[Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan

Staff (1).jpg


QUYỀN TRƯỢNG CỦA THẦN SERAPIS
Tác giả: Rick Riordan
Dịch giả: Magic Purple
Độ dài: 60 trang
Cảnh báo: không
Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.
Bản dịch được đăng độc quyền tại Gác Sách.
Link đọc trên thư viện: Quyền trượng của thần Serapis

Về tác giả:
Rick Riordan là tác giả của các giải thưởng, tác phẩm bán chạy nhất cho bộ truyện Percy Jackson và tác phẩm ly kỳ cho hai bộ truyện Biên niên sử nhà KaneNhững anh hùng của đỉnh Olympus.

Theo Rick, ý tưởng cho những câu chuyện về Percy Jackson được lấy cảm hứng từ con trai ông Haley. Nhưng có tin đồn là Trại Con lai thực sự tồn tại, và Rick dành những mùa hè ở đó để ghi chép những chuyến phiêu lưu của các á thần trẻ tuổi. Một số người tin rằng, để tránh một sự hoảng loạn lớn trong thế giới người phàm, ông ấy phải thề với dòng sông Styx rằng câu chuyện của Percy Jackson là hư cấu. Rick sống ở Boston, Massachussetts, (ngoại trừ những mùa hè của ông trên Đồi Con lai) với vợ và hai con trai.

Tóm tắt nội dung:
Quyền trượng của thần Serapis là phần tiếp theo của Con trai của Sobek kể về cuộc gặp gỡ giữa Annabeth Chase và Sadie Kane là hai nhân vật trong hai bộ tiểu thuyết nổi tiếng của ông, Percy Jackson Biên niên sử nhà Kane. Cả hai người cùng nhau chống lại Serapis - một vị thần được tạo nên từ sự kết hợp cả phép thuật Hy Lạp và Ai Cập qua đó biết được cả hai cuộc gặp gỡ chỉ là những thử nghiệm của một kẻ thù hùng mạnh sau này.
*Link đọc các phần khác
Con trai của Sobek
Chiếc vương miện của Ptolemy
Mục lục
Phần một
Phần hai
Phần ba
Phần bốn
Phần năm
Phần sáu
Phần bảy - hết
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Phần một

Cho đến khi phát hiện ra con quái vật hai đầu, Annabeth căn bản không thể tưởng tượng được ngày hôm nay của cô có thể tồi tệ hơn.

Cô đã dành cả buổi sáng làm bài tập để theo kịp chương trình học ở trường. (Việc thường xuyên bỏ lớp để giải cứu thế giới khỏi những con quái vật và những thần Hy Lạp xấu xa đang hoàn toàn làm rối tung điểm GPA[1] của cô.) Rồi cô bỏ qua lời mời đi xem phim với bạn trai, Percy, và một vài người bạn khác của họ để cô có thể tìm một công việc thực tập hè tại một công ty kiến trúc địa phương. Không may, đầu óc cô như một mớ bòng bong. Cô chắc chắn mình đã hoàn toàn phá hỏng cuộc phỏng vấn.

Cuối cùng, khoảng bốn giờ chiều, cô lê bước qua công viên Quảng trường Washington trên đường đến ga điện ngầm và dẫm phải một đống phân bò tươi.

Cô giận dữ nhìn bầu trời. “Hera!”

Những khách bộ hành xung quanh nhìn cô một cách quái đản nhưng Annabeth không quan tâm. Cô quá mệt với những trò đùa ác ý của nữ thần này rồi. Annabeth đã hoàn thành rất nhiều nhiệm vụ cho Hera, nhưng Nữ thần của Bầu trời vẫn để những món quà của những con vật thần thánh của mình nơi Annabeth có thể dẫm lên chúng. Nữ thần chắc đã sai một đàn bò lén lút tuần tra tại Manhattan.

Trước khi Annabeth đến ga West Fourth Street, cô cáu kỉnh và kiệt sức, chỉ muốn đón tàu F để đến chỗ của Percy. Đã trễ giờ xem phim nhưng có lẽ họ có thể cùng ăn tối hoặc làm gì đó.

Sau đó cô phát hiện ra con quái vật.

Annabeth đã từng thấy những thứ điên rồ trước đây, nhưng con quái vật bé nhỏ này chắc chắn lọt vào danh sách ‘Các vị thần đang nghĩ cái quái gì vậy?’ của cô. Nó trông như một con sư tử và một con sói được buộc lại với nhau và nhét vào một cái mai cua.

Cái vỏ là vật xù xì màu nâu hình xoắn ốc, giống như một cái bánh ốc quế- dài khoảng mét tám với một vết nứt nham nhở chạy thẳng xuống giữa thân, như thể nó bị vỡ làm đôi, sau đó được gắn lại với nhau. Mọc lên phía trước là chi trước và đầu của một con sói sám bên trái, một con sư tử bờm vàng bên phải.

Cả hai con vật xem ra chẳng thích thú gì về việc chia sẻ cái vỏ ốc. Chúng kéo lê cái vỏ xuống sân ga, lắc lư qua lại khi chúng cố gắng để kéo về hai hướng khác nhau. Chúng gầm gừ lẫn nhau đầy khó chịu. Sau đó cả hai đứng sững lại và đánh hơi không khí.

Hành khách rẽ sang bên, hầu hết đi qua và phớt lờ con quái vật. Số khác thì chỉ cau mày hay nhìn nó khó chịu.

Annabeth đã thấy Màn sương làm như vậy rất nhiều lần trước đây, nhưng cô vẫn luôn ấn tượng bởi cái cách bức màn huyền bí bóp méo cách nhìn của người phàm, thậm chí khiến một con quái vật hung tợn thành thứ gì đó có thể giải thích được – một con chó hoang hay có lẽ một người vô gia cư chui trong cái túi ngủ.

Mũi của con quái vật sáng lóe lên. Trước khi Annabeth có thể quyết định làm gì, cả hai cái đầu quay sang và nhìn trực diện vào cô.

Tay Annabeth lục tìm con dao. Sau đó nhớ lại là mình chẳng có cái nào. Ngay lúc đó, vũ khí nguy hiểm nhất của cô là cái ba lô, cái đang đựng vài cuốn sách về kiến trúc khá nặng của thư viện công cộng.

Cô điều hòa hơi thở. Con quái vật đứng cách khoảng mười mét.

Chiến đấu với một con sư tử-sói-cua giữa một đám đông tại ga tàu điện không phải là lựa chọn số một của cô, nhưng cô sẽ làm nếu đó là tình thế bắt buộc. Cô là con gái của nữ thần Athena.

Cô nhìn chằm chằm con quái vật, để nó biết cô sẵn sàng.

“Lại đây nào bé cua,” cô nói. “Ta mong là ngươi chịu đau tốt.”

Đầu sư tử và sói nhe nanh ra. Sau đó sàn nhà phát ra tiếng kêu ầm ầm. Không khí ùa vào đường hầm khi một chiếc tàu vào ga. Con quái vật gầm vào mặt Annabeth. Cô có thể thề rằng mắt nó ánh lên một cái nhìn tiếc nuối, như thể đang nghĩ là, ta rất muốn xé nát ngươi thành trăm mảnh, nhưng ta có việc ở chỗ khác rồi.

Sau đó, con quái quay đầu và nhảy vọt lên, kéo theo cái vỏ khổng lồ phía sau. Nó biến mất trên những bậc thang, và hướng đến tàu A.

Trong một khoảnh khắc, Annabeth quá choáng để có thể di chuyển. Cô hiếm khi gặp con quái vật nào mà để yên cho một á thần như vậy. Mỗi khi có cơ hội, bọn quái vật hầu như luôn luôn tấn công.

Nếu con cua hai đầu này có thứ gì đó quan trọng để làm hơn là giết cô, Annabeth muốn biết đó là gì. Cô không thể để con quái vật đi, thực hiện những kế hoạch xấu xa của nó và sử dụng phương tiện công cộng miễn phí.

Cô buồn bã liếc nhìn con tàu F, nó sẽ đưa cô đến chỗ của Percy. Sau đó cô chạy lên những bậc thang phía theo con quái vật.

Annabeth nhảy lên tàu kịp lúc cửa đang đóng. Con tàu rời khỏi sân ga và lao vào bóng tối. Trên đầu các bóng điện chập chờn. Hành khách di chuyển qua lại. Mọi ghế đã có người ngồi. Hơn chục người đứng, lắc lư khi họ bám vào lan can và cột trụ.

Annabeth không thể nhìn thấy con quái cho đến khi ai đó ở đằng trước hét lên, “Coi chừng, cái đồ kì cục!”

Con sư tử-sói-cua đang bị đẩy ra phía trước, gầm gừ với người thường, nhưng hành khách chỉ phản ứng khó chịu như kiểu-thường-gặp-trên-tàu-điện-ngầm-New-York. Có lẽ họ thấy con quái vật là một gã say xỉn nào đó.

Annabeth đi theo nó.

Khi con quái cậy cửa chiếc xe tiếp theo vào trèo qua nó, Annabeth nhận thấy vỏ mai của nó đang tỏa sáng yếu ớt.

