Dã Sử Cố niên hoa - Cập nhật - Phương Uyên

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 31: ĐÊM CHỜ XUÂN

Sau khi tiếp kiến tôi, thái tử liền ra lệnh ban thưởng rất hậu cho những người nhà họ Phạm. Việc xá tội cho Vũ Thành vương còn phải đợi ý quan gia, nhưng tôi cũng đã nói với mọi người rằng thái tử đã biết nguyện vọng này của tên thầy thuốc. Sau khi họ đã bình phục hẳn, tôi sẽ giao họ lại cho Quang Khải để tránh những hiềm nghi không đáng có. Như thế xem như phần nào tôi đã hoàn thành lời hứa với Nguyễn Nam, chỉ còn lại một lời hứa với độc túc tráng sĩ của tôi, không biết phải đợi đến bao giờ.

Ngày ở hành cung của bọn hoàng thân và gia quyến trôi chậm như rùa bò, trái ngược hẳn với không khí rộn ràng nào luyện tập, nào chuẩn bị chiến đấu của phe triều đình và quân đội. Tôi ăn hết quà vặt ở chỗ công chúa Thiều lại chạy sang chỗ Phụng Dương chuyện trò đôi câu, giúp nàng xem lại lượng dự trữ lương thực, thuốc men. Quang Khải không ngồi lì ở phòng tôi thì cũng ra hậu viện trò chuyện với thương binh hoặc mang lính đi tuần. Nơi này có nhiều người, cả tôi và tên Chiêu Minh vương đó đều không thể tự do cười nói, đánh nhau, rong chơi như ngày trước.

Cũng còn may là Quang Khải đã giới thiệu tôi với Nhật Duật. Tôi và cậu hoàng nhỏ tuổi này vừa gặp đã thân. Tôi dạy cậu bé ít Phạn ngữ mà tôi biết, cậu bày cho tôi tiếng của các phiên mà cậu nghe lỏm rồi nhớ được. Nhờ có cậu bé, tôi cũng phần nào quên đi nỗi lo lắng cho an nguy của lão già. Thỉnh thoảng bọn tôi có bày trò nghịch dại, rất may là Quang Khải luôn kịp thời có mặt giải quyết nên chưa gây hậu quả gì đáng hổ thẹn. Đổi lại, tôi giao Trần Cụ cho Quang Khải. Hai người bọn họ cũng khá tương đắc, có thể học hỏi lẫn nhau.

Tôi mòn mỏi vừa chơi vừa đợi, cuối cùng cũng sắp đến đêm trừ tịch, song thời cơ xuất binh vẫn chưa thật rõ ràng. Lại thêm một cái Tết tôi không có lão già ở bên.

Hóa ra đến khi bất trắc, những thứ chúng ta cứ xem là hiển nhiên, chỉ cần với tay là chạm được cũng hóa thành xa xỉ. Bù lại, chính trong những lúc trống trải thế này, ta mới cảm nhận được rõ ràng nhất giá trị của những điều xa xỉ đã mất đi kia. Không có trụ cột, gạch đá và mái ngói thì không thành ngôi nhà, nhưng nếu bên trong nhà chất đầy gạch đá thì ta lại không ở được. Phải chăng đây chính là cái lẽ có – không mà lão già hay nói?

- Chị Nhã Phong, qua đây giúp Duật cái này! - Hoàng tử bé đứng trong ngõ cụt vẫy vẫy tay gọi, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.

- Cậu lại định bày trò chọc phá ai đấy? - Tôi học theo giọng điệu của lão già.

- Duật mới thó được quyển này, bấy lâu anh Quang Khải cứ giấu giấu diếm diếm, Duật đụng tới là bị mắng ngay! - Giọng cậu bé càng lúc càng nhỏ, tay vẫy liên hồi.

- Chắc là binh thư, Quang Khải sợ cậu đọc không hiểu chứ gì? - Tôi lười biếng đứng yên một chỗ, đáp.

- Không! Lúc anh lính đưa quyển này cho anh Khải, Duật nghe rõ ràng anh ta bảo đây là sách hướng dẫn tạo ra trẻ con. - Gương mặt Nhật Duật tràn đầy chính nghĩa. – Chính như thế nên Duật mới tò mò. Duật từng hỏi nhưng phụ hoàng và mọi người chẳng ai nói cho Duật hết!

Vừa nghe đến đấy, mối đồng cảm dấy lên sâu sắc, tôi kéo cậu ta vào sâu trong ngõ nhanh như tên bắn, đoạn chau mày, nghiêm túc nói:

- Tôi không thích đọc trộm sách của người khác đâu, nhưng thuở bé tôi cũng từng hỏi lão già nhà tôi mà bị lão gạt đi, giờ không giải thích cho cậu được. Nay có sẵn tư liệu, tôi đành phải đọc trộm để mở mang đầu óc, sau này có nhận đệ tử thì không mất mặt vì ngu dốt.

- Duật cũng không thích ép người khác làm việc trái lương tâm đâu, nhưng ngặt nỗi Duật chưa đọc được nhiều chữ. – Cậu bé nắm tay tôi đầy tin cẩn. – Chị Nhã Phong không đọc trộm sách của anh Quang Khải, chị chỉ giúp Duật hiểu chữ trong này thôi có được không?

- Hoàng tử chỉ mấy tuổi đầu đã hiếu học như thế, sao tôi có thể khước từ? - Tôi gật mạnh đầu, quả quyết.

- Gặp được người bạn nghĩa khí như chị đây quả là phúc của Duật!

Nhật Duật cũng gật mạnh đầu, đôi mắt long lanh nhìn tôi chờ đợi. Tôi giở sách, lật từ trước ra sau, từ sau ra trước một hồi lâu. Cuối cùng đành thở dài bảo cậu bé:

- Xin lỗi, Nhật Duật, sách này không có chữ, chỉ có hình vẽ thôi.


***

Lúc nhận lại sách từ tay tôi, mặt Quang Khải xanh như tàu lá. Tôi bảo hắn, sách này Nhật Duật vô tình lấy được để tránh cho anh lính khốn khổ kia khỏi đòn đau. Tôi rất coi trọng tình bạn này mới đem trả lại hắn mà thần không hay quỷ không biết.

- Bỏ cái vẻ mặt tự đắc ấy đi. – Quang Khải gõ sách lên đầu tôi. Chúng tôi đang đứng ở một góc khuất trên lầu cao nên không ngại ai trông thấy.

- Này! Ông đây trọng tình trọng nghĩa như thế, Chiêu Minh nhà ngươi không cảm tạ được một câu cho lọt tai phỏng? – Tôi gắt.

- Có cái gì đáng cảm tạ? – Quang Khải nhếch mép. – Mấy chuyện này ai có chồng có vợ rồi còn lạ lẫm gì? Sau này lúc ngươi thực sự trở thành ái thiếp của Hưng Ninh vương thì cũng sẽ biết thôi.

Hắn nói đến đây, những hình vẽ trong sách bỗng hiện lên trong đầu tôi. Tôi thấy hai má mình bắt đầu nóng dần lên, tai cũng nóng dần lên. Đột nhiên, tôi không kiềm chế được, thụi vào bụng Quang Khải liền mấy cú rõ mạnh:

- Ngươi đừng có ăn nói quàng xiên! Ta chưa xem! Chưa xem!

- Dóc tổ! Ngươi chưa xem thì làm sao biết quyển sách này lọt ra ngoài sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của ta? – Quang Khải chống chế, nhưng hắn càng nói, tôi càng mạnh tay hơn, giật lấy quyển sách đập lên người hắn liên hồi.

Quang Khải có vẻ đau thật vì cú đấm của tôi. Hắn cứ xoa xoa bụng, ngồi tiu nghỉu. Tôi chợt thấy áy náy song vẫn lờ đi. Hồi lâu hắn hỏi tôi:

- Thế đã bao giờ ngươi nhìn Hưng Ninh vương như một người đàn ông chưa?

Tôi lắc đầu nguầy nguậy không chút do dự:

- Lão già rồi.

Ánh mắt Quang Khải như đông cứng:

- Một người đàn ông già?

- Không. - Tôi gọn lỏn. - Một thư sinh già, một thiền sư già, một người nhàn nhã già.

Khoé môi tên bằng hữu của tôi giật giật, hắn hỏi tiếp:

- Gã Trần Cụ đang nằm một chỗ kia thì sao?

- Cụ vẫn còn là tên nhóc.

Hắn hất hàm về phía bên kia sân, nơi có hai người nam nữ đang chuyện trò. Tôi nhìn theo, đoạn thở dài:

- Ngài ấy là thái tử.

Quang Khải có vẻ rất bất mãn, vung tay trỏ thẳng vào mặt chính mình.

- Khải, ngươi loạn trí rồi! - Tôi bắt đầu cáu. - Ta quý ngươi đâu có kể ngươi là nam hay nữ!

Kẻ tôi quý bất kể nam nữ kia vỗ đánh “bộp” vào trán mình, thất thểu nhìn quanh quất. Rất lâu, rất lâu, rất lâu sau đó, với vẻ mặt hết sức kiên nhẫn, hắn từ tốn hỏi tôi:

- Chả nhẽ trong mắt ngươi, thế gian này không có ai là trượng phu, là mày râu, là giống đực hết sao?

- Ồ có chứ! - Tôi hồ hởi đáp. - Bao giờ soi gương ta cũng thấy một người!


***


Tuy rất mạnh miệng đáp lời Quang Khải, song khi đêm về, những điều hắn nói cũng khiến tôi suy nghĩ ít nhiều. Từ bé đến giờ, tôi luôn cho rằng những người nam sống ở Dưỡng Chân trang đều không uy dũng như tôi. Anh Thân là người giỏi đao pháp nhất trong số họ, khi cần cũng can đảm, hiên ngang nhưng ngày thường anh rất lành, rất hay bị tôi trêu. Hưng Đạo vương thỉnh thoảng có đến chơi, nhưng Hưng Đạo vương là… Hưng Đạo vương, là một tướng quân, đâu phải một người đàn ông bình thường.

Nói về lão già, cũng như đối với Quang Khải, tôi chưa từng nghĩ xem lão là nam hay nữ. Lão là Thần của tôi, là Phật của tôi, là kẻ thân thiết nhất đời này của tôi. Tôi có thể ngủ say trong lòng lão, có thể ôm lấy lão mè nheo, có thể đổi mạng mình cho lão. Chỉ là, tôi chưa bao giờ xem lão như một con người bình thường sống ở cõi trần này, sẽ luôn là như thế nếu như tôi không trông thấy vết thương trên tay lão mãi không khép miệng.

Những hình vẽ trong quyển sách quái quỷ kia lại hiện ra, một gương mặt khác cũng hiện lên rất gần. Tôi bỗng nhớ đến… nhớ đến nụ hôn nồng nặc mùi rượu của Nguyễn Nam hôm chúng tôi bày trò chuốc say cụ Đảm. Cảm giác nóng bừng cả mặt lúc đó giống hệt như khi tôi nghe những điều Quang Khải nói hôm nay.

Và một lần khác.

Ấy là cái hôm tôi theo lão già tập kích bọn rợ Thát ở bộ đầu Triều Đông. Lão vẫn luôn là một người nhàn hạ, một thiền sư, một thư sinh. Song, vào cái đêm lửa cháy ngút trời đó, lão đứng trên nóc thuyền, để trần một bên vai, đôi tay rắn chắc giương cung lớn bắn đi mũi tên xé gió, giọng nói trầm trầm vang cả dòng sông. Lòng tôi đã run rẩy không rõ nguyên do, tôi bước đến, kiễng chân ôm chặt lão. Lần đầu tiên trong suốt mười mấy năm sống bên nhau, tôi không có cảm giác của một đứa trẻ khi ở trong vòng tay vững chãi kia, cùng lão nhìn ngắm một mảnh giang sơn.

Nghĩ đến đây, bỗng dưng tôi mơ hồ hiểu được ánh mắt đầy tổn thương của lão già lúc nghe tôi đòi tự xưng là ái thiếp của lão để đến Hoàng giang:

“Tiểu thiếp, dẫu sắc đẹp nghiêng thành hay cầm kỹ xuất chúng, đối với một thân vương mà nói, muốn mấy người sẽ có mấy người. Những chuyện như thế, sau này đừng nhắc nữa.”


***


Quân Thát bị cầm chân ở Thăng Long sắp được nửa tháng. Bọn chúng không mang theo nhiều lương thực, xung quanh không có gì để cướp bóc, lại thêm những đòn tâm lý của quân Thánh Dực, ắt là lúc này cả thân thể và tinh thần đều rã rời. Dù Quang Khải không tiện tiết lộ quân cơ nhưng nhìn không khí ngày một khẩn trương, tôi đoán ngay sau ngày đầu năm mới sẽ là lệnh xuất binh.

Cuối cùng, chúng tôi cũng sắp đợi được ngày đánh đuổi bọn xâm lược ra khỏi mảnh đất này! Tuy thời gian chẳng đáng là bao nếu nhìn lại những lần binh biến của cha ông, song những mất mát đối với tôi là đã đủ nhiều, đã đủ đau thương.

Quan gia ra lệnh mở tiệc xem như giao thừa sớm để động viên tinh thần binh lính. Kể cả những người đang lười nhác nhất cũng trở nên hăng hái, cả hành cung đổ ra quét tước, trang hoàng, hệt như đang ở quê nhà lúc thanh bình. Tôi kéo thêm vài người đến hậu viện, dọn dẹp sạch sẽ, tiện tay hái thêm ít hoa dại cắm khắp nơi. Thái tử cho người mang rượu và thịt đến để các thương binh có thể chung vui. Quang Khải và Nhật Duật kéo người đến bày trò múa hát, rộn rã không kém mấy trại lính trẻ khỏe mạnh bên ngoài. Vết thương của Trần Cụ đã ổn hơn nên cũng đến góp vui. Tôi hết thổi sáo lại đánh đàn, trổ hết tài nghệ khiến mọi người mắt tròn mắt dẹt.

Chừng thấm mệt, tôi ngồi sang một góc, nhường cuộc vui lại cho bọn trẻ. Quang Khải mang một ấm chè nóng đến cho tôi và một bình rượu cho chính mình. Mọi người không ai uống say, hơi men thoang thoảng hòa trong làn gió se se của tiết giao thời chỉ làm không khí thêm ấm cúng, lòng người cũng lâng lâng.

- Ta nghe lão già kể, ngày Tết ở hoàng cung có rất nhiều lễ nghi, hoàng tử như ngươi chắc là bận bịu lắm? - Tôi hỏi Quang Khải, mắt vẫn dõi theo cánh chim nhỏ đang chao về phía trời xa.

- Có vài lễ từ đêm trừ tịch đến hết tháng hai, nhưng phần lớn vẫn là mọi người quây quần xem hát, thi đấu vật, bày trò tiêu khiển với nhau thôi. - Hắn đáp.

- Không biết nếu Tết năm nay không có giặc thì lão già nhà ta có bị gọi vào chầu nữa không.

- Vào chầu? Có năm nào Hưng Ninh vương vào cung dịp Tết đâu? - Quang Khải ngạc nhiên.

Tôi há hốc mồm. Hắn tiếp:

- Ta nghe nói từ lúc thành đinh, ông ta đều viện cớ đã có Hưng Đạo vương đại diện cho chi Vạn Kiếp, ông ta phải ở lại thái ấp lo việc hương khói tổ tiên, chỉ gửi lễ vật mừng năm mới đến. Quan gia và những trưởng lão trong họ cũng không làm khó. Ngay đến lễ triều tăng, mấy lần triều đình mời ông ta vào làm pháp sự, ông ta bảo mình là cư sĩ tại gia nên không có tư cách đứng ngang hàng.

Tôi chưa từng biết những việc này nhưng cũng lờ mờ hiểu được vì sao lão già hành xử như thế. Quan gia xem ra cũng rất rộng lượng với người cháu này rồi.

- Nhưng rõ ràng Tết năm trước lão không về Dưỡng Chân Trang, bảo rằng phải vào triều. – Ngẫm nghĩ giây lâu, tôi vẫn còn thắc mắc.

- Tết năm trước... – Quang Khải nhìn tôi ra chiều ngẫm nghĩ. – Ta nhớ mấy tháng cuối năm có loạn ở mạn bắc, Hưng Ninh vương dẫn binh dẹp loạn nên bị thương. Ngươi không biết chuyện này sao?

- Lão bị thương? – Tôi thảng thốt. – Ta chưa từng nghe lão nói!

- Năm ấy triều đình rộn cả lên. Ta nghe nói ông ta bị một nhát chém trên bả vai khá nặng, phụ hoàng ta rất lo lắng, không ngừng thăm hỏi. – Dừng một chốc, Quang Khải như chợt nghĩ ra. – Chắc ông ta sợ ngươi lo lắng rồi làm ầm lên nên không cho ngươi biết.

Tôi bỗng dưng nhớ lại một hình xăm lạ trên vai lão, nhớ phong bao tiền mừng tuổi đến tay tôi ngay giao thừa mà không có một lời nào, nhớ lá thư gửi về mười ngày sau đó, nét chữ không cứng cáp như mọi khi, tôi còn nghĩ lão viết lúc đang say.

Tôi đẩy chén rượu của Quang Khải ra xa, cau có nói:

- Ngươi đừng uống nữa, men làm ta cay mắt!

Hắn cười cười, xoa đầu tôi ra chiều rất bao dung. Bỗng có anh lính từ xa tiến lại:

- Cô Nhã Phong, tôi mời cô một chén rượu, chúc cho quân ta sớm khải hoàn!

- Cảm ơn anh! – Tôi cười, nhận ra dấu hiệu của quân Thánh Dực trên y phục anh ta đang mặc. – Tôi không uống được rượu nên dùng chè thay vậy.

- Đợi đã! Đợi đã! Bọn tôi cũng muốn cạn chén với cô Nhã Phong!

Một đám lính đua nhau chạy đến chỗ tôi. Ngày thường trông ai nấy cũng đều rất nghiêm trang, lúc này lại có vẻ phóng khoáng khôi hài. Tôi đứng lên, nâng chén chè tỏ ý mời tất cả bọn họ. Chúng tôi cùng uống cạn một lúc rồi bật cười, cảm thấy vô cùng sảng khoái, vô cùng phấn khởi.

- Cô Nhã Phong muốn nhan sắc có nhan sắc, muốn tài hoa có tài hoa, muốn tấm lòng có tấm lòng thế này, chẳng trách chủ tướng của bọn tôi không để lọt mắt những mỹ nhân sơn cước đó. – Một anh lính trông giống hệt người tên Trương Phi tôi gặp ở Cổ Mai cao giọng nói.

