Bí danh (Black and White) - Cập nhật - Ánh Tuyết Triều Dương

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0
Chương 9: Kẻ đột nhập (1).
Bởi vì muốn lấy một thứ gì đó từ tay SA thì Santos không thể tin tưởng ai ngoài người con nuôi của hắn.

Ngôi biệt thự của Fredman Brocment ở Asian Grill đã bị người của cảnh sát liên bang niêm phong và kiểm soát từ ngày hắn ta bị bắn chết. Chỉ những ai có thẻ an ninh mới được ra vào ngôi nhà đó để tiếp tục thu thập chứng cứ, hoàn thiện những thủ tục, hồ sơ cuối cùng vụ án. Đỉnh cao tiền bạc và những mối quan hệ đã khiến một ông trùm mafia gốc Palermo (Italia) đường hoàng khoác lên mình bộ vest lịch lãm của ngài tổng giám đốc công ty nhập khẩu hải sản đông lạnh hơn hai mươi lăm năm.

Trong chính buổi tối Jay bị tên đàn em của Santos truy sát, có một người luôn lảng vảng gần ngôi biệt thự của Fredman. Anh ta khéo léo lợi dụng bóng đêm để qua mắt các nhân viên an ninh rồi đột nhập vào nhà qua cửa sổ tầng một.

Một cách lặng lẽ, Licohn Brown đã vào được bên trong ngôi nhà…



Chiếc máy của Santos lại vang lên những tín hiệu ngắt quãng từng đợt. Mái tóc hoa râm lòa xòa không thể che đi ánh mắt âm hiểm trên khuôn mặt lồi lõm của Santos. Lúc này, hắn đi đi lại lại trong căn phòng tối và sâu hun hút, hệt như hiện thân sinh động nhất của quỷ dữ.

“Chào chủ nhân!”

Một gã đàn ông nhỏ thó bước vào.

“Hiện trường sao rồi?” Santos sốt sắng.

Gã kia đến bên cạnh chiếc bàn của Santos. Bằng chất giọng thều thào nhi nhí, hắn đáp:

“Johanson đã thoát chết.”

“Ta không hỏi chuyện đó. Chuyện kia cơ, đồ ngu!”

“Dạ, người kia đã thành công bước đầu.” Gã toát mồ hôi và thầm cảm thấy may mắn vì Santos chuyển chủ đề. Tất nhiên gã không thể hiểu được vì sao trong mắt Santos, việc kia lại quan trọng hơn việc trừ khử Johanson, mặc dù về bản chất thì hai việc đó vốn mâu thuẫn với nhau.

Santos chợt cười vang cả căn phòng, tiếng cười của hắn vang dội vào các bức tường rồi vọng lại thành những âm thanh ghê rợn.

“Tốt lắm, bằng mọi cách phải lấy cho được. Cả tương lai của chúng ta nằm ở thứ đó. Ngươi hiểu chưa?”

Gã đàn ông gật gù, tỏ vẻ trầm ngâm.

“Không còn việc của ngươi ở đây nữa.”

Nghe tiếng thở của Santos, gã luống cuống trở ra. Giờ chỉ còn chiếc bóng của Santos đổ dài trên bức tường.

“Fredman Brocment.” Hắn thì thầm: “Chết chưa phải là hết đâu.”



Đây là lần đầu tiên Jay uống say. Anh gạt tay làm chai rượu lăn tròn trên bàn. Nó cứ lăn dần, lăn dần ra mép bàn. Khi Jay vội đưa tay ra đỡ thì chai rượu chỉ còn là đống thủy tinh vỡ nát.

Tiếng thủy tinh bung làm hàng ngàn mảnh nhỏ trên nền gạch sắc lạnh làm anh bừng tỉnh.

“Một trong hai người quan trọng nhất của em đã không còn.”

“Fredman, chú ấy là Fredman Brocment.”

Anh biết mình đã yêu cô ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Nghiệt ngã thay, cô lại luôn sùng bái Brocment vì hắn đã cứu giúp cuộc đời cô. Jay không hiểu hắn có âm mưu gì khi cứu giúp và bảo hộ cho những đứa trẻ mồ côi. Nhưng anh hiểu rõ ràng rằng Harenna đã đặt niềm tin nhầm chỗ, coi Brocment là ân nhân, là chúa cứu thế.

Và cô còn đặt niềm tin nhầm chỗ một lần nữa khi nhờ chính Jay tìm ra kẻ đã hạ sát Brocment!

“Em căm thù sự phản bội từ chính những người thân của mình.”



Cái bóng của Licohn lướt nhẹ qua những căn phòng tiện nghi thuộc phong cách kiến trúc baroque. Trời quá tối, bốn nhân viên FBI ở phía dưới đã chìm trong giấc ngủ. Có lẽ họ đã cắt toàn bộ hệ thống điện dân dụng trong nhà, chỉ để lại một nguồn điện vừa đủ để duy trì hệ thống bảo an ở đây. Licohn chỉnh lại độ sáng của chiếc đèn neon ở mức phù hợp. Sau một hồi mò mẫm, Licohn dường như đã phát hiện ra một điều. Anh ta bèn di chuyển xuống tầng hầm của ngôi biệt thự. Bóng tối cho đến lúc này vẫn là một đồng minh cần thiết.

Bước chân xuống bậc cầu thang, Licohn cảm thấy có gì đó không ổn… chưa đầy mười giây sau, cả ngôi biệt thự sáng trưng ánh điện. Licohn buồn bã đưa hai tay ra sau gáy vì anh ta biết có ít nhất một khẩu súng đang chĩa về phía mình.

“Ai?” Một tiếng quát vang lên: “Đứng yên đó và giơ tay lên!”

Ủa, hình như là người bên SA phải không?

Licohn quay lưng lại, phù hiệu SA sáng trưng dưới ánh điện.

“Tôi bỏ tay xuống được chưa?” Anh ta như thể đang bị ép phải nở một nụ cười: “Tôi là đặc vụ Licohn Brown.”

“Vì sao anh lại phải làm cái trò lén lút này?”

“Tôi đang định hỏi vì sao FBI các anh lại lắp đặt cảm ứng trọng lực mà không thông báo gì cho phòng SA chúng tôi?”

“SA đã giao lại ngôi nhà này cho chúng tôi, chúng tôi có quyền thực hiện các công tác cần thiết.”

Viên cảnh sát vừa lên tiếng quát vẫn không khỏi nghi ngờ. Anh ta nhìn phù hiệu trên tay áo phải của Licohn như thể muốn nhất quyết tìm ra bằng chứng để chứng minh nó là đồ mua ở chợ Tàu.

“Anh tới đây làm gì?”

“SA chúng tôi không có nghĩa vụ phải báo cáo mọi chuyện cho bên FBI các anh.”

Bốn nhân viên FBI đều hiểu rằng TẬP ĐOÀN không thuộc sự quản lí của bất kì chính phủ nào, kể cả Hoa Kì. Chính giám đốc đã phải đích thân dặn dò họ cần tin tưởng và hỗ trợ SA vô điều kiện.

“Giấy phép ra vào của anh đâu, đặc vụ Brown?”

“Nếu mang theo thì tôi đã không phải đứng ở đây như thế này. Tôi để quên nó ở nhà.”

“Hay đấy!” Một cảnh sát cười mỉa. Anh ta cất súng vào trong bao: “Anh bạn đồng nghiệp, chúng tôi chỉ châm chước cho anh một lần này nữa thôi, cho dù anh có thuộc SA hay không. Giờ anh muốn tìm gì trong ngôi nhà này, chúng tôi có thể giúp anh?”

Licohn đủng đỉnh di chuyển đến chỗ quyển album của Brocment. Anh ta lật lơ đãng vài trang rồi dừng lại khá lâu ở một bức ảnh.

“Không phải tôi muốn, mà là TẬP ĐOÀN muốn.” Ánh mắt anh ta cuối cùng cũng rời khỏi bức ảnh: “Tôi sẽ quay lại sau.”

Thái độ này của Licohn đã chọc vào máu nóng của nhân viên FBI. Khi anh ta bước ra gần đến cửa thì nghe tiếng quát:

“Licohn Brown!”

“Có chuyện gì thì cứ đến trụ sở tìm tôi. Tôi làm việc ở bộ phận chống tội phạm ma túy SA703. Tạm biệt.”

Cả bốn người họ đều hậm hực nhìn theo Licohn khi anh ta đường hoàng rời khỏi ngôi biệt thự. Đằng sau lưng họ, Licohn nhăn mặt lại và ánh mắt thì có lẽ đủ sức giết chết một con người.

“Mẹ kiếp, lũ SA khốn kiếp!”

“Thằng cha Brown này coi chúng ta là cái thùng rác chắc? Tôi phải hỏi lại cấp trên cho rõ ràng.”

Nói xong, người cảnh sát béo lùn rút điện thoại ra. Cần phải nói thêm rằng cả bốn người họ đều là những nhân viên thuộc hàng cao cấp của FBI được cắt cử đến đây nên mới có thể trực tiếp liên lạc với giám đốc và biết đến sự tồn tại của TẬP ĐOÀN.

“Thưa giám đốc, có một nhân viên của SA vừa đột nhập vào dinh thự của Brocment.” Chủ ý của anh ta khi nhấn mạnh hai từ “đột nhập” là quá rõ ràng. Thế nhưng vị giám đốc nọ vẫn có vẻ không mấy quan tâm.

“Anh ta đâu?” Ông hỏi.

“Đã rời khỏi đây hai phút trước ạ.”

“Vậy thì các anh cứ tiếp tục công việc của mình một cách bình thường đi!”

Ngài giám đốc nói nhanh đến mức người cảnh sát kia không kịp phản ứng lại.

“Ý tôi muốn nói là anh ta đã đột nhập. Một hành vi lén lút và đáng ngờ, thưa ngài. Chẳng phải ngài đã bảo là bất cứ thứ gì trong ngôi nhà này cũng cần được canh gác an toàn sao?”

“Anh nên nhớ là anh đang nói về những nhân viên của SA.”

“Tôi nhớ!”

“Micheal này, tôi đang ngồi với cố vấn của TẬP ĐOÀN, ngài Siller Hook. Tôi thấy tất cả những đồng nghiệp của chúng ta đều không có gì đáng ngại.”

“Nhưng...” Micheal tỏ ra lúng túng:”Anh ta tự xưng là Licohn Brown, tôi chỉ e rằng có sự mạo danh ở đây.”

“Chờ chút!”

Ngài giám đốc bỏ điện thoại ra, quay lại và hỏi ý kiến của Siller Hook khi ông này đang chăm chút chiếc tẩu hiệu Luigi Viprati của mình. Chừng nửa phút sau, Micheal nhận được câu trả lời:

“SA có nhân viên Licohn Brown, phân bộ SA703 phải không? Nếu là anh ta thì các anh không phải lo lắng.”

Micheal đành gác máy. Anh ta nhìn ba đồng nghiệp của mình, nhún vai:

“Đi kiểm tra lại một lượt xem gã Brown có cuỗm mất thứ gì không? Tôi thề là lần sau dù cấp trên có đem cả một căn hộ chung cư ra gạ gẫm, tôi cũng sẽ tránh xa việc hợp tác với cái lũ người chết dẫm này.”



Trong căn phòng tối om và sâu hun hút, Santos châm lửa đốt một mảnh giấy nhỏ rồi rót rượu vào đống tro tàn. Từ khi sinh ra, Santos đã rất ghét sự chờ đợi. Nhưng lần này, có lẽ hắn tập phải làm quen dần với thứ mà hắn căm thù nhất.

Bởi vì muốn lấy một thứ gì đó từ tay SA thì Santos không thể tin tưởng ai ngoài người con nuôi của hắn.



Sáng hôm sau, Jay không đến Weiburgharm Hotel như thường lệ mặc dù anh dậy từ rất sớm. Anh đã gọi điện cho bộ phận kiểm soát, báo rằng mình đang có vấn đề về đường tiêu hóa, một lý do rất dễ thuyết phục người. Dù sao, ai cũng biết thói quen ăn uống không hề khoa học của Licohn đã tiêm nhiễm vào đầu Jay dù ít dù nhiều.

Chiếc lexus màu bạc đã dạo khắp Los Angeles trong buổi sáng ngày hôm nay. Harenna, cô gái đáng yêu của anh! Nên nói sự thật về vị ân nhân của cô ấy, và thừa nhận rằng kẻ mà cô ấy muốn tìm chính là mình chứ không phải ai khác? Hay cứ tiếp tục lừa dối cô và lải nhải cái điệp khúc: “Không, anh chưa tìm ra cái thằng chết treo đó.”? Phương án thứ nhất rõ ràng là dễ chấp nhận hơn. Nhưng nếu xét theo khía cạnh y học tâm lí thì anh cũng hiểu hậu quả xảy ra sẽ là như thế nào đối với một người có niềm tin mạnh như Harenna.

Ba tiếng lái xe đã khiến cho Jay lấy lại một chút bình tĩnh.

Chiếc lexus dừng lại trước vạch chờ đèn đỏ. Tiếng trẻ con làm anh ngước nhìn lên, dần rời ánh mắt khỏi vô lăng xe.

Là Harenna!

Cô đang dẫn một tốp học sinh tiểu học sang đường. Nụ cười của cô làm Jay thấy lòng thật ấm áp. Nhưng khi nhớ lại những giọt nước mắt của cô tối hôm qua, anh không đủ kiên nhẫn để tận hưởng nụ cười ấy nữa. Chiếc xe rồ máy lao đi khi còn mười bốn giây nữa mới hết đèn đỏ. Bọn trẻ con sợ hãi nép sát vào chân Harenna.

“Thôi nào các em.” Cô an ủi chúng, nhìn theo bóng chiếc xe vừa lạ vừa quen kia: “Đó là những kẻ thiếu văn hóa. Đừng bao giờ sợ hãi trước chúng!
 

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0
Chương 9: Kẻ đột nhập (2).
Những ngày hôm sau, Jay ở lì trong Weiburgharm mà không chịu trở về nhà. Nhân viên thường trực Lauren còn đùa rằng cô sẽ báo cáo với CHỦ TỊCH về trường hợp này của Jay và đề nghị xin chuyển anh sang bộ phận lễ tân trực 24/24h. Chỉ có Siller Hook thấy đây không phải chuyện đáng cười.

“Nói cho tôi biết cậu đang nghĩ gì được không, Jay?”

Trong phòng nghỉ ngơi lúc này chỉ còn hai người họ. Anh chàng Dennis đã bị Hook tế nhị điều đi nơi khác trong khi Licohn cũng bặt vô âm tín suốt sáng nay, còn những người khác ở bên ngoài thì bận rộn đến mức không thể ngẩng đầu lên.

“Vậy ông muốn biết những gì? Tất cả suy nghĩ của tôi ư?”

“Chỉ những điều cậu muốn chia sẻ.” Ông ta mỉm cười: “Thú thật, tôi nghĩ rằng cậu đang yêu.”

Nghe vậy, Jay không bất ngờ. Anh đã sống với Siller Hook một thời gian dài, học được từ ông ta rất nhiều điều, nhưng chưa bao giờ anh biết ông ta làm cách nào mà luôn đoán đúng tâm ý người khác.

“Đó là một chuyện đáng mừng chứ?” Siller Hook nói tiếp. Ông ta biết thái độ của Jay vừa rồi đã là một câu trả lời.

“Nhưng tôi không thể yêu cô ấy.”

“SA đâu có luật cấm nhân viên lập gia đình.”

“Lí do không phải từ TẬP ĐOÀN chúng ta.” Thực ra Jay cũng không biết câu nói này có chính xác hay không: “Mà tôi và cô ấy không cùng lập trường.

Siller Hook nhìn Jay với ánh mắt không phải chuyện gì tôi cũng đoán ra đâu.

“Cô ấy không biết rằng tôi đã giết ân nhân của cô ấy.” Jay chán ghét nói tiếp: Fredman Brocment.

“Brocment?” Ngữ điệu của Siller Hook chỉ thay đổi chút xíu: “Hóa ra người yêu cậu là chỗ quen biết với Brocment? Loại người như hắn mà cũng biết làm từ thiện ư?”

“Tôi tin rằng hắn đang âm mưu đào tạo một đội ngũ sát thủ cho riêng mình. Chỉ có điều hắn chưa kịp làm cho đến nơi đến chốn thì đã chầu trời, nhưng những người vô tội đã bị tiêm nhiễm vào đầu cái ý nghĩ chịu ơn hắn.”

“Cô gái ấy tên là gì?”

“Harenna Benler.” Anh đáp.

“Harenna Benler? Cái tên này chưa có trong file của chúng ta, nghe có vẻ hiền lành đấy. Nhưng một cái tên chẳng nói lên điều gì.”

“Tôi đã điều tra rồi, gia đình Benler là một nạn nhân của cái chết trắng.”

“Gia đình cô ấy là nạn nhân của heroin, và cô ấy lại chịu ơn của Brocment?”

“Chuyện khá phức tạp. Một kẻ buôn lẻ ma túy đã phá hoại hạnh phúc gia đình Benler, sau khi cha mẹ Harenna chết, cô ấy đã trở thành một đứa trẻ mồ côi và nhận nhiều sự giúp đỡ của Brocment. Không hiểu sao nhưng tôi cảm thấy có lỗi với cô ấy.”

Vị cố vấn của TẬP ĐOÀN không bao giờ nôn nóng hay mất bình tĩnh. Ông ta luôn nghe mọi chuyện với một thái độ điềm tĩnh đến lạ kì. Jay luôn khâm phục Hook vì điều đó.

“Cậu không có lỗi, Johanson. Đừng tự ép bản thân mình phải thừa nhận một điều không đúng. Cậu nên để Harenna thông cảm cho cậu.”

“Đồng nghĩa với việc dập tắt niềm tin của cô ấy dành cho Brocment?”

Siller Hook gật đầu:

“Nên thế, niềm tin ấy vốn dĩ đã không được phép tồn tại.”

“Nhưng…”

“Cậu học tính nhu nhược ấy của ai vậy? Jay Johanson, cậu cần phải nhớ rằng bây giờ cậu là người của SA, mục tiêu của cậu đã thay đổi. Đừng nói với tôi rằng cậu đã quên mất điều ấy. Tôi rất ghét phải thất vọng với bất kì ai, đặc biệt là cậu. Còn vấn đề của Harenna, chẳng lẽ cậu không biết cách giải quyết sao?”

Siller Hook chưa từng kết hôn. Có lẽ Weiburgharm mới là tình yêu cả đời của ông ta. Vì thế, Jay hiểu lí do vì sao ông ta vô cảm trước chuyện tình yêu.

“Nếu cậu thực lòng yêu Harenna thì đừng làm cho cô ấy cảm thấy bị lừa dối!”

Siller Hook nhận được một cuộc gọi từ đường dây nội bộ. Ông ta với lấy chiếc áo khoác và khẩu súng trên ghế.

“Jay, tôi vẫn muốn dặn cậu rằng trong nghề của chúng ta, thứ chúng ta nhìn thấy không phải lúc nào cũng là sự thật.”

Trước khi khép cửa phòng, ông ta còn hỏi Jay một câu:

“Cậu có biết tiếng Pháp không?”

Jay lắc đầu:

“Chỉ một ít.”

“Tôi đùa cậu chút thôi. Vốn tiếng Pháp của tôi đủ khiến những phiên dịch viên phải giải nghệ đấy. Tôi phải rời Weiburgharm trong một tuần tới. Nếu cần hãy liên lạc đến Paris gặp tôi, tôi có chút việc ở đó.”

Lần này, Siller Hook đi hẳn.

Thứ chúng ta nhìn thấy không phải lúc nào cũng là sự thật…



Bốn năm từ ngày Phong ra đi, tuần nào lão Mạc Căn cũng ra thăm mộ con trai. Lão đã bỏ hẳn rượu, cai thuốc lá, cờ bạc và kiếm một công việc tử tế hơn trước kia. Lão đã hối hận, hối hận rất nhiều… Mạc Căn đã tỉnh ngộ. Nhưng Phong thì không thể trở về.



Harenna đã đứng trước của nhà Jay khá lâu nhưng vẫn không có ai ra mở cửa. Hộp socola trên tay cô không chịu nổi ánh nắng mặt trời. Harenna sốt ruột dựa lưng vào cửa. Những viên socola bắt đầu nhũn ra. Phải một lúc lâu sau, chiếc lexus màu bạc của Jay mới trở về.

“Thiếu một phút nữa là em phải phá khóa vào nhà anh đó. Anh làm em nóng lòng quá, Jay ạ.”

Chưa kịp để Jay nói một câu, Harenna đã chìa chiếc hộp màu đỏ ra trước mặt.

“Em làm cả sáng nay đó, tặng anh.”

“Socola?” Jay mở nắp hộp. Mười viên socola nâu bóng xếp ngay ngắn trong nền hộp màu trắng.

“Là thứ mà nó tượng trưng.” Harenna nháy mắt.

Jay nói khẽ, tựa như lời nói của anh chỉ là một làn gió mềm mại.

Phải rồi, socola tượng trưng cho tình yêu.

“Cảm ơn em yêu.”

Harenna ghì chặt cổ Jay. Jay cũng đặt vội hộp socola sang một bên và trao cho cô nụ hôn bất tận.

“Em đã tìm thấy nó tối hôm qua.” Cô thì thầm khe khẽ bên tai Jay: “Cả đêm qua em mất ngủ vì anh đấy. Em đã trúng tên của thần Cupid mất rồi.”

Jay ôm chặt Harenna trong vòng tay mình. Cô sung sướng mỉm cười còn Jay thì không biết mình có thực sự hạnh phúc hay không. Anh vuốt nhẹ mái tóc của cô khi cô gục đầu vào vai anh. Mùi thơm từ mái tóc cảu cô khiến anh quên hết mọi suy nghĩ.

“Hãy hứa với em là đừng bao giờ rời xa em, anh nhé!”

Jay không nói lên lời, anh biết mình sẽ không thể hứa được.

“Jay, hứa với em đi!”

Giọng nài nỉ nhẹ nhàng hơn gió thổi, lại mềm dịu như nước. đủ khiến trái tim sắt đá của Jay trong thoáng chốc nhũn ra như bùn.

“Anh hứa, anh hứa…”

Harenna vội vã buông Jay ra khi nghe tiếng thở mạnh bên tai mình. Nhìn ánh mắt của anh, cô hoảng hốt:

“Anh sao vậy?”

“Không sao đâu.” Jay nói dối.

“Có ai lại muốn giết anh phải không?”

“Không phải, em đừng lo, Harenna. Chẳng có ai muốn giết anh nữa.”

Mà nếu có thì chỉ có em thôi.

Jay nghĩ nốt câu cuối trong đầu.

“Vậy thì anh đừng làm em sợ! Em đã mất người thân, em sợ cái cảm giác ma quỉ ấy đến thêm một lần nữa.”

Jay biết mình sẽ không thể đối mặt với người anh yêu suốt đời. Trong mắt cô, Fredman Brocment không đời nào lại đi buôn ma túy và vũ khí. Ân nhân của cô không đời nào lại là một tên mafia. Đó không phải là một sự thật mà cô muốn biết.

“Em căm thù sự phản bội từ chính những người thân của mình.”

Tình yêu cháy bỏng của Harenna có lẽ cũng mỏng manh như thủy tinh.

Những ngày sau đó, họ không rời xa nhau một bước. Họ cùng ăn uống, cùng đi chơi, cùng làm tất cả những gì mà một đôi tình nhân thắm thiết có thể làm. Chính Harenna cũng không ngờ mình lại yêu Jay nhanh đến thế, mà cũng mãnh liệt đến thế. Tình yêu đã bù đắp phần nào những mất mát trước kia của cô. Những buổi sáng, Jay đều cho cô thử cảm giác của tốc độ khi anh mở mui xe và lao đi với tốc độ gần trăm dặm một giờ trên những dải đường cao tốc của Los Angeles. Đến buổi chiều, họ lại khoác tay nhau cùng đi dạo trong Huntington. Jay nghĩ rằng đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất của mình.



Trong căn phòng luôn ẩm thấp và thiếu ánh sáng, Santos đã lau đi lau lại con dao găm của mình đến lần thứ tám mươi. Hắn không hề thích chờ đợi. Vậy mà sao bọn đàn em ngu ngốc của hắn không chịu hiểu điều ấy nhỉ?

“Nhanh lên đồ con rùa!” Hắn bực tức quát nạt khi cánh cửa đong đưa. Nhưng hắn lại thất vọng thêm một lần nữa. Chẳng qua chỉ là một cơn gió vừa thổi qua.

Bực mình, hắn rút máy liên lạc ra, bấm như điên một tin nhắn.

“Mau tiếp cận hắn và mang chiếc usb ấy về đây.”



Cách đó gần một trăm km, Licohn vừa đút điện thoại vào lại trong túi áo khoác. Anh ta mang nguyên bộ mặt lầm lì ấy đến gõ cửa nhà Jay. Harenna ra mở cửa. Trên tay cô còn vương ít bột làm món bánh điểm tâm.

“Chào cô Benler.” Licohn miễn cưỡng nở một nụ cười méo mó: “Hóa ra cô đã chuyển đến đây sống.”

Harenna nhìn Licohn từ đầu đến chân và chắc chắn rằng cô chưa từng gặp người này.

“Không, anh hiểu nhầm rồi.” Cô lúng túng: “Tôi vừa mới tới đây…”

Quả thực sáng nay Harenna mới đến đây. Nhưng sao cô lại có nghĩa vụ giải thích với thằng cha lạ hoắc này nhỉ?

Chưa để Harenna nói hết câu, Licohn đã tự cho phép mình đi thẳng vào nhà.

“Johanson đâu?”

“Tôi đây.”

Jay xuất hiện ở ngưỡng của nhà tắm với chiếc quần bò và áo phông tươm tất. Anh quay sang nói với Harenna:

“Em lui vào trong đi.”

Cô ngoan ngoãn làm theo, bước vào phòng đọc sách sát bên cạnh và áp tai vào cửa để tìm hiểu lí do vì sao người lạ mặt kia biết tên mình.

“Cô ta là người yêu của anh à?”

“Đúng thế.” Jay thừa nhận.

“Anh có biết cô ta là ai không? Cô ta là người của Fredman Brocment.”

Ở đằng sau cánh cửa, Harenna cố gắng kìm lại một tiếng nấc kinh ngạc. Anh ta còn biết cả chú Fredman của cô?

“Tôi biết điều đó, nhưng cô ấy không giống như Brocment. Giữa họ chỉ là mối quan hệ bình thường. Mà sao anh biết cô ấy?”

“Cô ta từng chụp chung với Brocment. Anh nên nhớ TẬP ĐOÀN luôn đề cao sự cảnh giác.”

Jay nói nhỏ, anh sợ Harenna nghe được:

“Nhưng cô ấy ngoài cuộc chơi này.”

“Tùy anh thôi.” Licohn nhún vai: “Nhưng nếu anh vì việc này mà hủy hoại SA thì…”

“Đủ rồi Licohn!”

Harenna vẫn lắng nghe. TẬP ĐOÀN nào? Họ đang nói về cái quái gì vậy? Gã kia đùng đùng xuất hiện và cho rằng cô là một kẻ đáng gờm sao?

“Anh đến đây vì việc gì vậy?”

“Tôi đổi ý rồi. Lúc thích hợp tôi sẽ nói.”

Licohn quay lại nhìn Jay.

Anh ta không trả lời. Jay, cũng như hầu hết nhân viên SA, đều không muốn giữ con người này ở lại thêm một phút nào nữa.

“Cẩn thận với mọi chuyện đấy!”

Anh ta buông một câu đầy ẩn ý trước khi bỏ đi. Cánh cửa phòng đọc sách mở toang. Harenna bước ra.

“Anh biết nhiều thứ hơn em tưởng. Nói đi, Jay, ai là người đã hại chết ông ấy?”

Jay lắc đầu. Anh chợt nhận ra mình là thằng hèn nhất trên đời.
 

mEothMeoth

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
21/10/14
Bài viết
278
Gạo
0,0
Thử Miêu mEothMeoth Mee Miaow Snoopy Độc Riji Nhất Niệm Tam Sinh Đại Nguyệt Chi winy windy Ngọc Băng Tiểu Thư Trích Tiên mình mới đăng truyện này, các bạn vào ủng hộ cho mình đông khách nhé. :D Lôi kéo thế này cũng ngại quá cơ. :"> Cơ mà mình muốn xuất bản thành sách, bạn bè thân bằng cố hữu gần xa... giúp mình với nhé. :x
Quan trọng là nếu được xuất bản thì mời tớ một chầu là được haha.
 

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0
Chương 10: Licohn Brown (1).
Bản tin tài chính phố Wall đã kết thúc, Licohn Brown lơ đãng tắt vô tuyến rồi vứt điều khiển vào lớp đệm.

Ngôi nhà hai tầng này được Licohn mua vào mùa đông mười hai năm trước, đúng hai tháng sau khi anh ta chính thức nhận phù hiệu của TẬP ĐOÀN. Cả căn nhà đều sơn màu trắng, màu mà Licohn ghét nhất. Màu trắng của tường, của những ô cửa, của sàn nhà đá hoa… sẽ nhắc nhở Licohn về những thứ mà anh ta đã thề khi coi quá khứ là kẻ thù. Sống chung với những thứ mình căm ghét là cách mà anh ta tự tôi luyện và thử thách chính mình.

Ngoài màu sơn trắng, nội thất trong nhà khá đẹp mắt. Chiếc thảm len Ả Rập màu cam có vẻ đồng màu với nền nhà màu sữa, làm không khí gian phòng khách trẻ trung hơn. Chiếc thảm này dược đặt mua trong một kiện hàng nhập ở cảng Los Angeles với cái giá không hề rẻ. Bên cạnh đó là những thứ đồ đạc bình thường khác: sofa, tủ rượu, chậu cảnh, giá sách khoa học và điện tử... Chỉ có điều chúng được sắp đặt lộn xộn và rời rạc, giống hệt như cá tính của Licohn.

Đi sâu vào bên trong là phòng bếp. Căn phòng này tối tăm và chật hẹp vì Licohn ít khi ăn ở nhà. Cuộc sống một mình khiến anh ta không còn hứng thú gì với chuyện bếp núc.

Bên cạnh bếp là một phòng có không khí mát lạnh, ánh nước luôn loang loáng trên tường. Chính giữa phòng, một chiếc bồn tắm cỡ to (hoặc bể bơi cỡ nhỏ) hình bầu dục sang trọng, nước luôn xanh biếc, mát rượi. Trên chiếc bàn cạnh đó vẫn còn một chai rượu đang uống dở.

Rộng nhất có lẽ là phòng tập thể hình của Licohn Brown ở tầng hai. Nằm khuất cuối hành lang với rèm nâu ít khi kéo ra, rất hiếm người ngoài đủ khả năng nhòm ngó căn phòng này. Đây là nơi Licohn rèn luyện mỗi khi từ Weiburgharm trở về.

Lạnh lẽo nhất là phòng ngủ. Ở đó có bức ảnh của một cô gái làn da bánh mật luôn được đặt cẩn thận trên bệ cửa sổ.

Hồi mới vào TẬP ĐOÀN, giống như tất cả những thành viên khác, Licohn cũng nằm trong thời gian thử thách của cấp trên. Có một ngày, anh ta rờ thấy cả thảy chục chiếc máy nghe trộm rải rác khắp nhà mình. Ngay trưa hôm ấy, Licohn lên thẳng phòng 3909 của Weiburgharm. Anh ta đặt mười chiếc máy nghe trộm đã bị tháo gỡ trước mặt Siller Hook, kèm theo khẩu súng của mình rồi lẳng lặng bước đi. Đúng năm phút sau, đích thân CHỦ TỊCH phải mang súng tới tầng bảy, trả lại cho anh ta kèm theo một lời giải thích cho những hành động trên. Kể từ đó, sinh hoạt của anh ta thoải mái hơn, hoặc ít ra thì cũng có vẻ như vậy.

Khuôn mặt vẫn không nở một nụ cười, Licohn tự pha cho mình một tách cafe không đường. Licohn thích, rất thích uống cafe đắng. Chưa bao giờ anh ta bỏ một viên đường nào vào ly cafe của mình.

Chiếc máy liên lạc lại phát ra tín hiệu màu xanh. Lần nào cũng vậy, công việc luôn là kẻ chen ngang vô vị. Licohn chỉ uống một ngụm rất nhỏ cafe rồi vội vào phòng làm việc của mình trên tầng hai. Bọn tin tặc đang tìm cách xâm nhập vào kho dữ liệu của các ngân hàng chính là lí do khiến cốc cafe đã nguội lạnh trên bàn...

...

Jay trở về nhà khi trời đã nhá nhem tối. Hôm nay là một ngày nhàn rỗi của anh ở TẬP ĐOÀN. Vụ án mới đã kết thúc mà anh không cần phải đi hiện trường, không phải bàn kế hoạch với đồng nghiệp, cũng không phải công tác xa. Một ngày mà Jay chỉ phải làm duy nhất một công việc là fax hai mươi sáu trang báo cáo cho phân bộ TẬP ĐOÀN ở Rio de Janeiro (1). Sự nhàn nhã ấy không thích hợp với con người Jay, nhưng cũng may là không phải ngày nào cũng vậy. Tuần trước, đồng hồ sơ ở bàn làm việc chất cao như núi, đến nỗi Dennis và Jay ngồi đối diện mà còn không nhìn thấy mặt nhau.

Jay ngập ngừng đứng trước cửa. Anh biết rằng có kẻ nào đó đã mở cửa nhà mình. Mẩu băng keo Jay dán trên mép cửa để đánh dấu đã bị bong ra, đồng thời một sợi tóc nâu vương lại trên cánh cửa.

Hoàn toàn yên tâm, Jay mở cửa bước vào. Trong hộp thư thoại có một lời nhắn của Harenna: “Anh lại trốn ở chỗ quái nào vậy, Jay? Điện thoại di động của anh dùng để bật lò sưởi hả? Nếu đến tối mà anh không goị lại cho em, em thề là từ nay sẽ không bao giờ thèm làm điểm tâm cho anh nữa.”

Vì công tác bảo mật, những thành viên TẬP ĐOÀN khi ở trong Weiburgharm Hotel không được phép dùng bất cứ hình thức liên lạc cá nhân nào. Mọi liên lạc đều thực hiện qua một đường dây nội bộ chung được quản lý trực tiếp. Sự riêng tư không có chỗ trong công việc. Jay không thể giải thích điều này với Harenna, vì thế cách tốt nhất là cứ lờ đi thì hơn.

Jay thay bộ quần áo khác rồi đi tắm rửa. Một chút nước hoa rất cần thiết cho buổi tối lãng mạn. Anh chọn chiếc cà vạt sọc đỏ lịch thiệp cùng chiếc áo sơ mi trắng rồi lại ra khỏi nhà. Sau một chút đắn đo, Jay quyết định để súng ở nhà. Đi hẹn hò với Harenna mà khẩu súng cứ kè kè ở bên thì thật khó chịu.

Đêm ở Los Angeles hoa lệ như bất cứ thành phố sang trọng nào khác trên thế giới. Những làn gió lạnh mang theo hơi hướng dịu mát từ biển đủ sức đánh thức những tâm hồn ủ rũ nhất. Một vài người đi dạo dọc theo con đường dẫn vào Griffith Park hoặc tản bộ ở Pennisuna Beverly Hills.

Sau ba mươi phút lái xe, Jay và Harenna dừng lại trước cổng rạp chiếu phim. Hôm nay không phải cuối tuần nên rạp này không quá đông khách. Khi hai người họ bước xuống xe, một tốp thanh niên từ trong rạp đi ra.

“Asino!” Một cô gái mặc áo bõ chẽn trong tốp đó gào vào mặt người đi bên trái mình.

“Che coglioni cheha questa!”

Người thanh niên khoác ba lô trên vai lẩm bẩm chửi thề rồi tự tách khỏi nhau, đi nhanh phía trước. Hai người khác vội đuổi theo. Còn ở phía đàng sau, cô gái mặc áo bó chẽn vẫn đang dậm chân ầm ầm.

“Fuori!” Một người trẻ nhất trong tốp đó nói to, rồi hùa tất cả về phía cửa ra vào.

Cả tốp đi ngang qua Jay và Harenna. Sặc mùi nước hoa Oriflame loại rẻ tiền.

“Bọn người Ý” Jay ghé sát vào tai Harenna: “Khi đến Los Angeles, họ luôn quậy! Có vẻ họ đang cãi nhau.”

“Anh biết cả tiếng Ý?” Harenna tròn mắt ngạc nhiên.

Jay không đáp. Nếu không vào TẬP ĐOÀN, ngoại ngữ duy nhất anh biết là tiếng Anh.

“Còn mười phút nữa mới tới giờ chiếu.” Jay xem đồng hồ: “Nếu biết trước là đi xem Titanic thì...”

“Anh không thích xem bộ phim đã ẵm cả chục giải Oscar lớn nhỏ à?”

“Nhưng anh đã xem nó rồi. Anh không… attento!”

Không cần quá thông minh, Harenna cũng hiểu rằng từ cuối cùng không dành cho mình. Khi cô ngoái lại phía sau, top thanh niên người Ý cũng đã hiểu vì sao Jay hét lên như vậy. Một chiếc xe taxi phóng qua trước mặt chàng trai khoác balo. Nếu anh ta bước thêm một bước, chỉ một bước thôi, chắc chắn sẽ bị chiếc xe kia đụng trúng. Anh chàng này sợ hãi đến mức tái nhợt, đám bạn phải chạy đến đỡ anh ta khỏi ngã.

“Grazie!” Một vài người trong số họ nói.

Jay gật đầu về phía họ rồi tiếp tục bước đi cùng Harenna.

“Anh đang quay lưng về phía họ cơ mà, sao anh nhìn thấy chiếc taxi đó đang lao tới?”

“Cửa kính, Harenna ạ. Khi em đã quen, không quá khó để nắm bắt tình huống đang xảy ra xung quanh đâu.”

Một lúc sau, hai người họ đã ở bên trong rạp chiếu phim.

“Em thích giọng hát của Cé line Dion.” Harenna thì thầm.

Không để Jay nói thêm một câu nào, Harenna cũng hát theo lời dạo đầu.

You’re here there’s nothing I fear and know that my heart will go on..

Phải công nhận rằng giọng của Harenna quá chán, nếu không muốn nói là dở tệ.

Love was when I love you true time I hold to...

Harenne vẫn đong đưa. Có vẻ cô muốn làm một Céline Dion thứ hai!

Thật may mắn vì cuối cùng phim cũng đã bắt đầu chiếu. Harenne, sau khi hát hò một hồi, ngồi tỉnh bơ ăn bắp rang bơ và uống pepsi. Hai mắt cô dán chặt vào cảnh quay trong phim.

“Em thích Titanic đến thế sao?”

Harenne gật đầu, mái tóc nâu xõa trước ngực:

“Em đã xem đến bảy lần rồi mà chưa chán.”

“Mình dám cá là cô ấy thuộc từng lời thoại của Bukater.” Jay thầm nhận xét.

“Chiều nay em tìm anh đến mỏi chân luôn.” Harenna đút một miếng cho Jay” “Sao anh không nói cho em nơi anh làm việc nhỉ?”

“Nhân viên marketing như anh không bao giờ làm việc ở một văn phòng cố định nào cả, em yêu.”

“Phải rồi.” Harenna lẩm bẩm: “Quý ông của những bí mật. Thế còn vụ điện thoại?”

Jay nói tỉnh bơ:

“Anh tắt máy, yêu cầu công việc thôi mà.”

“Anh không giả nai mãi được đâu!”

Dù muốn hay không, hệ thống bức xạ bao quanh Weiburgharm cũng vô hiệu hóa tất cả các thiết bị phát sóng: “bất hợp pháp” hay thiết bị theo dõi cá nhân. Jay không muốn nói dối Harenna, cũng không thể giải thích ngọn ngành. Anh chọn cách im lặng. Cũng may là bộ phim đã khiến Harenna quên mất vụ vặn hỏi. Cả rạp chỉ còn tiếng vọng của bộ phim, tiếng nói chuyện của hai đứa trẻ ngồi tít phía sau và tiếng nhai bắp rang bơ đều đặn.

Cả thân hình mềm mại của Harenna dựa vào người Jay nhưng anh cảm thấy nhẹ bẫng. Một mùi hương xộc vào mũi anh, thổi căng từng thớ thịt trên người anh. Jay biết rõ xuất phát điểm của mùi thơm đó. Mái tóc mựợt mà của Harenna quét nhẹ trên má anh. Ánh mắt của cô sao cuốn hút sâu thẳm. Jay nắm lấy tay cô. Harenna chỉ cựa mình chút xíu rồi tiếp tục dõi theo bộ phim.

Một giọt nước mắt lăn trên má Harenna. Nếu nó không rơi xuống tay Jay, nhẹ nhàng, ấm nóng, thì anh cũng không nhận ra cô đang khẽ khóc. Một niềm thương xót lan toả trong Jay chỉ vì giọt nước mắt của người đang sống với tình yêu lãng mạn của Jack và Rose.

Chẳng có thứ ngôn ngữ nào có thể định nghĩa chính xác tình yêu. Nhưng bất kì ngôn ngữ nào cũng sẽ diễn tả được tình yêu theo nghĩa riêng của nó.
 

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0
Chương 10: Licohn Brown (2).
Mái đầu của Harenna dựa vào vai Jay, cô sẵn sàng chờ bàn tay anh ôm lấy mình. Cả hai cùng chìm trong im lặng. Bóng tối mơn man của rạp chiếu phim càng làm khiến cho Jay càng siết chặt lấy Harenna hơn.

“Chưa bao giờ em xem trọn vẹn đoạn kết.”

“Nhưng em đã xem nó đến bảy lần?” Jay thắc mắc.

“Bảy lần bắt đầu nhưng chưa một lần kết thúc. Ai mà chẳng biết kết cục của bộ phim này. Đâu nhất thiết pải chứng kiến cảnh Titanic đâm vào tảng băng trôi, tiếng kêu gào của hàng du khách giữa biển đên ngòm mới gọi là xem phim.”

Nói xong, Harenna đút cho Jay những miếng bắp bơ cuối cùng.

“Em sợ à?”

Harenna vẫn chăm chú theo dõi bộ phim, rõ ràng cô đang xúc động.

“Sao anh lại nghĩ rằng em sợ? Đó chỉ là phim thôi. Em chỉ không muốn phim ảnh chi phối bản thân mình. Nỗi buồn của Jack và Rose có thể sẽ ám ảnh em.”

“Phụ nữ thật là khó hiểu.” Jay thầm nghĩ.

“Em không thích những tình yêu đẹp kết thúc trong bi kịch” Harenna tiếp tục: “Chưa một lần nào em xem kịch của Shakespeare.”

“Cuộc sống ảo chẳng bao giờ chi phối nổi một con người tỉnh táo.”

“Nhưng đôi khi nó cũng đặt chân sang cuộc sống thực.”

Đến bây giờ Harenna mới quay sang nhìn Jay, mắt cô ngấn nước.

“Anh đọc được nỗi sợ hãi trong mắt em.” Jay rút khăn tay ra.

“Không phải đâu Jay, em không...”

Nhưng Jay đã ngắt lời Harenna:

“Anh hứa sẽ không bao giờ bỏ rơi em.”

“Anh không hiểu được đâu, định mệnh của chúng ta...”

“Anh yêu em, đó đủ làm em an lòng chưa?”

“Từ nãy tới giờ anh chỉ ngắt lời em!” Harenna gắt lên, lon pepsi đổ tung tóe xuống sàn. Cũng may không có ai ngồi cạnh họ: “Em không muốn nói về chuyện đó. Anh tưởng em hay đa nghi đến mức nghi ngờ cả tình cảm của chúng ta chắc? Em muốn nói đến chuyện khác cơ.”

Rồi cố nuốt mấy giọt nước mắt từ nãy tới giờ toàn rơi vô ích, cô nói tiếp:

“Anh có biết vì sao em thích không thích xem những vở bi kịch mà vẫn thích xem Titanic không?”

“Làm sao anh biết được.”

“Bởi vì...vì…” Harenna ngập ngừng đôi chút: “Bộ phim này khiến em nhớ một người đã mất (Jay rên khẽ lên một tiếng). Chú Fredman rất thích bộ phim này. Chú ấy có nói nếu có đặt chân lên con tàu huyền thoại ấy, dù biết trước nó sẽ bị chìm, chú ấy vẫn cam lòng.”

“Tham vọng, phải rồi!” Jay ngán ngẩm tặc lưỡi.

Anh rất muốn nói với Harenna rằng vị chúa cứa thế của cô chẳng qua là một mafia Palermo thừa tham vọng không hơn không kém, nhưng anh không đủ can đảm để làm thế. Anh đành chịu đựng để cho hình bóng đã chết của Fredman Brocment ám ảnh lấy buổi tối lãng mạn này.

“Đến bây giờ em vẫn chưa tìm thấy nguyên nhân vì sao một doanh nhân bình thường như Brocment bị hạ sát và thằng khốn nào đã giết chết chú ấy.”

Cố giữ bình tĩnh, Jay quay sang nhìn Harenna với vẻ mặt thật bình thản.

“Em vẫn muốn trả thù?”

“Nếu ở trong địa vị của em, anh còn tha thiết muốn trả thù hơn cả em nữa.”

“Cái gì cũng có lí của nó, Harenna ạ.”

Jay hiểu rất rõ ngụ ý câu nói này của mình.

“Em biết điều đó. Nếu chú Fredman bị giết thì theo em, chỉ có hai lí do chính: Cạnh tranh trong chuyện làm ăn hoặc những hoạt động xã hội của ông đã khiến bọn mafia thấy chướng tai gai mắt.”

“Ân nhân của em cũng tham gia các hoạt động xã hội sao?”

“Dĩ nhiên!” Harenna nhún vai, có lẽ cô đã quên mất những hình ảnh đẹp nhất của Titanic: Rose đang đứng trước mũi con tàu, giang rộng hai tay trước khung cảnh kì vĩ đầy thơ mộng của Đại Tây Dương: “Rất hăng hái là khác. Chú ấy chia nhỏ tài sản của mình ở rất nhiều ngân hàng tại Santa Ana, cứ mỗi năm lại rút ra một khoản không nhỏ để đầu tư cho giáo dục, y tế hoặc môi trường. Anh cũng biết tiếng chú Fredman mà.”

“Chỉ sơ sơ thôi!” Jay nói.

“Thế anh bạn Licohn của anh?”

“Anh không biết nhưng chắc chắn đó chỉ là những mối quan hệ công việc thường tình.”

“Em cũng nghĩ vậy.” Harenna gật đầu: Bọn đàn ông các anh ai cũng vậy, cứ nghĩ rằng mình sinh ra cho những công việc rất lớn lao.

Jay bắt đầu thấy khó chịu. Tại sao Harenna cứ lải nhải mãi về một kẻ như Brocment? Nhưng cũng phải thôi. Cô ấy là đứa trẻ mồ côi đã được gã mafia cứu khỏi cô nhi viện và tạo điều kiện để trưởng thành như ngày hôm nay. Về một mặt nào đó, ít ra Brocment cũng biết nhón tay làm chút việc tốt, mặc dù mục đích cuối cùng của hắn chắc chắn chẳng tốt đẹp gì.

“Chú Brocment có dạy dỗ em không?”

“Chú cho em đi ăn học tử tế.”

“Không, anh không nói đến chuyện học hành. Ý của anh là… cái khác cơ.”

Jay vặn vẹo hai bàn tay, không biết diễn đạt làm sao để cho Harenna hiểu.

“Còn cái khác gì nữa?” Harenna tròn mắt nhìn anh.

“Ý anh là... tập huấn những kĩ năng... kĩ năng ấy mà.”

Harenna nheo mắt lại, rồi sau vài giây chợt phá lên cười:

“Tưởng gì, chứ kĩ năng thì nhiều lắm. Chú ấy dạy chúng em cách chăm sóc trẻ em, cách chơi với lũ chó… cả kỹ thuật sơ cứu cũng là em học từ chú ấy đó.”

Đến lúc này, Jay mới thấy mình ngu như thế nào. Nếu Brocment muốn đào tạo lũ trẻ mồ côi thành assasin cho riêng mình, và nếu trong số ấy có Harenna, thì đời nào cô lại ngoan ngoãn nói với anh rằng: “Vâng, em được Fredman huấn luyện để trở thành sát thủ.” Hơn nữa, Harenna mà làm sát thủ nổi ư? Thật buồn cười! Jay đã thử rất nhiều lần, phản ứng của Harenna chứng tỏ cô chẳng có chút căn cơ võ thuật gì.

Harenna liếc nhìn đồng hồ:

“Còn hai mươi phút nữa thì bộ phim kết thúc. Ta về thôi.”

Chẳng còn lí do gì để Jay nán lại rạp chiếu phim. Harenna đã nói đúng, chưa bao giờ cô xem đoạn kết của Titanic.

Sáng hôm sau, bình minh đến muộn đối với Jay. Khi anh đặt chân vào thang máy của Weiburgharm Hotel thì đã gần tám giờ sáng. Thế nhưng, thay vì ấn nút lên tầng bảy, Jay lại đổi ý, đi đến khu chức năng ngầm ở nằm sâu dưới đất.

Lần đầu tiên Jay Johanson đặt chân vào Weiburgharm Hotel cách đây sáu năm. Khi đó, anh được người phụ trách khóa huấn luyện dẫn đi tham quan các tòa nhà, bao gồm cả khu chức năng ngầm để chỉ dạy trực tiếp về các kiến trúc an ninh mà TẬP ĐOÀN ứng dụng. Sau đó, anh được cho phép tập luyện ở đây trong vòng một tháng. Trong một tháng ấy, anh đã gặp Licohn Brown.

Khi ấy, Jay đang chỉnh lại hồng tâm cho ngay ngắn rồi lùi ra xa. Không một phát nào trật ra khỏi hồng tâm. Tài bắn của mình cũng không quá tệ, Jay thầm nghĩ. Anh đứng lùi ra xa hơn nữa.

Chán chê, Jay chuyển sang mục tiêu di động, rồi nhắm bắn qua gương... Tất cả đều đem đến cho anh một niềm phấn khích lạ.

Bên cạnh anh là một quả cầu thủy tinh bé như quả bóng tennis treo lủng lẳng dưới một sợi dây mảnh như cước. Thử thách lớn nhất đây, Jay tặc lưỡi. Anh bước lùi ra xa khoảng sáu mét.

Siller Hook đã từng bảo với Jay rằng: “Nếu cậu có thể bắn đứt sợi dây và bắn vỡ quả cầu trước khi nó kịp rơi xuống đất, cậu mới có đủ khả năng để sống sót.” Jay không muốn dò hỏi xem ở SA, bao nhiêu người có khả năng làm được như vậy, hay là tất cả. Nhưng anh biết chắc chắn, trong số đó có Siller Hook.

Anh nhắm thật kĩ. Sợi dây! Thuyết trọng lực! Qui tắc khoảng trống! Jay bóp cò. Ba tiếng súng vang lên. Sợi dây đang căng như dây đàn bỗng đứt làm đôi. Quả cầu thủy tinh nở bung thành hàng trăm mảnh. Nhưng phát súng duy nhất của Jay lại ghim vào tấm chắn cạnh đó.

“Anh bạn, anh...”

Jay quay đầu lại và thấy một người đàn ông cao to với khuôn mặt phủ một lớp băng lạnh lẽo đang đứng ngay sau mình. Ánh mắt của Licohn Brown như đang đếm xem có cả thảy bao nhiêu mảnh vụn thủy tinh dưới sàn!

Một màn trình diễn khá hay, nhưng lần sau không cần phải chen ngang như vậy đâu.

“Nếu còn giữ nguyên tư thế đó thì có đến lúc chúa Jesus hồi sinh, anh cũng chẳng bắn trúng nổi.”

Licohn vừa đặt khẩu súng xuống sàn, vừa càu nhàu. Lúc này, Jay rất muốn nói kệ tôi, nhưng chỉ có thể lặng im. Đúng là tư thế của mình chưa thật chuẩn, anh thầm nghĩ.

Nhưng có ai mượn thằng cha lạ hoắc này phá bĩnh đâu!

Chẳng nói chẳng rằng, Licohn đến bên chiếc tủ chứa đồ của mình, lôi sáu dây Cầu Thủy Tinh giống hệt ban nãy. Anh ta treo chúng thành một hàng dài rồi quay lại, chà tay trước mặt Jay:

“Cho tôi mượn cục cưng của anh một chút.”

Không ngần ngại, Jay trao súng cho Licohn. Licohn nạp đầy đạn vào 2 khẩu súng rồi đứng lùi ra xa.

“Lại một màn trình diễn nữa đây!” Anh thì thầm và tựa lưng vào bàn.

Một vận động viên trượt băng nghệ thuật cũng không thể uyển chuyển như Licohn Brown. Anh ta dịch chuyển sang trái nhanh và nhẹ đến không ngờ. Rất nhịp nhàng. Những viên đạn xuyên qua sợi dây, làm nổ tung sáu quả cầu thủy tinh trước khi chúng kịp thời rơi xuống sàn.

Sau mười hai phát đạn trên cả chuẩn xác, sàn nhà la liệt những mảnh vỡ thủy tinh lóng lánh.

“Hai tay chuẩn như nhau!” Một nhân viên khác đang tập gym ở gần đấy nói to: “Khá lắm, anh Brown.”

Nhưng Licohn cũng chẳng tỏ vẻ đắc ý.

“Tiếp tục tập đi!” Anh ta nhắc Jay: “Còn tôi sẽ tự thưởng cho mình một chút không khí ở bên trên.”

Anh ta ném trả lại súng cho Jay rồi đi mất, bỏ lại đằng sau một ấn tượng không thể sâu sắc hơn dành cho lính mới là Jay Johanson.

Jay hỏi người vừa danh lời khen cho Licohn: “Đặc vụ Brown kia…”

“Anh ấy là Licohn Brown, người gốc Ý. Đến đây được khoảng bảy năm rồi, nhưng không có bạn bè vì khá ngạo nghễ và bí ẩn.”

Đó là ấn tượng của sáu năm về trước.



“Thôi đủ rồi.” Jay nói: “Licohn, tôi muốn hỏi anh một việc.”

Licohn liếc nhìn Jay.

“Tôi biết anh định nói tới việc gì.” Giọng nói của Licohn bây giờ có vẻ thân thiện hơn một chút: “Lí do vì sao mấy ngày trước tôi đến nhà anh, phải không?”

Licohn bất chợt nở nụ cười đầy ý tứ, một nụ cười rất hợp với khuôn mặt lạnh lùng của anh ta:

“Quên chuyện đó đi!”

Mặt Jay xuất hiện một dấu hỏi to đùng.

“Cái gì?”

“Tôi bảo là quên nó đi!” Anh ta phẩy tay: “Tôi đổi ý rồi. Lúc khác sẽ thích hợp hơn.”

“Licohn Brown, dù có là SA thì giấu diếm đồng nghiệp mọi chuyện là một chuyện rất không nên. Anh hiểu ý tôi chứ?

“Sẽ có lúc khác thích hợp hơn. Bây giờ, đối với anh không phải lúc. Vậy thôi! Tiếp tục làm những gì anh thích đi, Jay Johanson.”

Nói xong, Licohn tiến về phía cánh cửa khi đi bộ lên cầu thang, anh ta vẫn tiếp tục liếc nhìn thấy bộ dạng khổ hạnh của Jay còn rơi rớt lại phía sau lưng mình.

Jay không bao giờ nghi ngờ về khả năng thụ lí vụ án của SA, nhưng cũng phải thú thực là bóng ma của Santos cứ chập chờn trong bóng tối, đến bây giờ SA vẫn chưa có cách gì để tóm hắn cùng đồng bọn.

Liệu bí mật có thể giữ kín đến ngày ấy? Liệu bí mật có khiến Harenna cảm thông và tha thứ cho Jay?

Đứng trước những nhiều trăn trở, dường như Jay đã mất phương hướng.

“Đành vậy!” Anh thì thầm nhưng trong chất giọng lộ rõ một sự quyết tâm: “Tập trung tất cả vào vụ của Santos trước. Còn Harenna, mình đã có cách.”

Cánh cửa mở ra ban công đóng sầm lại sau khi Jay rời khỏi ghế đá. Anh trở về phòng làm việc, sắp xếp lại đống hồ sơ cho hợp lí rồi ra về.

Sảnh lớn của Weiburgharm Hotel chiều nay lại đông đúc. Một số người Jay chưa từng gặp bao giờ. Họ không phải người của TẬP ĐOÀN. Nhưng chắc chắn cũng không phải khách thuê phòng.



(1) Rio De Janeiro: thủ đô cũ của Brasil.

(2) Asino (tiếng Ý): đồ con lừa.

(3) Che coglioni cheha questa (tiếng Ý): một câu chửi tục.

(4) Fuori (tiếng Ý): ra ngoài.

(5) Attento (tiếng Ý): cẩn thận.

(6) Grazie (tiếng Ý): cảm ơn.

(7) Cé line Dion: nữ ca sĩ người Canada, người hát ca khúc My heart will go on trong bộ phim Titanic.
 

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0
Chương 11: Khách sạn Weiburgharm (1).
Những nhân viên hoạt động trong lĩnh vực khách sạn ở khắp Los Angeles không ai lạ mặt David Hagguk Graunt. Độ tuổi ngoài bảy mươi, Graunt luôn là một thanh tra an ninh khách sạn mẫn cán của Cục Nghiên cứu đô thị và Quy hoạch Los Angeles. Không một hành động mờ ám nào qua được đôi mắt ti hí và cặp kính gọng đen của Graunt. Đối với ông ta, công việc luôn là một thứ dược liệu tinh thần tốt nhất, khi mà bốn đứa con của ông ta đều đã chuyển đến tận Kansas và bà vợ phục phịch nghiền kênh CNN hơn cả vào bếp cuối tuần. Đều đặn hàng tuần, Graunt dẫn quân đi kiểm tra hành động của hầu hết các khách sạn lớn. Sau đó là soạn thảo báo cáo gửi lên cấp trên, luôn kèm theo một câu kết luận: tất cả các khách sạn đều duy trì hành động tốt, chất lượng phòng đạt chuẩn, đội ngũ nhân viên không có gì sai sót và thức ăn đủ tốt để không một thực khách nào ngộ độc! Đồng nghiệp nói rằng David Hagguk Graunt bị ám ảnh bởi mấy khách sạn. Điều này không có gì phải bàn cãi.

Mơ ước từ nhỏ của cậu bé David Graunt là sở hữu một khách sạn bề thế ở New York. Lớn lên, Graunt theo ngành kiến trúc và thiết kế. Cùng với gia tài thừa kế từ bên nội, coi như Graunt đã cầm chắc trong tay ước mơ của mình. Nhưng đến năm 1978, cả gia đình Graunt chuyển đến Los Angeles, anh chàng Graunt dù không muốn cũng phải đi theo. Cuối cùng, có thể do định mệnh, Graunt vào làm ở cục quản lí đô thị Los Angeles. Đồng thời, cả gia tài hơn trăm triệu triệu đô la của ông nội bị Geogre Graunt, em trai của David Graunt, Làm từ thiện cho mấy sòng bài ở Las Vegas. Giờ Geogre đang ở tù. Còn các khách sạn của ông anh trai thì chỉ tồn tại trong những giấc mơ.

Nhưng Graunt vẫn không thể buông tha mấy cái khách sạn!

Chiếc xe của Cục dừng lại trước cửa chính của Weiburgharm Hotel. Graunt, trong bộ comple đen, bước xuống xe, theo sau ông ta là khoảng gần chục người. Ngoại trừ Graunt, tất cả những người còn lại đều mặc đồng phục của Cục cùng chiếc thẻ nhân viên đính trên ngực.

Bóng chiều tà không làm tấm biển to quá khổ in dòng chữ Weiburgharm Hotel mờ nhạt. Graunt ngước nhìn lên trên. Ông ta hơi nhíu mày lại. Dòng chữ mạ vàng. Khách sạn duy nhất trong hàng chục khách sạn ở Los Angeles chưa bao giờ chào đón ông ta. Không hiểu vì lí do gì, cấp trên không bao giờ chỉ thị cho Graunt kiểm tra tình trạng của nơi đây. Tuyệt đối không được bén mảng hay đem quân đến sục sạo Weiburgharm Hotel!

Lần gần đây nhất, hai năm trước, Graunt kiên quyết cho rằng Weiburgharm đang kinh doanh mờ ám vì những gì khách sạn này thống kê gửi lên không hề khớp với thực trạng hành động mà Graunt được biết. Ông ta liền đi kiểm tra, ngay lập tức, mặc kệ có được cấp trên cho phép hay không. Đối với ông ta, trong công việc không có gì là ngoại lệ.

Khi Graunt vừa ra khỏi cửa, ông ta đụng ngay cục trưởng - một người đàn ông gốc Brasil với dáng người cao như hộ pháp. Vốn mẫn cảm và thẳng thắn, Graunt trình bày ngay giả thuyết của mình về Weiburgharm Hotel, đồng thời xin cục trưởng Glickan cấp giấy phép cho cuộc khám xét này. Nào ngờ, ông ta bị Glickan lôi vào phòng, đồng thời gằn giọng:

“Nào, bây giờ anh chọn đi! Hoặc là làm ầm ĩ lên ở khách sạn Weiburgharm và sau đó đích thân tôi sẽ đem anh đến làm bạn với mấy con khỉ ở Nairobi (1). Hoặc là về nhà, và sau đó sẽ chẳng có gì xảy ra với anh. Tôi nghĩ anh thừa thông minh để chọn lựa, phải không Graunt?”

Không thể làm gì hơn, Grraunt đành ngậm ngùi bỏ đi. Cái ý định khám phá ra sự mờ ám của Weiburgharm Hotel đã bị dập tắt ngay từ trong trứng nước. Nhưng trước khi bỏ đi, ông ta vẫn kịp thời nghe thấy tiếng nói chuyện điện thoại của cục trưởng qua cánh cửa khép hờ.

“Vâng, thưa ngài, đó chỉ là một sai sót nhỏ của một nhân viên dưới quyền tôi thôi” Giọng ông cục trưởng có vẻ căng thẳng: “Tôi đã chỉnh cho hắn một trận ra trò rồi. Thưa ngài, hoàn toàn không có gì đáng lo. Tôi xin đem chiếc ghế giám đốc của tôi ra để đánh đổi lại sự an toàn cho Weiburgharm.” Rồi ông ta hạ giọng thật nhanh: “Vâng, tôi hiểu. Chắc chắn sẽ như vậy. Không thể có bất cứ sai sót gì trong khâu quản lí nhân viên của tôi. Vâng, chào ngài.”

Chắc chắn cái khách sạn chết dẫm này phải có ô dù thật to ở trên. Glickan đúng là đồ vô dụng! Nhưng công nhận là đụng đến Weiburgharm rất khó. Graunt vừa bực tức thì thầm vừa trở về nhà.

...

Jay Johanson lặng lẽ quan sát đoàn người ở sảnh lớn. Người đàn ông tóc hoa râm mặc bộ comple đén, kính gọng đen đang hùng hổ tranh luận với một số bảo vệ của TẬP ĐOÀN về thứ gọi là “quyền giám sát hành động các khách sạn của Cục Nghiên cứu đô thị và Quy hoạch Los Angeles.” Thế nhưng, mặc cho Graunt và mấy người của ông ta có chìa hết giấy tờ này đến con dấu khác, họ cũng không thể tiến thêm một bước.

“Thưa ông David Hagguk Graunt.”Jennifer tỏ ra bình tĩnh: “Weiburgharm là một trong những khách sạn trong sạch và an toàn bậc nhất Los Angeles. Chúng tôi hành động hoàn toàn bình thường và không có lí do gì để tiếp bất cứ một đoàn thanh tra nào.”

Graunt đập mạnh tay xuống bàn. Cô gái chỉ cười, không hề tỏ ra sợ hãi hay giật mình.

“Tôi lại không nghĩ như vậy. Mấy vị có biết người ta đồn gì về nơi này không? Một khách sạn không bao giờ còn nổi một phòng trống để cho mọi người thuê.”

“Thì điều đó chứng tỏ chúng tôi đang ăn nên làm ra. Thử hỏi Bel Air hay Hilton (2) có luôn luôn đạt được công suất phòng một trăm phần trăm như chúng tôi không? Khách hàng của chúng tôi không quan tâm đến lời nói nhảm của mấy kẻ rỗi hơi.”

Kẻ rỗi hơi? Còn ám chỉ ai ngoài Graunt?

Rõ ràng Graunt đang rất tức giận. Nhưng ông ta cũng sợ hãi. Nếu cục trưởng kết thúc chuyến công tác ở Thụy Sĩ và biết được sự tự tiện này của ông ta, kiểu gì ba ngày sau David Graunt cũng mất việc.

“Khách hàng?” Graunt nói: “Ai là khách hàng của mấy vị? Những người dân ở Los Angeles ư? Thằng con út của tôi thậm chí còn không thuê nổi một phòng tệ nhất ở đây.”

Jennifer vẫn niềm nở:

“Thưa ông Graunt, cậu út nhà ông vẫn đang ở Kansas (3).”

Đến lượt Graunt thấy lạnh ở sống lưng.

“Cô, làm thế nào mà cô biết?”

Thế nhưng, Jennifer đã nói át lời Graunt:

“Sự minh bạch của chúng tôi khiến chúng tôi phải cảm thấy xấu hổ khi có bất cứ phái đoàn nào đến truy vấn Weiburgharm và coi nó như một con chuột đương lách luật. Sự can thiệp của các ông đây sẽ khiến những khách hàng của tôi có cảm giác bị soi mói, chốn riêng tư mà họ đã phải bỏ hàng ngàn đô la sẽ bị xâm nhập bằng những cặp mắt thiếu thiện cảm. Vì lợi ích khách hàng, sẽ không một ai được quyền kiểm tra, hay nói thẳng ra là lục soát nơi đây.”

Trong khi đó, những người có mặt ở Weiburgharm, những nhân viên TẬP ĐOÀN mặc thường phục, vẫn điềm nhiên vào và coi như chưa có chuyện gì xảy ra. Jay bước xuống thêm vài bậc thang nữa. Chắc chắn mấy ông già ở Cục Nghiên cứu đô thị và Quy hoạch Los Angeles quá hăm hở vì công việc nên đã quên mất quyền bất khả xâm phạm của Weiburgharm Hotel! Hoặc ít ra thì David Hagguk Graunt chưa nhận được chỉ thị rõ ràng từ cấp trên.

“Cô đang chỉ trích tất cả các khách sạn khác đấy cô bé ạ!”

Mái tóc của Jennifer khẽ đong đưa.

Cô bé à? Hay thật! Ông có biết ông đang có vinh hạnh nói chuyện cùng ai không hả?

“Nếu đó là điều ông nghĩ.” Jennifer nhẹ nhàng tiếp lời .

Bỗng Graunt phá lên cười:

“Chắc giám đốc của cô trả cho cô lương cao lắm nhỉ? Mồm miệng khá đấy! Nhưng với pháp luật, lí sự cũng chẳng giải quyết được gì. Lần cuối cùng, thay mặt tổ An ninh và kiểm tra hệ thống khách sạn của Cục Nghiên cứu đô thị và Quy hoạch Los Angeles.” Graunt nói ra những cái tên dài ngoằng rắc rối với giọng điệu tự hào: “Chúng tôi yêu cầu được thanh tra hành động của khách sạn Weiburgharm ngay lập tức. Dù muốn hay không các vị vẫn phải hợp tác với chúng tôi.”

“Nếu không thì sao, thưa ông Graunt?”Jennifer hơi cau mày. Trường hợp rắc rối thứ một nghìn lẻ một trong vòng ba năm trở lại đây. Nhưng lần này lại có liên quan tới mấy tay bên nhà luật.

Graunt đập tay xuống bàn thêm một lần nữa.

“Cưỡng chế, hiểu chứ?”

Ông ta trừng mắt lên dọa nạt, đáp lại chỉ là điệu bộ nhún vai của Jennifer:

“Rất tiếc, điều đó là không thể.”

Graunt hăng hái định xông lên thì chùn bước. Ông ta bắt gặp ánh mắt của Jennifer đang nhìn mình. Cái chốn quái quỷ gì thế này? Đến một nữ tiếp viên cũng có trong mình cái khí chất hơn người! David Hagguk Graunt cảm thấy một bàn tay nào đó đang kéo rịt chân mình xuống đất.

“Thôi nào, chỉ là một cuộc kiểm tra thông thường.” Rất may là Graunt đã thoát khỏi cơn mê sảng: “Nếu khách sạn này làm ăn đàng hoàng thì tiếc gì mấy phút cho chúng tôi dạo chơi, phải không? Và nếu muốn yên ổn, tốt nhất các cô đừng chống lại người đang thi hành luật.”

Mấy lời dọa nạt của Graunt chẳng thể thấm vào đâu. Chống người thi hành luật ư?” Jennifer thầm nghĩ. Chính ông đang đứng trong tòa nhà của một tổ chức an ninh cấp quốc tế đấy, ông bạn già ạ!

“Xin lỗi, nhưng nếu người quản lí của chúng tôi chưa cho phép, tôi không thể cho ông tự tiện thanh kiểm tra Weiburgharm. Đó là nguyên tắc hoạt động của chúng tôi, và tôi hi vọng ông tôn trọng điều đó.”

“Vậy thì gọi cái người quản lí chết tiệt của cô xuống đây!”

Hắn không biết tiếng Graunt này hả?

Jennifer hơi phật ý. Cô chưa từng nghe ai dám gọi Cố Vấn Hook là “thằng chết tiệt” trước mặt mình.

“Ông ấy đi vắng.” Cô đáp gọn lỏn.

“Còn giám đốc?” Graunt quát: “Tay giám đốc điều hành Weiburgharm đâu?”

Hay đấy! Đòi gặp cả CHỦ TỊCH! Ông là cái gì hả, David Hagguk Graunt? Chỉ cần chúng tôi can thiệp, chắc chắn ông sẽ phải chuyển quốc tịch sang Maroc.

“Ông ấy cũng đi vắng.”

Gaunt nhếch mép:

“Vậy hả? Cũng đi công tác? Ở đâu vậy?”

“Sidney!” Trong giọng nói của Jennifer có sự dứt điểm, rõ ràng là cô đã chán đôi co với kẻ ngang ngạnh này.

Chợt một giọng nói vang lên sau lưng Jennifer. Cô quay lại và thấy Jay đang tiến lại gần mình.

“Cô Bongart, ông đây là ai vậy?”

Chẳng chờ được giới thiệu, Graunt đã chìa một tờ giấy ra trước mặt Jay.

“David Hagguk Graunt!” Ông ta nói to, có vẻ rất tự hào về tên mình: “Bên an ninh và kiểm tra hệ thống khách sạn của Cục Nghiên cứu đô thị và Quy hoạch Los Angeles.

“Ông muốn kiểm tra khách sạn chúng tôi?” Jay hỏi.

“Đó là lí do duy nhất khiến tôi đến đây.”

“Nếu thế thì hãy dẫn đoàn của ông Gaunt đây đi kiểm tra một vòng Weiburgharm, cô Bongart ạ.”

Ngay lập tức, Jennifer nhìn Jay.

Anh ta bị bệnh hả?
 

Ánh Tuyết Triều Dương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/11/14
Bài viết
457
Gạo
20,0
Chương 11: Khách sạn Weiburgharm (2).
“Chỉ có điều...” Jay nháy mắt rồi nói tiếp: “Hệ thống thang máy của chúng tôi đang trong thời gian bảo dưỡng. Cảm phiền ông sử dụng cầu thang bộ.”

“Tất cả thang máy sao?”

“Vâng, tất cả.” Jay nở nụ cười không thể tươi hơn.

“Vậy các khách hàng ở đây không thấy bất tiện sao?” Graunt vặn.

“Có một chút, nhưng họ sẵn sàng thông cảm cho chúng tôi. Nếu ông thấy bất tiện thì có thể chờ, à, chắc chỉ vài ba tiếng nữa là thang máy sẽ đi vào hoạt động bình thường.”

“Vài ba tiếng?” Graunt biết rõ mình không thể dẫn quân đi lâu như vậy, ông ta làu bàu một câu gì nghe như: “không xứng đáng” nhưng vì biết mình đã thắng, bèn đẩy Jennifer sang một bên, hầm hầm bước lên lao qua sảnh lớn để lên cầu thang. Theo sau ông ta, khoảng sáu, bảy người đang trao đổi với nhau về chuyện gì đó kín kẽ lắm.

Hơn nửa giờ sau, Graunt trở lại sảnh lớn.

Bộ dạng của ông ta phờ phạc thấy rõ. Cặp kính đen thẫm chí còn trễ hẳn xuống.

“Mọi thứ đều hoàn hảo, đạt đủ tiêu chuẩn. Mời mấy vị kí tên vào đây!”

Nói rồi Graunt đưa tập giấy cho Jennifer, cô nhanh chóng đưa sang cho người bên cạnh.

“Chỉ có vậy thôi mà cứ dùng dằng mãi!” Ông ta nói tiếp: “Mấy vị buộc chúng tôi phải nghi ngờ rằng Weiburgharm đang chứa chấp hoạt động mờ ám. Nhưng giờ thì rõ rồi. Mọi chuyện ổn cả, phải không nào? Xin thứ lỗi vì sự khiếm nhã vừa rồi. Giờ thì các vị có thể tiếp tục kinh doanh bình thường. Hi vọng vào những lần hợp tác sau.”

Một cách miễn cưỡng, Graunt phải chìa tay ra bắt tay với Jennifer. Mặt ông ta hệt như cái bánh đa nhúng nước.

Còn có lần sau ư? Jennifer mỉa mai nghĩ, nhưng vẫn mỉm cười thân thiện:

“Rất hân hạnh, thưa ông Graunt. Chúng tôi xin phép được tiễn các ông!”

Không quá khó để Graunt nhận ra rằng mình là một vị khách không được chào mừng ở đây. Tuy nhiên, cuộc kiểm tra khiến ông ta ưng ý, những khúc mắc về khách sạn Weiburgharm bỗng chốc tan sạch. Không còn gì vướng bận, Graunt dẫn đầu đoàn quay trở ra.

Một vài nhân viên SA chỉ dừng lại chút xíu để dõi theo Graunt trước khi quay trở lại với công việc của mình. Trong khi đó, ở những tầng trên, mọi thứ đang dần được sắp xếp lại như cũ.

“Này Johanson, anh…”

Bước chân của Graunt đột ngột cắt ngang lời nói của Jennifer. Ông ta quay trở lại, lật đật đi về phía cô.

“Tôi quên mất một thứ, tờ giấy… các vị đã kí đầy đủ chưa?”

Jennifer nhẹ nhàng với lấy tờ giấy trên bàn trao vào tay Graunt :

“Của ông đây.” Cô cúi người tạm biệt một cách lịch sự trước khi Graunt chui vào trong xe ô tô. Lần này thì đi hẳn!

Một giây sau, cô ngả mình xuống ghế, tự rót cho mình một cốc nước cam rồi tu ừng ực.

“Tôi công nhận là các anh khá nhanh đó! Thay toàn bộ đồ đạc cả năm tầng trong chưa đầy hai phút.”

“Cô quên rằng tất cả chúng ta đều là người của SA à?” Christopher Condor, một người quốc tịch Canada làm việc ở phân bộ an ninh sinh hóa nói: “Công việc ấy đâu có bõ bèn gì.”