Nó đã từng làm điều đó trước đây chưa? Xoay quanh con quái vật những biểu tượng neon đỏ - chữ cái Hy Lạp, dấu hiệu chiêm tinh, và văn tự hình ảnh. Chữ tượng hình Ai Cập.

Một cơn ớn lạnh lan tỏa giữa hai vai của Annabeth. Cô nhớ Percy đã nói gì đó với cô vài tuần trước - về một cuộc gặp gỡ của cậu có vẻ bất khả thi vì thế cô cho là cậu đang đùa.

Nhưng bây giờ…

Cô vượt qua đám đông, bám theo con quái vào chiếc xe tiếp theo.

Mai của sinh vật này phát sáng mạnh mẽ hơn. Khi Annabeth đến gần, cô bắt đầu có cảm giác buồn nôn. Cô nhận thấy một hơi nóng giằng co trong dạ dày, như thể có một lưỡi câu mắc trong rốn cô, đang kéo cô về phía con quái vật.

Annabeth cố gắng ổn định các dây thần kinh lại. Cô đã dành cả đời để nghiên cứu về các linh hồn Hy Lạp cổ đại, những con quái vật và quỷ dữ. Kiến thức là vũ khí quan trọng nhất của cô. Nhưng giờ đây con cua hai đầu này - cô chẳng biết chút gì về nó cả. Chiếc la bàn trong cô dường như đang quay một cách vô ích.

Cô ước rằng mình có người hỗ trợ. Cô có di động nhưng thậm chí nếu cô có thể bắt được sóng trong đường hầm, cô sẽ gọi cho ai? Hầu hết á thần không mang theo điện thoại di động. Tín hiệu sẽ thu hút quái vật. Percy thì ở tuốt trên khu thượng. Hầu hết bạn của cô đã trở lại Trại con lai bên bờ biển bắc Long Island.

Con quái tiếp tục xô đẩy trên đường hướng đến phía trước con tàu.

Trước khi Annabeth đuổi kịp nó ở chiếc xe tiếp theo, ánh sáng của con quái vật mạnh đến mức những người phàm bắt đầu chú ý. Nhiều người bịt miệng và gập người trên ghế của họ, như thể ai đó mở một cái tủ đầy thức ăn trưa hỏng. Số khác thì ngất xỉu trên sàn.

Annabeth cảm thấy buồn nôn, cô muốn rút lui, nhưng cảm giác lưỡi câu cứ giật mạnh rốn cô và kéo về phía con quái vật.

Tàu đi vào ga Fulton. Ngay khi cửa mở, mọi hành khách còn tỉnh lảo đảo bước ra. Cái đầu sói của con quái tóm lấy một người phụ nữ, dùng hàm răng giữ chặt túi xách của bà ta khi bà cố gắng thoát ra.

“Này!” Annabeth hét lên.

Con quái vật thả người phụ nữ ra.

Cả hai cặp mắt nhìn Annabeth chăm chú như thể đang nghĩ rằng, Mi muốn chết à?

Sau đó, nó ném hai cái đầu về phía sau và cùng gầm lên. Âm thanh đó đánh vào Annabeth như một tảng băng giữa hai mắt. Cửa sổ của con tàu vỡ toang. Những hành khách đã thoát ra ngoài giật mình tỉnh lại. Một số cố gắng bò ra khỏi cửa. Số khác ngã qua những cửa kính vỡ.

Qua tầm nhìn bị mờ đi, Annabeth thấy con quái vật cúi xuống cánh tay không phù hợp của nó, tư thế sẵn sàng.

Thời gian trôi chậm chạp. Cô lờ mờ nhận thấy những cánh cửa vỡ đang dần đóng lại, con tàu trống giờ rời khỏi sân ga. Chẳng lẽ tàu trưởng không nhận thấy điều gì đã xảy ra? Phải chăng con tàu đang ở chế độ lái tự động?

Giờ chỉ còn cách nó tầm ba mét, Annabeth nhận ra những chi tiết mới về con quái vật. Luồng ánh sáng đỏ của con quái dường như sáng nhất dọc theo vết nứt trên vỏ của nó. Những chữ cái Hy Lạp và chữ tượng hình Ai Cập phát sáng phun ra như khí của núi lửa từ một vết nứt của biển sâu. Cẳng chân trái trước của con sư tử được cạo nhẵn phần cổ chân, xăm một loạt các sọc nhỏ màu đen. Mắc kẹt bên trong tai trái của con sói là một biển giá màu cam ghi 99,99$.

Annabeth nắm chặt dây đeo bao lô của mình. Cô sẵn sàng ném nó vào con quái vật, nhưng nó sẽ chẳng hữu hiệu mấy. Thay vào đó, cô sử dụng chiến thuật quen thuộc khi đối đầu với một đối thủ mạnh hơn. Cô bắt đầu nói chuyện.

“Ngươi tạo thành từ hai phần khác nhau,” cô nói. “Người giống như.. những mảnh của một bức tượng sống. Ngươi được dính lại với nhau à?”

Đó hoàn toàn là phỏng đoán, nhưng tiếng gầm của sư tử cho cô biết cô đã đúng. Con sói cắn vào má con sư tử như thể bảo nó im mồm.

“Hai người không quen làm việc cùng nhau,” Annabeth đoán. “Ngài sư tử, ông có một mã số ID trên chân. Ông là một bức tượng trong bảo tàng. Có lẽ là Met[2] chăng?”

Con sư tử gầm lớn làm đầu gối Annabeth loạng choạng.

“Tôi đoán nó nghĩa là “Phải”. Và ngài, ngài Sói… cái nhãn dán trên tai ông… ông được bán trong một cửa hàng đồ cổ à?”

Con sói gầm gừ và bước một bước về phía cô.

Trong khi đó, đoàn tàu tiếp tục chui vào đường hầm dưới sông Đông. Gió lạnh ùa vào qua những khung cửa sổ vỡ và làm răng của Annabeth va đập.

Tất cả các bản năng của cô nói với cô hãy chạy đi, nhưng các khớp xương của cô cảm giác như thế chúng đang rã ra. Luồng sáng của con quái vật càng lúc càng sáng hơn, lấp đầy bầu không khí với những biểu tượng mờ và ánh sáng đẫm máu.

“Ngươi... ngươi đang mạnh lên,” Annabeth chú ý. “Ngươi đang hướng đến nơi nào đó phải không? Và ngươi đến càng gần-”

Hai đầu con quái vật đồng thời gầm lên lần nữa. Một làn sóng năng lượng đỏ xuyên qua chiếc xe. Annabeth phải cố gắng lấy lại ý thức.

Con quái bước lại gần hơn. Mai của nó lớn lên, khe nứt trung tâm cháy sáng lên như sắt nóng chảy.

“Chờ chút,” Annabeth rên rỉ, “Ta hiểu rồi. Ngươi chưa hoàn chỉnh. Ngươi đang tìm kiếm một mảnh ghép nữa. Cái đầu thứ ba ư?”

Con quái vật dừng lại. Mắt nó lóe lên một cái nhìn thận trọng, như muốn nói rằng, Ngươi đọc nhật ký của ta rồi à?

Can đảm trong Annabeth tăng lên. Cuối cùng cô tìm được thước đo đối thủ của mình. Cô đã gặp rất nhiều sinh vật ba đầu trước đây. Khi nó trở thành sinh vật thần thoại, ba là con số ma thuật. Nó hoàn toàn chính xác khi con quái vật này sẽ có thêm một cái đầu nữa.

Con quái là một loại tượng nào đó, bị chia thành nhiều mảnh. Giờ thì có cái gì đó đã đánh thức nó. Nó đang cố gắng để thu thập các phần lại với nhau.

Annabeth quyết định là cô không thể để điều đó xảy ra. Những chữ tượng hình và ký tự Hy Lạp đỏ phát sáng trôi nổi xung quanh nó như là dây cháy của một cái cầu chì, phép thuật tỏa ra mà về cơ bản có cảm giác là sai, mặc dù nó đang dần làm tan rã từng tế bào của Annabeth.

“Ngươi không phải là một con quái vật Hy Lạp, phải không?” cô đánh bạo “Ngươi đến từ Ai Cập à?”

Con quái không thích nhận xét đó. Nó nhe nanh ra và chuẩn bị nhảy.

“Whoa, nhóc,” cô nói. “ Ngươi chưa đủ mạnh đúng không? Tấn công ta ngay bây giờ và ngươi sẽ thua thôi. Sau đó, cả hai ngươi sẽ chẳng còn tin tưởng nhau nữa.”

Con sư tử nghiêng đầu và gầm lên.

Annabeth vờ như bị ấn tượng. “Ngài sư tử! Sao ngài có thể nói như thế về ngài sói?”

Con sư tử nháy mắt.

Con sói liếc sư tử và gầm ghè một cách đáng ngờ.

“Và, ngài sói!”. Annabeth há hốc. “Ngài không nên dùng thứ ngôn ngữ đó về bạn mình”

Hai cái đầu quay sang nhau, cắn nhau và tru lên. Con quái vật lảo đảo bởi vì chân trước di chuyển hai hướng khác nhau.

Annabeth biết rằng cô chỉ có vài giây. Cô nặn óc, cố gắng tìm ra đây là loại sinh vật gì và làm thế nào để đánh bại nó, nhưng nó chẳng hề giống bất cứ thứ gì cô có thể nhớ được từ các bài học ở Trại Con lai.

Cô cân nhắc về việc quay ra phía sau nó, có lẽ là thử làm vỡ cái mai, nhưng trước khi cô có thể làm điều đó con tàu chậm lại. Họ vào ga High Street, trạm dừng đầu tiên tại Brooklyn.

Sân ga vắng vẻ khác thường, nhưng một tia sáng trước cầu thang thoát hiểm rọi vào mắt Annabeth. Một cô bé tóc vàng hoe trong bộ đồ trắng đang quơ một cái gậy gỗ, cố gắng để đánh một con thú lạ quấn quanh chân cô, sủa điên tiếc. Từ vai trở lên, sinh vật đó trông như một con chó săn mồi Labrador màu đen, nhưng phần dưới chỉ là một thứ hình nón xù xì như hóa thạch của đuôi một con nòng nọc.

Annabeth có thời gian để suy nghĩ: Mảnh thứ ba.

***
Chú thích
[1]GPA (Grade Point Average): Điểm trung bình trong hệ thông giáo dục Mỹ.

[2] Met (Metropolitan Museum of Art): Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, New York.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Phần hai

Sau đó cô bé tóc vàng đánh mạnh lên mũi con quái. Cây gậy của cô lóe lên một tia sáng vàng, và con chó bị đẩy mạnh ra phía sau - xuyên qua cánh cửa sổ vỡ về phía cuối chiếc xe điện ngầm của Annabeth.

Cô bé tóc vàng đuổi theo nó. Cô nhảy qua cánh cửa đang đóng lại khi tàu rời ga.

Cùng một lúc tất cả họ đều đứng đó - hai cô gái và hai con quái vật.

Annabeth quan sát cô gái phía bên kia chiếc xe, thử đánh giá mức độ nguy hiểm của cô ấy.

Cô bé mặc quần lanh trắng với áo blouse, giống như đồng phục karate. Đôi bốt của cô trông như chúng có thể gây sát thương trong một trận chiến. Vai trái cô đeo một túi nilon màu xanh với một thanh ngà voi cong – một cái boomerang[1]? – treo qua dây đeo. Nhưng vũ khí lợi hại nhất của cô bé là cây gậy gỗ màu trắng - dài khoảng mét rưỡi, đầu tạc hình một con đại bàng, cả cây gậy tỏa sáng như đồng Celestial.

Annabeth bắt gặp ánh mắt của cô bé, và một cảm giác ngờ ngợ làm cô bối rối.

Cô bé Karate chắc chỉ mới mười ba tuổi. Đôi mắt xanh nổi bật, có vẻ là một đứa con của thần Zeus. Mái tóc dài vàng hoe đan xen với vài sợi tím, trông rất giống một đứa con gái của Athena - sẵn sàng chiến đấu, nhanh nhẹn và can đảm. Annabeth có cảm giác như cô đang gặp lại bản thân mình bốn năm về trước, trong khoảng thời gian lần đầu tiên cô gặp Percy.

Sau đó Cô bé Karate lên tiếng và phá vỡ ảo giác.

“Tốt.” Cô thổi mấy sợi tóc tím trên mặt mình. “Bởi vì ngày của ta chưa đủ điên khùng mà.”

Giọng Anh, Annabeth nghĩ thầm. Nhưng chô không có thời gian để suy nghĩ về việc đó.

Con chó-nòng nọc và con sư tử-sói-cua đang đứng giữa xe, cách khoảng năm mét, nhìn chằm chằm nhau một cách ngạc nhiên. Khi chúng vượt qua nỗi kinh ngạc. Con chó tru lên – một tiếng kêu hân hoan như thế Ta tìm được mi rồi! Và con sư tử-sói-cua xông tới chỗ nó.

“Ngăn chúng lại!” Annabeth hét lên.

Cô nhảy lên lưng con quái cua, và chân trước của nó sụp xuống vì sức nặng quá khổ.

Cô bé kia hét lên điều gì đó như là: “Mar!”

Một loạt các chữ tượng hình cháy sáng trong không trung:
1.PNG


Con chó chần chừ lùi lại, nôn ọe như là vừa nuốt phải một trái bóng bi-a.

Annabeth cố gắng để đè con quái cua xuống, nhưng con quái này nặng gấp đôi cô. Nó đẩy chân trước, cố ném cô đi. Cả hai cái đầu quay lại định ngoạm lấy mặt cô.

May mắn thay cô đã đóng yên cho rất nhiều con pegasus[2] hoang tại Trại Con lai. Cô cố gắng giữ thăng bằng khi đang tháo ba lô xuống. Cô đập mười kí sách kiến trúc vào đầu con sư tử, sau đó quấn dây trên vai cô qua bụng con sói và kéo mạnh một chút.

Trong khi đó, con tàu xông ra dưới ánh nắng mặt trời. Nó chạy dọc theo đường ray quận Queens, không khí trong lành ùa vào qua những khung cửa vỡ và lấp lánh những mảnh thủy tinh nhảy múa trên ghế.

Phía xa tầm mắt của cô, Annabeth thấy con chó đen đã thoát khỏi tình trạng nôn mửa. Nó lao vào cô bé Karate, cô ném cái boomerang ngà voi của mình đi và thổi bay con quái vật với một luồng sáng flash màu vàng khác.

Annabeth ước gì mình có thể triệu hồi những luồng sáng vàng đó. Tất cả những gì cô có là một cái ba lô ngớ ngẩn. Cô làm hết sức để trấn áp con quái cua, nhưng con quái vật dường như trở nên mạnh dần lên từng giây trong khi khi ánh sáng đỏ kia làm Annabeth yếu đi. Đầu cô như nhồi đầy cotton. Dạ dày xoắn lại.

Cô mất khái niệm thời gian khi vật lộn sinh vật đó. Cô chỉ biết là cô không thể để nó kết hợp với cái đầu chó kia. Nếu con quái vật hoàn thiện thành ba đầu, dù là gì đi chăng nữa, sẽ chẳng thể nào ngăn nó lại.

Con chó lao vào cô bé Karate một lần nữa. Lần này nó đánh cô bé ngã xuống. Annabeth, bị phân tâm, trượt khỏi con quái vật cua, và nó ném cô xuống - đầu cô va vào rìa của một cái ghế.

Tai cô ù lên khi con quái vật gầm lên trong chiến thắng. Một làn năng lượng nóng đỏ lan tỏa trong con tàu. Nó nghiêng qua một bên, và Annabeth mất trọng lượng.

“Lại đây,” một giọng nữ vang lên. “Chúng ta phải đi thôi”.

Annabeth mở mắt ra. Thế giới đang xoay vòng. Xa xa còi báo động kêu ầm ĩ.

Cô đang nằm dài trên đám cỏ dại gai góc. Cô bé tóc vàng trên tàu cúi xuống và kéo mạnh cánh tay cô.

Annabeth cố gắng ngồi xuống. Cô có cảm giác như ai đó đang đóng những cây đinh nóng vào ngực cô. Khi tầm nhìn trở nên rõ ràng, cô nhận ra mình may mắn sống sót. Cách đó khoảng năm mươi mét, tàu điện ngầm đã trượt khỏi đường ray. Những chiếc xe vỡ nát nằm dài, khói bốc ngùn ngụt từ đống đổ nát làm Annabeth nghĩ đến xác của một con drakon[3] ( không may là cô đã gặp vài con rồi).

Cô nhận thấy không có người phàm nào bị thương. Hi vọng là tất cả họ đã rời khỏi tàu tại ga Fulton Street. Nhưng vẫn – thật là một thảm họa.

Annabeth nhận ra nơi cô đang đứng: bờ biển Rockaway. Vài trăm mét về bên trái, những mảnh đất trống và dãy hàng rào uốn cong nhường chỗ cho một bãi cát vàng rải rác dầu và rác thải. Biển động dưới bầu trời đầy mây. Bên phải Annabeth, bên kia đường ray xe lửa, sừng sững một dãy các căn hộ cao tầng xiêu vẹo khiến ta nghĩ rằng chúng là những tòa nhà được tân trang từ những hộp tủ lạnh cũ.

“Yoo-hoo.” Cô bé Karate lắc vai. “ Em biết là có lẽ chị đang shock, nhưng chúng ta cần phải đi thôi. Em không hứng thú được cảnh sát hỏi thăm về thứ kèm theo này.”

Cô bé chuồn qua bên trái cô. Đằng sau cô trên những mảnh giăm nhựa đường, con quái Labrador[4] đen rơi xuống như một con cá rơi xuống nước, miệng và chân nó bị sợi dây phát ra ánh sáng vàng trói lại.

Annabeth nhìn chằm chằm cô bé. Quanh cổ cô bé lấp lánh một sợi dây với một cái bùa hộ mệnh bạc - một ký tự giống như một cây thánh giá Ai cập với một người đàn ông bánh quy gừng[5].
2.PNG


Cạnh cô bé là cây gậy và cái boomerang ngà voi – cả hai đều được khắc chữ tượng hình và hình ảnh những con quái vật lạ, rất không-Hy Lạp.

“Em là ai?” Annabeth hỏi.

Cô bé khẽ nhếch mép. “Thường thì em không cho người lạ biết tên của mình. Những lỗ hổng ma thuật và những thứ như vậy. Nhưng em phải tôn trọng người chiến đấu với con quái vật hai đầu chỉ với một cái ba lô.” Cô bé chìa tay ra. “Sadie Kane.”

“Annabeth Chase.”

Họ bắt tay.

“Rất vui khi gặp chị, Annabeth,” Sadie nói. “Bây giờ, chúng ta nên đưa chú chó nhỏ này đi dạo nhỉ?”

Họ rời đi vừa kịp lúc.

Vài phút sau, xe cứu hộ đã tập trung quanh con tàu đổ nát, và một đám đông tụ tập gần khu căn hộ.

Annabeth cảm thấy buồn nôn hơn bao giờ hết. Những đốm đỏ nhảy múa trước mắt cô, nhưng cô giúp Sadie kéo con quái vào cồn cát bằng cách nắm đuôi nó. Sadie có vẻ thích thú với việc kéo lê con quái vật qua càng nhiều sỏi đá và chai lọ vỡ cô có thể tìm thấy.

Con quái gầm gừ và quằn quại. Hào quang đỏ của nó tỏa sáng mạnh mẽ hơn, trong khi ánh vàng của sợi dây mờ dần.

Thường thì Annabeth thích đi bộ trên bờ biển. Biển cả làm cô nhớ đến Percy. Nhưng hôm nay cô đói lả và kiệt sức. Giờ phút này, ba lô của cô trở nên nặng trĩu, và cái sinh vật kia khiến cô muốn ném nó đi.

Bờ biển Rockaway là một nơi ảm đạm. Một cơn bão lớn đã đổ bộ vào đây hơn một năm về trước và những thiệt hại của nó vẫn còn rõ ràng. Một vài căn hộ chung cư ở xa bị ăn mòn tới phần khung sườn, những tấm ván che cửa sổ và gạch trên tường phủ đầy chữ graffiti. Những mẩu gỗ mục nát, khối nhựa đường và thanh kim loại cong rải rác trên bờ biển. Các giá treo của một cầu tàu bị phá hủy nhô lên khỏi mặt nước. Bản thân sóng biển thì bực bội đánh vào bờ như muốn nói rằng, đừng lờ tôi như thế. Tôi luôn có trể trở lại và hoàn thành công việc đấy.

Cuối cùng họ đến chỗ một cái xe tải chở kem vô chủ bị lấp một nửa trong cồn cát. Được sơn một mặt, những hình ảnh mờ của những món ngon trước đây làm bụng Annabeth sôi lên biểu tình.

“Dừng ở đây thôi,” cô thì thầm.

Cô thả đuôi con quái vật xuống và lảo đảo bước về phía cái xe tải, sau đó dựa lưng vào cửa hành khách và trượt xuống.

Sadie ngồi xếp bằng, đối mặt với cô. Cô bé lục khắp cái ba lô của cô và lấy ra một lọ gốm có nắp.

“Đây.” Cô đưa cho Annabeth. “Uống đi. Nó ngon lắm.”

Annabeth cẩn thận xem xét cái lọ. Nó có vẻ nặng và ấm giống như một ly cà phê nóng. “Ừ… thứ này sẽ không phóng ra bất kì tia sáng vàng nào nổ bùm vào mặt chị chứ?”

Sadie khịt mũi. “ Ngốc, nó chỉ là thuốc trị thương thôi. Một người bạn của em, Jaz, pha chế loại thuốc tốt nhất trên thế giới đó.”

Annabeth vẫn còn chần chừ. Cô đã thử nhiều loại thuốc trước đây, chúng được những đứa con của Hecate pha chế. Thường thì chúng có vị như súp váng ao, nhưng ít nhất là chúng có tác dụng với á thần. Dù cho là gì trong cái lọ này, nó chắc chắn không phải là loại đó.

“Chị không chắc là mình nên thử,” cô nói. “Chị… không giống em”

Chẳng ai giống em cả,” Sadie đồng tình. “Sự tuyệt vời của em là duy nhất. Nhưng nếu ý chị là chị không phải là pháp sư, ồ, em hiểu. Thường thì tụi em chiến đấu với quyền trượng và đũa phép.” Cô bé vỗ nhẹ vào cây gậy trắng được chạm khắc và boomerang ngà voi cạnh mình. “Nhưng mà em nghĩ là thuốc của em sẽ có hiệu quả với chị. Chị đã chiến đấu với một con quái vật. Chị sống sót cạnh cái xác tàu. Chị không thể là người bình thường”

Annabeth cười gượng. Cô nhận thấy sự tinh nghịch của cô bé này khá là mới mẻ. “Không, chị không hẳn là bình thường. Chị là một á thần.”

“Ah.” Sadie gõ nhẹ ngón tay trên cây đũa cong của mình. “Xin lỗi, khái niệm đó khá mới với em. Một quỷ-thần?”

“Á thần,” Annabeth sửa lại. “Nửa thần thánh, nửa người phàm.”

“Oh, được rồi.” Sadie thốt ra, rõ ràng đã bớt căng thẳng. “ Em từng chứa Isis trong đầu vài lần. Ai là người bạn đặc biệt của chị?”

“Của chị - không. Chị không chứa ai cả. Mẹ chị là nữ thần Hy Lạp, Athena.”

“Mẹ của chị.”

“Đúng vậy.”

“Một nữ thần. Một nữ thần Hy Lạp.”

“Ừm.” Annabeth nhận thấy người bạn mới của cô trở nên tái nhợt. “ Chị đoán là em không có khái niệm đó, um, em đến từ đâu vậy?”

Luân Đôn. Hay Los Angeles nhỉ. Em không nhớ là từng gặp một á thần Hy Lạp tại bất cứ nơi nào trong số đó. Tuy nhiên, khi một người giải quyết những cái khinh khí cầu ma thuật, nữ thần mèo, và người lùn ở Speedos, người đó không thể dễ dàng bị làm ngạc nhiên”.

Annabeth không chắc cô nghe đúng. “Người lùn ở Speedos?”

“Mmm.” Sadie liếc nhìn con quái vật, vẫn đang quằn quại trong sợi xích vàng của nó. “Nhưng đây là một khó khăn. Vài tháng trước mẹ em đưa cho em một lời cảnh báo. Bà ấy nói cho em biết về những vị thần khác và những loại pháp thuật khác.”

Cái lọ trong tay Annabeth trở nên ấm hơn. “Những vị thần khác. Ý em là Isis. Bà ấy là nữ thần pháp thuật của Ai Cập. Nhưng… bà ấy không phải là mẹ em?”

“Không,” Sadie trả lời. “Ý em là, có. Isis là nữ thần pháp thuật của Ai Cập. Nhưng bà ấy không phải là mẹ em. Mẹ em chết rồi. Ừm…bà là một pháp sư của Nhà sự sống[6], như em, nhưng sau đó bà chết, vì vậy-”

“Đợi một chút.” Đầu Annabeth đập mạnh đau, cô nhận ra chẳng gì có thể làm nó tệ hơn nữa. Cô mở nắp lọ và uống.

Cô mong chờ vị súp váng xanh, nhưng nó thật ra có vị như nước táo ấm. Ngay lập tức, tầm nhìn của cô rõ tàng. Dạ dày ổn định.

“Wow,” Cô lên tiếng.

“Nói với chị rồi mà.” Sadie cười tự mãn. “Jaz giống như một nhà bào chế thuốc.”

“Vậy em đã nói… Nhà sự sống. Phép thuật Ai Cập. Em giống như cậu bé bạn trai chị từng gặp.”

Nụ cười của Sadie mờ dần. “Bạn trai chị… đã gặp ai đó giống em? Một pháp sư khác?”

Vài mét đằng kia, con quái vật gầm gừ và vùng vẫy. Sadie không hề bày tỏ quan tâm gì, nhưng Annabeth lo lắng việc sợi dây ma thuật đang phát sáng một cách yếu ớt.

“Cách đây vài tuần,” Annabeth kể. “Percy kể với chị một câu chuyện điên rồ về việc gặp một cậu bé gần vịnh Moriches. Hình như cậu bé này sử dụng chữ tượng hình để đọc thần chú. Cậu ta giúp Percy đánh bại một con quái vật cá sấu bự.”

“Con trai của Sobek!” Sadie thốt lên. “Nhưng anh trai của em đã đánh bại con quái vật đó. Anh ấy chẳng kể gì về việc-”

“Tên anh em là Carter à ?” Annabeth hỏi.

Một luồng hào quang giận dữ lập lòe quanh đầu Sadie – một vòng chữ tượng hình giống như những khuôn mặt cau có, nắm tay và người chết.

“Từ bây giờ,” Sadie lẩm bẩm, “tên anh trai em là Bao cát. Dường như anh ấy chẳng bao giờ kể hết mọi thứ với em.”

“À.” Annabeth đã phải chiến đấu với sự thôi thúc trốn khỏi người bạn mới này. Cô sợ là những chữ tượng hình giận dữ đang phát sáng đó có thể nổ tung. “Ngại quá. Xin lỗi.”

“Đừng mà,” Sadie nói. “Em thật muốn đấm vào mặt anh trai hơn. Nhưng trước tiên, hãy kể cho em mọi chuyện – về chị, á thần, Hy Lạp và bất cứ gì có thể làm với người bạn quái vật có nanh của chúng ta ở đây.”

[1]boomerang: là một vũ khí thường có hình chữ V. Khi được phóng đi nó có thể tạo ra trong không khí những đường đi rất phức tạp và nếu không trúng đích nó sẽ quay trở lại chân người ném.
[2]pegasus: ngựa có cánh như chim đại bàng.
[3]drakon: là những sinh vật khổng lồ giống rắn và cổ xưa hơn loài rồng.
[4]Labrador: một giống chó phổ biến ở Mỹ.
[5]người đàn ông bánh quy gừng: một loại bánh quy gừng hình người, người ta thường làm tặng nhau vào dịp giáng sinh.
[6] Nhà sự sống: House of Life
 
Chỉnh sửa lần cuối:

bupbecaumua

gà luộc
Nhóm Biên tập
Tham gia
9/12/13
Bài viết
3.401
Gạo
6.529,0
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Hay quá chị Magic Purple ơi. :-*Chuẩn văn bác Rick. Bao giờ có phần mới tag em nhé.:">:-*
P/S:
- cái bánh ốc quế- dài khoảng mét tám => quế - dài.
- Người giống như.. những mảnh => Người giống như... những mảnh.
- Và ngươi đến càng gần-” => Và ngươi đến càng gần.”
- sủa điên tiếc => sủa điên tiết.
- nylon => nilon.
- “Tốt”. => “Tốt.”
- Cô đập mười kí sách kiến trúc vào đầu con sư tử, sao đó quấn dây => sau đó.
- Của chị- không. => Của chị - không.
- tầm nhìn của cô rõ tàng => rõ ràng.
- “Nói với chị rồi mà”. => “Nói với chị rồi mà.”
 

bupbecaumua

gà luộc
Nhóm Biên tập
Tham gia
9/12/13
Bài viết
3.401
Gạo
6.529,0
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Em vừa đọc hết rồi, cả phần chị mới bổ sung. Mê ly luôn.:">:">:">:">:">:">:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*
P/S. Còn mấy chỗ có dấu gạch ngang cuối câu em chưa soát được, không biết là do đánh máy hay nguyên văn như vậy.
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Em vừa đọc hết rồi, cả phần chị mới bổ sung. Mê ly luôn.:">:">:">:">:">:">:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*:-*
P/S. Còn mấy chỗ có dấu gạch ngang cuối câu em chưa soát được, không biết là do đánh máy hay nguyên văn như vậy.
:-*
Mấy dấu gạch ngang cuối câu là nguyên văn đó em.
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Phần ba

Annabeth kể cho cô bé những gì có thể.

Thường thì cô không dễ dàng tin tưởng ai, nhưng cô rất có kinh nghiệm nhìn người. Cô thích Sadie ngay lập tức: Bốt chiến đấu, tóc highlight tím, thái độ… Theo kinh nghiệm của Annabeth, những người không đáng tin thường không trước mặt bạn mà muốn đấm vào mặt ai đó. Họ chắc chắn chẳng giúp một người lạ đang bất tỉnh và đưa họ thuốc.

Annabeth miêu tả Trại Con lai. Cô điểm lại vài cuộc phiêu lưu chiến đấu với các vị thần, khổng lồ và Titan của cô. Cô giải thích vì sao cô gặp con quái hai đầu sư tử-sói-cua tại ga West Fourth Street và quyết định theo nó.

“Vì thế chị ở đây.” Annabeth kết thúc.

Miệng của Sadie rung lên. Trông cô bé như thể cô có thể bắt đầu la hét hay khóc lên. Thay vào đó, cô phá lên cười.

Annabeth cau mày. “Chị đã nói điều gì khôi hài à?”

“Không, không…” Sadie khịt mũi. “À... thì nó hơi khôi hài. Ý em là, chúng ta đang ngồi trên bờ biển và nói chuyện về các vị thần Hy Lạp. Và một cái trại dành cho á thần, và ”

“Tất cả đều là sự thật!”

“Vâng, em tin chị. Nó chỉ là quá buồn cười không phải không thật. Chỉ là mỗi lần khi thế giới của em trở nên lạ lùng hơn, em lại nghĩ : Được thôi. Chúng tôi bây giờ đang là những người kỳ quặc nhất. Ít nhất tôi biết giới hạn của nó. Đầu tiên, em phát hiện ra anh trai và em là hậu duệ của pharaoh và có sức mạnh pháp thuật. Được thôi. Không thành vấn đề. Sau đó em biết được người cha đã mất của em hợp nhất với Osiris và trở thành chúa tể của cái chết. Tuyệt vời! Tại sao không? Sau đó chú em tiếp quản Nhà sự sống và quản lý hàng trăm pháp sư trên thế giới. Sau đó bạn trai em trở thành một cậu bé pháp sư lai/ bất tử thần của đám tang.

Và tất cả những thứ em đang nghĩ là, Dĩ nhiên! Hãy bình tĩnh và cứ tiếp tục! Mình đã được xếp đặt như vậy! Và sau đó chị đến vào một ngày thứ năm tình cờ, la-di-da, và nói rằng, Ồ, nhân tiện, các vị thần Ai Cập chỉ là một phần nhỏ của vũ trụ ngớ ngẩn. Chúng ta còn có các vị thần Hy Lạp để lo lắng nữa! Hoan hô!”

Annabeth không thể theo kịp những gì Sadie vừa nói – một người bạn trai là thần bất tử? – nhưng cô phải thừa nhận rằng cười đùa về nó tốt hơn so với xoay quanh một quả bóng và khóc lóc.

“Được rồi,” cô thừa nhận. “Nó có vẻ là hơi điên rồ, nhưng chị đoán nó là sự thật. Thầy giáo của chị Chiron… luôn bảo chị rằng các vị thần cổ bất tử bởi vì họ là một phần của nền văn minh. Nếu các thần Hy Lạp có thể tồn tại hàng thiên niên kỉ, vậy tại sao các thần Ai Cập lại không thể nào?”

“Càng đông càng vui,” Sadie đồng ý. “Nhưng mà, ờ, thế còn chú chó nhỏ này thì sao nhỉ?” Cô bé nhặt một cái vỏ sò nhỏ và ném lên đầu con quái Labrador đang gầm gừ cáu bẳn. “Một phút trước tụi em nghĩ, nó đang ngồi trên bàn trong thư viện của tụi em – một vật vô hại, một cục đá dễ vỡ của một bức tượng nào đó. Một phút sau, nó trở thành vật thể sống và phá hủy nhà Brooklyn. Nó xé tan bảo vệ phép thuật của tụi em, lặn qua những con chim cánh cụt của Felix và giũ sạch những câu thần chú của em như thể chẳng có gì.”

“Chim cánh cụt?” Annabeth lắc đầu. “Không. Quên nó đi.”

Cô quan sát con quái vật khi nó khó chịu với sợi xích của mình. Những chữ cái Hy Lạp và chữ tượng hình đỏ xoáy xung quanh nó cứ như là đang cố gắng để tạo thành những ký tự mới – một tin nhắn Annabeth hầu như có thể đọc được.

“Những sợi dây đó sẽ giữ được chứ?” cô hỏi. “Chúng trông có vẻ đang yếu dần.”

“Đừng lo,” Sadie cam đoan với cô. “Những sợi dây đó từng giữ các vị thần trước đây. Và nhớ là, không phải là những vị thần nhỏ. Những vị thần cực mạnh cơ.”

“Ừm, được rồi. Vậy em nói con chó là một phần của một bức tượng. Có ý kiến là bức tượng nào không?”

“Không ạ.” Sadie nhún vai. “Cleo, thủ thư của tụi em, đang tìm kiếm cho câu hỏi đó khi Fido[1] ở đây thức giấc.”

“Nhưng nó phải được liên kết với con quái vật khác – với đầu sói và sư tử. Chị ấn tượng vì chúng cũng vừa hồi sinh. Chúng kết nối với nhau và không quen làm việc như một đội. Chúng đã lên con tàu kia và tìm kiếm thứ gì đó – có lẽ là con chó này.”

Sadie nghịch mặt dây chuyền bạc của mình. “Một con quái vật ba đầu: sư tử, sói và chó. Tất cả gắn với… cái vật hình nón kia là gì nhỉ? Một cái mai? Một ngọn đuốc?”

Đầu của Annabeth bắt đầu hoạt động trở lại. Một ngọn đuốc.

Cô lướt nhanh qua từng mảng trí nhớ - có lẽ là một bức tranh cô từng thấy qua trong một cuốn sách. Cô không cho là cái nón của con quái vật có thể là thứ gì đó cô có thể cầm, cái gì đó thuộc về một bàn tay lớn. Nhưng không phải là một ngọn đuốc…

“Nó là một cây quyền trượng,” cô nhận ra. “Chị không nhớ là vị thần nào cầm nó, nhưng quyền trượng ba đầu là biểu tượng của ông ta. Ông ta là… thần Hy Lạp, chị nghĩ, nhưng ông ta cũng có thể đến từ đâu đó ở Ai Cập -”

“Alexandria,” Sadie đoán.

Annabeth nhìn chằm chằm cô bé. “Sao em biết?”

“Ồ, cứ cho là em không phải là người mê lịch sử như anh trai, nhưng em đã từng ở Alexandria. Em nhớ điều gì đó về việc nó trở thành thủ phủ khi người Hy Lạp thống trị Ai Cập. Alexander đại đế phải không?”

Annabeth gật đầu. “Đúng vậy. Alexander chinh phục Ai Cập, và sau khi ông ta chết, tổng quản Ptolemy thay thế ông. Ông ta muốn người Ai Cập thừa nhận mình là pharaoh của họ, vì thế ông kết hợp thần Ai Cập và thần Hy Lạp với nhau và tạo thành những vị thần mới.”

“Thật lộn xộn,” Sadie nói. “Em thích các vị thần của mình không kết hợp hơn.”

“Nhưng có một vị thần đặc biệt… Chị không nhớ được tên ông ta. Cái sinh vật ba đầu đó ở trên đỉnh quyền trượng của ông ta… ”

“Cái quyền trượng khá lớn,” Sadie lưu ý. “Em không hứng thú gặp gã, người có thể mang nó đi loanh quanh.”

“Ồ, các vị thần.” Annabeth đột nhiên lên tiếng. “Ra là vậy! Cây quyền trượng không phải đang cố gắng kết hợp lại - nó đang cố tìm chủ nhân của mình.”

Sadie cáu kỉnh. “Em không thích điều đó tí nào. Chúng ta cần phải chắc chắn - ”

Con quái vật tru lên. Những sợi dây pháp thuật nổ như lựu đạn, bắn tung tóe bờ biển với những mảnh vỡ màu vàng.

Luồng gió đẩy Sadie ngã xuống cồn cát như cây cỏ lăn.

Annabeth đóng sầm chiếc xe tải kem. Tay chân cô trở nên nặng như chì. Tất cả không khí bị đẩy ra khỏi lồng ngực của cô.

Nếu sinh vật đó muốn giết cô, nó có thể dễ dàng làm điều đó.

Thay vào đó, nó nhảy vọt vào phía trong cồn cát, biến mất sau đám cỏ dại.

Annabeth theo bản năng túm lấy một vũ khí gì đó. Những ngón tay của cô dịch lại gần cái đũa cong của Sadie. Đau đớn làm cô thở hổn hển. Cái ngà voi cháy như đá khô. Annabeth cố gắng bỏ xuống nhưng tay cô không nghe lời. Khi cô nhìn nó, cây đũa bốc hơi, thay đổi hình dạng đến khi vết cháy lắng đi và Annabeth cầm một con dao găm bằng đồng Celestial – giống như thứ mà cô từng mang trước đây.

Cô nhìn chằm chằm lưỡi dao. Sao đó cô nghe thấy tiếng rên rỉ từ cồn cát gần đó.

“Sadie!” Annabeth bước lảo đảo.

Trước khi cô tới được chỗ cô bé, Sadie đang ngồi dậy, khạc nhổ cát trong miệng ra. Một ít tảo biển dính trên tóc cô bé, và cái ba lô thì được nhét trong một trong hai chiếc bốt của cô, nhưng cô trông có vẻ giận dữ hơn là bị thương.

“Fido ngu ngốc!” Cô gầm lên. “Ông ta sẽ không có bánh quy chó!” Cô cau có nhìn con dao của Annabeth. “Chị lấy nó ở đâu vậy?”

“Um… nó là đũa phép của em,” Annabeth nói. “Chị cầm nó lên… và chị không biết. Nó vừa biến thành loại dao găm chị thường dùng.”

“Hả. Ồ, những vật ma thuật có ý thức riêng. Hãy giữ lấy nó. Ở nhà em còn nhiều lắm. Bây giờ, Fido đã đi đường nào rồi?”

“Đằng đó.” Annabeth chỉ với con dao găm mới của mình.

Sadie săm soi khu vực nội địa. Mắt cô bé trợn lên. “Ồ... đúng. Hướng về cơn bão mới.”

Annabeth hướng theo ánh nhìn của cô bé. Bỏ qua đường ray tàu điện, cô chẳng thấy gì ngoài căn hộ chung cư bỏ hoang, hàng rào sập xệ và trơ trọi chống vào bầu trời hoàng hôn. “Cơn bão nào?”

“Chị không thấy nó ư?” Sadie hỏi. “Đợi chút.” Cô bé tháo cái ba lô trong chiếc bốt ra, và lục lọi trong đám dụng cụ của mình. Cô lấy ra một lọ gốm khác, cái này ngắn, dày và lớn như một lọ kem dưỡng da. Cô bé mở nắp ra và múc ra một ít chất nhờn màu hồng. “Để em bôi cái này lên mí mắt của chị.”

“Wow, nghe như một câu trả lời tự động không.”

“Đừng lo. Nó hoàn toàn vô hại… ừm, đối với pháp sư. Có lẽ đối với á thần nữa.”

Annabeth không chắc một lần nữa, nhưng cô vẫn nhắm mắt lại. Sadie bôi chất dính lên, nó ngứa và ấm như chà xát tinh dầu bạc.

“Được rồi,” Sadie nói. “Chị có thể mở mắt ra rồi.”

Annabeth mở mắt ra và há hốc.

Thế giới bị cuốn đi trong màu sắc. Mặt đất trở nên mờ mờ - những lớp sền sệt di chuyển xuống màu tối hơn ở dưới. Không khí gợn sóng với những lớp màn mờ, mỗi một rung động dù chỉ nhẹ thôi, như thể là hàng loạt video chất lượng cao chồng chất lên nhau. Chữ tượng hình và chữ cái Hy Lạp bay xung quanh cô, nóng lên và nổ tung khi chúng va chạm vào nhau. Annabeth cảm thấy như mình đang nhìn thế giới ở mức độ nguyên tử.

Những thứ vô hình dần được lộ ra, vẽ nên với ánh sáng của ma thuật.

“Em - em luôn thấy cái này hả?”

Sadie khịt mũi. “Ôi các vị thần Ai Cập, không! Nó sẽ làm em điên lên mất. Em phải tập trung để nhìn thấy Duat. Đó là những gì chị đang làm – nhìn vào khía cạnh ma thuật của thế giới.”

“Chị…” Annabeth ấp úng.

Annabeth thường là một cô gái tự tin. Bất cứ khi nào cô giao tiếp với một người bình thường, cô thường mang vẻ hoàn toàn tự mãn rằng cô sở hữu những kiến thức bí mật. Cô hiểu biết về thế giới của các vị thần và những con quái vật mà gười thường thì chẳng biết. Thậm chí ngay cả với những á thần khác, Annabeth hầu như luôn luôn là người dạn dày kinh nghiệm nhất. Cô đã thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn hầu hết các anh hùng có thể mơ tưởng đến, và cô vẫn sống sót.

Còn bây giờ, việc nhìn vào sự thay đổi của bức màn màu sắc, Annabeth có cảm giác như trở lại là một đứa bé sáu tuổi, và đang học về thế giới của cô thực sự tồi tệ và nguy hiểm như thế nào.

Cô ngồi xuống bãi cát một cách khó khăn. “Chị chẳng biết phải nghĩ gì nữa.”

“Đừng suy nghĩ,” Sadie khuyên. “Hãy hít thở. Mắt chị sẽ tự điều tiết. Nó khá giống như đi bơi. Nếu chỉ để cơ thể mình làm việc, bản năng sẽ mách bảo cho chị biết cần phải làm gì. Hoảng sợ, và chị sẽ chết đuối.”

Annabeth cố gắng thư giãn.

Cô bắt đầu nhận thức được những họa tiết trong không khí: những dòng chảy trôi nổi giữa các tầng thực tại, những dòng hơi pháp thuật chảy ra từ những chiếc xe và tòa nhà. Khu vực con tàu đổ nát tỏa ánh sáng xanh. Sadie có hào quang màu vàng với một màn sương lông vũ tỏa ra sau cô bé trông như đôi cánh.

Nơi mà con quái vật từng nằm, mặt đất cháy âm ỉ như than nóng đỏ. Những tua đỏ thẫm lan ra từ chỗ đó, theo hướng mà con quái vật đã trốn thoát.

Annabeth tập trung vào những tòa chung cư bỏ hoang đằng xa, và nhịp tim cô tăng gấp đôi. Tòa nhà tỏa ánh sáng đỏ từ bên trong - ánh sáng xuyên qua ván cửa sổ, bắn xuyên qua những mảnh vỡ của những bức tường đổ nát. Những đám mây đen lảng vảng phía trên, và càng nhiều xúc tua năng lượng màu đỏ hướng về phía tòa từ mọi phía như thể bị kéo vào một cơn lốc xoáy.

Cảnh tượng đó gợi nhắc Annabeth về Charybdis, con quái vật hút xoáy nước mà cô từng chạm trán tại Biển quái vật. Nó là một ký ức không mấy vui vẻ.

“Tòa chung cư đó,” cô nói. “Nó thu hút ánh sáng đỏ từ khắp mọi nơi.”

“Chính xác,” Sadie nói. “Trong phép thuật Ai Cập, màu đỏ tượng trưng cho điều xấu. Nó có nghĩa là ác quỷ và hỗn loạn.”

“Vậy đó là nơi con quái vật chó đang đến,” Annabeth đoán. “Để hợp nhất với những phần khác của cây quyền trượng -”

“Và để tìm chủ của nó, em cá là vậy.”

Annabeth biết là cô nên đứng dậy. Họ phải nhanh lên. Nhưng nhìn vào những lớp xoáy ma thuật, cô sợ phải di chuyển.

Cô dành cả đời cho việc nghiên cứu Màn sương – ranh giới ma thuật chia tách thế giới người phàm với thế giới của những con quái vật và các vị thần Hy Lạp. Nhưng cô chưa bao giờ nghĩ đến Màn sương thực sự là một tấm rèm.

Sadie đã gọi nó là gì - Duat?

Annabeth tự hỏi rằng phải chăng Màn sương và Duat có liên quan, hay thậm chí là cùng một thứ. Số lớp màn cô có thể thấy thật quá sức tưởng tượng – giống như một tấm thảm cuộn lại hàng trăm lần.

Cô không tin tưởng bản thân có thể đứng lên được. Hoảng sợ, và chị sẽ chết đuối.

Sadie chìa tay ra. Đôi mắt cô bé đầy cảm thông. “Xem này, em biết là nó hơi nhiều, nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Chị vẫn là á thần dày dạn, mang ba lô như chị vẫn luôn như thế. Và bây giờ chị còn có một con dao găm đáng yêu nữa.”

Annabeth cảm giác như máu dâng lên mặt mình. Thường thì cô sẽ là người đưa ra lời động viên.

“Đúng. Đúng, đương nhiên.” Cô nắm lấy tay Sadie. “Cùng đi tìm vị thần thôi.”

[1]Fido: chỉ con quái vật chó.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

bupbecaumua

gà luộc
Nhóm Biên tập
Tham gia
9/12/13
Bài viết
3.401
Gạo
6.529,0
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Toẹt vời ông mặt trời. :">:-*
P/S.
- “Vì thế chị ở đây”. => “Vì thế chị ở đây.”
- “Không. Quên nó đi” => “Không. Quên nó đi.”
- “Ồ..đúng. Hướng về cơn bão mới.” => “Ồ... đúng. Hướng về cơn bão mới.”
- “Được rồi,” Sadie nói. “Chị có thể mở mắt ra rồi” => “Được rồi,” Sadie nói. “Chị có thể mở mắt ra rồi.”
- “ Xem này, em biết là nó hơi nhiều => “Xem này, em biết là nó hơi nhiều.
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Truyện ngắn] Quyền trượng của thần Serapis - Hoàn - Rick Riordan
Phần bốn

Một dãy hàng rào vây quanh tòa nhà, nhưng chúng co lại qua một kẽ hở băng qua cánh đồng cỏ cao vút và bê tông vỡ.

Chất dính phù phép trên mắt của Annabeth dường như hết tác dụng. Thế giới không còn trông như nhiều lớp và nhiều màu sắc nữa, nhưng điều đó tốt với cô. Cô không cần khả năng nhìn đặc biệt để biết tòa nhà đó đầy rẫy pháp thuật xấu xa.

Lại gần, ánh sáng đỏ từ những cánh cửa sổ thậm chí còn rực rỡ hơn. Gỗ dán kêu lạch cạch. Những bức tường gạch trĩu xuống... Những chữ tượng hình hình chim và gậy tạo thành trong không khí và lơ lửng bên trong. Thậm chí những hình ảnh graffiti có vẻ như rung trên các bức tường, như thể các biểu tượng đang cố gắng sống dậy.

Dù cho thứ gì đang ở trong tòa nhà, sức mạnh của nó cũng lôi kéo Annabeth giống như cái cách mà con quái cua đã làm trên tàu.

Cô nắm chặt con dao găm bằng đồng mới của mình, nhận ra nó quá nhỏ và ngắn để tạo ra nhiều sức mạnh tấn công. Nhưng đó là lý do tại sao Annabeth thích dao găm: chúng giữ cho cô tập trung. Một đứa con của Athena không bao giờ nên dựa vào một lưỡi gươm nếu cô có thể dùng trí thông minh. Sự thông thái chiến thắng các cuộc chiến chứ không phải sức mạnh.

Không may, sự thông thái của Annabeth hoạt động không tốt ngay lúc này.

“Mong là mình biết thứ mình đang giải quyết,” cô lẩm bẩn khi họ lẻn vào tòa nhà. “Chị muốn xem xét tình hình trước - trang bị kiến thức cho bản thân.”

Sadie làu bàu. “Chị giống hệt anh em. Nói cho em nghe, bao nhiêu lần bọn quái vật cho chị thời gian quý báu dùng Google tìm hiểu chúng trước khi chúng tấn công?”

“Chưa bao giờ.” Annabeth thừa nhận.

“Vậy thì, chúng ta ở đây. Carter - anh ấy sẽ thích thú bỏ ra hàng giờ trong thư viện, đọc về từng con quái chúng ta có thể đối mặt, gạch chân những điều quan trọng và làm những thẻ flash để em học. Buồn thay, khi lũ quái tấn công, chúng chẳng bao giờ đưa ra cảnh báo, và chúng hiếm khi chịu khó giới thiệu bản thân.”

“Vậy tiêu chí hành động của em là gì?”

“Tiến về phía trước,” Sadie nói. “Suy nghĩ trên đầu ngón chân. Khi cần thiết, làm nổ tung kẻ thù thành từng mảnh vụn.”

“Tuyệt. Em hoàn toàn hợp với bạn chị.”

“Em sẽ xem đó như một lời khen. Chị có nghĩ là cánh cửa đó không?”

Vài bước nữa là đến cửa tầng hầm. Một thanh chắn hai nhân bốn được treo giữa cửa chính để ngăn cản kẻ xâm phạm, nhưng cánh cửa thì hơi hé.

Annabeth tính đề nghị do thám bên ngoài. Cô không tin có thể dễ dàng vào như vậy, nhưng Sadie không đợi. Cô bé chạy lon ton xuống và trượt vào trong.

Lựa chọn duy nhất của Annabeth là đi theo.

Ở những lần khác, nếu họ bước qua bất kỳ cánh cửa nào, họ có thể sẽ chết.

Toàn bộ bên trong tòa nhà là một hang mai cua, cao ba mươi tầng, lượn quanh là một mớ hỗn độn nào gạch, ống nước, ván và những mảnh vỡ khác, cùng với những ký tự Hy Lạp phát sáng, chữ tượng hình và chùm năng lượng ánh sáng neon. Khung cảnh vừa khủng khiếp vừa đẹp đẽ - như thể một cái vòi rồng bị bắt lại, chiếu sáng từ bên trong và bật chế độ trình diễn tự động.

Do mới vào tầng hầm, Sadie và Annabeth còn được che chắn bởi bóng của cầu thang - một cái rãnh trên nền bê tông. Nếu họ bước vào cơn bão trên mặt đất, họ sẽ bị xé xác.

Như Annabeth quan sát, một cái rầm thép xoắn bay trên đầu họ với tốc độ của một chiếc ô tô. Hàng tá gạch lao như một quầng thể cá. Một chữ tượng hình rực lửa bắn vào một miếng gỗ dán đang bay, và bốc cháy như một tờ giấy lụa.

“Trên đó,” Sadie thì thầm.

Cô chỉ lên đỉnh của tòa nhà, nơi mà phần tầng thứ ba mươi vẫn nguyên vẹn. Một phần rìa vỡ chìa ra giữa khoảng. Thật khó để nhìn xuyên qua đám lốc vụn và màn bụi đỏ, nhưng Annabeth có thể nhìn thấy rõ một hình bóng người khổng lồ đang đứng trên vách đứng, cánh tay của hắn giang ra như chào đón cơn bão.

“Ông ta đang làm gì vậy?” Sadie thì thầm.

Annabeth do dự như thể một loạt ống đồng bay quanh trên đầu cô. Cô nhìn vào đám mảnh vỡ và bắt đầu chú ý những họa tiết giống như cô từng có với Duat: một cơn lốc xoáy ván và đinh bay cùng nhay để tạo thành nền, một đống gạch tập hợp lại như mô hình lego để xây mái.

“Ông ta đang xây cái gì đó,” cô nhận ra.

“Xây cái gì, một thảm họa à?” Sadie hỏi. “Nơi này nhắc em nhớ đến Vương quốc hỗn loạn. Và, tin em đi, đó không phải là nơi nghỉ mát lý tưởng của em.”

Annabeth lướt qua. Cô tự hỏi liệu Hỗn loạn có cùng ý nghĩa với người Ai Cập như đối với người Hy Lạp. Annabeth từng có một thăm viếng với Hỗn loạn, và nếu Sadie cùng từng ở đó… vậy thì, cô bé phải kiên cường hơn cô tưởng.

“Cơn bão này không hoàn toàn ngẫu nhiên,” Annabeth nói. “Thấy không, bên kia và kia nữa. Những phần vật liệu đi cùng nhau, tạo thành một loại cấu trúc nào đó bên trong tòa nhà.”

Sadie cau mày. “Với em nó trông như một đống gạch trong một cái máy xay sinh tố.”

Annabeth không biết phải giải thích như thế nào, nhưng cô đã học về kiến trúc và xây dựng đủ lâu để nhận ra chi tiết. Ống đồng đang liên kết lại với nhau như động mạch và tĩnh mạch trong hệ tuần hoàn. Những phần tường cũ đang ghép lại với nhau để tạo thành một trò chơi ghép hình mới.

Thỉnh thoảng, gạch và cột nhà tách ra từ những bức tường bên ngoài để nhảy vào vòi rồng.

“Ông ta đang dỡ bỏ tòa nhà,” cô nói. “Chị không biết những bức tường bên ngoài sẽ tồn tại được bao lâu nữa.”

Sadie nguyền rủa qua hơi thở. “Làm ơn nói với em là ông ta không đang xây một cái kim tự tháp. Bất cứ thứ gì chỉ đừng là nó.”

Annabeth tự hỏi tại sao một pháp sư Ai Cập lại ghét kim tự tháp, nhưng cô lại lắc đầu. “Chị đoán nó là thứ gì đó đại loại như tháp chóp. Chỉ có một cách để biết chắc.”

“Hỏi người xây nó.” Sadie nhìm chằm phần còn lại của tầng ba mươi.

Người đàn ông trên gờ rìa không hề di chuyển, nhưng Annabeth có thể thề rằng ông ta đang lớn dần lên. Ánh sáng đỏ bay quanh ông. Như một hình bóng, ông ta trông như đang đội một cái nón cao kiểu Abe Lincoln.

Sadie đeo ba lô lên. “Vậy, nếu đó là vị thần của tụi em, ở đâu -”

Ngay lúc đó, một tiếng tru ba hồi cắt ngang tiếng ầm ĩ hỗn loạn. Ở phía đối diện cuối phòng, và cánh cửa kim loại cháy mở ra và con quái vật cua nhảy vào trong.

Không may là giờ đây con quái vật có đủ ba đầu – sói, sư tử và chó. Cái vỏ mai xoắn ốc dài của nó phát sáng những chữ cái Hy Lạp và chữ tượng hình khắc. Hoàn toàn bỏ qua đám mảnh vỡ đang bay, con quái vật leo vào trong trên sáu chân trước, sau đó nhảy lên không trung. Cơn bão mang nó lên phía trên, cái mai xoắn ốc xuyên qua mớ hỗn độn.

“Nó đang đến chỗ chủ nhân,” Annabeth nói. “Chúng ta phải ngăn nó lại.”

“Tuyệt thật,” Sadie càu nhàu. “Điều này sẽ làm em kiệt sức.”

“Cái gì sẽ?”

Sadie giơ cây quyền trượng của mình lên. “N’dah.”

Một chữ tượng hình vàng rực rỡ giữa không trung trên đầu họ:

3.PNG

Và đột nhiên họ được bao quanh trong một quả cầu ánh sáng.

Cột sống của Annabeth kích thích. Cô từng được bọc trong một quả bóng bảo vệ trước đây, khi cô, Percy và Grover dùng những viên ngọc trai ma thuật để thoát khỏi Địa ngục. Kinh nghiệm là… sợ hãi giam giữ.

“Cái này sẽ che chắn cho chúng ta khỏi cơn bão à?” Cô hỏi.

“Hy vọng là thế.” Khuôn mặt Sadie giờ lấm tấm mồ hôi. “Đi nào.”

Cô hướng lên các bậc thang.

Ngay lập tức, tấm chắn của họ được thử nghiệm. Một cái quầy bếp bay sẽ chém đầu họ, nhưng nó vỡ tan bởi trường lực của Sadie. Những khối đá cẩm thạch lơ lửng vô hại xung quanh họ.

“Tuyệt,” Sadie nói. “Bây giờ, chị hãy giữ cái quyền trượng này một lát trong khi em biến hình thành một con chim.”

“Khoan đã. Gì cơ?”

Sadie đảo mắt. “Chúng em suy nghĩ trên đôi chân, nhớ chứ? Em sẽ bay lên kia và ngăn con quái vật lại. Chị cố gắng làm phân tâm vị thần đó… dù cho ông ta là ai. Hãy thu hút sự chú ý của hắn.”

“Tốt thôi, nhưng chị không phải là một pháp sư. Chị không thể duy trì câu thần chú.”

“Tấm chắn sẽ giữ trong vài phút, miễn là chị sử dụng cây quyền trượng.”

“Nhưng còn em thì sao? Nếu em không ở trong tấm chắn -”

“Em có một ý tưởng. Nó có thể thành công.”

Sadie lấy gì đó ra khỏi ba lô – một bức tượng thú nhỏ. Cô nắm tay lại giữ nó sau đó biến đổi hình dạng.

Annabeth từng thấy người biến thành động vật trước đây, nhưng chẳng bao giờ dễ dàng hơn để quan sát như vậy. Sadie nhỏ lại khoảng mười lần so với kích thước thật. Mũi cô bé dài ra thành cái mỏ. Tóc, quần áo và ba lô biến đổi dần thành một bộ lông bóng mượt. Cô bé biến thành một con chim săn mồi nhỏ – một con diều hâu, hình như – đôi mắt xanh của cô giờ vàng rực. Với bức tượng nhỏ vẫn được giữ chặt trong móng vuốt của cô bé, Sadie sải cánh và lao vào cơn bão.

Annabeth nhăn mặt như thể cả một khối gạch lao vào bạn cô - nhưng bằng cách nào đó mảng bê tông xuyên thẳng qua mà không biến Sadie thành bộ lông. Hình dáng Sadie vừa mới tỏa sáng như là cô đang di chuyển dưới một tầng nước sâu.

Annabeth nhận ra Sadie ở trong Duat - bay trên một bậc khác của thực tại.

Ý tưởng đó làm đầu óc Annabeth nóng lên với các khả năng. Nếu một á thần có thể học cách vượt tường như vậy, chạy thẳng đến những con quái vật…

Nhưng đó là một câu chuyện dành cho lúc khác. Bây giờ cô cần phải di chuyển. Cô tiến về cầu thang và xông vào cơn lốc xoáy. Những thanh kim loại và ống nước đồng và vào trường lực của cô kêu vang lên. Quả cầu vàng tỏa sáng mờ hơn một chút mỗi lần nó làm lệch hướng những mảnh vỡ.

Cô giơ quyền trượng của Sadie bằng một tay và con dao găm mới bằng tay kia. Trong dòng xiết ma thuật, lưỡi dao đồng Celestial chảy ra như một ngọn đuốc sắp tàn.

“Này!” Cô hét lên với gờ rìa xa phía trên. “Vị thần con người!”

Không có hồi đáp. Giọng cô có lẽ không vượt qua được cơn bão.

Lớp vỏ của tòa nhà bắt đầu trĩu xuống. Vữa từ các bức tường nhỏ giọt xuống và lơ lửng trong mớ hỗn hợp như kẹo búi tơ.

Diều hâu Sadie vẫn còn sống, bay đến trước con quái ba đầu khi nó di chuyển lên theo hướng xoắn ốc. Giờ con quái vật còn nửa đường để lên đến đỉnh, đang đập chân và còn tỏa sáng mạnh hơn như là ngấm năng lượng của vòi rồng.

Annabeth đang sắp hết thời gian.

Cô tìm kiếm trong trí nhớ, chọn lọc những câu chuyện thần thoại cổ, những câu chuyện mơ hồ nhất mà Chiron từng kể cho cô nghe tại trại. Khi cô còn là một cô bé, cô từng như một miếng bọt biển, thấm đẫm từng sự kiện và cái tên.

Quyền trượng ba đầu. Thần của Alexandria, Ai Cập.

Tên của vị thần xuất hiện trong đầu cô. Ít nhất, cô hi vọng rằng mình chính xác.

Một trong những bài học đầu tiên cô học khi là một á thần là : Những cái tên có sức mạnh. Bạn không bao giờ nói ra tên của một vị thần hay một con quái vật trừ khi bạn sẵn sàng để thu hút sự chú ý của họ.

Annabeth hít một hơi thật sâu. Cô hét lớn từ cuống phổi: “SERAPIS!”
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên