiểu thư thật có phúc, bởi vì hoàng đế Bắc Tề còn chưa lập hoàng hậu, biết đâu lần này là cơ hội của tiểu thư.

Tên hoàng đế Bắc Tề này…

Đúng là trời đất khó dung mà!

Ta chỉ mới ngủ quên trên thuyền của y một chút, thế mà y rảnh rang quá hay sao mà lại làm ra chuyện ám muội như vậy với ta, thà y ném ta xuống hồ cho cá ăn thì hơn. Ta chỉ biết ngửa mặt nhìn trời, thầm than lần này không ổn thật rồi. Quả nhiên đúng như suy nghĩ của ta, ngày hôm sau thái hậu đã gọi ta đến trước mặt hoàng thượng và hoàng hậu, hỏi ý họ xem có nên đưa ta đến hầu hạ Hoàng đế Bắc Tề hay không. Ngày hôm qua ai cũng thấy y thể hiện tâm ý rõ ràng như thế, làm sao họ lại không biết điều được.

Hoàng hậu trước nay vốn không có nhiều chính kiến nên chỉ nhìn sang hoàng thượng. Còn hoàng thượng thì nheo mắt một chút ra chiều suy nghĩ, sau đó đáp mập mờ:

- Dù cho không phải là con gái của trẫm, nhưng cũng là con gái của Trương ái khanh, làm sao có thể để Trương tiểu thư chịu thiệt thòi được, thế này cũng có hơi hạ thấp Trần quốc chúng ta. Mẫu hậu cứ nên đợi tới lúc hoàng đế Bắc Tề đích thân đề cập đến chuyện liên hôn thì hẵng tính tiếp. Nếu thật sự như vậy, cho dù có phong Trương tiểu thư làm công chúa mà gả đi, thì trẫm cũng bằng lòng.

Hoàng thượng không muốn ta đi Bắc Tề.

Nhưng nhìn vào sự vội vàng của thái hậu, thì ta biết biết bà rất muốn như vậy. Sau khi hoàng thượng và hoàng hậu rời khỏi, ta đến bên cạnh bóp vai cho thái hậu, ra vẻ ngoan ngoãn mà hỏi thăm bà. Đợi lúc bà cho người hầu lui đi hết rồi, ta mới thẳng thừng nói:

- Con không muốn gả cho hoàng đế Bắc Tề.

Thái hậu dường như không ngạc nhiên trước câu nói đó của ta, thản nhiên đáp lại:

- Đâu đến lượt con quyết định, ai gia bảo gả thì con phải đi.

- Nhưng thái hậu... còn kế hoạch của chúng ta?

- Cứ tiến hành như đã định, làm xong trong đêm nay.

- Người muốn hai nước xảy ra chiến tranh hay sao?

- Cũng chưa chắc, mai này con trở thành hoàng hậu Bắc Tề rồi, thì đừng quên bà lão này.

Ta nghe những lời đó, khẽ siết chặt bàn tay dưới ống tay áo, nụ cười trên môi dần trở nên cứng ngắc.

Tối hôm nay là yến tiệc thiết đãi hoàng đế Bắc Tề.

Buổi tiệc diễn ra ở bên cạnh hồ nước trong hoa viên của hành cung. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn lồng trên các dãy hành lang, cả mặt hồ lấp lánh soi rõ tiếng cười nói của mọi người. Vì có bệnh trong người, hoàng đế Bắc Tề được ngồi ở không gian riêng, tách biệt với mọi người ở phía bên kia bờ hồ, phủ màn trướng kín mít để chắn gió.

Trông ẻo lả chẳng khác gì tiểu thư khuê các!

Ta ngồi bên cạnh thái hậu trong khu vực hoàng tộc, nheo mắt nhìn thân ảnh mặc long bào màu đen tuyền mờ mịt sau những tấm màn dày xa xa kia, trong lòng nổi lên khao khát muốn nhìn mặt y một lần. Ta luôn bị trí tò mò kích thích, giống như việc suốt sáu năm qua ta không biết mặt tam sư huynh đã biến thành nỗi ám ảnh trong lòng ta. Thấy ta cứ nhìn sang phía hoàng đế Bắc Tề, thái hậu khẽ nhắc:

- Chưa gả con ra khỏi cửa mà con đã muốn đi theo người ta rồi sao.

Ta ngượng ngùng cúi đầu, ra vẻ xấu hổ, thái hậu chỉ cười hiền một tiếng.

Nhưng ta biết bà đang nói cho người khác nghe.

Buổi tiệc diễn ra giữa chừng, như đã sắp xếp từ trước, ta theo yêu cầu của thái hậu lên trình diễn một tiết mục. Khi bước lên sân khấu được dựng lên giữa hồ nước, ta nhẹ nhàng ngồi xuống cây cổ cầm đã để sẵn, độc tấu một khúc Lương Nha Khuê. Giống như một dòng suối nhỏ róc rách chảy vào lòng người, tiếng đàn của ta bay bổng lên đến tầng không, xoá nhoà nét ưu phiền trên khuôn mặt từng người trong buổi tiệc. Đàn được một lúc, lúc một tiếng chuông đồng vang lên từ sau lưng, ta đột ngột đứng dậy, xoay người mấy vòng trên sân khấu để tiếp tục một điệu múa thanh thoát theo âm điệu ngân vang của tiếng chuông trên sân khấu. Các khán giả bên dưới có vẻ rất bất ngờ trước sự thay đổi này, những tiếng vỗ tay vang lên không ngớt.

Trước đây không phải là ta chưa từng múa qua, nhưng ta đã hứa, chỉ múa cho một mình tam sư huynh coi. Bởi vì y đã nói, bất kỳ nam nhân nào nhìn thấy ta múa, nếu không động tâm, thì hẳn đó là một kẻ có lòng dạ quá sắt đá rồi. Mà y thì lại không muốn ta làm cho nam nhân khác động tâm.

Ngày hôm nay, ta đã thất hứa với y rồi.

Từng động tác uyển chuyển, từng ánh nhìn dịu dàng, từng nét cười duyên dáng, ta dần dần chinh phục trái tim của những con người đang dõi theo ta. Ta cố hết sức để làm theo lời thái hậu căn dặn, khiến cho mọi nam nhân đều phải khao khát ta, mọi nữ nhân đều phải ghen tị với ta. Cuối cùng là lợi dụng điệu múa đó, từng bước xuống khỏi sân khấu, đi qua phía bên kia bờ hồ, tiếp cận gần đến chỗ hoàng đế Bắc Tề.

Khi đã đứng trước màn trướng của y, ta nhanh tay chụp lấy một bình rượu, rót ra một ly rượu đầy, nhẹ nhàng quỳ xuống, dâng đến trước mặt y. Thấy rõ thân ảnh bên trong đang chuyển động, ta đánh liều ngẩng đầu nhìn qua kẽ hở trên tấm màn che, muốn nhìn thấy khuôn mặt của y. Vậy mà khi màn trướng vừa hé mở, trong khoảnh khắc, y đã mạnh tay nắm lấy tay ta, kéo ta vào bên trong.

Một cách đột ngột, y ôm chặt ta vào lòng.

Cùng với từng tiếng ho khùng khục vang lên trong lồng ngực mà ta đang áp mặt vào, những thanh âm sắc lạnh dồn dập lao đến vun vút xung quanh ta và y. Rất nhiều tiếng kêu la hỗn tạp phát ra ngay sau đó, nhưng ta chỉ nghe được sự thất thanh trong câu nói:

- Hộ giá, mau hộ giá. Có thích khách!

Trong lúc bên ngoài huyên náo những tiếng chém giết, thì bên trong màn trướng, vòng tay hoàng đế Bắc Tề ôm ta càng lúc càng siết chặt. Cho rằng y đang dùng chút sức lực yếu ớt mà bảo vệ ta, một chút sợ hãi ta cũng không có, chỉ muốn cười chế nhạo y một phen.

Bởi vì ngay cả thích khách, ta cũng đã biết trước là sẽ xuất hiện.

Chỉ là nụ cười đắc ý đang ẩn hiện trên khoé môi ta, phút chốc bị câu nói tiếp theo của hoàng đế Bắc Tề dập tắt:

- Dùng đến cả thủ đoạn này với trẫm, bà khá lắm… Liễu thái hậu.

***
(hết chương 7)
Chú thích

(1) Vũ lâm quân: quân đội phụ trách bảo vệ hoàng cung và hoàng tộc.

(2) Nội thị: thái giám phục vụ trong nội cung

(3) Đường huynh muội: anh em con chú con bác. Thời phong kiến, anh em con cô con cậu, hay còn gọi là biểu huynh muội được phép lấy nhau, nhưng đường huynh muội thì lại bị cho là loạn luân.

(4) Đình Úy phủ: nơi phụ trách thụ lý các vụ án của triều đình trung ương.

>> Chương 8.1
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên