Dã Sử Cố niên hoa - Cập nhật - Phương Uyên

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 17: KHI CHÉN RƯỢU, KHI CUỘC CỜ[1]

Tôi còn nhớ những ngày sống ở Phúc Đường, tôi là một cô bé e dè và nhút nhát. Sư ông Tiêu Dao rất nhân hậu, nhưng vì lạ chỗ lạ người lại thêm không khí trang nghiêm, tôi luôn rụt rè, sợ nói sai, sợ làm bậy, sợ những vị tăng lữ trong tịnh xá không cho tôi ở nữa. Thuở bé ngây ngô nghe mọi người gọi nào Tuệ An, nào Nhã Phong, nào Huệ Tâm, nhiều lúc tôi không biết mình tên gì, không biết có phải họ đang nói đến mình không. Có mấy lần đi loanh quanh lạc đến góc vườn có bức tượng mấy vị Kim Cang gương mặt dữ dằn, tôi sợ đến cuồng chân bỏ chạy, ám ảnh đến trong mơ cũng thấy rồi giật mình tỉnh giấc. Sư ông bảo tôi những vị ấy là Bồ tát, vả lại Phật rất từ bi, chỉ cần tôi nghĩ điều hay, làm việc tốt, Phật sẽ luôn phù hộ cho tôi. Tôi vâng dạ nhưng nửa tin nửa ngờ, đâu biết trên đời có ma có Phật chi không. Chỉ biết vì một điều gì đó mà ngày ngày tôi đều ngóng ra cửa, đợi một người sẽ đến đón tôi như đã hẹn.

Đêm đầu tiên về đến Dưỡng Chân Trang, tôi trằn trọc mãi, hồi lâu bèn mở cửa bước ra sân dạo. Trước phòng tôi là khoảng sân rợp bóng trúc xanh, giữa sân có một mái đình nho nhỏ. Khi ấy, trong đình có một người đang ngồi nhàn nhã tự đánh cờ, mái tóc hơi dài gợn sóng rủ trên gương mặt thuần hậu, thâm trầm, ánh trăng chiếu sáng vạt áo màu lam, chiếu lên sống mũi cao thẳng tắp, sáng lấp lánh trong đôi mắt tĩnh tại như mặt hồ thu. Tôi đã nghĩ, Bồ tát nên có dáng vẻ thế này mới phải.

- Em mơ thấy ác mộng sao? – Quân cờ vẫn cầm trên tay, người ấy hỏi tôi.

Tôi hơi giật mình, lắc lắc đầu.

- Hay là đói bụng?

Vẫn lắc lắc đầu.

Người đặt quân cờ xuống bàn, bước đến bế bổng tôi lên:

- Có chuyện gì, nói ta nghe!

Một cơn gió lạnh vù qua, tôi ôm chặt cổ người, nói khẽ:

- Nhà tiên sinh có nhiều kinh Phật lắm phải không?

- Có. – Người thoáng ngạc nhiên.

- Vậy có mấy ông Kim Cang hùng hùng hổ hổ không? – Tôi rúc sâu hơn vào vòng tay vững chãi ấy.

- Vẫn chưa… - Người bỏ lửng câu nói. – Em sợ mấy bức tượng đó à?

Tôi gật đầu lia lịa.

Có tiếng bật cười, người bế tôi trở vào phòng, đặt lên giường, cẩn thận dém chăn rồi xoa đầu tôi nói khẽ:

- Vậy không có nữa. Ngủ. Ngoan nào!

Tôi nhanh tay nắm lấy vạt áo xanh lam níu lại, tròn xoe mắt nhìn lên. Người đang định rời đi chợt phì cười, đoạn ngồi xuống cạnh bên, lưng tựa vào tường, mắt khép hờ. Tôi sung sướng kéo chăn tận cổ rồi chìm vào giấc ngủ.

Tôi biết đây chính là Thần, là Phật của riêng tôi.

Đêm ấy là đêm tân hôn của lão già và chị.


***


Lão già nhà tôi có một loại uy lực rất đặc biệt, không cần lớn tiếng nặng lời, chỉ cần nét mặt vốn luôn thư thái hơi nghiêm lại, người đối diện đã cảm thấy bất an. Lão có nhiều nguyên tắc, bù lại, luôn sẵn lòng dạy bảo và giúp đỡ mọi người. Vì thế gia nhân trong phủ tuyệt đối kính trọng và vâng lời, xem thư phòng của lão như thánh địa. Lần đầu tôi đặt chân đến là lúc tôi được bác Dương làm cho một mẻ kẹo lạc thơm lừng, mang đi tìm lão. Tay tôi vừa chạm chốt cửa, hai chị bếp và bốn anh lính đang đứng gần đó đã đồng loạt kêu lên:

- Cô ơi, không được!

Bên trong vọng ra tiếng nói nhẹ nhàng:

- Phong hả? Vào đây.

Cả khoảng sân như hóa đá, khi tôi đã vào trong và đóng cửa lại rồi, mồm của sáu người kia vẫn chưa khép lại.

Đến giờ nghĩ lại chuyện hôm ấy tôi vẫn thấy buồn cười. Từ đó, tôi không chỉ là cô bé mấy tuổi đầu mà là một người rất có tiếng nói ở Dưỡng Chân Trang, tôi nghĩ chính là bởi sự đặc cách ấy chứ không phải vì tôi là em của chị.

- Nhã Phong, em ra đây đi! – Tiếng Nguyễn Nam từ bên ngoài vọng đến.

- Dừng! – Tôi trỏ bậu cửa thư phòng, không cho hắn đặt chân xuống. – Có chuyện gì mà mới sáng đã inh ỏi thế?

Bàn chân vẫn lơ lửng trên không, tên lang băm bảo:

- Cụ ông Thiên Thai của em đã xuống núi rồi, mau ra đón!

Tôi mừng rỡ đặt chiếc khăn lau trên tay lên bàn, đóng cửa phòng rồi theo hắn ra ngoài.

Tôi ra đến nơi, anh Thân đang đỡ ông cụ Lý Đảm xuống từ xe ngựa. Đợi ông chống nạng đứng thẳng rồi, tôi lễ phép chào:

- Ông đi đường có mệt không ạ, mọi người ai cũng mong ông quá!

Trông ông Đảm hôm nay hồng hào hơn trước, gương mặt vốn khắc khổ cũng giãn ra, giao lĩnh đai lưng tươm tất, có dáng vẻ của một người đàn ông từng thanh gươm yên ngựa, mái tóc bới gọn gàng làm ông trẻ hơn gần mươi tuổi so với lần đầu tôi gặp. Ông vui vẻ nhìn tôi, định nói gì đó chợt bàng hoàng, nụ cười nửa miệng bỗng vụt tắt. Tôi hơi bối rối, sợ mình dọn dẹp từ sáng quần áo lôi thôi liền nhìn xuống, rõ ràng là bộ áo lam trắng có thêu đóa mộc lan rất nhã nhặn. Nhìn sang bên cạnh, Nguyễn Nam cũng rất bình thường, có phần tuấn tú. Anh Thân giao xe ngựa lại cho lính canh rồi bước đến thưa:

- Chắc đường xa, cụ mệt. Tôi xin phép đưa cụ về phòng nghỉ nhé!

Ông gật đầu rồi chống nạng đi từng bước. Nguyễn Nam nhanh nhảu định chạy đến dìu, tôi liền ngăn lại, lắc đầu ra hiệu. Đối với những người như ông, tự tôn là điều quan trọng hơn sinh mạng. Bọn tôi lặng lẽ theo sau, đến khoảng sân trước phòng tôi, ông bỗng dừng chân, đôi mắt xa xăm lại càng mênh mông. Tôi nhìn theo hướng mắt ông, chỉ thấy đôi bướm trắng chập chờn ẩn hiện trong khóm trúc xanh, nhìn kỹ hóa ra là hai đóa mộc lan phơn phớt hồng ở đầu cành đang rung rung trong gió. Ngẫm nghĩ một hồi, tôi chợt hiểu ra, không phải do tôi mà bởi đóa hoa trên trang phục tôi đang mặc. Đóa hoa này lại thêu theo mẫu trên chiếc khăn tay thêu dở mà hoàng hậu Thuận Thiên – u của lão già – để lại. Tôi nhớ trong câu chuyện hôm trước, ông cũng từng nhắc đến bà ấy, có lẽ nào…?

Suốt cả ngày, ông Đảm cáo lỗi không được khỏe, ở mãi trong phòng chẳng gặp ai. Đến chập choạng tối, tôi thấy ông ngồi ở mái đình giữa sân uống rượu một mình, mặt buồn rười rượi, bóng lưng hơi gù dưới hoàng hôn mang một vẻ cô độc đến thê lương. Tôi rất muốn đến uống với ông, tiện thể hỏi những điều muốn hỏi nhưng nghĩ đến trận ốm hôm uống cùng Quang Khải lại không dám liều nữa, bèn nghĩ ra một cách. Tôi xuống bếp làm một đĩa lòng gà xào chua ngọt to đùng, bưng đến gõ cửa phòng Nguyễn Nam.

Đúng như lão già từng nhận xét, tôi chưa bao giờ thất bại trong những vấn đề liên quan đến ẩm thực. Một canh giờ chén tạc chén thù nói chuyện trên trời dưới biển, ông Đảm đã say bí tỉ còn Nguyễn Nam cũng ngà ngà. Tôi ngồi cạnh bên xơi chè, thỉnh thoảng gắp một miếng lòng bỏ vào mồm, tự thán phục bản thân. Đêm nay trăng sáng, trời lành lạnh, gió hiu hiu, bóng lá trúc in lên vách đung đưa rờn rợn. Ngày xưa tôi cũng hay cùng lão già ngồi ở nơi này, có khi đánh cờ, có khi đàn hát. Nhớ đến đây, tôi bèn rút cây sáo trúc vừa nhờ anh Thân làm mấy hôm trước đưa lên miệng thổi bài Cẩm sắt[2] của ông Nghĩa Sơn[3] thời Đường:

“Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền

Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.

Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,

Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.

Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,

Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên.

Thử tình khả đãi thành truy ức,

Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.”

(Năm chục dây đàn gấm tuyệt vời

Mỗi dây mỗi trục nhớ xuân thời

Trang Chu tỉnh mộng còn ngờ bướm

Thục Đế lòng xuân cuốc gọi trời

Trăng sáng biển xanh châu rướm lệ

Lam Điền nắng ấm ngọc thành hơi

Tình này ý ấy hoài ghi nhớ

Sao lúc bấy giờ lại để lơi?)

Tiếng sáo tôi vừa dứt, tâm trạng mới hồ hởi được đôi chút của ông cụ đã biến mất hoàn toàn. Ông đưa chén rượu lên uống cạn, tự nói một mình:

- Nàng ấy thích bài này lắm.

- Nàng ấy…? – Tên thầy thuốc chưa kịp hỏi trọn câu đã bị tôi đưa tay bịt miệng.

Tôi lôi hắn đứng dậy, kéo ra khỏi đình:

- Nguyễn Nam say rồi, cháu đưa hắn về phòng rồi quay lại ngay, ông chờ tí ạ!

Khỉ gió cái tên thầy thuốc có vẻ thư sinh mà nặng ra trò, hắn cứ ì ra đó, không chịu bước đi một bước báo hại tôi đỡ đến mệt bở hơi tai. Khi chúng tôi đã rẽ qua góc khuất, tôi định buông tay để hắn ngã xuống đất cho bõ ghét, không ngờ hắn đột nhiên tỉnh táo vô cùng, quay người lại dồn tôi lùi đến chân tường. Nguyễn Nam ghé sát mặt tôi, hơi rượu phả ra nồng nặc:

- Qua cầu rút ván. - Mặt hắn câng câng, đôi mắt sâu thăm thẳm cứ nhìn xoáy vào tôi, nhìn đến mức tôi thấy nóng ran hai bên má.

- Chuyện nhà của bọn ta, ngươi ở đó làm gì? – Tôi muốn đẩy hắn ra nhưng không đủ sức.

- Tôi vì ai mà say thế này, phải có bù đắp chứ! – Hắn lè nhè.

- Ngươi muốn bù… - Ba chữ “đắp thế nào” nghẹn lại vì có vật gì đó đã chặn ở bờ môi.

Ấm ấm. Mềm mềm. Ướt ướt.

Cái đồ… đồ… đồ… đồ… đồ lang băm khốn kiếp!

Tôi ngượng chín người, vung tay tát mạnh thì hắn đã nhanh nhẹn lùi lại phía sau, còn to gan đưa lưỡi liếm nhẹ môi dưới, nhếch mép cười cợt nhã.

- Lần này lấy rẻ vậy thôi, lần sau giá cao hơn nhé, Nhã Phong!

Nói rồi, nháy mắt một cái, chạy về phòng mất hút.

Rẻ? Rẻ cái tiên sư nhà hắn ấy! Cướp đoạt nụ hôn đầu của thiếu nữ nhà lành, chiếu theo luật đáng đem đi hoạn, cạo đầu bôi vôi, lột da rút gân, băm vằm tùng xẻo!

Tôi đưa tay áo lau đến khi môi bỏng rát. Rõ ràng là mùa đông mà người tôi nóng bừng bừng, đứng chôn chân một chỗ mãi một lúc lâu. Tới chừng chợt nhớ ra việc phải làm, tôi ba chân bốn cẳng chạy đi tìm ông Đảm.

Nguyễn Nam chỉ uống cầm chừng, còn ông bị bọn tôi chuốc thật, rất say. Khi tôi quay lại, ông đang khập khiễng tựa tay vịn của mái đình mà đến gần một nhánh mộc lan. Trời trở gió to hơn, tiếng ông đẫm hơi men, bảng lảng trong sương lạnh:

“Động Đình ba lãnh hiểu xâm vân,

Nhật nhật chinh phàm tống viễn nhân.

Kỷ độ mộc lan chu thượng vọng,

Bất tri nguyên thị thử hoa thân.”[4]

(Có nghĩa là:

“Động Đình buổi sớm sóng lạnh muốn trùm lên cả mây mù

Ngày ngày những cánh buồm đưa tiễn khách đi xa

Mấy độ lên thuyền mộc lan trông ngóng khách

Có biết đâu rằng mình cũng làm thân đưa khách như thuyền”)

Tôi đưa tay định đỡ ông, ông quay lại, đưa mắt nhìn tôi một lượt:

- Nàng vẫn nhớ sao? – Đôi mắt già nua mờ mịt, nheo nheo. – Ta không biết…

Ông gục xuống bên cột đình, tôi cố đỡ ông ngồi lên ghế. Ông run run nắm chặt tay tôi.

- Cháu là Phong ông ạ. Ông nhớ công chúa Thuận Thiên lắm phải không? – Tôi không biết nên gọi là phu nhân hay hoàng hậu cho phải phép, chợt nhớ ra với họ Lý, bà ấy mãi mãi là thiên chi kiêu nữ.

- Phong? – Ông lại nhìn tôi rồi nhìn đóa hoa thêu trên áo, đoạn trầm tư. – Cháu giống nàng ấy lắm…

Hóa ra, ông Đảm quý lão già và chịu xuống núi giúp tôi đều không phải do bọn tôi tài giỏi hay có nhân phẩm hơn người. Bây giờ nghĩ lại, sự hiểu chuyện của tôi do lão già truyền cho, còn lão lại được công chúa Thuận Thiên nuôi dưỡng. Ông Đảm gặp bọn tôi, bảo bọn tôi giống nhau, chẳng qua vì ông luôn nghĩ đến một người. Rốt cuộc nỗi ám ảnh này đã dày vò ông đến mực nào để sau từng đó năm, ông nhìn một con bé chẳng có chút nữ tính nào như tôi lại có thể nghĩ đến vị công chúa lá ngọc cành vàng nổi tiếng hiền thục đoan trang ngày đó?

- Ta cứ nghĩ đợi nàng ấy lớn hơn một chút rồi mang cau trầu dạm hỏi, không ngờ… Họ Lý mất giang sơn, còn ta mất nàng, đều vì cái bọn họ Trần… họ Trần khốn kiếp!

“Ông ơi, họ Trần cũng có người này người khác”, tôi nghĩ nhưng không dám nói lý lẽ với người say, chỉ im lặng ngồi bên cạnh, giúp ông kéo lại áo choàng.

- Trần Liễu… Trần Cảnh… Nàng ấy có hạnh phúc không? Có bao giờ hạnh phúc không? – Ông siết tay thành nắm, đấm mạnh lên mặt bàn đá, đôi mắt đỏ ngầu.

Sống đến bây giờ, tôi chưa từng thấy một người đàn ông từng trải như thế rơi lệ nên bối rối không biết phải làm gì, chỉ đành vuốt nhẹ lưng ông để ông bình tĩnh lại:

- Cháu tin là công chúa đã từng hạnh phúc ông ạ. Thân phụ của tiên sinh nhà cháu và quan gia đều là người tốt…

- Tốt? – Ông chợt bật cười. – Chúng tốt như thế, sao nàng ấy vẫn không quên quách cái thân khốn nạn của ta đi… Ai cũng biết ta đã bị chôn sống từ lâu rồi cơ mà, nàng ấy còn vương vấn làm gì?

Những điều vừa nghe làm tai tôi cứ ong ong. Tôi không biết nhiều lắm về chuyện trưởng bối của lão già, vì sợ lão buồn nên không dám hỏi. Tôi chỉ nghe loáng thoáng rằng năm đó, tôn thất còn sót lại của triều Lý đã lập mưu mời quan gia đến buổi lễ tế tổ tiên, ngờ đâu chính họ sa vào cái bẫy do mình đào sẵn, hàng chục người đã bị chôn vùi trong đó. Lẽ nào…

- Chân của ông… là do lần đó ạ? – Tôi đánh bạo hỏi.

- Lần đó. Lần đó! – Ông Lý Đảm gằn từng tiếng một. – Có kẻ nào ngu ngốc tự đặt bẫy rồi lại giẫm lên không? Bọn chúng tất thảy đều dối trá!

- May là ông thoát được… - Tôi cố tìm cách an ủi, không còn phân biệt được đúng sai.

- Khi sức khỏe phục hồi, ta cứ nghĩ nàng ấy đã an phận nên đành im lặng sống chui sống nhủi bấy lâu nay. Sao ta lại không biết nàng vẫn nhớ ta? – Ông lớn tiếng hơn, tôi hoảng hốt nhìn xung quanh xem có ai đang ở gần không. – Mộc lan! Mộc lan! Là ta hèn nhát, bất tài, nhụt chí… Ta phải sớm đưa nàng bỏ trốn đi mới phải!

Tiếng ông ai oán như thể một con thú rừng bị trọng thương. Không biết vì sương hay vì hơi rượu, tôi thấy mắt cay xè. Bấy lâu nay tôi cứ ngỡ lão già thích mộc lan vì đó là chứng nhân cho tình cảm giữa Yên Sinh vương và công chúa Thuận Thiên, đến khi công chúa bị bắt gả cho quan gia, chỉ còn lại cảnh này, vật này để nhớ nhung. Có lẽ lão cũng như tôi, không ngờ được rằng loài hoa tao nhã kia ghi dấu một mối tình câm, không ngờ rằng hai lần sang sông, vị công chúa mệnh bạc của Lý triều chưa một lần hạnh phúc.

- Là ta hèn nhát… Trần Thừa muốn con trai hắn lấy nàng để đảm bảo quyền lực không rơi vào gia tộc khác. Mà thằng Liễu… thằng Liễu có viên ngọc quý trong tay không biết giữ.

Ông với tay lấy bình rượu, tôi liền cầm lên toan để ra phía xa hơn.

- Yên Sinh vương hẳn cũng lực bất tòng tâm, không chống lại được lệnh của Thái sư…

- Đợi gì đến trò hoán vợ đổi chồng của Trần Thủ Độ! – Ông chua chát bật cười. – Thằng Liễu đang làm Hiển hoàng mà bị giáng chức, chẳng phải vì nó nổi máu tà dâm đi cưỡng hiếp cung nữ tên Lý Cát sao?

Bình rượu trên tay tôi rơi xuống đất vỡ giòn.

Lý Cát, là tên của dì tôi.


