BỐN– Luật của Terabithia
Bởi trường bắt đầu hoạt động vào thứ Ba đầu tiên sau Lễ Lao Động, nên tuần học đầu tiên khá ngắn. Đó là một điều may mắn bởi mỗi ngày dường như tệ hơn ngày trước đó. Leslie tiếp tục tham gia cùng bọn con trai trong những cuộc đua, và đều giành chiến thắng. Đến thứ Sáu thì một phần lũ con trai khối Bốn và khối Năm đã bỏ đi chơi Vua Núi trên sườn đồi giữa hai khoảng sân. Bởi vì số người còn lại tham gia chạy chỉ đếm được trên đầu ngón tay, chúng thậm chí chả phải thi vòng loại nữa, và như thế thì sự hồi hộp cũng gần như biến mất. Thi chạy không còn vui nữa. Và tất cả đều là lỗi của Leslie.
Jess biết nó sẽ chẳng bao giờ trở thành đứa chạy nhanh nhất khối Bốn, khối Năm, và niềm an ủi duy nhất mà nó có được là Gary Fulcher cũng thế. Chúng vẫn tiếp tục cuộc đua vào ngày thứ Sáu, nhưng khi tàn cuộc và Leslie lại thắng lần nữa, tất cả mọi người đều biết, mà không cần trao đổi lời nào, là cuộc đua tranh như vậy là kết thúc.
Ít ra thì hôm ấy là thứ Sáu, và cô Edmunds đã quay trở lại. Khối Năm có tiết Âm nhạc ngay sau giờ nghỉ. Jess đã gặp cô Edmunds trong hành lang sớm hôm ấy, cô chặn nó lại và đổ lên nó tới tấp một đống câu hỏi. “Em vẫn vẽ trong đợt nghỉ hè vừa rồi chứ?”
“Cô có được phép xem các bức tranh của em không hay đó là bí mật?”
Jess gạt mớ tóc của nó khỏi cái trán đỏ bừng. “Em sẽ cho cô xem chúng.”
Cô cười khoe hàm răng trắng đều như bắp và lắc đầu cho suối tóc đen suôn mượt chảy dài sau lưng. “Tuyệt!”, cô nói. “Hẹn gặp lại.”
Jess gật đầu và mỉm cười. Nó thấy người ngây ngất và tê dại đến tận đầu ngón chân.
Giờ khi đã yên vị trên tấm thảm trong phòng giáo viên, cảm giác ấm áp ấy lại xuất hiện và quét ngang người nó cùng với âm điệu trầm bổng trong giọng cô Edmunds. Ngay cả khi cô nói một cách bình thường, chất giọng ấy cũng như nở ra từ bên trong cô, đa sắc và đầy nhạc điệu.
Cô Edmunds nghịch cây ghi-ta của mình một lúc, vẫn nói trong khi vừa chỉnh lại dây chiếc vòng tay leng keng của cô, vừa lướt ngón tay qua những dây đàn. Cô mặc chiếc quần bò thường mặc và ngồi đó trước bọn trẻ, chân này vắt lên chân kia như thể đó là việc mọi giáo viên đều làm. Cô hỏi một số đứa về tình hình cũng như kì nghỉ hè của chúng. Và bọn chúng lẩm bẩm gì đó đáp lại cô. Cô không nói chuyện trực tiếp với Jess, nhưng nhìn nó với đôi mắt quả hạnh xanh biếc làm lồng ngực nó rung lên như một trong những chiếc dây đàn mà cô vừa lướt tay qua.
Cô hướng sự chú ý đến Leslie và yêu cầu một lời giới thiệu, và một đứa trong lũ con gái đã làm điều đó một cách hết sức tỉ mỉ. Sau đó, cô Edmunds cười với Leslie, và con bé cười đáp lại – nụ cười đầu tiên mà Jess có thể nhớ được từ sau khi con bé thắng cuộc đua hôm thứ Ba. “Em muốn hát bài gì, hả Leslie?”
“Ồ, gì cũng được ạ.”
Cô Edmunds gảy một vài hợp âm không ăn nhập gì và bắt đầu hát, nhỏ hơn những lần trước khi hát bài hát này rất nhiều:
“Trước mắt tôi là một vùng đất thật tươi sáng và quang đãng. Sắp đến lúc rồi đấy. Chúng ta sẽ sống ở đây. Bạn và tôi, tay trong tay.” *
Và mọi người bắt đầu hòa giọng, lúc đầu khá nhỏ, để hòa với tâm trạng của cô giáo, nhưng khi bài hát lên đến cao trào ở phần cuối, giọng bọn trẻ cũng ngân lên theo, và thế là khi hát đến câu cuối “Được tự do là bạn và tôi.”, thì cả trường đều nghe thấy giọng hát của họ. Cuốn theo niềm hân hoan của khung cảnh lúc này, Jess quay sang và bắt gặp ánh mắt của Leslie. Nó cười với con bé. Chuyện quái gì vậy? Chả có lý do gì để nó không làm thế cả. Nó sợ cái gì cơ chứ? Chúa ơi. Thỉnh thoảng nó xử sự cứ như một con gõ kiến bụng vàng* chính hiệu ấy. Thằng bé gật đầu và mỉm cười lần nữa. Và con bé đáp lại nụ cười ấy. Jess cảm thấy ngay lúc ấy, trong phòng giáo viên, rằng một trang mới trong cuộc đời nó vừa được mở ra, và nó không ngần ngại để điều ấy xảy ra.
Thằng bé không cần phải thông báo với Leslie rằng nó đã thay đổi cách nhìn nhận con bé. Con bé đã biết rồi. Nó quăng mình xuống cạnh Jess trên xe buýt chiều hôm ấy và lùi sát về phía thằng bé để lấy chỗ cho May Belle ngồi cùng với chúng. Con bé kể về Arlington*, về ngôi trường lớn ở ngoại ô mà nó đã theo học với phòng học nhạc tuyệt đỉnh, nhưng không có một giáo viên nào xinh đẹp hay tốt bụng như cô Edmunds.
“Các cậu có sân tập không?”
“Có chứ. Mà tớ nghĩ trường nào chả có. À ý tớ là phần lớn các trường.” Con bé thở dài. “Tớ nhớ nó lắm. Tớ thực sự giỏi thể dục dụng cụ mà.”
“Chắc cậu ghét ở đây lắm.”
“Ừ.”
Con bé im lặng một lúc, suy tư, Jess cũng suy nghĩ về ngồi trường cũ của con bé, ngôi trường mà chỉ qua lời kể nó đã thấy vừa to vừa mới, lại có cả một sân tập sáng bóng to hơn cả cái ở trường trung học tổng hợp.
“Vậy chắc cậu cũng có nhiều bạn ở đó lắm.”
“Ừ.”
“Sao cậu lại về đây?”
“Bố mẹ tớ cần sắp xếp lại thứ tự các giá trị của họ.”
“Hả?”
“Bố mẹ tớ cho rằng họ đã quá chú trọng vào tiền bạc và thành công, nên họ mua lại cái trang trại cũ mèm đó để trồng trọt và suy nghĩ xem cái gì mới là quan trọng.”
Jess há hốc miệng nhìn con bé chằm chằm. Nó biết vậy nhưng không tài nào khép miệng lại được. Đó là điều kì cục nhất mà nó từng nghe từ trước tới nay.
“Nhưng cậu là người phải chịu thiệt.”
“Ừ.”
“Sao họ không nghĩ cho cậu chứ?”
“Gia đình tớ đã bàn bạc rồi.”, con bé nhẫn nại giải thích. “Tớ cũng muốn đến đây nữa.” Nó nhìn qua vai Jess ra ngoài cửa sổ. “Cậu chẳng bao giờ biết được cái gì đang chờ đợi phía trước hết.”
Xe buýt dừng. Leslie nắm lấy tay May Belle và dẫn cô nhóc xuống. Jess đi theo, vẫn băn khoăn vì sao hai người lớn và một cô gái thông minh như Leslie lại muốn từ bỏ cuộc sống thoải mái ở vùng ngoại ô và đến sống ở một nơi như thế này.
Ba đứa nhìn chiếc xe rời đi một cách ồn ào.
“Cậu không thể kiếm sống bằng cách trồng trọt trên một cái trang trại vào thời đại này đâu, cậu biết đấy,” cuối cùng Jess lên tiếng. “Bố tớ phải đến Washington để làm việc, không thì bọn tớ sẽ không có đủ tiền.”
“Tiền không phải là vấn đề.”
“Tiền chính là vấn đề đấy.”
“Ý tớ là,” con bé nói một cách cứng nhắc, “không phải với gia đình tớ.”
Jess phải mất một lúc mới hiểu ra ý con bé. Nó không thể tưởng tượng được loại người mà với họ tiền không phải là vấn đề. “Ồ”. Thằng bé cố nhớ rằng không bao giờ được nói với Leslie về vấn đề tiền bạc nữa.
Nhưng Leslie có nhiều vấn đề ồn ào khác phải đối mặt ở Lark Creek hơn là thiếu tiền. Một trong số chúng là vấn đề về tivi.
Câu chuyện bắt đầu khi Cô Myers đọc trước lớp bài làm của Leslie về sở thích của con bé. Tất cả học sinh trong lớp phải viết một bài về sở thích của chúng. Jess viết về bóng bầu dục, thứ mà nó thực sự rất ghét, nhưng nó cũng đủ thông minh để hiểu rằng nếu viết về vẽ vời thì mọi người sẽ cười vào mũi nó mất. Phần lớn bọn con trai đều thề rằng xem đội Washington Redskins thi đấu trên tivi là sở thích của chúng. Bọn con gái thì chia bè chia phái: mấy đứa chả quan tâm mấy đến những điều cô Myers nghĩ thì chọn sở thích là xem các chương trình truyền hình, con đám con gái giống như Wanda Kay Moore, lũ vẫn cố gắng cho được một điểm A thì viết về việc đọc các cuốn sách hay. Nhưng cô Myers chỉ đọc trước lớp mỗi bài của Leslie mà thôi.
“Tôi muốn đọc bài này cho cả lớp nghe. Có hai lý do. Thứ nhất, bài này được viết rất hay. Và thứ hai, nó nói về một sở thích khá bất thường – đối với một cô gái.” Cô Myers hướng nụ-cười-ngày-đầu-tiên-đi-học sáng lóa vào Leslie. Con bé dán mắt nhìn cái bàn của mình. Trở thành học trò cưng của cô Myers đúng là kinh khủng ở Lark Creek này. “Lặn – bởi Leslie Burke.”