- Mỹ nhân sơn cước? – Tôi ngơ ngác.

- Xem ra tiên sinh của ngươi trên đường hành quân đã gieo không ít tương tư rồi. – Quang Khải đứng bên chòng ghẹo.

- Ngươi giữ mồm giữ miệng, khéo vương gia lại mắng cho! – Trần Cụ từ xa lên tiếng nhắc nhở anh lính nọ.

Đến đây, Quang Khải nói phải đưa Nhật Duật đến chỗ quan gia và hai người vợ. Tôi biết hắn có ý tránh mặt để bọn tôi trò chuyện thoải mái hơn nên cũng không ngăn cản.

- Tôi sẽ không nói lại với vương gia đâu. Các anh cứ yên tâm mà kể. – Quang Khải đi rồi, tôi không giấu vẻ tò mò.

- Là lúc bọn tôi đóng trong rừng mơ. – Anh lính được lời như cởi tấm lòng. – Có một thiếu nữ ăn vận rất lộng lẫy, gương mặt đẹp như hoa, nói tiếng kinh lộ không sõi nhưng vẫn khăng khăng đòi gặp người trong mộng. Nàng ấy bảo là mang bánh chưng của người trong bản gói đến cho chàng ăn Tết.

- Lúc ấy bọn tôi không biết tình lang của nàng ấy là ai. – Một anh lính khác nói chen vào. – Bỗng nhiên vương gia đến, bọn tôi chưa kịp hành lễ đã bị vương gạt đi. Hóa ra trước đó vương có đưa một đứa trẻ đi lạc trong rừng về nhà, vô tình gặp nàng này. Nàng cứ khăng khăng rằng ơn của vương sâu nặng lắm, đòi lấy thân báo đáp.

Tôi bật cười:

- Sau đó thế nào?

- Nàng nằng nặc đòi vương hứa hẹn. Nàng biết vương là lính, giờ phải phục vụ non sông, nhưng khi nào giặc tan nhất định phải nhờ ông mối đến hỏi nàng. Bao lâu nàng cũng đợi được.

- Vương lại đáp thế nào? – Tôi ôm bụng cố nhịn cười, hỏi tiếp.

- Bọn tôi sợ mất hồn. Vẫn biết người sống nơi núi rừng vốn phóng khoáng, song không ngờ là phóng khoáng đến mực ấy.

Đoạn, một anh lính bước lên phía trước, ưỡn ngực, ngẩng cao đầu, mô phỏng dáng điệu của lão già, từ tốn nói:

- Đây là bánh nhân thịt phải không? – Anh ta nở nụ cười thật hiền lành. – Thật tiếc quá, ta không ăn được, phụ tấm lòng của người nhà cô rồi!

Cả bọn phá lên cười, mặt anh lính vẫn không biến sắc, điềm nhiên nói tiếp như một lẽ hiển nhiên:

- Ta vốn là một thầy tu, chỉ vì đất nước có nạn nên mới tòng quân. Nếu cô không giận, ta xin giữ lại bánh này để mời các anh em binh sĩ. Chỉ sợ thần linh hiểu sai ý tốt của cô, trách cô học theo Ma Đăng Già muốn phá đường tu của A Nan tôn giả rồi giáng tội xuống làng thì...

Tôi đoán sơn nữ ấy chưa từng nghe kinh Phật, chẳng biết cả A Nan lẫn Ma Đăng Già nhưng việc sợ thần linh nổi giận thì ắt nàng rõ lắm.

- Lúc ấy mặt bọn tôi ai nấy cũng như cô Nhã Phong bây giờ. – Anh lính vỗ đùi đen đét. – Nhất là phó tướng Đỗ Ngạc, rất khó coi.

- Tội cho cô gái kia, lắp bắp mãi mới chúc được một câu chiến thắng rồi chạy mất. Bọn tôi nhìn vẻ tỉnh rụi của vương, không ai dám nói gì. Chỉ có phó tướng chép miệng cảm thán một câu.

- Vương gia, cô ấy chẳng qua là đem lòng ngưỡng mộ ngài chứ có lỗi gì đâu! – Một anh binh sĩ khác lập tức vào vai Đỗ Ngạc.

Tôi đoán hẳn vị vương gia được gọi là Tuệ Trung thiền sư kia sẽ kiên nhẫn giảng giải chút đạo lý cho viên tướng thân cận, nào là đừng cứng nhắc như thế, nào là đạo và đời vốn không tách rời nhau, phải tuỳ cơ mà vận dụng, nào là có khi muốn tử tế phải thực tàn nhẫn. Song cả đám lính đồng thanh đáp:

- Cậu đã thương hoa tiếc ngọc như thế thì đến nhà người ta ở rể đi!

Cả bọn lại rộ lên cười, tôi cũng cười đến chảy cả nước mắt. Cố lấy lại dáng vẻ đoan trang, tôi rót thêm một ít chè vào chén, nâng lên mời họ:

- Mừng năm mới! Mừng chiến thắng!

- Mừng năm mới! Mừng chiến thắng! – Mọi người đồng thanh.

Tiếng cười tiếng nói lại rộn ràng, chỉ còn thiếu việc bày chiếu bạc là không khác gì một ngày Tết bình thường. Tôi hồ hởi nói:

- Các anh đều ở cả đây sao? Còn ai bị đau không đi được không, chúng ta mang rượu qua mời họ!

- Thưa, gần như đủ cả rồi.

- Còn cậu Chiến! – Có ai đó reo lên.

- Là người bị thương ở bụng phải không? Tôi nhớ hôm trước thấy anh ta chảy máu nhiều lắm, chả trách… - Tôi trầm giọng.

- Thưa đúng ạ, vết thương của cậu ấy cũng khá lên nhiều rồi. Chỉ là…

- Thế nào? – Tôi nhìn anh lính đang ngập ngừng.

- Chỉ là lúc cậu ấy ghi danh tòng quân thì mẹ già đang đau nặng, sợ không qua khỏi. Cậu ấy xin ở lại thuốc thang đến khi mẹ khỏi bệnh, bà cụ tức đến hộc máu tươi. – Giọng kể của anh lính ngày một chậm dần, nhỏ dần. – Cụ bà bảo sinh tử của mẹ là cái hiếu nhỏ, lòng trung với đất nước là cái hiếu lớn. Cậu Chiến không giữ được cái lớn thì còn nghĩ đến cái nhỏ làm gì. Chúng tôi đều hiểu tấm lòng của bà cụ, nhưng chỉ e khi giặc tan, cậu ấy trở về thì đã…

Mọi người không ai nói thêm lời nào, lặng lẽ ngồi yên hớp từng ngụm rượu. Không lâu nữa thôi là năm mới, song ngày nào giặc chưa rời khỏi biên cương, mùa xuân vẫn chưa thật về.

Tôi xót xa đưa mắt nhìn những người lính sống chết trung thành với lão già của tôi, muốn nói câu gì đó để động viên họ phấn chấn lên, nhưng mở miệng mấy lần vẫn không thốt nên lời.

Mãi lâu sau, có tiếng trống rộn rã vang lên từ phía doanh trại đóng ngoài hành cung, Quang Khải từ đâu chạy đến kéo tôi đứng dậy, lớn tiếng bảo mọi người:

- Cùng ra đó xem đi!
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 32: NHƯ NƯỚC CHẢY VỀ ĐÔNG

Hoá ra Quang Khải kéo bọn tôi đến xem màn múa giáo để khích lệ lòng quân của hoàng đế. Đây là dịp cả đời mới được thấy một lần nên ai nấy đều hào hứng, reo hò inh ỏi.

Trên đài cao, người mặc long bào đã bước sang tuổi trung niên song tráng kiện và nhanh nhẹn chẳng khác chi mấy anh lính trẻ. Ngài uy nghi bước lên giương thẳng ngọn giáo dài, trổ từng động tác mạnh mẽ, ánh mắt hừng hực lửa khiến cho những kẻ thường ngày lơ là luyện tập phải cúi gằm mặt mà hổ thẹn. Tiếng trống phối hợp rất nhịp nhàng, khi khoan thai, khi dồn dập, người múa giáo và kẻ đánh trống chỉ cần một ánh mắt đã hiểu nhau, ăn ý như thể đã luyện tập cả nghìn lần.

- Vị đang đánh trống kia là một vương gia nào phỏng? – Tôi huých nhẹ vai Quang Khải.

- Không, người đó là ngự sử trung tướng Lê Tần, thư đồng đã đi theo phụ hoàng từ thuở bé nên hai người còn thân hơn cả anh em ruột thịt.

- Có phải là người đã khuyên hoàng đế rút quân, đừng đánh một ván dốc túi mà phải tính kế dài lâu ở trận Bình Lệ Nguyên không?

- Ừ, chính là ngài ấy. – Quang Khải đáp lời tôi, mắt vẫn dán chặt vào người cha đế vương kiêu dũng, không hề giấu vẻ tự hào.

Tôi hết nhìn hoàng đế lại nhìn sang người tên Lê Tần, không tránh khỏi việc nghĩ đến Khâm Minh đại vương – thân phụ của lão già nhà tôi. Nghe nói lúc công chúa Thuận Thiên vẫn chưa bị ép trở thành hoàng hậu, đại vương và hoàng đế vô cùng thân thiết. Đại vương được phong tước Hiển hoàng, quyền lực chỉ dưới một người, vốn là danh xưng xưa nay chẳng ai có. Lúc đại vương vì hôn sự trớ trêu kia mà phẫn uất dẫn quân đến sông Cái tạo phản, hoàng đế còn lấy thân mình che chở cho đại vương trước mũi kiếm của thái sư. Song, đó cũng là lần cuối cùng người ta còn biết đến mối thâm tình ấy.

Nghĩ đến đây, tôi vô thức nhếch mép cười, không rõ thái sư có bao giờ bị giao tình của hoàng đế và ngự sử trung tướng gây nghi kỵ, có bao giờ ông ta toan bày trò chia rẽ nữa không. Ngẫm lâu thêm một chút, ruột thịt tình thâm là thứ ta không được lựa chọn khi sinh ra đời nên dẫu gắn bó cũng rất dễ rạn nứt vì một hiểu lầm nhỏ bé. Bằng hữu, là người ta quyết định gắn bó sau khi đã hiểu lòng nhau, đã cùng trải bao lần đồng sinh cộng tử, nên mối giao tình ấy đã bền chặt thì rất khó tách rời.

Quang Khải nói, suốt dọc đường rút quân, ngự sử trung tướng đã đích thân cầm ván che chở cho hoàng đế khỏi trận mưa tên của Thát quân, bản thân mình bị thương cũng không hé răng than vãn nửa lời. Ấy cũng là người đã cùng tiến cùng lùi với vua, mặc cho khí thế của giặc khiến viên tướng dũng mãnh nhất cũng phải chùn chân.

Tiếng trống đang dồn dập bỗng ngưng bặt khiến tôi giật mình trở về thực tại. Hoàng đế toàn thân lấm tấm mồ hôi, giương cao ngọn giáo mỉm cười ngạo nghễ. Gió lớn nổi lên khiến những ngọn cờ dựng khắp quân doanh tung bay phần phật. Bên dưới, binh sĩ ai nấy bừng bừng nhuệ khí, giáo gươm khua rộn ràng, mồm hô vang:

- Sát Thát! Sát Thát!

Những người lính ấy, vài ngày trước đây đã tiến về Bình Lệ Nguyên, mang theo ngạo khí ngút trời của tuổi tráng niên với lòng tin về quân số áp đảo. Những người lính ấy đã đối mặt với đội kỵ binh đã làm cỏ không mọc được dưới chân, đã hoảng loạn vì vỡ trận, đã thầm gửi lời vĩnh biệt vào trong gió bụi mịt mù. Những người lính ấy đã đau nát lòng khi tự tay đẩy những thi thể đồng đội còn chưa kịp lạnh xuống lòng sông Lô để tránh làm chậm tốc độ rút quân. Cũng những người lính ấy đã tận mắt chứng kiến từng người trong bọn họ lần lượt ngã xuống, lót con đường máu từ Thiên Mạc về Thăng Long, rồi từ Thăng Long về lại hương Tức Mặc. Tất cả những biến động trong mấy ngày vỏn vẹn đã nhiều hơn sóng gió suốt cả một đời của những kẻ may mắn còn sống sót.

Nhưng nhìn khí thế bừng bừng như rồng hổ hiện giờ, ai có thể tin được họ đã đi qua từng đó đau thương? Mảnh đất tôi đang đứng đây là khởi nguồn của họ Trần, nó đã luôn che chở cho họ Trần, hồi sinh những tâm hồn tả tơi vì trận chiến bại kia.

Trong một khắc, tôi chợt thấy mắt mình nhoè nước, trong lòng tràn ngập nỗi tự hào khôn tả. Tôi nắm lấy tay Quang Khải giơ lên cao, cố hét thật to:

- Sát Thát! Sát Thát!

Hò reo một hồi lâu, tôi không nhận ra đã có người tiến đến phía sau mình. Người ấy đợi đến khi tôi đã qua cơn kích động mới nhã nhặn mở lời:

- Cô là Nhã Phong phải không?

Tôi ngơ ngác nhìn người thanh niên chỉ hơn mình vài tuổi, gương mặt có nét rất quen thuộc, vô thức cúi chào cho đúng lễ nghi. Quang Khải chậm rãi giới thiệu:

- Phong, vị này là Tĩnh Quốc vương, anh trai ta.

Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang chính là đứa trẻ mà công chúa Thuận Thiên đang mang trong bụng khi trở thành hoàng hậu. Dòng máu đang chảy trong người vương là của chi Vạn Kiếp, song thân phận lại là hoàng tử đầu tiên của hoàng đế.

Tôi nhìn những đường nét trên gương mặt vương, quả thật có rất nhiều điểm giống lão già nhà tôi. Anh em họ chắc ít có dịp gặp nhau. Hưng Đạo vương được công chúa Thuỵ Bà nuôi dưỡng nên ở trong cung, còn lão già nhà tôi lại rất ít khi vào cung. Để tránh lời ra tiếng vào, tôi đoán chỉ có dịp hội quân này, mấy anh em mới lần đầu ngồi trò chuyện với nhau lâu.

Vương nghe đến tên tôi ắt là qua lời kể của Hưng Đạo vương rồi nổi ý tò mò, muốn từ tôi mà hiểu thêm về người anh ruột thịt của mình. Tôi đến hành cung ở Hoàng giang cũng được mấy hôm, vương có thể thông qua Quang Khải mà đến gặp tôi nhưng vẫn đợi dịp tụ tập đông đúc này mới ra mặt. Rốt cục những năm qua, con người có thân phận đặc biệt kia đã phải sống khó khăn thế nào, e dè thế nào, ngó sau nhìn trước thế nào?

- Tĩnh Quốc vương, năm mới an khang! – Trong một lúc tôi không biết phải nói gì với vương, chỉ đành nói mấy lời hoa mỹ khuôn sáo.

- Cô sống ở đây có quen không? – Vương cười hiền. – Hành cung chắc là khác nhiều với Dưỡng Chân trang?

- Bẩm, nơi này thanh tịnh, nước biếc non xanh, không khác Yên Bang là mấy. – Tôi muốn kể nhiều một chút cho ngài nghe, đoạn lại thấy không nên. – Nghe nói thái ấp Độc Lập của Chiêu Minh vương đây mới thật là trù phú, đẹp đẽ.

Tôi nhìn sang Quang Khải đầy ý nghĩa, hắn lập tức hiểu ra, đáp không cần nghĩ:

- Phụng Dương từng ngỏ ý mời Phong và Hưng Ninh vương đến Độc Lập nghỉ ngơi một thời gian sau khi hết giặc. Nếu anh Tĩnh Quốc không chê thái ấp của em phàm tục, hay là anh cũng cùng đến, em sẽ mở tiệc thết đãi mọi người.

Ánh mắt Tĩnh Quốc vương chợt sáng rồi lấp lánh niềm vui:

- Thế thì hay lắm!

Tôi còn định đưa chuyện đôi câu thì một anh lính từ đâu hớt hải đến, nói thật khẽ như sợ ai nghe thấy:

- Cô Nhã Phong, phiền cô đi một chuyến, có chuyện lớn rồi!

Tôi nhìn sắc mặt xanh lét của anh ta thì thấy ngay sự chẳng lành, toan rời đi ngay. Tĩnh Quốc vương có ý cùng đi song Quang Khải đã ngăn lại. Tôi cúi chào vương rồi lập tức đi theo anh lính.


***


Khi bọn tôi đến rừng trúc phía sau hậu viên, quân lính của quốc mẫu đã bao vây tứ phía. Nhờ có Quang Khải đi cùng nên tôi dễ dàng len được vào trong.

Hai người dân đang bị trói, quỳ một bên. Một người lính đang nằm sõng soài dưới đất, thoi thóp. Người lính còn lại ngồi gục đầu, vai run run, bên cạnh anh ta là một thanh ngươm đỏ máu của người kia.

- Chuyện này… là thế nào? – Tôi hỏi anh lính chạy đến báo tin.

- Thưa, đây là cậu Chiến… - Anh ra lắp bắp rồi trỏ vào người sắp chết, đoạn lấy hết sức thét to như khóc. – Đây là cậu Chiến!

Người tên Chiến là kẻ có mẹ già bệnh nặng nhưng vẫn cắn răng tòng quân. Nếu tôi nhớ không lầm, vết thương chữa mãi không khỏi trên bụng anh ta là do đỡ cho đồng đội. Người đồng đội ấy, trớ trêu thay lại đang ngồi bất động kia.

- Đưa anh ta về đi, tôi sẽ cứu được. – Tôi dợn bước đến chỗ anh Chiến nhưng anh lính ngồi bất động đã ngăn lại rất quyết liệt.

- Cô Nhã Phong, anh ấy phản rồi! – Anh ta ngẩng lên nhìn tôi, tròng mắt ngầu đỏ. – Tôi vốn định mang rượu thịt đến chỗ cậu ấy cùng ăn, không ngờ bắt gặp cậu ta lẻn vào rừng gặp bọn chúng. – Anh ta vung tay chỉ thẳng những người bị trói. – Tôi giận quá, sợ bọn họ bỏ trốn nên đã chém mỗi người một nhát. Cậu Chiến phản rồi!

Những gì vừa nghe thấy khiến tôi choáng váng, không dám tin là thật.

- Cậu điên rồi! – Anh lính đến báo tin xốc áo người nọ. – Cậu Chiến đã mặc kệ mẹ già đang hấp hối mà xông ra sa trường giết giặc, có lý nào lại phản được?

- Tôi nghe bọn kia nói đã mời thầy thuốc đến chữa bệnh cho mẹ cậu ta. – Người lính không ngừng đưa tay quẹt nước mắt, nấc lên từng tiếng. – Ban đầu cậu ta tin quân Đại Việt người đông thế mạnh, chừng vỡ trận rút về đây, cậu ta thất chí rồi, muốn đưa tin cho quân Thát để đổi mạng cho mẹ mình.

Tiếng nói mỗi lúc một nghẹn ngào, anh ta khó khăn lắm mới có thể tiếp tục câu chuyện:

- Tôi và cậu ta cùng lớn lên bên nhau, cậu ta còn cứu tôi một mạng. Giờ tôi phải chính tay giết chết cậu ta rồi tự sát!

Nói đoạn, anh ta lại cầm gươm xông đến như mất trí. Mọi người phải cố hết sức mới can ngăn được. Anh Chiến vẫn nằm yên như thể không còn sự sống, mãi lâu sau, đôi môi khô nứt mấp máy như muốn nói điều gì. Quang Khải ra hiệu quân sĩ đến đỡ anh ta dậy, bọn tôi ghé sát tai, lắng nghe từng tiếng thì thào:

- Xin vứt tôi xuống sông… đừng ghi bia mộ… xin đừng…

Rồi bàn tay yếu ớt hoàn toàn buông lỏng, hơi thở cũng không còn.

Anh ta muốn lặng lẽ ra đi, xem như đã vùi thân nơi sa trường như trăm nghìn người lính khác. Không nỡ để mẹ già nghe thấy cái danh phản quốc của con.

Quang Khải nắm chặt vai tôi đến phát đau, như thầm bảo tôi cố gắng đừng rơi nước mắt. Tôi khép hờ đôi mi, đưa tay vuốt mắt anh lính khốn khổ rồi lẩm nhẩm đọc một bài kinh siêu độ.

Đến lúc tôi ngước nhìn lên những người đang có mặt, mắt ai nấy đã đỏ hoe, không rõ là giận, là thương hay là không cam lòng.

- Làm theo ý anh ta, vứt xác xuống sông đi. – Quang Khải ra lệnh cho binh sĩ. – Đưa những người còn lại về giao cho thái tử. Không ai được nhắc đến chuyện này.

Đợi khi mọi người đều đã rời đi, tôi mới hỏi điều mình đang thắc mắc:

- Binh lính của quốc mẫu ở đây rồi, sao ngươi lại giao họ cho thái tử?

- Quốc mẫu sẽ không xét xử đâu, hai kẻ đến nhận tin của cậu Chiến không phải là quân Thát mà chỉ là gia nô của một người trong họ.

- Họ Trần có người muốn hàng sao? – Tôi đưa tay che miệng.

- Cũng không ít đâu. – Quang Khải nhếch mép cười. – Ngay đến nhạc phụ của ta còn có ý muốn nhập Tống đấy thôi. Cũng còn may, triều đình vẫn có thái sư.

Mọi người hay kể đi kể lại hôm ấy, lúc lòng người đang chao đảo vì thế giặc mạnh bất ngờ, chỉ có thái sư khảng khái tâu rằng: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác”.


***


Chúng tôi trở lại chỗ mấy người lính vẫn đang say sưa ăn mừng năm mới, giữ nguyên nụ cười để không làm ảnh hưởng sĩ khí vừa mới lên cao. Tiếng trống, tiếng nhạc vẫn rộn ràng không khác chi thuở còn chưa binh lửa.

Quan gia và bọn nữ quyến đã lui về hành cung, trên đài cao giờ chỉ còn mấy vị vương tử trẻ tuổi đang chơi đá cầu. Trần Cụ cũng tập tễnh chống gậy đứng trông. Tôi rất bất ngờ vì ông cụ như hắn lại biết trò vui của bọn trẻ con này. Xung quanh, bọn gia nô ra sức hò reo cổ vũ cho chủ.

Bỗng một quả cầu rơi xuống trước mặt Trần Cụ, hắn đưa tay bắt lấy. Nhưng hắn không ném trả ngay mà cầm quả cầu lên xem, đoạn tháo mối dây, chỉnh sửa gì đấy hồi lâu rồi mới buộc lại. Có một vị vương tử chạy đến, Trần Cụ trao cầu lại bằng cả hai tay. Người này ném lên đá thử, quả cầu rất đằm, múi nào ban nãy ở trên đến khi rơi xuống đất vẫn nguyên vị trí. Cả bọn ồ lên thán phục, chạy đến vây quanh tên sư đệ của tôi. Hắn chậm rãi giảng giải từng câu, hệt như già làng đang kể chuyện cổ tích cho bọn trẻ.

Tôi nhìn bọn họ lại nhớ đến hai người bạn vừa mới giết nhau. Ở một năm tháng nào đó, hẳn là họ cũng từng ôm vai bá cổ, từng cùng trêu ghẹo một cô gái, cùng chia nhau đến giọt rượu cuối cùng.

Bỗng dưng thèm chút men cay, tôi cầm lấy chén rượu từ tay Quang Khải, bâng quơ hỏi:

- Tĩnh Quốc vương nói thế nào mà thuyết phục được ngươi đưa ta đến gặp?

Hắn giật lại không cho tôi uống, điềm nhiên đưa chén lên miệng nhấp một ngụm, đáp tỉnh rụi:

- Anh ấy nghe nói Hưng Ninh vương đang sủng ái một kẻ bán nam bán nữ nên lo lắng đến hỏi ta thôi.

Tôi lườm hắn. Tên hoàng tử trẻ tuổi khẽ cười, xoa xoa đầu tôi rồi từ tốn kể:

- Anh Tĩnh Quốc rất đáng thương, từ nhỏ đã luôn phải nhường nhịn thái tử và ta. – Hắn nhìn vào đống lửa đang reo tí tách, giọng càng ngày càng thấp. – Anh ấy là con ruột của trưởng nam họ Trần và trưởng nữ nọ Lý, hoàn toàn có tư cách thừa kế ngai vị nên lúc nào cũng phải sống thu mình. Đi học sợ hay chữ hơn, luyện kiếm sợ thành thục hơn, bị ai đó trêu là hoàng tử mà tư chất tầm thường cũng chỉ cười cho qua chuyện. Kỳ thực, trong số anh em bọn ta, anh Tĩnh Quốc mới là người tinh tế, sâu sắc nhất.

Dừng một chốc, hắn kể tiếp:

- Anh ấy vốn không thân thiết với anh em ta, cũng ít qua lại với Hưng Đạo vương, suốt ngày ở yên trong phủ, gảy đàn, đọc sách, sống lặng lẽ như chiếc bóng. Phụ vương ta dẫu không câu nệ thân phận, dẫu có muốn quan tâm anh ấy như con ruột cũng chỉ có thể thỉnh thoảng ban thưởng nhiều hơn một chút.

- Nhưng xem ra ngài ấy rất quan tâm đến lão già nhà ta. – Tôi cảm thán.

- Hưng Ninh vương ít khi vào cung nên những lần ngồi với nhau, bọn ta hay nhắc. Anh Tĩnh Quốc tuy không tỏ ra hào hứng nhưng sách kinh, kệ của vương gửi vào được phụ hoàng ban cho, anh ấy đều xem như bảo vật. – Nói đến đây, Quang Khải bật cười. – Ta nghe nói, ở chỗ hội quân trước ngày đánh trận Bình Lệ Nguyên, chính phụ hoàng đã bảo anh Tĩnh Quốc đến chỗ Hưng Ninh vương và Hưng Đạo vương dùng cơm.

Tôi được biết hoàng đế cũng là một người có lòng hướng Phật nên tâm rất từ bi. Giờ hay chuyện này, tôi càng hiểu vì sao những năm qua, lão già không mảy may oán giận người đã cướp đi mẹ mình, chỉ có cảm thông và kính trọng.

- Quan gia thật có lòng. – Tôi hình dung bữa cơm mà ba anh em lão già ăn cùng nhau, chắc ít nhiều ngượng nghịu, nhưng ấm áp, trong lòng cũng thấy vui vui.

- Ngươi gặp Hưng Ninh vương rồi, chắc là đã thấy vết thương trên tay ông ta? – Quang Khải bất chợt hỏi.

- Thấy rồi, khá nặng.

- Ta nghe kể lại trên đường rút về Thăng Long, khi vượt sông Cà Lồ, Hưng Ninh vương đã cùng Phú Lương hầu dẫn quân bọc hậu cho phụ hoàng và thái tử. Phú Lương hầu là chú họ của bọn ta, Hưng Ninh vương đã đỡ cho chú ấy một nhát nên mới bị thương như thế. Phú Lương hầu lệnh cho Đỗ Ngạc đưa Hưng Ninh vương đi trước nhưng tiên sinh nhà ngươi cũng cứng đầu lắm, Đỗ Ngạc thuyết phục ra sao, nhắc đến việc Phạm Cự Chích đã hy sinh để cứu ông ta thế nào, ông ta cũng không đi.

Chuyện đã qua từ lâu, tôi đã gặp lại lão già bằng xương bằng thịt nhưng nghe đến đây vẫn không thôi lo sợ, hỏi dồn:

- Thế lúc ấy phải làm sao?

- Phần lớn quân đội đều đã vượt cầu Phù Lỗ, chỉ còn một ít quân Thánh Dực và quân của Phú Lương hầu. Khi ấy, anh Tĩnh Quốc cứ thúc ngựa vòng đi vòng lại bên bờ sông, sau cùng không kiềm được, gọi lớn một câu.

- Là câu gì? – Tôi sốt ruột.

- “Anh cả.”

Tôi sững sờ, Quang Khải kể đến đây cũng nghẹn giọng.

Trên danh nghĩa, Tĩnh Quốc vương là con ruột của quan gia, chuyện xấu ngày xưa chẳng ai dám nhắc lại nữa. Tiếng gọi ấy, có lẽ vương đã phải kiềm nén suốt hơn hai mươi năm sống trên đời.

- Cũng may câu nói đó chỉ có mấy người ở gần nghe được. Vả lại, giữa lúc sinh tử, chẳng ai nỡ bắt tội làm gì. – Quang Khải lại đưa chén rượu lên môi. – Hưng Ninh vương khi ấy mới cắn răng mà vượt sông. Quân Thánh Dực vừa đặt chân lên hết bờ bên này, Phú Lương hầu đã vung gươm chặt đứt cầu Phù Lỗ rồi hiên ngang xông về phía quân Thát đang đuổi sát nút phía sau, chưa từng ngoảnh lại.

Tôi vươn thẳng lưng, ngước nhìn lên cao để nước mắt không rơi xuống. Người ta hay nói “tối như đêm ba mươi”, song tôi mơ hồ thấy phía trời xa kia có một vệt sáng đang lấp lánh. Ngôi sao ấy có thể là Phú Lương hầu, là những người lính đã lần lượt ngã xuống kia. Nhất định họ ở trên cao dõi mắt nhìn lũ trẻ bọn tôi sống thế nào, chiến đấu thế nào.

Nhất định, họ cũng đang cười.
 

suongthuytinh

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
23/6/14
Bài viết
423
Gạo
930,0
Truyện bạn hay lắm. Đọc mà thấm thía từng chút một khí phách giết giặc hào hùng của Đại Việt ta. Mong chờ chương sau. Mong chờ tác giả đừng drop truyện...
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
Truyện bạn hay lắm. Đọc mà thấm thía từng chút một khí phách giết giặc hào hùng của Đại Việt ta. Mong chờ chương sau. Mong chờ tác giả đừng drop truyện...

Mình khá tâm đắc với bộ này nên sẽ không ngưng giữa chừng đâu. Cảm ơn bạn đã yêu thích nhé! Chắc sẽ sớm có chương mới í.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 33: NHẤT HỒI PHÓNG HẠ, NHẤT HỒI CAO[1]

Tôi cứ ngỡ mình đã quen với cảnh đầu rơi máu chảy và những cuộc sinh ly tử biệt, hoá ra cái chết của người lính tên Chiến vẫn ám ảnh trong giấc ngủ nhiều đêm sau đó. Tôi không ngừng mơ thấy cụ Đảm, bác Thôi và những người đã ngã xuống trước mắt tôi. Bên tai tôi luôn ít nhiều văng vẳng tiếng thét xung trận của Nguyễn Nam, của Phú Lương hầu và trăm nghìn binh sĩ mà tôi chưa từng gặp mặt. Tôi còn trông thấy chị tôi, thấy anh Thân, thấy sư ông Phúc Đường… mọi người cứ đi mỗi lúc một xa, tôi gọi thế nào cũng không ngoái đầu nhìn.

Mỗi lần như thế, tôi đều không ngủ lại được. Co ro nằm sát mép giường, tôi rúc sâu trong chăn, cố hình dung hơi ấm của lão già ở cạnh bên để trấn tĩnh. Thế nhưng, nghĩ đến lão, tôi chỉ nhớ đến những câu chuyện Quang Khải đã kể tôi nghe, về lần lão bị thương nặng đến mức không dám về nhà năm ngoái, về việc lão liều mạng muốn ở lại đồng sinh cộng tử với Phú Lương hầu. Sau mỗi người lính đều có gia đình, có thầy mẹ, vợ con, đều có thứ khiến họ lưu luyến mà một lòng muốn sống. Lão già của tôi, phụ mẫu đều thác từ lâu, vợ chỉ là danh nghĩa, không con không cái, lão lại là người coi nhẹ việc sinh – tử, thế nên trước giờ tôi luôn không dám nghĩ xa hơn, chỉ mong lão nghĩ đến thân phận chủ tướng, dưới trướng còn bao nhiêu binh sĩ trông đợi mà thương tiếc sinh mạng mình.

Kể ra, tôi cũng giống như lão, không còn ai là máu mủ trên đời. Lão còn có Hưng Đạo vương, công chúa Thiều là anh em cùng cha, có họ Trần là thân thích dẫu không quá mặn mà, có địa vị tôn quý, có cả một sự nghiệp Phật học rực rỡ. Còn tôi, những mối quan hệ xung quanh tôi hiện tại đều nhờ lão mà có: chị gái tôi, những người bạn ở Dưỡng Chân trang, Quang Khải, Trần Cụ, những người lính quân Thánh Dực. Thế nhưng tôi lại thiết tha quá với cuộc đời này, mà lão không phải là lý do duy nhất.

Càng lớn, càng trải qua nhiều chuyện, tôi càng nhận ra thế giới của tôi và lão không chỉ có mỗi nhau. Lão hay tôi càng không thể chỉ sống vì đối phương. Song, trong hoàn cảnh thế này, tôi hy vọng biết bao ít nhất lão có thể nghĩ đến tôi mà dù thế nào cũng phải sống sót, phải bình an. Tôi biết lão thương tôi, xót tôi, có thể làm mọi thứ để bảo vệ tôi, nhưng tôi cũng biết mình chẳng thể làm gì để giữ chặt dẫu là đôi chân, hay là sinh mạng lão.

Sau đêm khao quân, lính canh báo lại rằng trông thấy khói hiệu từ phía đông Cổ Mai. Quan gia liền ban chiếu lệnh chuẩn bị tiến về chiếm lại Thăng Long nên không khí chiến đấu càng rộn ràng. Điều đặc biệt duy nhất gợi cho chúng tôi nhớ về việc năm mới sắp sang có lẽ là hương lá xông phảng phất khắp hành cung và hậu viên mà các cung nhân đã cất công chuẩn bị để xua đi mùi áo giáp, binh khí lạnh lẽo. Đi đến đâu cũng ngửi thấy mùi trầm, quế, vỏ bưởi mà ấm cả lòng. Công chúa Thiều còn dặn bọn tôi phải kiêng cữ, chỉ được nói lời hay ý đẹp. Thành thử trong mấy ngày sau đó, tai của bọn giặc được yên ổn hơn đôi chút vì mọi người chỉ nhắc đến năm mới, đến đoàn viên, đến những hy vọng tràn đầy.

Nhìn mọi người hăng hái, vui tươi như thế, khói hiệu từ quân Thánh Dực cho tôi biết lão già vẫn an toàn, lại thêm Nhật Duật thỉnh thoảng đến chơi cùng, tinh thần của tôi cũng được xốc lại phần nào dù đêm đến vẫn khó ngủ tròn giấc. Tôi chợt thấm thía cái ý nghĩa của năm mới mà lão già đã dạy, rằng người ta chỉ cần còn sống và còn một cột mốc trong tinh thần là đủ để bắt đầu lại, tin tưởng và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Độc túc tráng sĩ của tôi cùng rất nhiều người lính đã không thể giữ được cả hai điều này. Chốc chốc nhớ đến lời hứa nấu nước lá thơm gội tóc cho cụ Đảm, tôi lại cố gạt đi để khỏi buồn não ruột.

Sau đó một hôm, thái tử đến đúng lúc tôi đang hầu chuyện công chúa Thiều. Ngài hỏi han, dặn dò hồi lâu với em gái của lão già. Đúng lúc tôi toan tìm cớ tránh đi để khỏi phiền họ thì ngài liền hỏi đến:

- Ta nghe Chiêu Minh khen ngợi cô là truyền nhân ưng ý nhất của Hưng Ninh vương. Có việc này tin là không ai thích hợp hơn cô. – Ngài nói.

- Xin thái tử cứ dạy việc, Nhã Phong dù chết cũng không từ. – Tôi khảng khái quỳ xuống đáp, trong lòng khấp khởi mừng thầm.

Hôm qua tôi có tâm sự với Quang Khải việc mình khó ngủ vì lo lắng mãi cho an nguy của lão già, van nài hắn giúp tôi chuyển lời đến Tĩnh Quốc vương rằng nếu ngài có theo quan gia xuất trận thì cho tôi một chân trong quân để có thể nhanh chóng đến gần lão. Tôi đoan chắc hắn sẽ mắng tôi ra trò vì thân lừa ưa nặng, chẳng ngờ hắn trầm ngâm giây lâu rồi nhận lời ngay. Ngạc nhiên hơn, thay vì ngỏ lời với Tĩnh Quốc vương, hắn đã tiến cử tôi cho người có quyền lực chỉ đứng thứ hai hiện giờ của đất nước này. Vai tôi khẽ run vì cố nhịn cười, thỉnh thoảng, tên bằng hữu này lại khiến tôi xúc động đến rơi nước mắt.

- Từ hôm nay đến lúc giặc Thát ra khỏi biên cương… - Thái tử thong thả, tim tôi cũng chậm rãi đập từng tiếng theo tốc độ nói của ngài. – Phiền cô đến ở điện thờ trông coi việc khói hương và tế bái liên tục để cầu cho quân ta chiến thắng.

Trong sự ngỡ ngàng, đầu tôi từ cúi rất thấp đã cắm thẳng xuống sàn đánh cộp một tiếng. Trần Cụ đến từ lúc nào, vội vã đến đỡ tôi đứng dậy, luôn mồm hỏi:

- Cô Nhã Phong có đau không?

Quang Khải cũng vừa bước vào, mặt nhơn nhơn tự đắc như thể vừa lập được đại công. Tôi mặc kệ hắn, nhìn quanh quất tìm thái tử để xin ngài giao nhiệm vụ khác.

- Đừng tìm nữa, thấy ngươi ngoan ngoãn dập đầu nhận mệnh nên anh ấy hài lòng lắm, đi rồi. – Tên Chiêu Minh vương đáng hận cười nửa miệng, trỏ trỏ tay ra cửa.

Tôi vùng ra khỏi tay Trần Cụ, lao đến bóp cổ Quang Khải không thương tiếc, mặc kệ xung quanh có bao nhiêu người, mặc kệ thân phận và lễ nghĩa. Hắn chống trả một cách yếu ớt vì còn mãi cười khùng khục.

- Cô Nhã Phong! Ngài ấy là hoàng tử đấy! – Trần Cụ và mấy người hầu có mặt thảng thốt kêu lên rồi lao đến kéo tôi ra.

- Không… phải… ý… của… ta… - Quang Khải cố chống chế.

- Nhã Phong, bình tĩnh lại! – Công chúa Thiều cũng lo lắng can ngăn.

Đến khi thấm mệt vì giằng co, tôi bước lùi về sau. Mọi người thận trọng buông tôi ra như thể sợ tôi sẽ lại lao vào giết Chiêu Minh vương của họ. Tôi hất hàm, ra lệnh cho Quang Khải giải thích nhanh nếu muốn toàn mạng. Hắn đưa ngón tay lên môi tỏ ý giữ im lặng, đoạn khoát khoát tay ra hiệu cho mọi người lui cả đi. Công chúa Thiều và bọn Trần Cụ ngần ngại mãi mới bước khỏi phòng, không quên vừa đi vừa lo lắng ngoái lại trông.

- Hung hăng phết. – Đợi mọi người đi hết, hắn mới xoa xoa chiếc cổ đã đỏ ửng. – Ngươi được thả ra có khi sẽ cắn chết giặc trong một sớm một chiều, sao bọn họ phải lao tâm khổ tứ làm gì.

- Bọn họ? – Tôi nhếch mép lạnh lùng. – Đừng nghĩ nói như thế thì có thể thoát cái tội ăn nói hai lời, ném đá giấu tay, tham sang phụ khó, được chim bẻ ná được cá quên nôm, gió chiều nào theo chiều ấy…

Tôi nói một hơi khiến Quang Khải bật cười. Hắn ung dung bước đến rót hai chén nước chè, đưa một chén đến trước mặt tôi. Bị tôi liếc trông bằng ánh mắt sắc lẻm, hắn vẫn cười cười, tôi hậm hực cầm lấy chén nước chè nhưng chẳng buồn xơi vì mãi đợi hắn giải thích xem có lọt tai không.

- Đúng là bản vương thấy ngươi kiếm thuật tầm thường, mưu kế tầm phào, không muốn ngươi tự đâm đầu vào chỗ chết. Song, bản vương thực sự đã đi tìm anh Tĩnh Quốc như lời hứa với ngươi.

- Tìm Tĩnh Quốc vương mà người đến đây là thái tử, lại còn “nghe Chiêu Minh nói”…? – Tôi nghiến răng ken két.

- Ta định bàn với anh ấy cách nào để ngăn cản ngươi, không ngờ anh ấy đã có sẵn kế sách rồi.

Quai hàm của tôi đang nghiến chặt chuyển sang đông cứng. Hành vi đó không thể nào là của người đàn ông sống thu mình, khiêm cung, nhẫn nhịn hơn hai mươi năm. Chỉ có thể là…

- Lúc mấy anh em gặp nhau, Hưng Ninh vương đã nhờ ngài ấy trông chừng nếu gặp ta có phải không? – Tôi lạnh lùng.

Quang Khải vỗ tay từng tiếng, trầm trồ:

- Hung hãn thế kia, đầu óc nhanh nhạy thế này, lão già của ngươi không cho ngươi ra trận quả là đáng tiếc!

Tôi nắm chặt chén nước chè trong tay đến phát run, mặc kệ tên bạn chí cốt vẫn lải nhải bên tai:

- Bản vương làm ơn mà mắc oán. Giờ ngươi đã thấy mình sai chưa, còn không mau quỳ xuống tạ tội với đức ông đây…

Cái chén bị đấm mạnh xuống bàn thành một tiếng “rầm” rất lớn. Lửa giận trong lòng tôi càng quạt càng cháy lớn, cuối cùng, tôi ngửa mặt lên trời, hét:

- Trần Tung, người giỏi lắm!


***


Phía tây hành cung, vùng đất cao nhất một mặt giáp núi có xây một Phật điện rất trang nghiêm. Thường ngày, nơi này được coi sóc bởi mấy vị tỳ kheo và những cung nhân mộ đạo. Tôi dẫn theo Trần Cụ đến bày biện lại đôi chút, soạn lễ cúng dường để cầu phúc cho dân và cho chiến thắng của quân ta theo lệnh thái tử. Hoàng tộc họ Trần nhiều người hướng Phật, song tôi vẫn được họ tín nhiệm, phần vì uy tín của lão già, phần vì tôi có thể đối đáp Phật lý trơn tru hàng canh giờ với bất kỳ ai trong số họ nhờ nhiều năm liền chép kinh chịu phạt.

- Biết ngay là ngươi lười nhác trốn việc, bỏ lại mọi thứ cho gã thương binh Trần Cụ. – Quang Khải ngồi xổm trước mặt tôi, giễu nhại.

- Chốn này linh thiêng, xin Chiêu Minh vương chớ có lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử mà đắc tội với Phật Trời. – Tôi đáp, không buồn ngẩng mặt lên.

- Ta vừa đến đã thấy tên sư đệ khốn khổ của ngươi một tay sửa sang hoa đèn, lại đứng một bên hầu, chừng khách đã khấn xong lại cung kính bước đến xin hương rồi tự tay cắm vào đỉnh. Nơi này đâu có thiếu người để một kẻ vết thương còn chưa kéo da non như hắn đi làm việc ấy? – Quang Khải có vẻ như rất tức giận, rất chính nghĩa. – Dẫu gì thì ngươi cũng do bản vương tiến cử, đừng làm mất mặt ta.

Tôi hậm hực đập tay xuống nền đất, vểnh cổ nhìn Quang Khải:

- Uổng cho ngươi đã bỏ thì giờ đàm đạo với sư đệ của ta bấy lâu nay.

- Nói thế là ý gì? – Quang Khải hỏi.

- Ngươi thấy Trần Cụ chật vật đi lại dâng hương, thế đã bước đến mà nhìn số hương cắm trong đỉnh chưa?

Tên bằng hữu của tôi chậm chạp lắc đầu. Tôi cười khẩy, vừa nói vừa vung tay phụ hoạ:

- Mỗi cây đều cắm thẳng đứng, cách đều tăm tắp, đến cả phần hương cháy tàn cũng cong đều như nhau không dài không ngắn. Ông đây tự thẹn không có bản lĩnh ấy, chen vào chỉ tổ khiến lễ cúng mất cả thành tâm. Ngươi có giỏi thì đi mà giúp một tay.

Trong lúc Quang Khải còn ngơ ngác, tôi nói tiếp:

- Hắn đã có cả pháp danh rồi, chỉ đợi ngày xuất gia thôi?

- Gọi là gì?

- Thích. Đối. Xứng.

Quang Khải như chợt tỉnh, phá lên cười. Tôi vẫn nhếch mép khinh khỉnh, tiếp tục việc đang làm dở. Một lúc sau, tôi chợt nhớ ra điều mình vẫn đợi hắn đến để báo cho mà biết:

- Trầm và hương dùng cho hoàng tộc là của nơi nào thế?

- Sao hôm nay ngươi quan tâm đến việc này?

- Ta ngờ rằng đó không phải là hàng tốt. – Tôi nhỏ giọng, đưa tay áo đến gần mũi hắn. – Ngươi ngửi thử xem, mùi hương hoàn toàn khác với hương trầm bám trên người lão già nhà ta. Mùi hương lão dùng dễ chịu và bình yên hơn nhiều.

Lần này đến lượt Quang Khải nhếch mép cười đầy vẻ xem thường. Tôi không hiểu lý do đằng sau nụ cười của hắn, song lại nghĩ biết đâu truy cùng đuổi tận sẽ vô tình gây hoạ cho những kẻ liên quan, đành tự nhủ mình phải từ bi mà nói sang việc khác.

- Ta nghe nói ngày mai sẽ xuất binh, Chiêu Minh vương rỗi việc lắm sao mà đến đây chọc phá ta?

- Quên mất, ta đến cùng thái tử, anh ấy tìm ngươi có việc. – Quang Khải chỉ chỉ tay về phía chính điện.

Tôi đứng phắt dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra ngoài, mồm vẫn không quên trách móc:

- Lần sau ngươi đợi mộ ta xanh cỏ rồi hãy báo.


Khi tôi ra đến sân trước, công chúa nhà tôi đã thay tôi hầu chuyện thái tử tự bao giờ. Tôi ngoảnh ra sau nhìn, Quang Khải nhún nhún vai rất vô tội như để giải thích cho thái độ cà kê ban nãy. Nhác thấy tôi, thái tử liền vẫy tay gọi đến.

- Quả nhiên việc này chỉ có thể giao cho cô. – Ngài mỉm cười hiền từ, khen ngợi.

- Bẩm, chẳng qua Nhã Phong đã quen việc lúc còn ở Dưỡng Chân trang, cũng nhờ tiên sinh nhà tôi dạy bảo đến nơi đến chốn. – Tôi cúi mặt, khiêm tốn đáp.

- Ta nghe kể lại lúc ở bộ đầu Triều Đông, Hưng Ninh vương đã dùng sự nhiệm màu của Phật pháp khiến cho bọn giặc thất kinh. – Thái tử nói, mắt hướng về ban thờ được Trần Cụ bày biện rất tươm tất với những đĩa hoa có sắc có hương vô cùng tao nhã. – Ta tin cô cũng hiểu lễ cúng hôm nay và ngày mai không đơn giản chỉ để nhờ thần linh phù hộ…

- Xin thái tử cứ dạy việc. – Tôi lễ phép thưa.

- Trước lúc ra quân, ta cũng muốn học theo cách của tiên sinh nhà cô, mượn sự linh thiêng làm nức lòng tướng sĩ. – Ngài cười. – Tin rằng việc này với cô dễ như trở bàn tay.

- Thái tử chê cười rồi, quá lời rồi! – Tôi vẫn cúi mặt nên không cần giấu nụ cười đắc chí. – Thỉnh ngài dời bước đến sau Phật điện sẽ thấy huyền cơ.

Tôi đi trước dẫn đường, ngang qua Quang Khải, không quên nháy mắt với hắn. Khi thái tử đến, sân sau đã đầy những đồng tiền có hai mặt giống hệt nhau, phản chiếu ráng chiều lấp lánh.


***


Buổi sáng ngày xuất quân, trời xanh trong biêng biếc, gió lồng lộng và nắng vàng như rót mật. Bên bến sông ngày thường trầm mặc, đoàn lâu thuyền sừng sững nối đuôi nhau về tận cuối trời, chim hót rộn ràng như nhạc khúc, quân kỳ đủ sắc màu bay phần phật tựa muốn góp lời ca.

Toàn thể hoàng tộc và các tướng lĩnh có chức vụ cao nhất lần lượt tề tựu trước tế đàn đặt ngoài trời, ngay trước điện thờ, xôn xao bàn tán. Trên vách đá cao, những đường nét mô tả hình dáng đấng Thế Tôn sừng sững hiện ra trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Mới tối hôm qua, vách đá này còn bị che khuất bởi một tàn cây. Tôi không rõ thái tử đã cho người âm thầm chuẩn bị việc này từ lúc đến hành cung, hay đây là tác phẩm của quan gia từ rất lâu về trước, ngay lúc bắt đầu xây dựng phật điện ở vị trí này. Chỉ biết, giữa đêm qua, tôi đã giật mình tỉnh giấc vì tiếng động khá lớn khi cả gốc cây bị nhổ bật lên.

- Đây là điềm lành! – Có người lên tiếng.

- Chúng ta chiến đấu vì chính nghĩa! Phật tổ cũng đứng về phía ta rồi! – Ai đó reo lên, rồi mọi người đồng loạt reo lên.

- Tất thắng! Tất thắng!

Đứng bên trong nhìn ra, quan gia và thái tử hài lòng nở nụ cười. Tôi, Quang Khải và Trần Cụ cũng mỉm cười thích thú. Bỗng có kẻ hầu đến tâu rất khẽ:

- Công chúa nhờ người chuyển đến cho quan gia và ngự sử trung tướng, chúc hai vị sớm khải hoàn ạ.

Ngự sử trung tướng đứng ngay cạnh hoàng đế, hai người lặng lẽ nhìn nhau rồi nhìn xuống hộp gỗ nhỏ đang mở trên tay: hai tua vải buộc chuôi gươm giống hệt nhau màu đỏ rực được kết rất công phu. Quan gia đưa một cái cho ngự sử trung tướng, ánh mắt thoáng xa xăm rồi ngay lập tức trở lại sáng rực, nhìn về phía ba quân vẫn đang sôi nổi vì điềm lành được thần linh bảo hộ.

- “Công chúa” nào ngươi có biết không? – Tôi khẽ hỏi Quang Khải.

- Công chúa tiền triều. – Hắn thấp giọng đáp. – Ta nghe kể thuở nhỏ, ba người họ từng rất thân thiết, hiểu ý nhau. Bà ấy cũng đang ở Hoàng giang.

Hắn đang nói đến công chúa Chiêu Thánh triều Lý, em gái của công chúa Thuận Thiên, người đã từng là nữ đế tiền triều rồi bị buộc phải nhường ngôi, mang triều đình đổi họ cho chồng, trở thành hoàng hậu rồi thành phế hậu. Những năm qua, nghe nói bà ấy đã đi tu ở một ngôi chùa gần kinh thành. Lẽ nào là Phật pháp nhiệm màu, xoá được những oán hận trong lòng bà ấy để hôm nay bà có thể đường hoàng đưa lễ vật cho người chồng đã vô tình hay cố ý ruồng bỏ mình, cướp lấy vương vị của mình, phá vỡ gia đình của chị mình?

Mãi nghĩ về những việc này, tôi không nhận ra công chúa Thiều nhà tôi đã kéo thái tử sang góc ít người trông thấy, thèn thẹn trao tín vật gì đấy. Nhìn một vòng quanh sân, ai nấy đều có người thân lưu luyến tiễn đưa hoặc nhiệt tình động viên, chỉ có Tĩnh Quốc vương lặng lẽ đứng một góc, theo sau là hai người tì thiếp cũng nhút nhát cúi đầu. Tôi thấy chạnh lòng rồi chợt nhớ ra, bảo Quang Khải:

- Ta về phòng lấy một vật, nếu thái tử có hỏi thì ngươi nói giúp là ta sẽ quay lại ngay.

Tôi sải bước về phòng mình, lục tìm chiếc khăn có thêu hình đoá mộc lan. Đoạn, nghĩ rằng tặng khăn sẽ khiến người khác hiểu lầm, tôi vớ ngay mấy chiếc bánh bày trên đĩa, dùng khăn gói lại, vội vội vàng vàng quay trở lại chỗ tế đàn.

Bước chậm vài nhịp để điều hoà hơi thở, tôi nhân lúc không ai để ý, tiến lại gần Tĩnh Quốc vương:

- Nhã Phong có làm ít bánh quê, ngài mang theo đi đường cho khỏi buồn miệng.

Tĩnh Quốc vương còn đang chưa hiểu chuyện gì, tôi đã nhanh chóng lật phần có hình đoá hoa lên cho vương thấy, nói liền:

- Mong ngài bình an, thắng trận trở về.

Cũng may, ngài ấy hiểu ý tôi muốn thay mẹ ngài động viên con nên chỉ thoáng xúc động rồi mỉm cười thật buồn:

- Cảm ơn cô.

Xung quanh, tướng sĩ bắt đầu khua giáo gươm reo hò inh ỏi, tôi nhanh chóng len vào đám người để đến gần tế đàn, trở lại chỗ đứng cạnh Quang Khải.

- Cứ tưởng ngươi lẻn đi đánh ngất một binh sĩ để cướp áo giáp của người ta rồi.

- Ông đây mà muốn thì cứ đường đường chính chính vào quân. – Tôi cười nhạt. – Nhưng ta nhận ra việc mình có thể làm hay ho hơn nhiều so với múa giáo vung gươm.

Chúng tôi không nói gì thêm vì bốn bề đã lặng yên, chỉ còn tiếng gió và tiếng chim rộn rã. Trên đài cao, quan gia, thái tử và thái sư đã đứng ở nơi trang trọng nhất.


[1]Trích bài thơ Chiếu thân của Tuệ Trung Thượng sĩ:

“Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng dã siêu quần kiêm bạt tuỵ,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.”

(Dịch nghĩa:

Cháy đầu bỏng trán, thì được mặc áo bào vàng,
Còn mình năm bảy năm nay vẫn ở nơi xay giã.
Nếu là bậc siêu quần xuất chúng,
Thì cứ mỗi lần hạ xuống lại một lần lên cao.)
 

Đạp Nguyệt Lưu Hương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
2/8/16
Bài viết
404
Gạo
0,0
Văn phong tốt, nội dung ổn. Không có gì để chê hay bàn thêm. Nhưng mình đã dừng ở lại giữa chương 3 và không đọc tiếp nữa.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
Gửi các bạn đọc của mình, cảm ơn mọi người đã quan tâm theo dõi Cố niên hoa, chương tiếp theo sẽ được đăng trong tuần sau nhé ạ.

Ở bài viết này, mình xin phép mượn đất để quảng bá đôi dòng về cuốn sách đầu tay của mình vừa ra mắt hôm nay:

THÔNG BÁO PHÁT HÀNH - SÔNG NÚI CHƯA GIÀ

Tác giả: Phương Uyên

“Một cánh vạc mấy trời quan tái
Má hồng phai, sông núi chưa già.”

Lịch sử của dòng dõi Lạc Hồng vẽ nên từ máu. Suốt bốn nghìn năm, bao nhiêu lớp người ngã xuống là từng ấy lớp người đã đứng lên để cương thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Có anh hùng vung giáo gươm, có dân đen đổi xương máu, cũng có những phận người mượn phấn son và hương sắc mà xây thành lũy. Tập truyện ngắn bạn đang cầm trên tay viết về những con người như thế.

Rồi son phấn hay sắc hương đều sẽ cuốn theo gió bụi thời gian. Năm tháng trôi qua, những gì còn lưu lại chỉ là một cái tên được nhắc đôi lần trong sách sử. Quốc gia cũng trải qua mấy mùa binh lửa, đổi họ bao lần.

Chỉ có núi sông là còn mãi.

Cuốn sách bao gồm bốn truyện: “Sơn hà tại”, “Ngàn dặm”, “Viễn xứ”, “Trăng già”. Mỗi truyện lần lượt là câu chuyện về các nhân vật lịch sử: Thái hậu Dương thị thời Đinh - Tiền Lê, Công chúa Huyền Trân thời Trần, Công nữ Ngọc Khoa thời Trịnh - Nguyễn, khởi nghĩa Lê Ngã thời Minh thuộc.

---

Sách được bán ở trang web của nhà sách Tri Thức Trẻ Books, mọi người vui lòng tìm theo tựa sách và tên tác giả giúp mình ạ. Cảm ơn mọi người đã yêu thích truyện của mình!
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 34: HỒN TỬ SĨ GIÓ Ù Ù THỔI[1]

Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy thái sư Trần Thủ Độ ở một khoảng cách gần như thế.

Trước đây, những gì tôi từng nghe về ông ta chỉ là vài lần người ở Dưỡng Chân Trang và phủ an phủ sứ vô tình nhắc đến. Lão già không muốn nghe đến cái tên này nên mọi người tránh mãi cũng thành quen. Tôi luôn tin người khiến lão già nhà tôi không muốn nhắc hẳn phải là kẻ chẳng tốt đẹp gì. Từ khi biết cụ Lý Đảm, tôi càng nghe nhiều hơn về những hành vi tàn nhẫn của ông ta, về việc ông ta đã góp phần khiến nhà Lý suy tàn thế nào, khiến công chúa Thuận Thiên đau khổ và độc túc tráng sĩ của tôi day dứt suốt bao năm ra sao. Tôi cứ hình dung ông ta là một kẻ nhỏ người, mắt xếch, lưng cong, trong đầu chỉ có mưu ma chước quỷ.

Những ngày ở Hoàng giang, những tôn thất họ Trần lại kể cho tôi nghe về một Trần Thủ Độ hoàn toàn khác. Họ kể ngày quan gia còn bé, có kẻ vào gặp vua khóc lóc bảo rằng: “Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Quan gia đem kẻ ấy đến trước mặt thái sư, ông ta không do dự bảo: “Đúng như những lời hắn nói”, rồi lấy tiền lụa ban cho y. Họ nhắc lần quốc mẫu ngồi kiệu đi qua thềm cấm bị quân hiệu ngăn lại, về khóc than với thái sư vì bị khinh nhờn, thái sư chẳng những không xét tội mà còn khen thưởng cho người quân hiệu ấy. Họ bảo ngày giặc Thát tràn sang, thế như chẻ tre, cả triều đình chỉ có thái sư kiên định bảo vua đừng lo gì cả.

Giờ, trước mắt tôi là một người đàn ông tuổi quá lục tuần song vẫn tráng kiện, vai rộng, lưng thẳng, gương mặt quắc thước và đôi mắt sáng như sao nhìn thẳng ba quân, bàn tay rắn rỏi nắm thành đấm, dáng vẻ anh hùng chẳng kém những vị tướng lẫy lừng được ngợi ca trong cổ thi và sử sách.

- Nhã Phong, hóa ra khăn tay em thêu là để tặng anh Tĩnh Quốc ư? - Công chúa Thiều nói nhỏ vào tai làm tôi giật bắn người, trông nàng có vẻ rất lo lắng.

- Cô… thấy rồi ạ? - Tôi lắp bắp, không biết phải giải thích thế nào, chỉ sợ công chúa hiểu lầm.

- Đó là chiếc thêu hỏng ạ. - Nhật Duật chen ngang. - Trong phòng chị Phong có hơn chục cái vì thêu đi thêu lại mãi không thành đấy.

- Suỵt. - Quang Khải ra hiệu cho chúng tôi tập trung về phía đài cao vì lễ tế sắp bắt đầu.

Quan gia đứng giữa đàn, thái tử và thái sư đứng hai bên tả hữu, nghiêm cẩn thực hiện nghi thức tế trời. Tướng sĩ và tôn thất bốn bề cũng quỳ sụp để tỏ lòng thành kính. Khi hương đã được cắm thẳng tắp trên chiếc lư đồng lớn, một người cung nhân khẽ khàng dâng lên chiếc khay dát vàng chứa những đồng tiền mà tôi chuẩn bị sẵn. Thái tử nâng khay, dõng dạc nói với toàn quân:

- Phật Trời chứng giám, tổ tiên linh hiển, một lần xuất chinh quét sạch xâm lăng. Nếu trận này toàn thắng, xin cho mặt ngửa của tất cả đồng xu hướng lên trời.

Nói đoạn, ngài hất mạnh khay để tung những đồng xu lên cao. Dưới ánh nắng sớm, những đồng tiền lấp lánh sáng rực như hy vọng của tất cả chúng tôi lúc này. Một lần nữa, tứ phía đột nhiên im lặng, tất thảy mọi người nín thở dõi theo.

Leng keng.

Leng keng.

Một đồng, hai đồng đầu tiên chạm đất. Rồi tất cả những đồng xu rơi xuống đất, nảy lên vài lần, xoay tròn vài lần nữa.

- Ngửa! Là mặt ngửa! - Một người reo lên.

- Ở đây cũng ngửa! - Một góc khác reo lên.

- Tất cả đều là mặt ngửa! Tất cả đều là mặt ngửa! Phật Trời phù hộ! Tổ tiên phù hộ! - Tất cả mọi người hồ hởi reo lên, tiếng giáo gươm khua rộn rã.

Thái tử nhìn về phía tôi, tôi khẽ cúi đầu, ngài mỉm cười rồi lại hài lòng nhìn khắp lượt. Trên đài cao, thái sư nắm chặt dùi trống, đánh thật mạnh, từng tiếng vang thẳng vào lòng mỗi người đang có mặt.

- Sát Thát!

- Sát Thát!

- Sát Thát!

Mỗi một tiếng trống vang lên là một tiếng hô. Tôi không nhận ra mình đã hòa giọng với mọi người tự lúc nào. Thái sư càng đánh càng say, tiếng trống rất có hồn, vang vào đá, tưởng như hồn thiêng núi sông nghìn năm qua đồng vọng. Tôi thấy lòng mình run rẩy liên hồi hệt như tấm da bò căng trên mặt trống. Trong lúc nhìn khắp những gương mặt rừng rực lửa quyết tâm, đứng trước Phật đường đòi chém đòi giết mà vẫn bừng bừng chính khí, mắt tôi chạm đến bức tượng hộ pháp dữ tợn, bất giác mỉm cười.

- Cười cái gì? - Quang Khải hỏi.

- Đó là Tiêu Diện Đại sĩ. - Tôi nói, mắt vẫn nhìn vào cái miệng rộng lởm chởm răng nanh và chiếc lưỡi dài của bức tượng. - Lúc bé nhìn ông Ác thần ấy ta sợ đến khóc thét. Sau này, lão già dạy ta, ông ấy cũng là một vị Bồ tát. Không phải lúc nào cái hiền lành, từ bi cũng giáo hóa được người mà lắm khi phải cần đến những hình tướng hung bạo để đàn áp, chế ngự, đưa người về nẻo ngay, chống lại cái tàn ác, bảo vệ cho những sinh linh yếu ớt. Giờ nhìn ông ấy ta lại thấy bình yên.

Quang Khải nghe xong, cười cười không đáp. Mắt hắn vẫn dõi theo những gì đang diễn ra trên đàn tế. Tiếng trống xung trận chưa dứt, tiếng mọi người hô to câu giết giặc cũng lặp đi lặp lại mãi, càng lúc càng hùng hổ.

- Chúng ta cũng đi thôi. - Tay Quang Khải đột nhiên đặt lên một bên vai tôi, nắm chặt. - Bản vương không thể đứng nhìn ngươi lập công hết lần này đến lần khác mà ta lại chẳng làm gì được.

Tôi quay sang tên bằng hữu, nhìn mãi cũng không tìm thấy một vẻ bông đùa nào. Hắn là người luôn ngăn cản, khuyên bảo tôi, song hắn cũng vẫn là một chàng trai mới lớn, nhiệt huyết tràn đầy, kiêu hãnh ngút trời. Được lời như cởi tấm lòng, tôi ung dung đấm nhẹ vào ngực hắn hệt như động tác lão già thường làm với thuộc hạ:

- Đi thôi!


---


Khi thấy Quang Khải dắt theo tôi lên lâu thuyền, thái tử chỉ nhìn nhìn mà không nói thêm gì khác. Riêng Tĩnh Quốc vương thì thở dài một tiếng, đoạn ân cần bảo:

- Hai người nhớ tìm chỗ an toàn mà nấp đấy.

- Vâng ạ! - Chúng tôi đồng thanh đáp rất ngoan ngoãn rồi nhìn nhau cười sảng khoái.

Ngày đó, trước sân đền uy nghi diễn ra hội thề Đồng Cổ, bọn tôi đã cạn chén rượu kết giao. Ngày đó, không đứa nào thề thốt câu gì nhưng trong lòng mỗi người đều đã đoan chắc một lời, đời này, kiếp này vinh nhục cùng chia, sinh tử không rời.

Tiếng trống trận của thái sư vẫn còn vang rộn rã đến giờ. Đi theo tôi có cả những người lính của Nguyễn Nam và mấy anh lính quân Thánh Dực, có cả Trần Cụ. Tôi không nỡ ngăn cản vì biết họ cũng như tôi. Quang Khải cũng chẳng có thì giờ từ biệt thê thiếp, chỉ kịp ngoái lại nhìn Phụng Dương và nhận được một nụ cười rất đẹp của nàng. Nhật Duật đuổi sau, nằng nặc đòi đi cùng chúng tôi, may mà Quang Khải nhanh trí trỏ về đám nữ quyến đứng đằng xa:

- Nhật Duật không có ở đây, ai sẽ thay ta bảo vệ cho các cô, các chị?

Cậu bé nhìn theo tay Quang Khải, ngẫm nghĩ giây lâu, đoạn quả quyết tự đấm vào ngực mình:

- Được, hai người cứ yên lòng đánh giặc. Ở đây đã có Duật lo!

Chúng tôi mỉm cười với hoàng tử bé rồi vội vã lên thuyền. Lúc ấy, quốc mẫu - phu nhân của thái sư - đã đến trấn an mấy vị công chúa, mệnh phụ nên tuyệt không có một ai dám tỏ ra mềm yếu.

Nước sông hôm nay chảy xiết hơn mọi ngày, cuộn đỏ phù sa. Người trạo phu trưởng bỗng dưng nhìn xuống dòng nước đục ngầu, nói lớn:

- Chịu khó ồn một chút nhé, hôm nay bọn tôi phải chèo thật lực!

Lời vừa dứt, hàng chục, hàng trăm mái chèo đồng loạt quạt mạnh, nước sông xao động dữ dội như sóng ngoài biển lớn. Dưới lòng sông này, rất nhiều người lính đang yên nghỉ. Nước đỏ như màu máu, cuồn cuộn như lời thúc giục của người khuất mặt.

Thuyền ra khơi rất nhanh, buồm và cờ đều no gió. Thái sư không ra trận cùng chúng tôi, ông ấy dùng tiếng trống thay cho lệnh xuất quân, dõi theo chúng tôi mãi đến khi thuyền đã ra giữa dòng. Thái sư vẫn đứng trên đàn tế, tựa một cột trụ dù trời có sập xuống cũng chẳng mảy may dời đổi, phía sau mỗi người con họ Trần, nửa như động viên lại nửa như răn dạy, không cho phép chúng tôi ngã xuống hay lùi bước.

Xuôi dòng nước, xuôi chiều gió, đoàn chiến thuyền sừng sững lướt như bay qua những khúc sông mà tôi từng ngỡ dài như vô tận, qua ngọn đồi nhỏ tôi gặp lại Quang Khải, qua cánh rừng Trần Cụ anh dũng chiến đấu với giặc. Chẳng mấy chốc, trời vừa xế, Thăng Long đã thấp thoáng trong tầm mắt.

Trần Cụ tìm đâu ra một tấm áo giáp đưa cho tôi, vì không quen nên chật vật mãi tôi mới mặc xong. Bước ra, Quang Khải cũng sẵn sàng khí giới, nhìn tôi đoạn hất hàm cười:

- Tên sư đệ của ngươi cũng nhiễu sự thật, ta nghĩ ngươi không mang giáp nặng còn chạy nhanh hơn, sống lâu hơn được một tí.

Tôi lườm hắn rồi cười mà không buồn đáp. Quang Khải cũng phì cười. Vừa hay, thái tử cho người đến gọi tôi.

- Chúng ta sẽ đánh vào từ phía Đông, Hưng Ninh vương đang ở bên trong Thăng Long, nghĩa là phía Tây của giặc, Hưng Đạo vương đang đóng trên mạn Bắc. - Thái tử nói. - Thông thường ta sẽ dùng lửa, khói hiệu hoặc trống để truyền tin. Nhưng đằng nào cô cũng theo tận đây rồi, cô có nghĩ ra cách nào để Hưng Ninh vương biết chúng ta đã đến mà vẫn bất ngờ không?

Cách để lão già biết tôi đã đến… Tôi khép hờ mắt, trong đầu bỗng dưng nghĩ đến đêm tập kích nọ của lão, tôi lựa lời hỏi thái tử:

- Bẩm, nếu Nhã Phong mượn dùng kế sách năm xưa của người họ Lê và họ Lý, không biết quan gia và thái tử có trách tội không?

- Lý, Lê, Trần đều là con dân đất Việt, mưu kế nào mà chẳng dùng để chống xâm lăng? - Thái tử đáp, dường như đã lờ mờ đoán được ý tôi.

- Đêm đó, giặc Thát vốn đã được một phen thất kinh vì tiếng trì chú của Hưng Ninh vương. - Tôi tự hào nói tiếp. - Giờ cảnh ấy lặp lại một lần nữa, Nhã Phong tin rằng không cần ta động binh, lòng chúng đã tự suy sụp rồi tan rã.

- Tốt! - Thái tử nói. - Vậy ta giao cho cô liệu việc này.

Tôi ôm quyền cúi đầu nhận mệnh, đoạn rất nhanh tập trung những người lính Thánh Dực đi theo. Những người này đã có mặt vào đêm ấy, hiểu rõ cần phải làm gì, tôi chia họ ra mỗi người ở một thuyền, nhanh chóng truyền đạt lại cho binh lính và cả trạo phu. Lần này, trên những chiếc thuyền lớn còn có cả voi và ngựa thật, không cần đến chúng tôi nhọc công giả tiếng. Binh sĩ đông như thế, ắt là âm thanh có thể vang đến chỗ lão già, lão nghe được chắc chắn sẽ biết là tôi đã đến, chắc chắn sẽ có cách trả lời tôi. Trong phút chốc, lòng tôi rộn rã niềm vui và xúc động, cuối cùng tôi cũng có cảm giác có thể kề vai sát cánh cùng lão.

Thuyền giảm tốc độ để chúng tôi hoàn thành việc chuẩn bị. Tôi nhìn mọi người tới tới lui lui mà trong lòng liên tục tự trấn an. Dẫu gì, kế sách trước đây là của lão già, còn lần này tôi phải tự mình thực hiện, chỉ được phép thành công. Khi mặt trời vừa chạm xuống đỉnh núi ở phía xa, tôi rút lá cờ quân Thánh Dực luôn giữ trong người, cột vào một ngọn giáo, rồi nhanh chóng leo đến chỗ cao nhất trên thuyền. Quang Khải và Trần Cụ đưa tay giữ sợ tôi ngã, họ đã khuyên tôi nên để binh sĩ làm việc này song tôi vẫn nhất quyết tự mình làm. Lão già từng gọi tôi là “gió đông”, là điềm lành cho người xuất trận. Nhìn xuống dòng nước, tôi chợt nghĩ lỡ như mình ngã xuống, hoặc bị giặc bắn hạ… song ý nghĩ ấy bị gạt đi rất nhanh, tôi kiên quyết leo đến nơi mà cả chiếc thuyền ở cuối đoàn cũng có thể trông thấy, hít thở thật sâu để bình tĩnh lại. Sức lực dồn cả vào đôi tay, tôi giương ngọn giáo lên cao, nhắm mắt, ngửa mặt lên trời nín thở chờ đợi.

Một cơn gió lớn từ phía sau đoàn thuyền ù ù thổi tới. Tôi nghe như trong gió có tiếng hô xung trận của Nguyễn Nam, tiếng cười sang sảng của cụ Đảm, tiếng khóc của vợ bác Thôi, lời từ biệt của những người lính quân Thánh Dực Dũng Nghĩa và tiếng ru của bà mẹ già mà anh lính tên Chiến luôn mong nhớ. Gió cuối đông mang theo hơi nước lạnh cắt da, song cả người tôi lại rừng rực lửa. Gió rất mạnh nhưng tôi không sợ ngã, vì dường như có rất nhiều, rất nhiều đôi tay đang cùng tôi giữ vững ngọn giáo. Tôi chầm chậm buông tay khỏi lá cờ mình đang giữ.

Cờ lộng gió, phần phật tung bay dưới trời chiều đỏ quạch.

Tôi dùng hết sức bình sinh đọc thật to bài sấm truyền đã vang lên ở đền Trương tướng quân làm giặc Tống khiếp đảm năm nào:

- “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

Những người lính Thánh Dực đứng trên những mũi thuyền phía sau tôi cũng đồng loạt phất cờ. Hàng nghìn, rồi hàng vạn binh sĩ trên các chiến thuyền khắp lòng sông đồng thanh hưởng ứng. Lại tiếng ngựa hí vang, lại tiếng voi rống rền rĩ. Thuyền chèo như bay về phía bộ đầu Triều Đông, tôi phất cờ mỗi lúc một khí thế, mọi người càng chèo càng nhanh tay, càng đọc càng hứng chí, bài thơ thần vang lên mỗi lúc một lớn dần, lớn dần, rồi đột nhiên vang dậy từ tứ phía.

- “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư…”

Tôi sững người. Nhìn về phía Thăng Long, nước mắt tôi bỗng dưng lăn dài, ướt đẫm mặt tự bao giờ.

Trên đỉnh tường thành, dưới bóng hoàng hôn, một ngọn cờ Thánh Dực khác đang khoan khoái hát khúc tráng ca cùng gió lộng. Dáng đứng cao cao, tay chống hông, tay tì chuôi kiếm ung dung nhìn xuống đó, dù từ rất xa, rất xa, tôi vẫn có thể thấy quen. Lão nhận ra tôi! Chiều hôm nay cũng như đêm hôm ấy, chúng tôi cùng nhau ngắm nhìn bọn giặc tan tác vì cả Thần Phật và con người Đại Việt.

- Tâu, Hưng Ninh vương đã sẵn sàng rồi!

Tôi hướng về phía thái tử và quan gia hét lớn từng tiếng một rồi vội vàng lau nước mắt, mỉm cười với lão dù biết lão không thể nào nhìn thấy được. Nước mắt vẫn tuôn vì xúc động, tôi mặc kệ, tiếp tục phất cờ. Tiếng hô từ phía hoàng cung càng lúc càng nghe rõ, Hưng Đạo vương dường như như hiểu được chúng tôi, binh sĩ cũng đồng loạt vừa tiến quân vừa đọc vang câu “Nam quốc sơn hà”. Lời sấm hào hùng nhắc nhở lịch sử hai lần giết giặc của họ Lê và họ Lý như tiếp thêm sức mạnh cho ba quân, ai nấy đều thấy lâng lâng niềm kiêu hãnh.

Quan gia và thái tử vẫn đứng ở mũi thuyền, chiến bào tung bay trong gió. Ngự sử trung tướng Lê Tần đứng hầu ngay phía sau. Quan gia chậm rãi giơ cao thanh kiếm ngang trời, hô to:

- Sát Thát!

Một lời ấy là lệnh tấn công. Những mũi tên và đá bốc cháy đồng loạt bắn về phía bờ. Sau phút bất ngờ, giặc bắt đầu phản công, có những mũi tên bắn trả chúng tôi. Anh lính Thánh Dực cầm cờ trên mui thuyền ngay sau tôi bị trúng tên, ngã xuống, một anh lính khác lập tức chộp lấy ngọn cờ, xông lên thế chỗ.

- Sát Thát! - Tôi nhìn về phía anh ta, hét lớn, tay vẫn nắm chặt ngọn giáo.

Mũi thuyền vừa chạm đất, binh sĩ nhất tề nhảy lên bờ. Ngựa, voi cũng xông lên. Quan gia và thái tử ngồi trên bành voi, hiên ngang xông lên đầu. Ngự sử trung tướng và Tĩnh Quốc vương phò tá hai bên. Tôi nhìn theo vạt áo choàng của quan gia, thấy thấp thoáng bóng lưng kiêu hãnh ngày nào của độc túc tráng sĩ, bất giác mỉm cười. Chắc ông cũng không thể nào ngờ, có ngày “thằng nhãi Cảnh” ông hay gọi lại có dáng vẻ lẫm liệt thế này. Chắc ông càng không ngờ, sẽ có ngày ông và ngài ấy cùng một chiến tuyến, cùng một kẻ thù, cùng nhau xông trận thế này.

Ba quân từ thuyền chiến tràn lên bờ như thác lũ, bước chân người rầm rập rung chuyển đất trời. Bọn giặc không hiểu lời sấm chúng tôi đang đọc có ý nghĩa gì, song khí thế và niềm tự hào bừng cháy trong từng âm thanh, từng nét mặt, từng đường gươm thì không cần đến ngôn ngữ. Thát quân gần như vỡ trận. Tiếng la mắng, thúc giục nhau vang khắp cả rẻo đất. Thế nhưng bọn chúng vẫn là quân đội đã gieo rắc kinh hoàng cho mọi vùng đất đã đi qua. Chúng tập trung lại rất nhanh, ai nấy lên ngựa xông vào chiến đấu.

Từ phía tây và phía bắc, hai đoàn quân dũng mãnh xông đến. Dưới trời nhá nhem, hàng nghìn ánh đuốc tràn đến như lửa ma trơi. Bị tập kích bất ngờ, ba mặt bao vây, lại thêm khủng hoảng về tinh thần, hàng ngũ của bọn giặc lần nữa rối loạn.

Tôi nhìn về phía tường thành, bóng cờ Thánh Dực vẫn ngạo nghễ nhưng lão già của tôi đã rời đi. Bỗng dưng tôi có chút lo lắng, nheo mắt cố nhìn lần nữa rồi tìm kiếm chung quanh.

- Tiên sinh của ngươi là chủ tướng một đội quân, sẽ không dễ dàng gặp nguy hiểm gì đâu. - Quang Khải đã đứng cạnh tôi từ lúc nào. - Hơn nữa giờ thắng bại đã rõ, chẳng mấy chốc giặc sẽ đầu hàng, ngươi cứ ngoan ngoãn ở lại đây.

- Chiêu Minh vương không định lên bờ giết giặc lập công sao? - Tôi trêu hắn.

- Bản vương ở yên trên thuyền để không trở thành con tin trong tay giặc đã là giúp ích rồi. - Quang Khải đột nhiên nhếch mép cười. - Hơn nữa, thuộc hạ ta đưa đến vừa giúp được cho thái tử một việc lớn, công đầu dĩ nhiên thuộc về ta.

- Này thì thuộc hạ. - Tôi dí nắm đấm vào đầu hắn, đoạn vẫn chăm chăm nhìn về phía chiến trường.

Quang Khải nói rất đúng, chiến trường phía trước vẫn không phải là nơi dành cho những đứa trẻ miệng còn hôi sữa như chúng tôi. Dù đã bướng bỉnh theo đến tận đây, dù nôn nóng muốn chạy ngay đến cạnh lão già, tôi vẫn biết mình không nên làm gì ngu dại. Ở cạnh tôi còn có mấy người thương binh vết thương hãy còn rỉ máu, có anh lính vừa trúng tên kia, chỉ cần tôi lên bờ, họ cũng sẽ theo lên, biết đâu sẽ không thể trở về nữa dù chiến thắng đã gần kề.

Tôi và Quang Khải chia nhau đến mấy chiếc máy bắn đá để phụ giúp mọi người. Từng tảng đá lớn bọc ngoài là rơm và cỏ bốc cháy ngùn ngụt lao thẳng vào giữa đội hình giặc, soi lên từng gương mặt kinh hoàng, soi sáng một góc kinh đô mà chúng tôi đang thề chết để chiếm lại. Mỗi lần ánh sáng bừng lên, tôi lại cố kiễng chân nhìn xem có thể trông thấy lão già của tôi đang giết giặc không, nhưng mãi chẳng thấy đâu dù quân Thánh Dực đã từ hoàng cung tràn ra tham chiến. Mọi người vừa làm luôn tay vừa không ngừng đọc sấm. Xen giữa tiếng binh khí chạm nhau, tiếng thét la, âm thanh linh thiêng cứ rền rĩ như thể đất mẹ cũng đang phẫn nộ.

- Cô Nhã Phong để cho tôi, cô dùng cái này đi! - Trần Cụ đưa cung tên của hắn cho tôi, giành lấy tảng đá tôi đang cầm.

- Cẩn thận đấy, ngươi vừa khỏe lại thôi. - Tôi bảo hắn.

Mang cung đến một góc hơi khuất, tôi nhắm vào mấy tên giặc đã len lỏi đến được gần thuyền. Vun vút. Những mũi tên lao đi, một tên rồi hai tên. Giống hệt cái hôm ở chùa sát vai chiến đấu cùng cụ Đảm.

Bỗng, dây cung đang căng thì đứt, chém vào tay tôi bật máu. Tôi thẫn thờ nhìn màu đỏ loang rộng trên mu bàn tay mình, chợt nhớ đến lúc chơi đàn ở Dưỡng Chân Trang, dây cũng đứt giữa chừng như thế này. Hôm ấy, không lâu sau chúng tôi nhận tin Nguyễn Nam tử trận.

- Tiên sinh… - Tôi mấp máy không thành tiếng.

- Phong! Cẩn thận!

Tôi chỉ kịp nghe Quang Khải kêu lên một tiếng, cả thân người đã bị hắn kéo mạnh, ngã xuống sàn. Bắp tay tôi bị mũi tên sượt qua, rách cả áo, máu chảy thành dòng. Quang Khải lặp tức đứng lên, rút mũi giáo phóng về phía bụi cây, tên giặc kêu lên một tiếng rồi nằm vật ra đất. Hắn vội vã tìm khắp khoang thuyền lấy vải và thuốc cầm máu cho tôi.

- Sao bỗng dưng ngươi như người mất hồn thế?

- Ta…

Tôi vẫn nhìn lên vệt máu trên tay, không dám nói ra điều mình đang lo sợ. Ngoài kia, quân ta vẫn đang chiếm thế thượng phong, giặc chết hằng hà sa số. Chỉ một chốc nữa thôi, chúng tôi có thể gặp lại nhau, cùng về Dưỡng Chân Trang. Chỉ một chốc nữa thôi, sao có thể…?

Bỗng dưng, tôi nghe bên ngoài có tiếng lao xao.

[1]Trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 35: MẶT CHINH PHU TRĂNG DÕI DÕI SOI[1]

- Vương phi bé! Vương phi bé!

Tôi không nghe nhầm, rõ ràng có người đang gọi “vương phi bé”. Không biết gia nô nhà ai lại đến giữa chỗ chiến trường tìm chủ thế này? Mà trên thuyền làm gì có vị nữ quyến nào…

- Anh Trương Phi! Anh Trương Phi! - Vài anh lính Thánh Dực reo lên.

Trương Phi? Là anh lính có râu quai nón tôi đã gặp ở Cổ Mai, tưởng nhầm tôi là vợ hoặc ái thiếp của lão già! Như vậy người anh ta đang tìm, “vương phi bé” ấy, chính là… tôi?

- Anh Trương Phi! - Tôi vội vã bước ra ngoài, quả nhiên trông thấy anh lính đậm người thân quen nọ.

- Vương phi bé! - Anh ấy reo lên. - Quả nhiên là cô! Tôi đến đây bảo vệ cô trước, vương gia còn bận việc ngoài kia! Chúng ta thắng rồi!

Trương Phi vừa nói liên hồi, cười sang sảng, vừa sải từng bước dài nhảy lên thuyền. Binh lính Thánh Dực trên các thuyền cũng chạy đến chỗ tôi để mừng anh, ai nấy đều phấn khởi, cười lớn theo từng lời anh nói.

- Phải chi cô được thấy khí thế của vương gia và bọn tôi lúc mở cổng thành tiến ra đánh. Phía Đông thì quan gia và thái tử oai vệ cưỡi voi xông trận. Phía Bắc thì quân của Hưng Đạo vương cầm đuốc tràn xuống như dòng thác lửa. Bọn giặc sợ vãi ra quần, khóc lóc gọi thầy u, gọi cả tổ tông mấy đời! - Anh liến thoắng. - Đáng tội! Để từ nay đừng kẻ nào mơ tưởng bước chân vào nước ta nữa!

- Phong, anh ấy… - Quang Khải nói khẽ vào tai tôi khiến nụ cười trên môi tôi đông cứng.

- Anh Trương Phi! - Tôi nghẹn ngào, ngón tay run run trỏ vào mũi tên cắm sau lưng anh ấy. - Anh bị thương rồi. Để tôi…

Trương Phi ngơ ngác đưa tay ra sau theo hướng tôi chỉ. Đoạn, cả thân hình to lớn của người lính đổ sập xuống sàn. Lúc này tôi mới nhìn thấy rõ mũi tên cắm rất sâu ngay dưới vai anh, xuyên qua lớp giáp, máu ướt đẫm cả lưng áo. Phần vì đang hăng say chiến đấu, phần vì nỗi vui mừng trong tinh thần quá lớn mà anh chẳng thấy đau. Tôi nâng đầu và vai anh dậy, máu ướt đẫm tay.

- Phong, ta vào lấy hộp thuốc cho ngươi, mọi người đứng tránh ra một chút kẻo anh ấy ngộp. - Quang Khải bình tĩnh nói với những người lính xung quanh.

- Vương phi bé… - Trương Phi cố mở mắt, giọng đã run run. - Cô đừng cười, tôi không sợ gì đâu. Nhưng tôi nhớ u tôi quá…

- Tên thật của anh là gì ? - Tôi gượng cười, hỏi.

- Bẩm, Túc. - Anh nói rồi khạc ra một ngụm máu, khóe mắt ươn ướt.

Ánh lửa từ trại giặc đang cháy bừng bừng làm sáng cả một góc trời, soi rõ gương mặt thường ngày luôn hồng hào giờ đã trắng bệch của anh.

- Anh Túc gắng lên, chúng ta sắp thắng rồi! - Tôi giữ chặt vai anh, luôn mồm động viên.

Ngay lúc ấy, giữa tiếng giáo gươm loảng xoảng, tiếng ù ù của gió và lửa, bỗng có tiếng tù và rúc lên vang vọng, một tiếng, hai tiếng, rồi tiếng người réo gọi nhau. Chúng tôi trông cả về phía chiến trường, nín thở đợi tin. Hồi lâu, toàn thể binh lính nhất loạt reo lên:

- Giặc rút rồi!

- Rợ Thát chạy rồi!

- Chúng ta thắng rồi!

Những người lính đứng xung quanh tôi cũng vứt cung tên, giáo nhọn đang cầm trên tay xuống, nhảy cẫng lên ôm chầm lấy nhau làm thuyền chao đảo. Tôi nhìn theo họ, vừa cười vừa khóc, đoạn nhìn sang người bị thương. Đôi mắt mệt mỏi của anh cũng lấp lánh niềm vui:

- Chết tiệt! Thắng thật rồi!

Nói rồi, anh cười sang sảng, hệt như ngày nào chúng tôi cùng nhau làm máy bắn đá rồi cùng đùa giỡn ở rừng mơ. Sau tràng cười ấy, một ngụm máu lớn phun ra, ướt đẫm y phục của tôi. Trương Phi ngoẹo đầu sang một bên, hơi thở yếu dần đi.

- Anh Túc! - Tôi gọi lớn, cố nghĩ ra cách để động viên anh. - Anh gắng lên! U của anh ra đồng sắp về rồi!

- U? - Mắt anh mở to, dáo dác nhìn tứ phía rồi mờ dần, mờ dần. - Con thèm cá nấu chua… - Anh thều thào, cố rúc sâu vào lòng tôi. - U có câu được cá to không…

- Anh Trương Phi!

Trần Cụ gọi khẽ. Những tiếng sụt sịt, nức nở cố nén râm ran đâu đó, lọt thỏm giữa tiếng chửi bới và reo hò dọa giặc lui quân.

- À ơi… - Tôi nghẹn giọng.

“Ru con, con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.

Muốn coi, lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng…”[2]


***


Khi đã đặt Trương Phi nằm chỉnh tề trong khoang thuyền kín đáo, tôi cùng Quang Khải và Trần Cụ ruổi ngựa vào chiến địa đã gần tàn.

Hôm nay là rạng sáng ngày hai mươi lăm tháng Chạp, ánh trăng hạ huyền chênh chếch soi những cột dựng lán cháy nham nhở, những xác chết có lành có khuyết, những vết thương lở loét, những mảnh binh khí nằm la liệt khắp nơi. Cảm giác của tôi chẳng khác gì cái hôm đi tìm Trần Cụ giữa một rừng đầy thi thể, rõ ràng giặc đang bỏ của chạy lấy người, rõ ràng hôm nay chúng tôi đã thắng, song cái mùi tanh tưởi của máu và oán khí chẳng khác gì nhau. Tôi không thấy phấn khởi hay hạnh phúc đến muốn thét lên như đã bao nhiêu lần nghĩ về ngày hôm nay. Cái chết của Trương Phi và vết thương bị dây cung chém trên tay khiến sự lo lắng trong lòng tôi càng lúc càng lớn.

Quân lính mải miết đuổi giặc chạy dài, những người truyền tin không ngừng nhắc đi nhắc lại lệnh của quan gia: “Chỉ được đuổi, không được giết nếu giặc không chống cự”. Nhìn theo dáng vẻ hớt hải phóng ngựa như bay của bọn chúng, tôi chợt thấy buồn cười. Có ai ngờ đội kỵ binh thần tốc giờ lại tận dụng ưu thế tốc độ chỉ để tháo chạy tìm đường sống.

Giữa đoàn quân đang đuổi theo giặc là Hưng Đạo vương. Dáng người vương cao lớn, từ xa có thể dễ dàng trông thấy. Tôi cố rướn người tìm kiếm trong đám đông hỗn loạn, mãi mà chẳng thấy lão già đâu. Chẳng có ai biết từ chập tối đến giờ đã xảy ra những việc gì, ai còn ai mất. Bỗng, đúng lúc Hưng Đạo vương xoay người lại để chỉnh đốn quân binh, một mũi tên từ đâu xé gió lao thẳng đến. Một bóng người phóng ngựa lao đến chắn trước mặt vương, tim tôi suýt nữa thì hẫng đi một nhịp.

- Anh Tĩnh Quốc! - Quang Khải thảng thốt.

Khi bọn tôi ngỡ như Tĩnh Quốc vương sắp ngã xuống thì một mũi tên khác bay vút đến nhắm thẳng vào giữa thân mũi tên của giặc làm nó bay chệch hướng, cắm xuống đất. Tài thiện xạ này tôi đã được chứng kiến một lần. Tôi vội nhìn về phía mũi tên thứ hai được bắn ra. Chủ tướng quân Thánh Dực hiện ra giữa khói bụi mịt mù, chậm rãi hạ cung, đoạn thúc ngựa chạy về phía hai người em trai, chiến bào lộng gió trông xa như đôi cánh. Cũng hệt như cái đêm lửa cháy ngút trời ấy, tôi càng tin vào ý nghĩ từ bé đến lớn, rằng cái người luôn ở cạnh mình kia chẳng phải người trần mắt thịt như mình.

Thế nhưng, là thần cũng được, là người cũng tốt, có là quỷ cũng chẳng sao, chỉ cần lão bình an là đủ. Lòng tôi như trút được tảng đá nghìn cân, cứ đứng ngây ra như phỗng nhìn ba anh em của lão nói với nhau điều gì đó, cười với nhau, đấm vào ngực nhau rồi Hưng Đạo vương tiếp tục xua quân đuổi giặc, còn lão nhìn nhìn về phía bờ sông, chỗ đoàn thuyền đang neo đậu.

- Đến gặp tiên sinh của ngươi đi. - Quang Khải nhắc.

Tôi chợt tỉnh, quan sát xung quanh tìm đường đến chỗ lão, cẩn thận từng bước để ngựa không giẫm lên xác một ai. Bỗng, từ chỗ trại giặc ở phía xa, tôi thấy một tên Thát bị thương ở chân đang cố trèo lên lưng ngựa. Chẳng cần suy nghĩ gì, tôi nhặt ngay mấy ngọn giáo gãy trong tầm tay rồi thúc ngựa chạy như bay đến đó, vì băng ngang dòng người nên tôi loạng choạng mấy lần suýt bị xô ngã.

- Cô Nhã Phong, dừng lại!

- Phong! Đứng lại!

- Phong!

Có tiếng nhiều người gọi với theo, song tôi mặc kệ tất cả, chỉ biết lửa hận trong lòng như có cơn gió thổi bùng lên không cách nào dập tắt được. Khi tên giặc đã ở trước mặt, tôi phóng mũi giáo vào đùi con ngựa hắn đang cưỡi. Con ngựa lồng lên, hất tên giặc ngã xuống, tôi cũng nhảy xuống ngựa, cầm mũi giáo lăm lăm tiến về phía hắn.

Gương mặt ấy dù trong mơ tôi cũng không quên, hắn chính là một trong những kẻ đã tấn công bọn tôi ở chùa, là kẻ đã bắn mũi tên vào ngực cụ Lý Đảm của tôi. Hắn trông thấy tôi, đôi mắt long lên sợ hãi. Tôi biết hắn nhận ra kẻ muốn giết hắn để báo thù. Hắn ngồi bẹp trên đất, cố lùi về sau song đã đụng vào một chân cột gãy, không còn đường chạy nữa.

- Cô ơi, xin dừng tay! - Có người lên tiếng can ngăn. - Quan gia đã ra lệnh không được giết nếu giặc không chống cự!

- Cô Nhã Phong, xin đừng! - Trần Cụ cũng kêu lên.

- Phong! Dừng lại! - Quang Khải kéo tôi lùi về sau. - Ngươi đang mặc quân trang Thánh Dực, kháng lệnh như thế khác nào mang tội về cho Hưng Ninh vương!

Hưng Ninh vương… Tôi nhếch mép cười, vùng ra khỏi tay Quang Khải. Anh Trương Phi đã cố sống đến hôm nay lại bỏ mạng ngay lúc thắng trận, còn xác cụ Đảm đã vùi sâu dưới lòng sông lạnh lẽo kia, tất cả là bởi lũ này. Một tay tôi tháo áo giáp, vứt xoạch xuống đất, tay còn lại vẫn lăm lăm mũi giáo chỉa thẳng vào ngực kẻ thù, càng lúc càng gần.

- Phong! - Quang Khải cố khuyên ngăn. - Kẻ thù của chúng ta là toàn quân Thát, không phải một mình hắn! Giết kẻ ngã ngựa thì còn gì là hảo hán đầu đội trời chân đạp đất!

- Ta không phải là lính Thánh Dực, càng không phải là thê thiếp của Hưng Ninh vương! - Tôi nói rõ ràng từng tiếng. - Lúc bọn chúng cùng nhau hiếp đáp một cụ già và mấy đứa trẻ có nghĩ gì là anh hùng, hảo hán đâu! Quan gia có giáng tội thì một mình ta chịu, ta nhất định phải trả thù cho cụ Đảm!

Không có ai nói thêm gì nữa. Tôi nắm chặt mũi giáo hơn, nhắm thẳng lồng ngực kẻ đáng chết kia. Đột nhiên có một tên giặc khác phóng ngựa quay lại, tôi cứ ngỡ hắn định quyết chiến nên xoay ngọn giáo sẵn sàng đánh trả. Không ngờ hắn lao xuống ngựa, chạy đến cạnh kẻ tôi muốn giết, quỳ sụp xuống lạy. Mặt mũi cả hai tên đều đầm đìa nước mắt, lấm tấm máu, chúng nói gì đó mà tôi không hiểu, song cũng thừa biết là van xin tha mạng.

Kẻ vừa đến chắc là chiến hữu hoặc người nhà của tên kia. Bọn khốn chúng bây mà biết cái gì là tình nghĩa, là đồng đội ư?

“Tôi và cậu ta cùng lớn lên bên nhau, cậu ta còn cứu tôi một mạng. Giờ tôi phải chính tay giết chết cậu ta rồi tự sát!”

“Con thèm cá nấu chua…”

“Nếu là con gái, hãy đặt tên nó là An. Nếu là con trai, nó sẽ tên là Bình…”

“Phật dạy phải từ bi, nhưng lúc chúng sinh sắp chết thì Phật ở đâu…?”

Tiếng khóc của mọi người lần lượt nhói buốt bên tai tôi, khiến mũi giáo của tôi bắt đầu run rẩy. Hàng nghìn ý nghĩ khiến đầu tôi muốn vỡ tung. Tôi cố tự khuyên răn mình không được mềm lòng, không được nhân từ bừa bãi, không được để cụ Đảm chết oan ức như thế. Tôi muốn đòi công lý cho cụ! Chợt, tôi nghe giọng cụ trầm trầm giữa tiếng quân reo.

“Đó không phải là dã tâm, sát ý. Đó là niềm kiêu hãnh của giống tiên rồng, vung kiếm để bảo vệ nghìn năm lịch sử!”

Trong phút chốc, lòng tôi bỗng dưng bình lặng, tôi siết lại ngọn giáo đang cầm, giương lên thật cao, dùng hết sức bình sinh đâm xuống.

Phập!

Ngọn giáo lướt qua má tên giặc đã giết chết độc túc tráng sĩ của tôi thành một đường dài, bật máu, cắm xuống nền đất ngay bên cạnh hắn. Hắn trân trối nhìn tôi. Tôi thét lớn, vung tay trỏ về hướng đồng bọn hắn đang tháo chạy:

- Cút!

Tên lính mới đến vội vã sụp lạy rồi kéo hắn lên ngựa, chạy trối chết không quay đầu lại. Tôi thở hắt ra, nhìn theo đám bụi mù tung lên theo vó ngựa, lòng rỗng tuếch như căn phòng vừa có cơn bão quét ngang qua. Giặc vẫn chạy, ta vẫn đuổi, mãi đến chân trời.

Khi tôi quay lại tìm bọn Quang Khải và Trần Cụ, một dáng người rất quen đã đứng đó, chắc là đã lâu, từ lúc Quang Khải không cản ngăn tôi nữa. Người chậm rãi xuống ngựa, bước đến chỗ tôi. Khắp thân người lem luốc bụi khói, máu và mồ hôi, song nét mặt vẫn bình thản và nụ cười nhẹ vẫn nhàn nhã lạ kỳ.

Tôi chẳng kịp nghĩ gì, bước nhanh đến, kiễng chân ôm chầm lấy thân người cao lớn ấy. Người cũng vòng tay ôm chặt tôi. Bỗng tôi thấy bàn tay mình đặt sau lưng người ươn ướt, tim tôi nghẹn lại, tôi run rẩy nhìn tay mình qua vai người, toàn là máu. Người không phải là thần hay Phật, người vẫn là một thân máu thịt, sinh mạng có thể mất đi bất cứ lúc nào, sao tôi lại quên điều này được? Gương mặt của Trương Phi và sợi dây cung bị đứt lại ám ảnh trong đầu, tôi vội vã lùi ra sau, tìm nút thắt trên áo giáp của người nhưng ngón tay cứ run bần bật chẳng làm được gì, cổ họng cũng nghẹn ứ không thành tiếng.

- Tiên sinh bị thương rồi! Mau… để em xem… để em xem…

Tôi sụp xuống đất tìm một thanh gươm hoặc bất kỳ mảnh vụn sắc bén nào đó giữa những cái xác để cắt áo giáp ra thật nhanh, trị thương cho người nhưng đột nhiên giáo gươm biến đâu mất cả. Người kéo tôi đứng dậy, tôi muốn giật phăng áo giáp ra song sợ làm người đau thêm, lại tìm chỗ thắt dây, nhưng gỡ mãi mà nút thắt chết tiệt kia vẫn siết chặt, ngón tay tôi cứ xoắn cả vào nhau.

- Phong!

- Người đau lắm phải không… - Tôi bắt đầu loạn trí. - Em bị sao thế này? Sao mà em không cứu được ai thế này…

Bàn tay người bỗng nắm chặt lấy tay tôi, tay kia ôm trọn gáy tôi, kéo tôi sát vào người. Và, môi người chạm lên trán tôi, giữa đêm đông, nóng rẫy như một hòn than nhỏ. Hai tai tôi đã tê cứng vì rét giờ chợt nóng bừng lên, rồi hơi ấm ấy chậm chạp len lỏi vào lòng, khe khẽ cựa quậy.

- Ta đây! - Người nói. - Đừng sợ. Ta không sao.

Đối với tôi, giọng nói trầm trầm đó vẫn luôn có uy lực hơn bất cứ âm thanh gì trên cõi đời này. Tôi cụp mắt, cố giữ mình không òa lên khóc, đăm đắm nhìn xuống bàn tay to lớn đang nắm trọn tay tôi hệt như thuở còn thơ. Khăn quấn trên cổ tay bị thương của người đã loang lổ máu. Vết thương ấy mãi mà chẳng khép miệng vì bệnh nhân không ngoan ngoãn tĩnh dưỡng. Tôi chợt thấy đóa mộc lan thêu dở trên khăn, thận trọng cầm lên xem.

- Tĩnh Quốc vương băng bó cho tiên sinh sao? - Tôi hỏi.

- Ừ. - Lão già của tôi xác nhận.

Chầm chậm ngước lên, tôi nhìn thật gần, thật rõ gương mặt mà tôi từng ước ao được nhìn thấy suốt bao ngày, gương mặt đã luôn hiện lên trong đầu tôi, động viên tôi, an ủi tôi, bảo vệ cho tôi. Đôi mắt lão vẫn mang vẻ tĩnh lặng muôn thuở, song dường như hơi hoe đỏ, chắc vì khói bụi và nhiều đêm khó ngủ, nhìn thẳng tôi. Trong phút chốc, tôi chẳng biết phải nói gì, lại cúi đầu mân mê cánh tay bị thương của lão.

- Chắc người đau lắm phải không? - Giây lâu, tôi hỏi lại.

Lão gật đầu, rất khẽ. Lòng tôi như tan ra thành nước vì thương, vì xót. Tôi vòng tay qua cổ lão, ghì chặt lão, cả gan đưa tay vuốt lên phần tóc sau gáy lão, nói thật khẽ qua làn nước mắt:

- Chúng ta về nhà, nhé, tiên sinh?

- Ừ. - Lão đáp, tay nhè nhẹ vỗ lưng tôi.

Tôi biết nơi này vẫn là chiến trường, tôi biết xung quanh bọn tôi còn hàng nghìn binh sĩ, có cả quan gia, thái tử và tôn thất, song tôi mặc kệ. Trời thì vẫn còn tối, mọi người thì đang say trong chiến thắng. Càng lúc hơi ấm của lão càng gần, cho tôi biết lão vẫn sống, mình vẫn sống và quân ta đã thắng.

Có tiếng gà gáy từ đâu vẳng lại.

- Trời sáng rồi!

- Giặc chạy mất hút rồi! - Ai đó kêu lên.

- Chúng ta thắng rồi! Thắng rồi! - Mọi người đồng thanh hưởng ứng.

Tôi vùi mặt trong lòng lão, nhoẻn cười mà nước mắt cứ chảy mãi, chảy mãi. Tôi bắt đầu cảm nhận được niềm vui chiến thắng dù bao nhiêu mất mát đã xảy ra. Giặc mạnh như thế, chúng ta tưởng như đã thua như thế mà vẫn có được bình minh của hôm nay. Bao nhiêu người đã đổi mạng lấy giờ khắc này nên chúng tôi càng phải vui cả phần của họ mới phải. Nhìn lên bầu trời đang sáng dần lên, tôi thấy phía xa xa một vì sao chợt lóe, như vị đại anh hùng nào đó đang khen ngợi, “nhóc con, khá lắm”.

- Quan gia vạn tuế! Quan gia vạn tuế!

- Đại Việt muôn năm!

- Về nhà thôi! Ăn Tết thôi!

- Phải nhanh tay nhanh chân lên! Còn mấy ngày nữa là giao thừa rồi!

Giáo gươm giờ lại va loảng xoảng vào nhau thay cho nhạc cụ hát mừng. Người bắt đầu kể chuyện vợ con ở quê nhà, người bàn nhau xem Tết phải nấu bao nhiêu mâm cỗ mới xứng với thắng lợi vẻ vang này. Có ai đó cất giọng rồi mọi người cùng đồng thanh hưởng ứng, một lần nữa hô vang bài sấm đã bao lần đuổi giặc ra khỏi biên thùy.

- “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư...”

[1]Trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, bản dịch thơ của Đoàn Thị Điểm.

[2]Ca dao.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 36: AI PHÀM, AI THÁNH?[1]

Sau một thời gian sống trong căng thẳng thường nhật và một đêm chiến đấu khốc liệt, tướng sĩ đều đã thấm mệt nên mọi người dựng tạm lán để che sương và thay nhau nghỉ ngơi, những người không ngủ vừa canh gác, vừa dọn dẹp chiến trường. Quan gia, thái tử và mấy thân vương đều vào nghỉ trong Trà điện, riêng lão già tự dựng lán ở cùng với binh sĩ bên ngoài. Tôi băng bó vết thương cho lão già xong liền thiếp đi. Đêm nay không bị làm phiền bởi những nỗi sợ hãi, lo lắng vô cớ nữa nên tôi ngủ rất sâu. Lúc tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao, chim chuyền cành rộn rã, nắng nhảy nhót trên những lộc non mới đâm chồi đón mùa sang.

Lính canh báo với tôi rằng lão già đã vào điện hầu chuyện quan gia và thái tử, thế nên tôi đi tìm mấy anh lính quân Thánh Dực xem có thể giúp được gì cho họ không. Tôi gặp lại rất nhiều gương mặt thân quen, cũng thấy vắng mất vài người. Chúng tôi nhắc tên họ, kể chuyện về họ, ngậm ngùi song không bi lụy, vì chúng tôi sắp đưa họ về nhà, trên mảnh đất mà thanh bình vừa mới trở lại này. Giữa câu chuyện đang rôm rả, Đỗ Ngạc, phó tướng của lão già đến xin gặp riêng tôi.

- Mấy ngày qua chắc mọi người vất vả rồi. Anh không bị thương ở đâu chứ? - Tôi ân cần hỏi.

- Thưa, nhờ phúc của vương gia, tôi vẫn bình an. Kế sách dùng bài sấm dọa giặc của cô Nhã Phong khiến Đỗ Ngạc muôn phần kính phục.

Nói đến đây, anh khẽ cúi đầu, tôi vội xua xua tay.

- Nhã Phong đều học lỏm của tiền nhân và tiên sinh cả, mọi người đừng chê cười nữa.

- Cô Nhã Phong quả là đồ đệ xuất chúng của vương gia. - Đoạn, anh trở nên chân thành, nghiêm túc lạ thường, ôm quyền kính cẩn. - Có một việc cũng chỉ có cô mới giúp được, Đỗ Ngạc cả gan làm phiền.

- Việc của quân Thánh Dực cũng là việc của Nhã Phong. - Tôi nói. - Anh cần gì phải rào trước đón sau?

- Thưa… - Viên phó tướng đột nhiên nhỏ giọng, ngập ngừng. - Dẫu biết việc đang làm có thể khiến vương gia trách tội, thân làm thần tử, tôi vẫn phải liều một phen. Chốc nữa, nếu vương gia có ý muốn dẫn quân đến Hoàng giang đón tôn thất trở về, xin cô lựa lời khuyên giải.

- Tiên sinh muốn đến Hoàng giang sao? - Tôi hỏi.

- Thưa, phải ạ. Lúc chúng tôi còn đóng quân trong thành, vương gia từng dặn riêng tôi, ngay khi quân Thát rút đi, tôi phải tập trung binh lính để chuẩn bị đến hành cung đón mọi người trở về. - Đỗ Ngạc nói liền một mạch, không dám ngẩng lên nhìn tôi.

- Vây, vì sao lại phải ngăn cản tiên sinh?

Tôi hỏi dò, trong lòng lờ mờ đoán ra nỗi khổ tâm của anh ta. Ở Hoàng giang lúc này chỉ có bọn nữ quyến, trẻ nhỏ cùng với thái sư và quốc mẫu. Sau thắng lợi, thanh thế của quân Thánh Dực đang lên rất cao, Hưng Đạo vương còn đang dẫn binh đuổi theo giặc ở mãi nơi xa. Nếu như lão già của tôi dẫn theo quân đội đến hành cung, với từng đó ân oán của hai chi Tức Mặc và Vạn Kiếp gây ra bởi một tay thái sư, ai biết được thái sư có thể trở về Thăng Long để gặp lại hoàng đế hay không.

- Thưa… Đỗ Ngạc và toàn thể binh sĩ một lòng yêu kính vương gia, cũng tin vào tấm lòng tận trung xả thân báo quốc của vương, nhất là sau trận thảm chiến ở Bình Lệ Nguyên. - Anh lính chiến hiên ngang trên lưng ngựa giờ đây lúng túng như gà mắc tóc, thận trọng nói từng lời một. - Thế nhưng việc đến Hoàng giang lại là việc nhà. Đỗ Ngạc vì vương gia có thể bỏ mạng quèn này. Nhưng Đỗ Ngạc không cam lòng nhìn cả đời sáng suốt tận tụy của vương gia bị vết nhơ vì chuyện không cách nào thay đổi được của người đời trước. Hơn nữa, vương gia có nhà của vương gia, hàng nghìn quân Thánh Dực cũng có nhà của họ. Khó khăn lắm họ mới sống sót đến giờ này, chỉ vừa kịp vui mừng mà năm mới lại sắp sang…

Tôi nhìn Đỗ Ngạc, trong lòng cũng rối bời vì bản thân tôi không đoán được ý định thực sự của lão già, nhất là những việc liên quan đến thân phụ của lão, không dám tùy tiện phán xét việc anh nói có khả năng xảy ra không. Tôi nên trách anh vì đã đem những toan tính cơ mật của lão đi kể với người khác, nên cảm ơn anh vì đã suy nghĩ thấu đáo cho an nguy của tất cả mọi người, hay nên phủ nhận mọi thứ, rằng đó chỉ là do anh suy diễn lung tung?