[1] “Khi chén rượu, khi cuộc cờ

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

[2] Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn ý thơ này tả tiếng đàn của Thúy Kiều lúc gặp lại Kim Trọng sau 15 năm lưu lạc:

"Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ấm dương hoà
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao"

[3] Nghĩa Sơn: Tự của Lý Thương Ẩn (813 – 858), một trong những nhà thơ lớn nhất của Trung Quốc thời Vãn Đường, cùng Đỗ Mục được gọi là Tiểu Lý Đỗ, so sánh với cặp Lý Bạch - Đỗ Phủ trước đó.

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Lý_Thương_Ẩn)


[4] Mộc lan hoa, thơ Lý Thương Ẩn.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 18: TIỂU NHÂN

Thuở nhỏ tôi thường nghe mọi người đọc một bài vè:

“Trời mưa cho ướt lá khoai
Đố ai lấy được con trai Thổ Hà
Trời mưa cho ướt lá cà
Đố ai lấy được đàn bà Vạn Vân.”[1]

Gốm Thổ Hà mang sắc đỏ thẫm, lão già lại chuộng sự thanh nhã của gốm trắng Bát Tràng hơn nên trước giờ tôi chưa có dịp thấy qua[2]. Còn rượu làng Vân, bấy lâu tôi chỉ biết đó là thứ lão thích uống nên trong nhà lúc nào cũng trữ rất nhiều, đến hôm nay mới tỏ loại mỹ tửu danh bất hư truyền, khiến người tưởng như mới ngà ngà lăn ra ngủ như chết. Ông Đảm tối qua say bí tỉ chẳng nói làm gì, tên Nguyễn Nam bị tôi đuổi về phòng từ sớm mà đến lúc mặt trời lên bảy tám sào vẫn chưa tỉnh giấc. Tôi ngồi đợi mãi, đợi mãi, đến khi hết kiên nhẫn bèn ghé tai hắn hô to:

- Cháy! Cháy rồi!

Tên thầy thuốc nọ quả nhiên tỉnh rất mau. Hắn chớp mắt mấy cái cho hoàn hồn, đoạn nhìn tôi ngơ ngác:

- Nhã Phong… em làm gì ở đây?

Thấy hắn đã nhận ra mình, tôi lập tức đem nỗi thắc mắc to lớn gây trằn trọc cả đêm ra hỏi hắn:

- Ngươi có biết thế nào gọi là “cưỡng hiếp” không?

Lang băm kia đột nhiên mặt mũi tái xanh, lùi sâu vào góc giường, kéo chăn lên che kín ngực, đôi mắt mở to kinh hãi. Tôi nhìn hắn vừa buồn cười, vừa hậm hực:

- Rút cuộc đó là chuyện thế nào, tại sao cả anh Thân, chị Hạnh, mấy tên gia đinh rồi giờ đến ngươi cũng làm ra vẻ kinh tởm vậy?

Bốn mắt nhìn nhau. Chớp chớp.

- Em… sao tự dưng lại hỏi như thế? – Mãi một hồi hắn mới lắp bắp được mấy từ.

- Ngươi không cần biết, chỉ cần giải thích thôi!

- Chuyện này… tôi không nói được. – Hắn nhún vai đầy miễn cưỡng.

- Ta đi hỏi sư ông. – Tôi đứng phắt dậy đi về phía cửa. – Các người thật là vô dụng!

- Đợi đã! – Nguyễn Nam vội kêu lên.

Tôi quay đầu lại, thấy gương mặt hắn đang rất khổ sở, vẫy vẫy tay. Tôi lập tức đến ngồi lên mép giường, chăm chú nhìn hắn khó nhọc nói từng lời:

- Việc đó là… à… ừm… là người nam ép người nữ cho gần gũi.

- Có phải giống như tên công tử trêu ghẹo Nguyệt Nhi ở quán rượu bị ta và Quang Khải đánh nhừ tử không?

- Không, việc đó chưa đáng là gì.

- Vậy… thế nào mới đáng?

Lúc này tôi cảm thấy rất bực bội, phải chi lúc xưa Quang Khải kể tôi nghe chuyện Yên Sinh vương cưỡng gian cung nữ họ Lý, tôi không say đến chẳng biết gì thì đã không mất một buổi sáng đi hỏi hết người này đến người nọ như vậy. Hai người đàn ông nói chuyện với nhau bao giờ cũng dễ dàng hơn.

Căn phòng bỗng trở nên im lặng. Đôi mắt đang mở to của Nguyễn Nam dần dần hẹp lại, khóe môi cũng từ từ cong lên. Hắn không lùi nữa mà chuyển sang tiến về phía tôi, đưa tay nắm lấy khuỷu tay tôi kéo lại gần hắn. Tôi vẫn tròn mắt nhìn xem hắn định làm gì. Đến lúc gương mặt hắn đã sát kề, hơi thở nóng rẫy, tôi vẫn chưa hiểu ra sự việc. Bàn tay hắn di chuyển lên vai tôi, siết nhẹ một hồi. Đột nhiên hắn đẩy mạnh tôi ra, gục đầu về phía bên kia rồi bật cười khùng khục.

- Đau! Ngươi điên hả? – Tôi nổi cáu.

Tên thầy thuốc kia vẫn chưa dứt cơn cười. Hắn lắc lắc đầu, đưa tay lên lau nước mắt rồi chống tay ngửa người về sau, mặt ngẩng lên trời mà than trách một mình:

- Đúng! Tôi điên rồi! Tôi đã luôn nghĩ em là đàn bà của Hưng Ninh vương kia đấy! Quên mất em vẫn còn là đứa trẻ…

- Này! Ngươi nhìn ta oai phong lẫm liệt thế này, chỗ nào giống bọn đàn bà kia hả? – Tôi cắt ngang lời hắn. – Vả lại, người xưa có câu “nữ thập tam, nam thập lục”, năm nay ông đây mười sáu, vừa đủ tuổi trưởng thành rồi.

Nguyễn Nam đã dứt cơn cười, đôi mắt hướng về tôi bỗng xa xăm. Hắn nhìn tôi rất lâu, rất lâu, hoàn toàn khác ánh nhìn lúc say rượu đêm hôm trước. Bàn tay hắn bỗng đưa tới, chạm vào cằm, rồi ngón cái đặt nhẹ lên môi tôi. Cái chạm khẽ khàng kia làm tôi chợt nhận ra một điều gì đó. Tôi nhìn sâu vào mắt hắn, đoạn khẽ hé bờ môi…

Rồi cắn phập vào ngón tay làm hắn phải thét lên một tiếng.

Tôi tức giận trỏ vào mặt hắn:

- Ta hiểu rồi, thì ra tối qua là ngươi đã cưỡng hiếp ta!

Tên lang băm kia vội vã lao đến đưa tay bịt miệng tôi:

- Em bớt dở người đi! Muốn cả trang viện đến đây chắc?

Tôi ú ớ không thành tiếng, lắc lắc đầu. Hắn nhìn tôi chốc nữa mới buông ra, thở dài đầy vẻ bất lực:

- Cái điều em hỏi, nghĩa là dùng vũ lực ép buộc người kia ân ái với mình, làm những chuyện chồng vợ nên làm, để sinh con đẻ cái. – Hắn nhắm mắt, đỏ mặt, nói liền một mạch.


***


Tôi nghe nói mùa đông ở phương Bắc xa xôi kia có tuyết rơi, những viên bông trắng trắng, tròn tròn, xốp xốp như mây bay đầy trời vô cùng đẹp mắt. Mùa đông của Đại Việt chỉ có giá rét thấu xương và nỗi nhớ nhà không gì khỏa lấp được. Tôi đang ở Dưỡng Chân Trang, ở làng Vạn Niên, ở Yên Bang, ở nơi tôi đã sống gần mười năm qua mà vẫn thấy chông chênh.

Tôi ngồi trước bậu cửa thư phòng, nhìn ra khoảng sân rợp bóng trúc xanh, mặc những cơn gió lùa qua làm tấm áo khoác trên vai hơi trượt xuống. Tôi không thấy lạnh, chẳng thấy nóng, không rõ buồn vui, trong đầu trở nên trống rỗng, mọi thứ cứ vụt qua.

Thầy qua đời từ khi tôi còn trong bụng mẹ, tôi lớn lên chỉ có một người thân nữa là dì. Dì làm cung nữ ở kinh thành, gửi tiền về cho mẹ nuôi tôi, vài năm lại ghé thăm nhà, dạy tôi tết tóc, nấu cơm, quét tước, cứ sợ mẹ chiều tôi mãi đâm hư. Trong ký ức của tôi, dì là một người phụ nữ dịu dàng hơn cả mẹ, cử chỉ khoan thai, từ tốn, giống người quyền quý hơn là một nữ tì. Tôi ngưỡng mộ dì đến mức sau này tôi yêu quý chị Thiên Hương và có thiện cảm với công chúa Phụng Dương phần lớn là vì họ mang vẻ đoan trang nhã nhặn giống dì Lý Cát của tôi. Tôi nhớ thuở bé mình rất thích ôm một con rối vải vào lòng ngủ, đó là món quà dì tặng năm tôi lên bốn. Sau này khi mẹ mất rồi, tôi mải miết đi tìm tung tích của dì, đến giờ mới có chút thông tin.

Những năm tháng ấu thơ ở làng Giá, ba người chúng tôi nương tựa vào nhau mà sống. Đến giờ tôi vẫn chưa quên mùi món canh cá nấu chua của mẹ, chưa quên mùi thơm dìu dịu mỗi khi tôi nũng nịu trong lòng dì. Nhưng, “nhà” mà tôi nhớ lại không phải là khung cảnh đầm ấm ấy.

Thoáng trong đầu hiện ra bản mặt nham nhở của tên công tử ve vãn Nguyệt Nhi, tôi tự vẽ vào chút râu, chút nếp nhăn, thấy hắn lao đến dồn dì tôi vào một góc nhà, mặc cho dì giãy giụa khóc la. Tôi nhớ bức thư cuối cùng gửi cho tôi, dì bảo chỉ cần đợi ít lâu dì có thể trở về quê, có thể nên duyên với anh đồ trẻ làng bên – người bạn thanh mai trúc mã từ thuở bé của dì. Tôi thấy trong lòng bừng bừng lửa giận, cây sáo ngọc trong tay bỗng hóa thanh kiếm sắc lẻm của Trần Cụ tặng cho, toan lao đến chém kẻ nọ để cứu dì. Tên khốn ấy quay lại nhìn tôi, gương mặt bỗng dưng biến đổi, vẫn có râu, tóc vẫn hoa râm nhưng khóe mắt làn môi lại trở nên vô cùng quen thuộc. Tôi vỗ vỗ trán, lắc mạnh đầu, những ý nghĩ ấy vẫn không tan, chợt nhìn thấy cái giếng phía bên kia sân, tôi lao đến múc một gàu dội thẳng lên đỉnh đầu. Lạnh buốt!

- Nhã Phong! Em có biết bây giờ là giữa đông không? Nhỡ đổ ra ốm thì biết thế nào? – Nguyễn Nam từ đâu vừa đến, vội vã kéo áo choàng lên che kín cổ tôi, gỡ áo hắn trùm lên tóc tôi vò loạn đến khi ráo nước.

- Ngươi đến đây làm gì. – Tôi đẩy nhẹ tay hắn ra, hỏi bâng quơ.

- Tôi đi hái thuốc về, nghe mọi người nói em cứ ngồi ở đây từ sáng, chẳng chịu ăn uống, thiền sư Tiêu Dao và phu nhân đều có việc ra ngoài cả, không ai bảo được em.

Tôi nhếch mép cười nhẹ, lại đến ngồi bên bậu cửa, mặc kệ hắn ngồi xuống cạnh bên.

- Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Nhã Phong, hôm nay em lạ lắm…

Tôi vẫn không đáp, tên thầy thuốc nhìn tôi hồi lâu rồi lại đưa mắt về phía mái đình, giọng nhẹ như gió thoảng:

- Tôi xin lỗi. Tôi không biết bị tôi hôn khiến em khó chịu đến mức này…

Tôi phì cười, chẳng buồn giải thích, đột nhiên lại nghĩ ra:

- Ta chỉ bị hôn mà đã khó chịu, người đó bị người kia… có phải rất khổ sở không?

- Ai? – Nguyễn Nam sửng sốt.

- Thiên hạ. – Tôi nhận ra mình lỡ lời nên vội gạt đi.

Gã thầy thuốc lại thở dài đánh thượt, mãi lâu sau, hắn cố pha trò:

- Hưng Ninh vương mà biết tôi giành mất nụ hôn đầu đáng ra là của ông ta, chắc sẽ cho người truy sát.

- Tiên sinh là trưởng bối của ta, ngươi đừng nghĩ chuyện không đâu nữa.

Tôi nói thế rồi đứng lên, đi về phía Phật đường.


***


Nếu tôi bảo với ai đó rằng lão già của tôi chưa bao giờ tin có Thần Phật trên đời, hẳn họ sẽ cho rằng tôi bất kính hoặc rất điên rồ. Kỳ thực, thiền sư Tuệ Trung chính là người luôn cho rằng vị thái tử tên Tất Đạt Đa kia cho đến ngày thành Phật vẫn luôn là một người phàm. Những điều Phật dạy chúng sinh được đúc kết từ mắt thấy, tai nghe và một trí tuệ mẫn tiệp hơn người, ghi lại thành kinh kệ để truyền bá điều hay lẽ phải. Vì thế, dù lão bắt tôi chép bao nhiêu quyển kinh, thuộc bao nhiêu bài tụng niệm, cũng chưa bao giờ buộc tôi vào Phật điện quỳ một ngày nào. Lão nói tâm tịnh thì trí ắt sẽ thông, Phật là bản tâm của mình, Chân – Thiện – Mỹ phải tự tìm ở nơi mình để thấu triệt chứ không đốt bao nhiêu nén hương, tụng bao nhiêu thời kinh mà ngộ được.