Giọng đọc sắc lẹm của cô Myers cắt câu chữ của Leslie thành những đoạn rất buồn cười, nhưng dù vậy, sức mạnh trong từng con chữ của Leslie như kéo tuột Jess xuống dưới làn nước đen lạnh cùng con bé. Bỗng dưng thằng bé thấy khó thở. Tưởng tượng bạn đang ở dưới đáy sâu và mặt nạ bảo hộ của bạn đầy tràn nước biển và bạn không tài nào ngoi lên mặt nước kịp? Thằng bé nghẹt thở và vã mồ hôi. Nó cố giảm thiểu sự hốt hoảng của bản thân. Đây là sở thích của Leslie Burke. Không ai có thể giả vờ rằng lặn là môn thể thao ưa thích của họ nếu sự thực không phải vậy. Thế nghĩa là Leslie đã lặn rất nhiều lần. Và con bé không hề sợ hãi việc phải đi đến một nơi sâu thật sâu, một thế giới không có không khí và rất ít ánh sáng. Chúa ạ, nó đúng là một thằng nhát cáy. Sao mà nó có thể run rẩy đến vậy khi mới chỉ nghe cô Myers đọc chứ? Nó còn giống một đứa con nít hơn cả Joyce Ann nữa. Bố muốn nó là một người đàn ông. Và bây giờ thì nó đang để một đứa con gái thậm chí còn chưa được mười tuổi dọa nó sợ mất mật chỉ bằng cách nói cho nó biết cảm giác thăm thú cảnh vật dưới đáy biển. Ngớ ngẩn, ngu ngốc, đần độn.
“Tôi chắc chắn là,” Cô Myers nói, “Tất cả các em đều bị ấn tượng như tôi về bài làm thú vị của Leslie.”
Ấn tượng. Chúa ơi. Nó suýt chết đuối rồi ấy.
Trong lớp học vang lên tiếng sột soạt của những bàn chân lê trên đất và các loại giấy tờ. “Bây giờ tôi muốn giao cho các em một bài tập về nhà.” – tiếng rên rỉ lan khắp phòng – “mà tôi chắc rằng các em sẽ thích.” – một đợt rên rỉ không đồng tình nữa – “Tối nay lúc tám giờ trên Kênh bảy sẽ có một chương trình đặc biệt về nhà thám hiểm dưới nước nổi tiếng – Jacques Cousteau. Tôi muốn tất cả các em xem chương trình đó. Sau đó viết một trang về những điều các em học được.”
“Cả một trang ấy ạ?”
“Ừ.”
“Đánh vần thì có được tính không ạ?”
“Có lúc nào mà em không đánh vần không, Gary?”
“Cả hai mặt giấy ư thưa cô?”
“Một mặt là được rồi, Wanda Kay. Nhưng đương nhiên tôi sẽ thưởng điểm cho những em làm việc cần mẫn hơn.”
Wanda Kay nở một nụ cười điệu. Ai cũng có thể thấy được mười trang giấy đã và đang hình thành trong cái khuôn đầu ngẩng cao ấy.
“Thưa cô Myers.”
“Sao thế Leslie?” Lạy Chúa, cô Myers sẽ bị nứt mặt mất nếu cô ấy cứ tiếp tục cười cái kiểu như thế.
“Nếu em không xem được chương trình đó thì sao ạ?”
“Cứ nói với bố mẹ em rằng đó là bài tập về nhà. Cô tin họ sẽ không phản đối đâu.”
“Nhưng nếu - ”, giọng Leslie trùng xuống; rồi con bé lắc đầu và hắng giọng để lời nói phát ra được mạnh mẽ hơn – “nếu nhà em không có tivi thì sao ạ?”
Chúa ơi, Leslie. Đừng nói thế chứ. Cậu luôn có thể xem ở nhà tớ mà. Những đã quá muộn để cứu con bé. Những tiếng rít hoài nghi giờ đã hòa vào thành một cơn xì xào của sự khinh bỉ.
Cô Myers chớp mắt. “Ồ để xem nào.” Và cô lại chớp mắt tiếp. Có thể thấy rằng cô cũng đang tìm cách cứu Leslie. “Ờ, trong trường hợp đó em có thể viết một trang giấy về một thứ gì đó khác. Được không Leslie?”. Cô cố mỉm cười với Leslie qua lớp học đang hết sức chộn rộn, nhưng chả được tích sự gì cả. “Cả lớp! Các em! Trật tự!”. Nụ-cười-Leslie đột ngột chuyển thành vẻ cau có đáng ngại có thể dập tắt cả một cơn bão.
Cô Myers phát cho cả lớp nhưng tờ bài tập toán giống nhau. Jess liếc trộm về phía Leslie. Khuôn mặt con bé, cúi sát xuống tờ bài tập toán, đỏ bừng và đầy giận dữ.
Vào giờ nghỉ khi Jess đang chơi Vua Núi, nó thấy Leslie bị một lũ con gái dẫn đầu bởi Wanda Kay bao vây. Nó không nghe được lũ con gái nói gì, nhưng qua dáng điệu hất đầu về phía sau một cách kiêu hãnh của Leslie thì nó có thể đoán được rằng lũ kia đang cười nhạo con bé. Ngay lúc ấy Greg Williams túm lấy nó, và trong khi hai thằng vật lộn, Leslie biến mất. Đó chẳng phải việc của nó, thật vậy, nhưng nó đẩy Greg xuống sườn đồi mạnh hết sức có thể rồi la lên một cách bâng quơ, “Tao đi đằng này một lát.”
Nó đứng canh ngay đối diện cửa phòng vệ sinh nữ. Và một vài phút sau Leslie đi ra. Nó có thể cam đoan rằng con bé vừa khóc xong.
“Leslie ơi.” Nó gọi một cách nhẹ nhàng.
“Đi đi!” Con bé quay lưng đột ngột và đi thật nhanh về hướng ngược lại. Vừa canh chừng cánh cửa văn phòng, thằng bé vừa chạy đuổi theo. Không ai được phép lảng vảng trong hành lang vào giờ nghỉ cả. “Leslie. Có chuyện gì thế?”
“Cậu biết rõ là có chuyện gì mà, Jess Aarons.”
“Ừ.” Thằng bé vò rối tóc mình. “Giá mà cậu đừng nói gì hết. Cậu luôn luôn có thể xem tivi ở nhà...”
Nhưng con bé đã xoay ngược lại lần nữa, và hướng về phía hành lang. Trước khi thằng bé có thể nói hết câu và bắt kịp con bé, Leslie đã đóng sập cánh cửa phòng vệ sinh nữ trước mặt nó. Jess chuồn khỏi tòa nhà. Nó không thể mạo hiểm để Thầy Turner tóm được khi loanh quanh gần phòng vệ sinh nữ được, cứ như thể nó là thằng biến thái nào không bằng.
Ngay sau khi tan học Leslie lên xe buýt và đi thẳng về phía hàng ghế dài ở cuối xe – ngay bên phải chỗ ngồi của đám lớp Bảy. Jess hất đầu về phía Leslie, ra hiệu cho con bé đi lên phía trên, nhưng con bé chẳng thèm nhìn nó lấy một cái. Thằng bé có thể thấy bọn lớp Bảy đang đi về phía xe buýt – lũ con gái béo ú, đẫy đà, hách dịch và bọn con trai xấu tính, gầy nhẳng, mắt gườm gườm độc địa. Chúng nó sẽ giết con bé vì dám xâm phạm lãnh thổ của chúng mất. Thằng bé nhảy lên xe, chạy đến cuối và kéo tay Leslie. “Cậu phải trở về chỗ ngồi thường nhật của cậu Leslie.”
Ngay cả trong khi nói, nó vẫn cảm thấy lũ to con ấy đang dồn cục sau lưng nó trên lối đi hẹp. Đúng như dự đoán, Janice Avery, đứa khối Bảy nguyện dành cả đời mình để dọa mất mật bất cứ ai nhỏ hơn nó, đang đứng ngay sau lưng Jess. “Dẹp đê nhóc.” Nó nói.
Jess đứng vững hết sức có thể, mặc cho tim đập thình thình vào be sườn. “Nào Leslie,”, nó nói, ép mình quay lại và nhìn Janice Avery một lượt từ mái tóc vàng uốn xoăn cứng đơ, chiếc áo sơ mi quá chật đến chiếc quần bò ngoại cỡ và đôi giày mềm khổng lồ. Nhìn hết một lượt, Jess nuốt khan, rồi nhìn thẳng vào gương mặt giận dữ của cô ta, và nói bằng một giọng đều đều, “Có vẻ như ở đây không có đủ chỗ cho cả cậu và Janice Avery đâu.”
Ai đó la lên. “Weight Watchers đang đợi mày đấy Janice!”
Mắt Janice long lên sòng sọc, nhưng nó vẫn tránh đường cho Jess và Leslie đi về chỗ của chúng.
Leslie liếc về phía sau khi chúng ngồi xuống, rồi ghé lại. “Nó sẽ đập cậu cho xem, Jess ạ. Nó tức điên đấy.”
Jess thấy vui vì sự thán phục trong giọng nói của Leslie, nhưng nó vẫn không dám quay lại nhìn. “Gì cơ,” nó nói, “Cậu nghĩ tớ sẽ để cái đồ bò cái đần độn ấy dọa nạt á?”
Đến khi xuống xe, cuối cùng nó cũng có thể nuốt nước bọt mà không thấy nghẹn ở cổ nữa. Nó thậm chí còn phác một nét vẫy về phía băng ghế cuối khi chiếc xe rời đi.
Leslie nhe răng cười với nó qua đầu May Belle.
“Ừm,” Jess nói vui vẻ. “Hẹn gặp lại nhé.”
“Này, cậu có muốn mình cùng làm gì đấy chiều nay không?”
“Em nữa! Em cũng muốn làm gì đấy.” May Belle ré lên. Jess nhìn Leslie thăm dò. Mắt con bé nói không. “Không phải lần này, May Belle. Hôm nay Leslie và anh có một vài việc mà chỉ có bọn anh mới làm được thôi. Em đem sách vở của anh về và báo với Mẹ là anh ở bên nhà Burke nhé. Được không?”
“Anh chẳng có gì phải làm hết. Anh chẳng có kế hoạch gì cả.”
Leslie tiến đến và cúi xuống May Belle, đặt tay lên bờ vai nhỏ nhắn của con bé. “May Belle, em có thích một bộ thay đồ cho búp bê giấy mới không?”
May Belle đảo tròn mắt háo hức. “Búp bê loại gì cơ?”
“Những Thổ dân Châu Mỹ.”
May Belle lắc đầu. “Em thích Cô dâu hoặc Hoa hậu Mỹ cơ.”
“Em có thể vờ như chúng là búp bê cô dâu. Chúng có nhiều váy dài đẹp lắm.”
“Thế có vấn đề gì với chúng ạ?”
“Không. Chúng mới tinh đấy.”
“Thế sao chị lại không thích chúng nữa nếu chúng tuyệt như thế?”
“Khi mà em bằng tuổi chị” – Leslie thở dài thật khẽ - “em sẽ không thích chơi với búp bê nữa. Bà chị gửi cho chị những con búp bê này. Em biết đấy, những người bà luôn quên rằng các cháu của họ đã lớn lên rồi.”
May Belle có một người bà đang sống ở Georgia, và bả chả bao giờ gửi cho con bé bất cứ thứ gì. “Chị đã cắt chúng ra chưa?”
“Chưa. Thực ra thì mọi thứ, kể cả y phục đều được cắt sẵn rồi. Em sẽ không cần dùng đến kéo đâu.”
Hai đứa lớn có thể thấy con bé đang chùn lại. “Hay là,”, Jess lên tiếng, “em đi cùng bọn anh và xem xem, nếu em thích chúng thì em có thể đem chúng về nhà và nói với Mẹ rằng anh đang ở đâu, được chứ?”
Sau khi nhìn May Belle băng ngang quả đồi, ghì chặt kho báu mới của nó, Jess và Leslie quay lại và chạy về phía cánh đồng hoang đằng sau Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin, rồi xuống con nước cạn chia cắt khu đất trồng trọt với cánh rừng. Ở đó mọc một cây táo gai già, ngay bên cạnh con nước, mà trên cành của nó một người đã bị lãng quên từ lâu đã treo lên một sợi dây thừng.
Hai đứa trẻ thay phiên nhau đánh đu qua con nước trên chiếc dây thừng. Đó là một ngày mùa thu tuyệt đẹp, và nếu chúng nhìn lên trong lúc đang đu đưa trên dây, thì sẽ có cảm giác như đang trôi bồng bềnh vậy. Jess ngửa ra và thu vào hết sức cái màu sắc kì diệu và trong sáng của bầu trời. Thằng bé cứ đung đưa qua lại như một đám mây trắng béo ú đang trôi lơ đãng qua sắc trời xanh biếc.
“Cậu biết chúng mình cần gì không?” Leslie gọi nó. Say sưa với khung cảnh thiên đường xung quanh, Jess không thể nghĩ ra được là nó còn cần bất cứ cái gì trên mặt đất nữa.
“Chúng mình cần một nơi nào đấy,” con bé nói, “chỉ cho riêng chúng mình thôi. Đó sẽ là một bí mật mà chúng ta sẽ không bao giờ kể cho bất cứ ai trên trái đất này hết.” Jess đu về phía con bé và ghì chân xuống đất để phanh lại. Con bé hạ giọng xuống gần như nói thầm. “Đó sẽ là một quốc gia bí mật,” con bé tiếp tục, “và cậu cả tớ sẽ cai trị nơi đó.”
Những lời nói của con bé khuấy động cái gì đó trong Jess. Nó cũng thích được cai trị một cái gì đó. Kể cả khi cái đó không có thật đi chăng nữa. “Ừ, được rồi,” thằng bé đáp. “Chúng mình sẽ xây dựng nó ở đâu hả?”
“Trong khu rừng phía kia kìa, như thế sẽ không ai tìm ra và đảo lộn chỗ ấy lên được.”
Có một phần của khu rừng mà Jess rất ghét. Những khoảng tối âm u như thể dưới nước vậy, nhưng nó không nói gì cả.
“Tớ biết rồi” – Leslie ngày càng hào hứng – “đó sẽ là một đất nước phép thuật giống như Narnia, và cách duy nhất để đến được nơi ấy là cậu phải đu qua chiếc dây thừng màu nhiệm này.” Mắt con bé sáng rỡ. Nó túm lấy sợi dây thừng, “Nào, lại đây,” con bé nói. “Cùng tìm một chỗ để xây dựng thành trì vững chắc của chúng mình nào.”
Chúng mới đi dược vài thước vào khu rừng phía sau con nước thì Leslie dừng lại.
“Chỗ này thì sao?” con bé hỏi.
“Chắc chắn rồi.” Jess hấp tấp đồng ý, nhẹ nhõm vì không phải tiến sâu hơn vào khu rừng. Đương nhiên là nó có thể đưa con bé vào đó, nó đâu phải một kẻ hèn nhát mà phải ngại một chút khám phá chỗ này chỗ kia, sâu hơn vào nơi tối tăm vĩnh cửu giữa những cây thông khổng lồ. Nhưng như một lẽ thường tình, như thể đã được sắp đặt sẵn như thế, đây chính là nơi mà nó sẽ chọn – nơi mà những xoan đào và gỗ đỏ chơi trốn tìm dưới những tán sồi và thường xanh, và vầng mặt trời vẩy mình thành những dải vàng long lanh qua tán cây và vỗ nhè nhẹ hơi ấm vào bàn chân lũ trẻ.
“Chắc chắn rồi.” Thằng bé lặp lại lần nữa, gật đầu thật dứt khoát. Đám cây lùm cây bụi ở dưới đã chết khô và sẽ dễ dàng được dọn sạch. Mặt đất cũng khá là bằng phẳng. “Quả là một chỗ đẹp để đặt móng đấy.”
Leslie đặt tên vùng đất bí mật của chúng là “Terabithia”, và nó cũng cho Jess mượn tất cả sách của mình về Narnia, có thế thì thằng bé mới biết được mọi thứ hoạt động thế nào trong một thế giới phép thuật – muông thú và cỏ cây phải được bảo vệ ra sao và một người cai trị phải cư xử như thế nào. Đấy mới là phần khó. Khi Leslie nói, lời nói tuôn chảy một cách huy hoàng, người nghe luôn biết được con bé là một nữ hoàng thực thụ. Nhưng Jess còn chẳng nói trôi chảy được Tiếng Anh, nữa là ngôn ngữ đầy chất thơ của một vị vua.
Bù lại thằng bé có bàn tay vàng. Hai đứa thu nhặt những tấm ván cũng như các vật liệu khác từ đống phế liệu bên cạnh bãi chăn thả của cô Bessie và dựng lên đền đài thành quách ở chỗ chúng đã chọn trong rừng. Leslie chất đầy một cái lon cà phê ba pao* với bánh quy mặn và hoa quả sấy và một cái lon một pao với dây dợ và đinh. Chũng cũng tìm thấy năm chai Pepsi cũ, rửa sạch và đong đầy nước, để phòng trường hợp, theo lời Leslie thì là, “bị vây hãm.”
Như Đức Chúa trời trong Kinh thánh, chúng ngắm nhìn thành quả của mình và thấy rất hài lòng.
“Cậu nên vẽ một bức tranh về Terabithia để chúng mình treo trong lâu đài.” Leslie đề nghị.
“Tớ không thế.” Làm sao nó có thể giải thích cho Leslie hiểu được niềm khao khát được tiếp cận và nắm bắt cái vẻ đẹp non nớt của sự sống ở nó, và rằng khi nó thử làm điều ấy, mọi thứ cứ trôi tuột khỏi ngón tay nó và để lại những vật chì khô khốc trên trang giấy? “Tớ không thể lột tả được sự nên thơ của những tán lá này đâu.”, cuối cùng thằng bé nói.
Con bé gật nhẹ. “Đừng lo,” nó nói. “Cậu sẽ làm được thôi.” Và Jess tin con bé bởi trong ánh sáng mờ ảo bao bọc thành trì của chúng, mọi thứ dường như đều khả thi. Giữa hai đứa trẻ là thế giới của riêng chúng và không một kẻ thù nào có khả năng đánh bại được chúng, dù là Gary Fulcher, Wanda Kay Moor, Janice Avery, hay những nỗi sợ và những khoảng trống rỗng bí mật trong tâm hồn Jess, hoặc kể cả bè lũ kẻ thù với dã tâm tấn công Terabithia trong tưởng tượng của Leslie.
Vài ngày sau khi hai đứa hoàn thành việc xây dựng lâu đài, Janice Avery trượt chân trên xe buýt của trường và kêu lên rằng Jess đã ngáng chân nó khi nó đi ngang qua. Nó cứ làm um xùm vụ đấy lên đến mức cuối cùng thì Bà Prentice, tài xế xe buýt, đã phải yêu cầu Jess xuống xe, và thằng bé phải đi bộ ba dặm đường để về đến nhà.
Khi Jess đến được Terabitha thì nó thấy Leslie đang loay hoay bên dưới một vết nứt trên mái tòa lâu đài, cố tìm chỗ đủ sáng để đọc sách. Trên bìa sách là bức tranh vẽ một con cá voi sát thủ đang tấn công một chú cá heo.
“Cậu làm gì thế?” Thằng bé đi vào và ngồi xuống trên sàn cạnh con bé.
“Tớ đọc. Tớ chả có gì để làm hết. Con mụ đó!”. Cơn giận của con bé bùng phát một cách nhanh chóng.
“Không sao đâu mà. Đi bộ từng ấy với tớ chỉ là muỗi.” Mà thực ra thì đó cũng chỉ là một chuyến ngao du nhỏ nếu so với những gì Janice Avery có trong cái đầu kinh dị của nó.
“Đấy là nguyên tắc cơ bản của mọi chuyện thôi Jess. Cậu phải hiểu điều ấy. Cậu phải chặn những kẻ như thế lại. Nếu không thì chúng sẽ trở thành những tên bạo chúa độc tài.”
Thằng bé với lấy cuốn sách trên tay con bé và giả vờ ngâm cứu bức tranh bạo lực ở bìa sách. “Có ý tưởng gì hay ho không?”
“Gì cơ?”
“Tớ tưởng cậu vừa bảo là chúng ta sẽ ngăn chặn Janice Avery.”
“Không, hâm à. Chúng mình đang cố cứu loài cá voi. Chúng sẽ tuyệt chủng mất thôi.”
Thằng bé đưa trả cuốn sách cho con bé. “Cậu muốn cứu cá voi và khử con người à?”
Con bé cười phá lên. “Ờ thì cũng từa tựa thế. Cậu đã bao giờ nghe câu chuyện về Moby Dick chưa?”
“Ai cơ?”
“Ừm, ngày xưa có một con cá voi trắng khổng lồ tên là Moby Dick...”. Và Leslie bắt đầu tuôn ra một câu chuyện tuyệt vời về chú cá voi trắng và vị thuyền trưởng điên rồ luôn tìm cách giết chú. Tay Jess ngứa ngáy muốn vẽ ngay câu chuyện lên giấy. Giá mà nó có màu xịn hơn nhỉ, thế mới vẽ được chứ. Chắc chắn phải có cách nào đấy để màu trắng của con cá voi trở nên sinh động trên nền biển đen sẫm chứ.
Lúc đầu thì hai đứa trẻ tránh mặt nhau ở trường học, nhưng đến tầm tháng Mười thì bọn chúng chả quan tâm che giấu tình bạn của mình nữa. Gary Fulcher, cũng như Brenda, rất lấy làm vui thích được trêu chọc Jess về “cô bạn gái” của nó. Điều ấy cũng chả làm phiền Jess mấy. Nó biết bạn gái là cái loại cứ đuổi theo người ta trên sân chơi, cố tóm và hôn người ta cơ. Mà thằng bé không tài nào tưởng tượng được cảnh Leslie đuổi theo bất cứ thằng con trai nào, quái dị y như việc quý bà hai-cằm Myers leo lên cột cờ ấy. Gary Fulcher cứ việc đi đến cái chỗ-mà-ai-cũng-biết-là-chỗ-nào-đấy để mà làm nóng mấy ngón chân của nó lên.
Thực sự là ở trường chả có lúc nào để nghỉ ngơi trừ giờ giải lao, và vì bây giờ không còn cuộc thi chạy nào nữa, Jess và Leslie thường tìm một nơi yên ắng trên sân chơi và ngồi nói chuyện với nhau. Trừ nửa giờ đồng hồ kì diệu vào ngày thứ Sáu, giờ nghỉ là điều duy nhất Jess trông ngóng khi ở trường. Leslie luôn nghĩ ra những điều thú vị và làm cả ngày dài chán nản trở nên chấp nhận được. Thường thì trò đùa của chúng nhắm vào cô Myers. Leslie là loại học sinh nghiêm túc ngồi yên lặng ở bàn của mình, không thì thầm nói chuyện, không mơ mộng giữa ban ngày, không nhai kẹo cao su, và bài tập thì luôn được hoàn thành một cách xuất sắc, nhưng đầu óc con bé chứa đầy những suy nghĩ nghịch ngợm đến mức nếu giáo viên của chúng có thể một lần nhìn xuyên qua cái mặt nạ hoàn hảo của con bé, thì kiểu gì nó cũng bị tống bay ra ngoài trong một cơn thịnh nộ ngút trời.
Jess khó có thể giữ khuôn mặt mình nghiêm trang trong lớp khi cố gắng tưởng tượng những gì có thể đang diễn ra đằng sau cái vẻ bề ngoài thiên thần của Leslie. Một buổi nọ, như Leslie kể với nó trong giờ giải lao sau đó, con bé đã dành cả buổi sáng hôm ấy để tưởng tượng cô Myers ở trong một cái trại giảm béo dưới mạn Arizona. Trong tưởng tượng của con bé, cô Myers là một kẻ phàm ăn chính hiệu, kiểu người sẵn sàng giấu kẹo ở những chỗ rất kì quặc – trên bình nóng lạnh chẳng hạn! – nhưng cuối cùng kiểu gì cũng bị phát hiện ra và bị phê bình trước toàn thể những người phụ nữ béo tròn béo trục khác. Cả chiều hôm ấy Jess cứ giữ trong đầu hình ảnh cô Myers không mặc gì khác ngoài một chiếc coóc xê màu hồng đang đứng trên bàn cân. “Cô lại nói dối nữa rồi, Gussie!”, vị nữ giám sát gầy nhẳng kết tội. Và cô Myers trông như sắp khóc đến nơi.
“Jess Aarons!”. Giọng nói sắc lẹm của bà giáo phá nát dòng tưởng tượng của thằng bé. Nó không thể nhìn thẳng vào gương mặt béo tròn của cô giáo được. Nó sẽ phá ra cười mất thôi. Thế là thằng bé để điểm nhìn rơi vào nếp váy lộn xộn của bà giáo.
“Vâng thưa cô.”. Chắc là nó phải để Leslie huấn luyện cho vài bữa mới được. Lần nào cô Myers cũng bắt được nó trong lúc nó đang mơ mộng, nhưng lại chả bao giờ tóm được Leslie khi con bé mất tập trung. Leslie đang chìm đắm trong cuốn sách Địa của nó, ít ra là mọi người thấy nó thế.
Đến tháng Mười Một thì ở Terabithia rất lạnh. Hai đứa không dám đốt lửa trong lâu đài, nhưng thỉnh thoảng chúng nhóm một đống lửa ở ngoài và trò chuyện bên cạnh đó. Leslie thó được hai cái túi ngủ và giữ nó trong lâu đài được một thời gian, nhưng đến tháng Mười Hai thì bố con bé nhận ra sự biến mất ấy và con bé phải đem trả chúng lại. Thực ra là Jess bảo con bé trả chúng lại. Không phải là thằng bé sợ ông bà Burke hay gì. Bố mẹ Leslie đều còn trẻ, với hàm răng trắng đều đặn và rất nhiều tóc – cả hai người họ. Leslie gọi họ là Judy và Bill, điều này làm Jess khó chịu hơn là nó tưởng. Nó không có nhiệm vụ phải bận tâm xem Leslie gọi bố mẹ con bé là gì. Nhưng chỉ là nó không thể quen với cách gọi ấy được.
Cả hai vợ chồng Burke đều là nhà văn. Bà Burke viết tiểu thuyết, và theo như Leslie nói thì bà nổi tiếng hơn người chồng của mình, ông viết về chính trị. Được nhìn thấy sách của họ trên giá đem lại một cảm giác thực sự đặc biệt. Bút danh của bà Burke theo như trên bìa sách là “Judith Hancock”, điều này có thể làm người ta ngạc nhiên lắm, nhưng sự kinh ngạc sẽ hết ngay khi người ta nhìn thấy tấm ảnh của bà ở mặt sau quyển sách, trông rất ư là trẻ và nghiêm túc. Ông Burke thì cứ phải đi đi lại lại giữa Lark Creek và Washington, ông phải đến đó để hoàn thành một cuốn sách ông đang viết chung với một người khác, nhưng ông ấy đã hứa với Leslie rằng sau Giáng Sinh ổng sẽ nghỉ phép để sửa sang lại căn nhà, bắt đầu công việc trồng trọt, nghe nhạc, đọc sách và chỉ viết khi ông rảnh rỗi.
Trông họ không giống như tưởng tượng về những người giàu có của Jess, nhưng kể cả thế thì nó vẫn có thể cam đoan rằng những chiếc quần bò họ mặc không được bày bán ở mấy cửa hàng kiểu Newberry. Tại tư gia của nhà Burke không có tivi, nhưng có hàng đống đĩa nhạc và một dàn âm thanh trông như được lấy nguyên từ một cảnh trong phim Star Trek. Và cho dù xe của họ trông vừa nhỏ vừa bẩn, nó vẫn có xuất xứ từ Ý và đắt tiền vô cùng.
Ông bà Burke luôn đối xử tốt với Jess mỗi khi nó đến chơi, nhưng họ cứ đột ngột nói về nền chính trị Pháp và tứ tấu đàn dây (mà lúc đầu Jess cứ tưởng đó là một cái hộp lập phương được tạo nên bởi những sợi dây), hay làm thế nào dể bảo vệ loài sói xám/gỗ đỏ/loài cá voi, tất cả những việc này làm Jess không dám mở miệng ra và để lộ rằng mình ngu ngốc đến mức nào.
Nó cũng không thích lắm việc Leslie đến nhà mình chơi. Joyce Ann thì cứ nhìn chằm chằm, ngón tay trỏ của con bé kéo trễ khuôn miệng của nó xuống và tạo cho nó một vẻ ngoài nước dãi lòng thòng. Brenda với Ellie chả bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để đưa ra nhận xét của chúng về “cô bạn gái”. Mẹ bọn trẻ thì cứ nửa cứng nhắc nửa đùa cợt, đúng kiểu bà hay cư xử mỗi khi phải đến trường vì việc gì đó. Không lâu sau thì bà bắt đầu đưa ra nhận xét về kiểu ăn mặc “không giống ai” của Leslie. Leslie luôn luôn mặc quần, kể cả khi đi học. Tóc con bé thì “ngắn hơn cả tóc bọn con trai”. Nhị vị phụ huynh thì “chẳng khác nào bọn híp-pi”. May Belle không cố gắng chen vào chơi chung với hai đứa thì lại hờn dỗi vì bị bỏ rơi. Bố thằng bé cũng đã nhìn thấy Leslie vài lần và cái gật đầu cho thấy ông có chú ý đến sự có mặt của con bé, nhưng Mẹ bọn trẻ bảo bà khá chắc rằng Bố chúng đang rất băn khoăn tại sao đứa con trai duy nhất của ông lại chỉ chơi với con gái, và rằng họ đều lo lắng cho tương lai của thằng bé.
Jess không quan tâm lắm đến cái gọi là “tương lai của thằng bé”. Lần đầu tiên trong suốt cuộc đời, nó thức dậy mỗi sáng với một điều gì đó để mong ngóng. Leslie không chỉ là bạn của nó. Con bé là một phiên bản khác, một phiên bản thú vị hơn của nó – là cánh cửa dẫn nó đến Terabithia và cả những thế giới kì diệu khác.
Terabithia là bí mật giữa chúng, điều mà thực ra cũng tốt thôi, vì Jess cũng chả biết làm thế nào để giải thích về nơi này với bất cứ ai khác. Ngay như việc đi xuống đồi để vào rừng đã làm nó thấy ấm áp như có một dòng thép nóng chảy suốt từ đầu đến chân vậy. Càng đến gần con nước cạn và cây táo gai nơi treo sợi dây thừng, tim thằng bé càng đập nhanh. Nó tóm lấy đầu sợi dây và tung mình với một niềm hứng khởi hoang dại rồi đáp xuống một cách nhẹ nhàng trên đôi chân của mình ở bờ bên kia của con nước, cảm thấy mình cao lớn hơn, mạnh mẽ hơn và thông thái hơn ở vùng đất kì bí này.
Địa điểm yêu thích thứ hai của Leslie sau tòa lâu đài chính là Rừng thông. Nơi mà những tán cây dày đến nỗi ánh sáng mặt trời như được lọc qua một lớp mạng mỏng. Không một cây lùm cây bụi nào có thể sinh trưởng được dưới cái ánh sáng lờ mờ ấy, vậy nên mặt đất là một tấm thảm được dệt nên bởi toàn những lá kim bằng vàng ròng.
“Trước đây tớ cứ nghĩ là chỗ này bị ám.” Jess thú nhận với Leslie vào buổi chiều đầu tiên khi nó dám lấy hết can đảm để đưa con bé tới đây.
“Ừ thì đúng mà,” con bé đáp. “Nhưng đừng sợ gì hết. Thứ ám nơi này không hề độc ác đâu.”
“Sao cậu biết?”
“Cậu có thể cảm thấy mà. Lắng nghe đi.”
Lúc đầu thằng bé chẳng thấy gì ngoài sự tĩnh lặng. Chính cái sự tĩnh lặng đã luôn làm nó sợ trước đây, nhưng lần này sự tĩnh lặng ấy rất giống cái khoảnh khắc khi cô Edmunds kết thúc một bài hát, ngay sau khi hợp âm cuối cùng lắng vào hư vô. Leslie đã đúng. Hai đứa đứng đó, không di chuyển mảy may, không muốn tiếng lạo xạo của đám lá kim dưới chân chúng phá vỡ phép màu này. Từ xa thật xa nơi thế giới cũ của chúng vọng đến tiếng kêu của một chú ngỗng đang bay về phương Nam.
Leslie hít một hơi thật sâu. “Đây chẳng phải một nơi bình thường,” con bé thì thầm. “Ngay cả những người trị vì của Terabithia cũng chỉ được phép đến đây khi nỗi đau chạm đến đáy vực sâu thẳm nhất của nỗi buồn hay trong thời khắc huy hoàng nhất của niềm hạnh phúc tươi vui. Chúng mình phải gắng sức bảo vệ sự thiêng liêng này. Có thế thì mới không làm kinh động đến các Linh hồn.”
Jess gật đầu, và không nói một lời, chúng quay lại con nước cũ, chia nhau một bữa ăn thịnh soạn gồm bánh quy và hoa quả sấy khô.
Chú thích:
* “Trước mắt...trong tay.”: Một phần lời bài hát “Free to be You and Me” đã đề cập ở trên.
* gõ kiến bụng vàng - Yellow-bellied Sapsucker: Một loài chim gõ kiến sống ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.
* Arlington: Một thành phố ở bang Texas, Hoa Kỳ
* pao – pound: đơn vị đo khối lượng của Anh (1 pound =453.59237 gam)