- Tại sao anh lại nói những điều này với ta? - Tôi hỏi luôn điều bất chợt nảy ra trong đầu. - Ra lệnh được cho vương gia của mọi người nên là quan gia hay thái tử mới đúng.

Đỗ Ngạc vừa nghe tôi hỏi, lập tức quỳ một chân xuống, quả quyết thưa:

- Trời đất chứng giám, tôi kính trọng vương như cha như anh, tuyệt không có ý phản nghịch hay mưu hại. Sở dĩ tôi thưa chuyện với cô Nhã Phong vì... - Ngập ngừng một quãng, anh nói tiếp. - Năm trước, khi còn ở Hồng Lộ, vương bị thương nặng, mất máu rất nhiều, thế mà trước khi thiếp đi, vương vẫn dặn đi dặn lại thuộc hạ không được báo tin về Yên Bang, nhất là không được để cô biết, sợ cô lo lắng. Chỉ có người nhà mới có thể quản chuyện nhà, Đỗ Ngạc biết việc này chỉ lời cô Nhã Phong mới có thể khiến vương hồi tâm chuyển ý.

Tôi lặng người, suy nghĩ rất lung. Lão già của tôi tuy tùy hứng nhưng lại rất tỉnh táo, thận trọng. Lão không cần nghĩ cũng thừa biết dù có thể giết Trần Thủ Độ, nhưng hậu quả về sau sẽ rất nặng nề, không chỉ hại bản thân mà còn liên lụy cả Hưng Đạo vương, Vũ Thành vương và công chúa Thiều. Tôi hiểu vì tôi đã nhiều lần suy xét thiệt hơn khi muốn thực hiện tâm nguyện cuối cùng của cụ Đảm. Thế nhưng, tôi càng biết ngọn lửa âm ỉ trong lòng lão suốt bấy nhiêu năm đang bùng lên dữ dội, nhất là sau trận chiến này, khi lão và Tĩnh Quốc vương có thể ngồi cùng một mâm cơm, chia nhau sinh tử giữa chiến trường, mà lại không thể gọi nhau một tiếng anh - em.

Nếu là tôi của một năm trước, chỉ cần đó là điều lão muốn làm, ắt tôi sẽ không mảy may suy nghĩ mà cùng tiến cùng lùi với lão. Nhưng tôi của bây giờ đã nhìn qua nhiều cảnh máu chảy đầu rơi, đã biết hai tiếng “thanh bình” đắt giá đến mực nào, tôi không biết nếu thanh bình ấy bị khuấy động bởi chính lão già mà tôi xem trọng hơn cả sinh mạng mình, tôi sẽ làm gì. Tôi càng không biết nếu trông thấy lão già của tôi phẫn uất đến mức bất chấp hậu quả mà làm ra việc tày đình, tôi có còn giữ được chút nào lý trí để nghĩ đến người khác hay không. Thoạt nhiên tôi thấy mình hoàn toàn hiểu được nỗi khổ tâm của viên phó tướng lúc này.

- Cảm ơn anh, Đỗ Ngạc. - Hồi lâu, tôi nâng anh dậy, dịu dàng nói. - Vương gia thật may mắn vì có viên cận tướng trung thành, thấu đáo như anh. Nhưng lần này, anh đã nghĩ nhiều rồi.

- Cô Nhã Phong…? - Đỗ Ngạc ngơ ngác nhìn tôi.

- Trước trận chiến, Nhã Phong vẫn còn ở Hoàng giang, nên vương gia muốn đến đón ta đấy thôi. Giờ Nhã Phong đến Thăng Long rồi, ta nghĩ người cũng không cần đi nữa. Còn… nếu như như đó là lệnh của quan gia, thì chúng ta đâu có cách nào thoái thác, anh nói có đúng không?

Đỗ Ngạc im lặng không đáp, tôi thiết tha nói tiếp:

- Trong lòng Hưng Ninh vương không chỉ có Đại Việt, không chỉ có Nhã Phong, mà còn có các anh, nghĩ cho gia quyến của các anh, thương tiếc sinh mạng của các anh. Điều này, ta tin anh hiểu rõ hơn ta. - Tôi mỉm cười với anh. - Vương gia sẽ không làm gì khiến mọi người thất vọng đâu.

- Đỗ Ngạc hiểu rồi. - Viên phó tướng ôm quyền, cúi đầu đáp. - Là thuộc hạ đã đa đoan.

Tôi nói thế để trấn an Đỗ Ngạc cũng như trấn an chính mình. Người ẩn nhẫn như Khâm Minh đại vương từng dấy binh nổi loạn ở sông Cái, người mực thước quy củ như Hưng Đạo vương từng nửa đêm trèo tường cướp dâu. Thế thì người ngẫu hứng, quái gở như Hưng Ninh vương - con trai của Khâm Minh đại vương, anh trai của Hưng Đạo vương - có thể gây ra họa gì? Tôi đoán không chỉ Đỗ Ngạc lo âu mà những người biết chuyện năm xưa đều ít nhiều nghi kỵ. Nghĩ lại thái độ trước giờ của lão già đối với quan gia, với thái sư, nhớ đến ánh mắt xa xăm của lão khi nhìn về Thăng Long khiến tôi nhất quyết động viên lão xuất binh, tôi càng thấy những gì Đỗ Ngạc nói không hẳn là vô căn cứ.

Tôi ra ngồi trên mỏm đá cạnh bờ sông hóng mát để đợi lão già về. Nước sông hôm nay không đục phù sa, song vẫn nhờ nhờ màu đỏ của máu. Tôi ngửa mặt nhìn trời, bỗng dưng, trời tối sầm lại.

Tôi kéo tấm áo choàng phủ lên mặt mình xuống, toan càu nhàu lão mấy câu, hóa ra người vừa đến là Quang Khải. Tôi vứt áo lại cho hắn, bảo:

- Thế nào? Ngươi đi gặp quan gia đã bẩm đủ công trạng của ông đây rồi chứ?

- Công lao của ngươi thì để tiên sinh nhà ngươi lo, bản vương lo làm gì? - Tên Chiêu Minh vương đáp. - Giờ ta phải đi đón hai người vợ đẹp của ta đây, không rỗi hơi đôi co với nhóc con nữa.

Tôi giật mình, đứng phắt dậy, hỏi dồn:

- Ngươi đi Hoàng giang á? Là lệnh của quan gia phỏng?

- Là nhờ ơn Hưng Ninh vương của ngươi. - Quang Khải trỏ tay về phía sau, lão già nhà tôi đang vừa đi vừa trò chuyện với mấy vị tướng quân khác. - Phụ hoàng bảo ông ta đi, nhưng ông ta đổ cho vết thương trên lưng, lại đoan chắc ta nóng lòng gặp lại thê thiếp nên đẩy ta vào nhận mệnh.

- Quan gia, và thái tử… - Tôi dè dặt. - … có nói gì không?

- Đâu chỉ có hai người họ, mà tất thảy những người có mặt đều hiểu rất nhanh. - Quang Khải bật cười, dí ngón tay vào trán tôi. - Bọn họ nghĩ gì mà có thể xem ngươi là mỹ nhân cản bước anh hùng nhỉ?

Tôi ngơ ngác nhìn về phía lão già, đột nhiên chợt hiểu ra thái độ là lạ của lão từ lúc gặp lại nhau. Quan gia ra lệnh cho lão đi Hoàng giang chắc ít nhiều muốn dò xét tâm tư của lão. Tỏ ra quyến luyến với giai nhân lại là cách nhanh nhất để dập tắt sự đề phòng của mọi người về tài thao lược vừa hiển lộ. Trong lòng tôi nửa mừng vui, nửa hụt hẫng vô cớ.

- Từ tối qua đến giờ ngươi nhìn ông ta chưa đủ sao? - Quang Khải cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. - Giờ bản vương lên đường, lúc quay lại Thăng Long chắc các người đã về Yên Bang rồi, ngươi còn không mau khóc lóc tiễn đưa?

Tôi bật cười trước dáng vẻ trách móc của tên bằng hữu. Lại nghĩ, chục ngày qua, tôi đã quen đôi co với hắn từ sáng đến tối, thế mà giờ chắc còn rất lâu mới gặp lại nhau, cả hắn và Nhật Duật, bỗng dưng lại thấy buồn. Hóa ra việc hợp - tan ở đời vốn liên tục hoán đổi cho nhau như thế, khi đoàn tụ với người này cũng là lúc từ biệt với người kia. Tôi hít sâu, mỉm cười thật tươi rồi bước đến ôm chặt Quang Khải.

- Lên đường bình an. - Tôi nói. - Ngươi đừng quên đã mời ta đến thái ấp Độc Lập làm khách, ăn Tết xong là phải đưa thiệp mời đến ngay, mời Tĩnh Quốc vương, mời cả Nhật Duật đến chơi với ta. Nếu không ta sẽ mách Phụng Dương rằng ngươi lén xem sách làm sao để sinh con…

Tôi chưa nói dứt câu, cái vỗ vai trìu mến của hắn đã trở thành những cú đấm mạnh ra trò vào lưng tôi. Tôi thích chí cười ngặt nghẽo, Quang Khải thở dài, nói nhỏ:

- Hưng Ninh vương quả là bậc chân tu đáng kính, có thể giữ ngươi bên cạnh bấy lâu, hy sinh thân mình trừ hại cho dân. - Đoạn, hắn buông tôi ra, chân thành nói. - Giặc tan rồi, giờ không ai cần ngươi liều mạng nữa, làm gì cũng phải suy nghĩ trước sau, rõ chưa?

- Nói nhiều phết. - Tôi cười cười. - Ngươi càng lúc càng giống bác Dương của ta rồi.

Tên hoàng tử trẻ tuổi lườm tôi cháy da rồi sải bước một mạch lên thuyền. Trạo phu nhổ neo, từ từ tách bến. Tôi vội vàng leo lên mỏm đá, gọi với theo:

- Chiêu Minh vương, ngươi vẫn còn nợ ta hai xe quýt lúc ở Tiên Lễ, đừng có quên đấy!

Khi thuyền của Quang Khải đã xa khuất tầm mắt, tôi lững thững trở về lán, thấy lão già đang ngồi phía trước lau cây cung vấy máu, khóe miệng vẫn chưa tắt nụ cười. Tôi thừa biết lão đã nghe thấy cuộc chuyện trò lúc nãy của bọn tôi, cũng thừa biết lão đang thầm chế giễu mấy chữ “hồng nhan họa thủy” mà mọi người hiểu lầm. Mặc kệ, dù gì việc có thể khiến người ta nghĩ sai cũng chứng minh rằng tôi đúng là một đại mỹ nhân. Tôi ngồi xuống cạnh lão, tì cằm lên gối, nghiêng đầu nhìn cánh cung trên tay lão.

- Đói bụng chưa? - Lão hỏi.

- Lúc nãy em có ăn tạm ít lương khô, không đói ạ. - Tôi đáp. - Tiên sinh đi gặp quan gia sớm thế, đã ăn gì chưa?

- Ăn một ít rồi. - Lão thở hắt ra, đưa cây cung lên soi dưới ánh nắng. - Đợi nay mai chuẩn bị xong xuôi, quan gia sẽ chính thức hồi cung. Ngay sau lễ chầu, chúng ta xuất phát về lại Yên Bang, chắc sẽ kịp đón giao thừa.

- Tiên sinh, sư ông đang ở Dưỡng Chân trang, năm nay chúng ta giữ sư ông ở lại cho vui nhé!

- Sư phụ không ưa chỗ náo nhiệt đâu. - Lão nhướn mày. - Nhưng em cứ hỏi thử xem, biết đâu lại được thêm một phong bao mừng tuổi.

Tôi bĩu môi rồi lại bật cười. Giờ này chắc là chị tôi, anh Thân và mọi người đang tất bật quét dọn, nấu nướng, đợi bọn tôi về. Có thể cùng nhau đón Tết ở nhà thật là tốt! Nhìn quanh quất chẳng thấy anh lính nào đang lai vãng, tôi bèn hỏi lão:

- Sao tiên sinh không muốn đi Hoàng giang?

Lão dừng tay, nhìn tôi một lúc lâu. Đoạn, lão nhếch mép cười, tự nói với chính mình:

- Thật không ngờ cuối cùng cậu ấy lại tìm em.

- Như thế anh ấy mới có thể vẹn toàn cả “trung” và “nghĩa”, tiên sinh đừng trách…

Tôi định đỡ lời cho Đỗ Ngạc, song lại tự thấy dư thừa vì tình cảm chủ - tớ giữa họ qua bấy nhiêu năm chẳng cần tôi phải bình phẩm. Tôi muốn dò hỏi tiếp lại thôi, vừa sợ mình không biết gì cả lại sợ mình biết quá nhiều.

- Ta định đi đón em. Nhưng em vừa tài giỏi vừa ngu ngốc hơn ta nghĩ, tự mình gióng trống thổi kèn tiến thẳng đến Thăng Long rồi. Ta còn đi làm gì? - Lão nói hệt như những gì tôi đã giải thích với viên phó tướng.

- Tiên sinh nói vậy em sẽ tin là thật, sẽ vui lắm đấy. - Tôi dẩu môi.

- Ít nhiều cũng thật chứ! Bỏ mặc em bơi từ hành cung về Yên Bang thì đánh giá em quá cao rồi. - Lão ấn cây cung vào tay tôi rồi đứng dậy, bước vào trong lán.

- Vậy, phần không thật là thế nào? - Tôi lẽo đẽo theo sau lão.

Lão già ung dung ngồi xuống, tự rót cho mình một chén trà. Tôi đi lấy hộp thuốc rồi bước đến sau lưng lão, kéo áo để lộ lớp băng đã ướt vì máu vẫn còn rỉ mãi. Tôi xuýt xoa, thấy buốt như thể chính mình bị thương, thận trọng từng chút sợ làm lão đau thêm. Mọi người kể lại khi giao tranh, thái tử có lúc bị ngã và suýt bị giặc chém, may nhờ lão kéo sang một bên nên tránh kịp, nhưng lão lại bị mũi nhọn của thanh đao chém trúng lưng. Cùng sinh ra từ gốc rễ họ Trần, nhưng chỉ vì một sự lựa chọn ban đầu của thái sư mà một nhánh đời đời làm vua, hưởng mọi vinh hoa xưng tụng của vạn dân, nhánh còn lại đời đời chỉ có thể làm thần, đổi nhà, đổi mạng lấy nước cho vua. Cả một kiếp làm quan văn, quan võ của lão già nhà tôi, trung thành đến vậy mà cũng bi ai đến vậy. Tôi nhìn mãi tấm lưng của lão, không chỉ có vết thương mới đây mà còn những vết sẹo dài trên bả vai, được khéo léo che giấu bằng những hình xăm thủy quái.

- Nếu như quân đội của ta bao vây tứ phía, hệt như cảnh ngày xưa ông ta vây chặt một thiếu phụ và mấy đứa trẻ trong tinh xá... - Đột nhiên, lão nói rất khẽ. Tôi ngồi phía sau nên không nhìn thấy gương mặt lão lúc này. - Ta chỉ định hỏi thử xem suốt từng ấy năm, đã có lần nào ông ta thấy ác mộng chưa?

Tôi biết, “ông ta” mà lão già đang nói đến chính là thái sư Trần Thủ Độ. Tôi cũng từng bị giặc vây khốn trong chùa, cũng vừa mới muốn phanh thây kẻ ác thành trăm mảnh cho hả giận… Trong phút chốc, tôi bỗng thấy người đàn ông cao lớn đang ngồi trước mặt mình bơ vơ và lạc lõng như một đứa trẻ. Tôi không dám tin một thiền sư đắc đạo nổi danh khắp bốn phương có thể ngây thơ và cố chấp đến mức chỉ muốn nghe một kẻ chuyện gì cũng dám làm như thái sư nói một câu hối lỗi. Nhưng ngoài việc ép ông ta tạ lỗi với vong linh của Khâm Minh đại vương và công chúa Thuận Thiên ra, lão còn có thể làm gì khác nữa, để quá khứ ngủ yên? Ấy thế mà cả một việc ấu trĩ giản đơn nhường vậy, cuối cùng lão già của tôi vẫn chọn không làm.

Bóng lưng của lão trước nay luôn cô độc nhưng vững chãi, khiến tôi cảm thấy yên tâm và tin tưởng mà trú ẩn phía sau. Giờ khắc này, tôi lại đột nhiên muốn ôm chặt tấm lưng ấy, nói với lão rằng dù lão có chấp nhặt, vô lý đến mực nào, lão vẫn luôn có tôi ở cạnh, muốn làm gì cho thỏa ý thì cứ làm đi, chỉ cần lão đừng đau lòng nữa…

Lão chỉ nói bấy nhiêu rồi lại trầm ngâm tự thưởng trà. Tôi len lén đưa tay chùi khóe mắt, đoạn tiếp tục lau vết thương, bôi thuốc rồi quấn băng lại cho lão, vừa làm vừa thổi nhẹ cho lão đỡ xót. Trong phòng chỉ còn lại mùi thuốc và hương trầm thoang thoảng. Mãi đến khi đã băng bó xong, tôi khoác áo lại cho lão rồi lại ngồi yên lặng phía sau, mân mê hộp thuốc.

- Em nghe Quang Khải nói, hôm nay là lệnh của quan gia nhưng tiên sinh vẫn từ chối. - Giây lâu, tôi ngẩng mặt lên, cố nói bằng giọng bình thản nhất như đang kể chuyện của ai.

- Vì… - Lão ngập ngừng. - Hôm qua em nói, “chúng ta về nhà, nhé”.

Tôi ngớ người, nhìn chăm chăm vào gáy lão, thật lâu sau lão vẫn không quay đầu lại. Trong lòng tôi như vỡ ra điều gì đó, lại càng mông lung một điều gì đó. Tôi tự trách mình dạo này sao mà mau nước mắt, chỉ một câu nói cũng có thể khiến tôi khóc. Nhưng như thế cũng tốt! Lần đầu tiên trong đời tôi thấy may mắn vì mình không phải là một đại trượng phu như tôi vẫn tự xưng.

- Phong! - Lão càu nhàu. - Em học ở đâu trò trị thương bằng cách dụi đầu vào vết thương đang rỉ máu của bệnh nhân thế?

- Em là lang băm. Mấy trò này đâu cần ai dạy! - Lão không thấy tôi tít mắt cười.




[1]Tuệ Trung thượng sĩ có bài thơ Phàm thánh bất dị (Phàm và thánh chẳng khác nhau).
 
Bên trên