- Vậy vì sao người vẫn cho xây dựng Dưỡng Chân Trang, còn thu nhận vô số Phật tử ngày ngày đến cúng dường? – Có lần tôi hỏi.

- Khi chưa tin được vào bản thân mình, người ta cần một niềm tin vào những thứ nhiệm màu. Ta cho họ lòng tin rằng họ được che chở, được thứ tha, được sám hối, bị trừng phạt khi nghĩ đến thứ xấu xa, được thiện quả mỗi lần gieo nhân tốt đẹp. Thế vẫn tốt hơn để mặc họ tin vào quỷ thần, vào những điều vô lý mà những tên sư hổ mang rao giảng ngoài kia.

Từ lúc hiểu ra điều ấy, tôi luôn nhìn những người bước vào Phật đường bằng đôi mắt cảm thông của đấng bề trên thấu hiểu cho chúng sinh mê muội. Không ngờ cũng có ngày tôi mê muội không kém chúng sinh.

Tôi cung kính thắp hương, mang bồ đoàn ra giữa điện, mang cả mõ cùng tràng hạt, sẵn sàng trì niệm hai mươi mốt biến Chú Đại Bi. Đến lúc đã ngồi xuống hẳn hoi, toan gõ mõ, thấy thanh gỗ nhỏ trên tay mình nặng trĩu lại thôi. Những phiền muộn trong đầu tôi chỉ tổ khiến chốn này bớt linh thiêng. Tôi xuống bếp pha một ấm chè mang đến thư phòng, đóng kín cửa, bày thư án mài mực chép kinh.

“Nhà” trong tâm trí tôi lại là những năm tháng ở chốn này, bên cạnh một người.

Người dạy tôi biết mọi thứ trên đời, luôn nghiêm khắc, rất bao dung, cực kỳ hiểu chuyện nhưng lại không kiêng nể một ai, khiến tôi có cảm giác như mình có trong tay cả giang sơn gấm vóc.

Người đã dẫn tôi lên núi hái thuốc, chỉ cho tôi từng loại kỳ hoa dị thảo, đưa tôi đến những chỗ có thể nhìn được núi non hùng vĩ rồi cõng tôi về khi tôi đã mệt lử thiếp đi.

Người đã cứu tôi khỏi khói lửa mịt mù, khỏi manh vuốt mãnh hổ giữa rừng thiêng, khỏi những lần nghịch ngợm mang họa vào thân, khỏi những cơn ác mộng chập chờn.

Người ôm siết tôi vào lòng ngày tôi thành thiếu nữ, thấy nước quỳ[3] thì hoảng lên sợ mình sắp chết, kiên nhẫn dỗ dành rồi mới nhờ chị đến giúp tôi.

Người chỉ nói được một câu ngọt ngào duy nhất: “Từ nay ta sẽ bảo vệ em”, rồi những năm tháng về sau chỉ lặng lẽ thực hiện lời hứa ấy.

Tôi biết lẽ ra những lúc như thế này tôi nên thấy hụt hẫng, thấy suy sụp vì thân phụ của người lại là kẻ đã gây ra đau khổ cho người thân thích máu mủ với tôi. Đáng ra tôi phải truy vấn đến cùng, tìm cho ra sự thật, tìm cho được tung tích của dì. Tôi nên hoang mang tự hỏi xem người vì cớ gì lại dùng những tháng năm đẹp nhất của đời mình dắt theo một đứa trẻ đi khắp nơi, chẳng còn gì lạc thú. Tôi nghĩ tôi phải buồn bã, vì thứ tình cảm tôi thấy khốn nạn nhất trên đời là chữ “nợ”. Vì thấy nợ mà ở cạnh, vì thấy tội lỗi mà ép lòng yêu thương… chẳng phải càng gây thêm ngang trái, éo le sao?

Vậy mà, thời khắc ông Đảm nói ra cái tên Lý Cát, tôi chỉ bảo ông say rồi dìu ông về phòng nghỉ, một câu một chữ cũng không muốn nghe thêm nữa. Sau khi biết rõ những việc Yên Sinh vương đã làm với dì rồi, cả sự phẫn uất và thương tiếc cho dì tôi cũng vội vã gạt đi. Cái gì gọi là “máu chảy ruột mềm”? Một giọt nước mắt cũng không rơi, một lần phẫn nộ cũng không có. Chính việc không cảm nhận được những thứ cảm xúc “dĩ nhiên” này khiến tôi thấy bất lực hơn tất thảy.

Tôi sợ.

Giống như cách mà bao nhiêu năm qua tôi đã sợ mỗi lần nghĩ về cái chết của mẹ tôi.

Giống như cách tôi đã không bao giờ tìm hiểu xem chị tôi có thân phận gì, hay tôi có thân phận gì mà người phải nhọc công che giấu.

Giống như cách tôi luôn tự nói với mình chỉ cần người vui vẻ ở cạnh tôi, những gì đã qua cứ để nó ngủ yên. Tôi sống bên mẹ và dì hơn sáu năm, nhưng tôi đã sống cạnh người gần mười năm. Mười năm, đủ làm một số việc nhạt nhòa và làm một số thứ khác khắc sâu vào xương tủy.

Đến nỗi, lần này có một sự thật rành rành ra đó, hứa hẹn còn bao nhiêu sự thật khác bị vùi chôn, tôi vẫn tìm mọi cách bao biện, rằng Yên Sinh vương là Yên Sinh vương, dù người ta bảo dáng hình họ có nét tương đồng thì cớ gì đời cha ăn mặn lại bắt đời con khát nước, rằng người chẳng hay biết gì đâu, vì nếu biết đã chẳng đợi đến nhiều năm sau mới tìm thấy tôi mà bù đắp, rằng tôi không cần tìm hiểu nữa, sự thật chẳng thể sánh bằng an ổn trong tâm.

Tôi sợ tôi biết rồi lại phải hận người.

Đớn hèn như vậy.

Tôi có tư cách gì tự xưng là truyền nhân được người dạy bảo, có tư cách gì mở miệng bàn về Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín, có tư cách gì khoác lên bộ áo lam đứng trước đấng Thế Tôn, có tư cách gì đối mặt với người?

Trong phút chốc, tôi thấy mình như một kẻ chẳng ra gì, dửng dưng trước tai họa của người thân, bất chấp đúng sai, khư khư bảo vệ thứ hạnh phúc cỏn con của riêng mình. Tôi từng tự hào mình tuổi trẻ tài cao, giờ xem ra không chỉ tuổi nhỏ mà tâm tính tôi cũng mọn.

Ngoài kia vẳng lại tiếng chuông chiều, phủ trùm lấy không gian rồi tan đi trong hơi lạnh.

Tôi nhớ người từng dạy, muốn vượt qua những suy nghĩ tiêu cực trong đầu mình, trước hết cần thản nhiên thừa nhận chúng. “Tâm ma” một khi được gọi đúng tên, được chấp nhận sẽ thôi vùng vẫy, thôi phản kháng, nhiều lúc còn ngoan ngoãn lùi đi. Tôi chợt thấy buồn cười, giờ đến cả việc làm sao giải trừ phiền não liên quan đến một người, tôi cũng dùng cách do người đó dạy.

Thỏi mực bị tôi mài đến nóng cả tay. Tôi tự cười khổ, lắc nhẹ đầu, đưa bút viết liền một mạch:

“Tiểu nhân bám gót đại nhân
Mặc tình thiên hạ nói gần nói xa
Đôi người khuyết một chữ “gia”
Quạt nồng ấp lạnh chữ “nhà” cũng xuôi.”

Tôi dứt khoát đặt bút xuống nghiên, đọc lại những câu thơ mình viết trong vô thức. Mũi hơi sụt sịt, tôi đoan chắc nếu người có ở đây sẽ mắng tôi lúc nãy nghịch ngu, có khi còn bắt phạt cho chừa.

Bỗng đâu thấy khói hương từ Phật đường tràn cả vào thư phòng làm mắt nhòe đi. Nhìn lên bức tranh mộc lan treo trên vách, tôi cười nhạt, lẩm bẩm một mình:

- Lão già ạ, xem ra em đã thương người hơn cả ruột thịt mất rồi!



[1] Ca dao ca ngợi hai làng nghề: gốm Thổ Hà và rượu Vạn Vân.

[2] Tương truyền, vào cuối thời Lý (1009 - 1225) ba ông Đào Trí Tiến, Hứa Vĩnh Cảo và Lưu Phong Tú cùng làm quan trong triều và được cử đi sứ Bắc Tống (960 - 1127). Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được kỹ thuật làm gốm. Về nước Đào Trí Tiến truyền nghề làm hàng gốm sắc đỏ thẫm cho Thổ Hà, Hứa Vĩnh Cảo truyền nghề làm hàng gốm sắc trắng cho Bát Tràng, Lưu Phong Tú truyền nghề làm hàng gốm sắc vàng thẫm cho Phù Lãng.

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Thổ_Hà)

[3] Quỳ thủy: chỉ kinh nguyệt phụ nữ.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 19: ĐÃ MANG TIẾNG Ở TRONG TRỜI ĐẤT[1]

Lão già từng nói với tôi, những cây thuốc quý thường mọc ở nơi hiểm trở nên có nhiều người tưởng cây nào mọc ở nơi hiểm trở cũng là thuốc quý. Lúc nhỏ tôi nghe không hiểu, chỉ thấy buồn cười. Đến hôm nay bản thân rơi vào cảnh ngặt nghèo mới tỏ mình ngu dại.

Sáng nay tôi thức giấc từ sớm tinh mơ, bước ra sân thấy trời ấm hơn mọi ngày nên xuống bếp xơi bát cơm nguội cùng kho quẹt no căng bụng, dặn người làm nói lại với chị tôi rồi quày quả lên núi. Đây là lần đầu tôi đi hái thuốc một mình nên hăm hở được một lúc thì bắt đầu buồn chán, tôi nghêu ngao hát:

“Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào.
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra.
Cái Phong hái thuốc đường xa
Lên nhầm núi cấm lạc ba mươi ngày…”

Bên kia suối có anh tiều đang đốn củi chợt dừng tay đứng nhìn trối chết về phía tôi. Tôi nghĩ một lúc rồi chợt nhận ra, ở chốn rừng thiêng nước độc mà nhìn thấy một nhan sắc thế này, anh ta hoảng hốt cũng là dễ hiểu. Tôi đưa tay lên miệng làm loa, kêu lớn:

- Bác đừng sợ! Tôi là người, là người đấy không phải nữ thần sơn cước hạ phàm đâu! Bác đốn tiếp đi!

Có vẻ như lời tôi nói không đủ thuyết phục, anh ta chần chừ một lát lại cúi xuống vớ lấy cái rìu, mặt vẫn xanh như tàu lá.

Ngọn núi này tôi đã đến nhiều lần cùng lão già nên không đến nỗi lạc như lời tôi hát, nhưng cũng không hẳn dễ dàng vì đường rất dốc. Tôi vừa đi vừa hái, khi mặt trời đứng bóng thì tôi cũng đến được mỏm đá rất cao, túi vải mang theo cũng đã đầy. Tôi ngồi tựa phiến đá nghỉ chân, giở chiếc bánh giò mang theo ra ăn, định chốc nữa sẽ bắt đầu xuống núi. Hôm nay trời ấm, tôi nghiêng đầu nhìn những giọt nắng lung linh phản chiếu trên phiến lá non xanh. Lũ chim gõ kiến vẫn cần mẫn mổ vào thân cây. Tôi bèn lên tiếng gọi:

- Kiến, xuống đây!

Nó quay lại, giương cặp mắt lồi nhìn tôi ngơ ngác. Tôi giơ mẩu bánh ăn dở về phía nó, trìu mến nói:

- Xuống xơi bánh giò với chị Phong xinh đẹp này!

Con chim chết tiệt đó quay ngoắt đi đầy vẻ khinh thường. Suýt nữa thì tôi đã cầm viên đá ném cho bõ ghét. Nhưng công lao chép kinh Phật mấy năm nay không hề uổng phí, sau một hồi tự bảo mình phải từ bi, tôi cũng buông bỏ được cơn giận trong lòng. Tôi nghĩ, tất cả cũng tại anh Voi Lớn, nếu như năm xưa anh ta chịu dạy mình cách trò chuyện với thú rừng thì hôm nay đã không mất mặt thế này!

Voi Lớn là người làm ở phủ Hưng Đạo vương. Lúc được vương nhặt về, anh ta chỉ trạc tuổi tôi, nghe nói không cha không mẹ sống vất vưởng trong rừng nên hiểu được tiếng muông thú. Tôi gặp anh Voi Lớn lần đầu lúc Hưng Đạo vương đến thăm anh cả, anh ta đi theo nhưng chỉ dám ngồi đợi ở hồ sen, tán dóc với lũ cá trong hồ. Lúc họ về rồi, tôi cứ nằng nặc đòi lão già dạy tôi, lão thì cứ khăng khăng là không biết. Những lần sau này có dịp gặp lại, anh ta toàn lừa tôi cho voi chở đi chơi, loay hoay thế nào đã đến lúc phải về. Cuối cùng, tôi tự tin là mình trên thông thiên văn dưới tường địa lý lại không nói chuyện được với con gõ kiến, bị nó khinh nhờn ra mặt.