“Chỉ một số phòng của năm tầng dưới thôi. “Jay nói thêm: “Chúng ta mới chỉ kịp đánh lừa đoàn kiểm tra ở những tầng đầu. Nếu để Graunt đi thêm vài phòng nữa thì có rắc rối to đó.”

Jennifer cười khoái trá :

“Bởi thế các anh mới bắt một ông già phải leo bộ ba mươi chín tầng lầu của khách sạn này và bắt thực hiện một cuộc kiểm tra đầy áp lực. Sức của ông ta chỉ trụ được đến đây là cùng. Hơn nữa nếp nghĩ của mọi người còn phụ thuộc quá nhiều vào sự tương đồng, khi mà họ nghĩ phòng ốc nào ở khách sạn cũng na ná nhau. Bếp ăn và khu vực phụ của chúng ta thì cũng giống với các khách sạn khác. Cuối cùng, ông ta chỉ đủ sức lết tới tầng năm trước khi cúp đuôi xuống dưới.”

Dứt hơi, cô tu thêm nửa cốc nước cam.

Còn Condor thì gật gù :

“Graunt xử sự đúng như tiên liệu của chúng tôi. Nhìn ông ta một lúc, tôi còn dám cá thêm là ông ta mắc bệnh cao huyết áp nên không dám mạo hiểm mà leo nhiều đâu, haha.”

“Cho ông ta leo một chút kể ra cũng vui.”

“Lần sau thề có Chúa, tôi sẽ cho ông bạn ấy leo đủ ba mươi chín tầng luôn.”

Nói vậy nhưng anh biết sẽ không có lần thứ hai Graunt quay trở lại kiểm tra khách sạn này. Con người này có thể gây khó dễ cho Weiburgharm, vì thế việc chuyển ông ta sang San Diego là điều không phải bàn cãi nhiều. Anh cảm thấy mình cần phải gửi một bản fax cho Glickan.

“Nếu chúng ta cứ tiếp tục giữ bí mật với thế giới bên ngoài thì chắc chắn sẽ bị nhòm ngó.” Jay nói: “Sau vài ba lần như thế này, mọi người sẽ tưởng Weiburgharm của chúng ta cũng giống như hàng trăm khách sạn khác trên California. Cách tốt nhất để bí mật không bị bại lộ, đó là đừng để người khác biết mình đang nắm giữ bí mật.”

Không hẹn mà Jennifer và Dennis cùng trao cho nhau một cái nhìn mang cùng một ý nghĩa. Jay Johanson ăn nói hệt như Cố Vấn Hook!

“Hallucination…”

Một giọng nói vang lên ở phía cuối cầu thang. Lặng lẽ, dửng dưng và âm u, Licohn Brown đã đứng ở đó từ lúc Graunt rời khỏi sảnh lớn. Anh ta phóng ánh mắt lạnh lẽo về phía Jay, gương mặt thì chìm sâu trong những suy tính khó diễn đạt.

“Mọi người đừng nhìn tôi như vậy!” Anh ta nói tiếp, tựa như một cơn gió thoảng qua: “Tôi chỉ muốn nói rằng nếu có lần sau thì hãy dùng cách đó, hiệu quả và nhanh hơn nhiều.”

Rất nhanh sau đó, Licohn lướt qua những dãy hành lang, bóng anh ta đổ dài xiêu vẹo trên vách tường.

“Hallucination?” Jennifer nhắc lại: “Brown đang nói tới ảo giác ư?”

Condor nhíu mày suy nghĩ:

“Ảo giác quang học. Thay đổi hình ảnh nội thất các phòng nhờ ảnh ảo tạo ra bởi các thiết bị quang học, tôi tin đó là điều mà anh ta muốn nói. Nhưng trước hết tôi phải…”

“Làm gì?”

“Cho Glickan một trận!” Condor nhún vai.

Mọi thứ dần trở lại bình thường.



Ta phải có được nó, chắc chắn phải có được nó.

Fredman Brocment, tôi sẽ không thua ông đâu. Kẻ chết làm sao thắng được người đang sống!

.



Lạc Dương.

Hôm nay là chủ nhật, Gia Nhi vẫn đến nhà thờ như thường lệ nhưng cha Francisco Minh Đạo không có ở đây. Ông đã đi thăm một người bạn ở Bangkok. Bạn của cha Francisco Minh Đạo cũng là một linh mục, nghe đâu còn được tới thăm Vantican một lần, điều mà cha Francisco Minh Đạo chưa thể thực hiện. Người giảng kinh thánh hôm nay là một vị linh mục trẻ mới chuyển về đây từ tuần trước. Cha Pierre Trần mới chỉ gần bốn mươi tuổi. Ông đã từng học ở Picardie Jules Verne, bốn năm vác kính thiên văn đi khắp miền Bắc nước Pháp trước khi trở về Việt Nam làm linh mục. Những câu chuyện về thiên văn học, thái dương hệ, sao chổi Halley hay quasar luôn luôn là niềm yêu thích đối với cha Pierre Trần.

Gia Nhi rẽ một nhánh thường xuân rủ trước mặt để đến bên bà Thục Trinh.

“Ngồi xuống đây, con gái của ta!”

Gia Nhi ngoan ngoãn ngồi xuống, cô chọn chiếc ghế cạnh bà.

“Bác đang đọc sách ư?”

Cô đưa tay ra dấu. Bà Thục Trinh gập sách lại, để lộ dòng chữ “ruồi trâu” màu trắng trên nền sách xanh.

“Ethel Voynich (4) luôn khiến ta hào hứng. Con không ngồi trong nghe cha Pierre Trần giảng kinh sao?”

Cô lắc đầu.

“Ta hiểu rồi. Gia Nhi, Chúa cứu vớt linh hồn con. Con đến đây đâu phải để nghe kinh thánh. Tân hồn con không thể bấu víu vào nhà thờ như những bà già chúng ta. Con chỉ muốn tìm người san sẻ tâm sự với mình. Lạy Chúa lòng lành! Có lẽ tuần sau cha Francisco Minh Đạo mới trở về.”

Vẻ mặt Gia Nhi thoáng hiện chút nuối tiếc. Tờ giấy nhỏ trong túi áo bỗng nhiên làm trái tim cô đập nhanh hơn. Nó như hút cạn sinh lực cô.

“Con làm sao thế?”

“Con thường xuyên mơ thấy ác mộng.”

“Từ sau cái chết của Phong phải không?”

Gia Nhi không trả lời, cũng không tphủ nhận.

“Mọi người đều hiểu tình cảm của con dành cho cậu ta. Cậu ta đã quá dại dột và liều lĩnh. Cầu mong đức Chúa mở rộng tấm lòng của mình để linh hồn cậu ta sớm được lên thiên đường. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không quay lưng lại với con đâu, Gia Nhi ạ.”

“Thưa xơ, điều ấy thì con hiểu” .

“Vậy con còn nghi ngờ điều gì nữa?”

Cô rút ra một mảnh giấy nhỏ.

“Nhưng còn thứ này thì con không lí giải nổi.”

Ánh nắng chiếu xuyên qua kẽ lá, in một vệt sáng trên chiếc bàn đá. Bà Thục Trinh không cần cúi xuống cũng đọc được dòng kí tự:

Rdrooivgfim, GDrmw.

Bà Thục Trinh nhìn tờ giấy như thôi miên, một hồi lâu sau mới lấy lại được cảm giác:

“Con lấy thứ này ở đâu?” Bà nghi ngờ hỏi.

Gia Nhi lắc đầu nhưng trong tâm trí cô, hình ảnh người thanh niên tên Jay mà cô tình cờ gặp ở nghĩa trang dạo nọ vẫn tồn tại rất rõ ràng.

“Hoàn cảnh xuất xứ của một vật rất quan trọng, nó có thể làm rõ quá khứ và quyết định tương lai của vật đó trong một số trường hợp. Nếu con không có câu trả lời thì…” Bà Thục Trinh ngập ngừng: “Ta cũng không thể cho con câu trả lời.”

Vẻ thất vọng hiện lên rõ rệt trong mắt Gia Nhi. Cô toan cất tờ giấy vào túi thì một bóng người mảnh khảnh hiện ra.

“Sao con không xin ý kiến cha Pierre Trần? Ông ấy là người khá uyên thâm và có kiến thức.”

Hi vọng lại được nhen nhóm lên trong lòng Gia Nhi. Cô biết rằng ở Lạc Dương này, việc tìm ra một người đủ khả năng dịch ra dòng chữ này là không dễ dàng.

Sau khi đọc xong mảnh giấy mà cô trao cho, cha Pierre Trần lắc đầu:

“Ta có thể thề trước Chúa, đây là một đoạn mật mã. Niềm đam mê của ta là thiên văn chứ không phải những kí tự. Nhưng ta biết một người có thể giải mã chúng, người này mọi người cũng biết. Chỉ có điều con phải chờ đợi, Gia Nhi ạ, vì hiện giờ ông ấy đang ở Bangkok…”



Lần thứ tư Jay Johanson choàng tỉnh trong một tuần qua.

Anh mơ thấy một nhà tiên tri mù lòa.

Mi sẽ chết bởi sự trả thù… Trả thù!...

Mình vẫn đang lừa dối Harenna. Cô ấy vẫn chưa biết sự thật về Brocment, và về cả mình. Mình chính là kẻ tử thù mà cô ấy vẫn muốn tìm kiếm.

Jay với lấy công tắc điện ở đầu giường. Căn phòng vụt sáng trưng. Anh ngắm mình trong gương. Thảm hại!

Mình sẽ không chết như vậy… Anh thì thầm với hình ảnh của mình trong gương. Harenna sẽ không bị lừa dối nữa. Mọi việc nên dừng lại tại đây. Mình là người tạo ra sự khởi đầu, vậy thì mình cũng sẽ biết cách kết thúc nó.

Cùng lúc ấy, trên bầu trời cao và sâu hun hút, một ngôi sao băng bất chợt lóe lên rồi lại vụt tắt.



(1) Nairobi: khu bảo tồn thiên nhiên rộng 117 km2 ở gần thủ đô Kenya, đông Phi.

(2) Bel Air và Hilton: hệ thống nhà hàng, khách sạn nổi tiếng thế giới.

(3) Kansas: tiểu bang miền trung tây Hoa Kỳ.

(4) Ethel Voynich: tác giả tiểu thuyết Ruồi trâu.
 

Độc

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/12/14
Bài viết
129
Gạo
0,0
Chào! Rất vui vì bạn đã nhắc đến Độc nhưng có lẽ Độc xin phép không thể theo dõi truyện của bạn trong thời gian này. Vì Độc đang viết và công tác cũng khá bận. Chúc truyện được yêu thích và có cơ hội xuất bản.

Góp ý thêm, Santa Ana không phải là Quận Cam, Quận Cam là Orange County và Santa Ana trực thuộc Quận Cam. Khá nhiều người thường hay nhầm lẫn ở điểm này.
 
Bên trên