Cái bánh giò đã trôi vào bụng từ lâu, tôi cứ nhìn mãi, nhìn mãi lên tán cây ấy. Xuyên qua đám lá, tôi thấy một cây leo bám chặt vào thân cổ thụ, quả màu vàng rực. Tôi đứng phắt dậy, nói như reo:

- Cây hoàng đằng[2]!

Đây là cây thuốc quý, vừa chữa được rắn cắn, vừa trị được người ngộ độc. Tôi chỉ nhìn thấy hình do lão già vẽ lại chứ chưa được sờ tận tay bao giờ. Trong cơn phấn khích, tôi tìm cách trèo lên. Loáng cái đã chạm được vào mục tiêu, tôi khéo léo tách cây hoàng đằng ra khỏi thân cây cổ thụ, cẩn thận hết mức để không làm hư bộ rễ. Chỉ còn một đoạn ngắn bám chặt lấy cành, tôi đang loay hoay gỡ thì bắt gặp một đôi mắt đang nhìn tôi tha thiết. Tôi chỉ kịp nói một câu rồi giật mạnh tay, tay kia giữ chặt miệng túi vải, cả người rơi xuống đất:

- Chào mày, rắn lục!

Quỷ tha ma bắt cái sự già nua! Mấy năm trước tôi ngã từ trên cây xuống mãi chẳng hề hấn gì, giờ tuổi đã cao nên chỉ sơ sẩy một chút đã bong gân, chân sưng tấy không đi được nữa. Khốn nạn hơn, cái cây thuốc tôi liều mạng hái chỉ là cây dại trông giống cây hoàng đằng, hoàn toàn không dùng được. Tôi cuộn vạt áo lại, đưa lên miệng cắn chặt rồi tự nắn lại khớp chân, đau đến trào nước mắt. Đưa tay lau sạch, tôi tự nói với mình, là một đại trượng phu, tôi không được khóc!

Nhưng không khóc thì dễ, làm sao xuống núi với cái chân thế này mới khó. Tôi chủ quan chỉ đi về trong ngày nên không mang theo thức ăn hay nước uống. Chị tôi cũng đang bận bịu việc trong trang, tâm trí đâu mà cho người dõi theo tôi. Tôi nghĩ ngợi một lúc, chợt nhớ tới cụ ông Lý Đảm. Chẳng phải ông ấy cũng sống nơi rừng núi với một chân sao? Tôi trẻ hơn ông, lại là người luyện võ, chưa gì đã đầu hàng biết sau này làm sao ăn nói với lão già? Nghĩ là làm, tôi xé vạt áo thành một dải dài, cột cổ chân sát vào đùi rồi nhặt cành cây làm gậy, tập tễnh đi xuống từng bước một. Những bước đầu tiên khá nhẹ nhàng, rồi chỗ chân đau bị tụ máu, đau đến tê dại. Tôi cứ đi được một quãng ngắn lại ngồi xuống thở, chẳng mấy chốc trời đã về chiều. Tôi cố gắng bước nhanh hơn một chút, trong lúc vội vã, đầu gậy của tôi chống vào viên đá nhỏ, trượt đi, tôi ngã nhào, lăn lông lốc, không kiềm được mà kêu la thảm thiết. Khi hoàn hồn lại, tôi nghe tiếng gọi văng vẳng:

- Nhã Phong!

Tôi nhận ra ngay tiếng Nguyễn Nam, liền hét trả:

- Anh Nam, tôi ở đây này! Ở chỗ có rất nhiều cây ấy!

Cũng nhờ chỉ dẫn chi tiết của tôi, anh ta đến nơi ngay lập tức. Vẻ thảng thốt hiện rõ trên mặt, anh ta vội đỡ tôi ngồi dậy, tháo sợi dây buộc ở chân, xuýt xoa liên hồi:

- Sao lại ra nông nỗi này? Em chán sống rồi hả?

Tôi mệt chẳng buồn cãi lại, để mặc anh ta xốc tôi lên lưng.

- Thả tay ra! – Anh ta nghiêm giọng.

Lúc này tôi mới sực tỉnh, để anh ta cầm lấy túi vải chứa đầy thảo dược. Một lúc lâu sau, tôi hỏi:

- Sao anh lại ở đây?

- Sáng nay phu nhân đến nhờ tôi đi theo em để trông chừng.

Ra là vậy! Chị tôi vẫn yêu thương tôi lắm!

- Giữa đường tôi gặp anh tiều phu nên hỏi anh ta có thấy cô gái nào mặc áo lam trắng, mặt mũi thánh thiện lên núi hái thuốc không. Anh ta lắp bắp mãi rồi mới chỉ tay về hướng Bắc.

Tôi thở dài đánh thượt:

- Chắc gã tiều đó sợ ngươi gặp nữ thần phải tội nên chỉ sai đường. Nhưng ngươi làm thầy thuốc kiểu gì vậy, bao giờ hướng Nam chẳng nhiều cây cối um tùm tốt tươi hơn, tất nhiên ta phải đi về phía ấy rồi! – Tôi càng nghĩ càng thấy cáu, quên cả mệt.

- Làm sao tôi dám dùng lý lẽ của người bình thường mà đoán ý nghĩ của em? – Hắn ta cãi chày cãi chối.

- Này! Đừng nghĩ ngươi đang cõng ta thì muốn nói sao cũng được! Có giỏi thì bỏ ta xuống tỉ thí một trận! – Tôi bóp cổ hắn bằng cả hai tay.

- Tôi sai! Tôi sai rồi! – Hắn thều thào yếu ớt.

Sau đó, Nguyễn Nam bỗng dưng trầm lặng. Mãi một lúc lâu sau hắn bảo:

- Nhã Phong, tôi đi em có buồn không?

- Ngươi muốn đi đâu? – Tôi hỏi bâng quơ.

- Đi làm đại sự. – Hắn ngập ngừng. – Đợi công thành danh toại rồi mang trầu cau đến xin Hưng Ninh vương cho tôi đón em về.

Tôi đang mệt nên nghe chữ được chữ mất, ngáp dài bảo:

- Đời này ta chỉ ở Dưỡng Chân Trang. Ngươi muốn thì dọn đến sống cùng.

Trong cơn chập chờn, tôi nghe tiếng hắn cười khổ não.

Khi chúng tôi đã về đến nhà, chị tôi ra tận cổng đón, thảng thốt kêu lên:

- Cậu Nam, Phong bị làm sao thế này?

Bàn tay dịu dàng của chị đặt lên trán tôi, giọng nói càng khẩn trương hơn:

- Em sốt rồi! Mau đưa nó vào phòng!

Tôi mơ mơ màng màng thấy ông Lý Đảm đang bước ra từ phòng của sư ông. Họ trông thấy tôi, vội đến xem, ông Đảm bước thấp bước cao hệt như tôi lúc nãy. Tôi mỉm cười, gật đầu chào họ rồi không biết gì nữa.


***


Trong một giấc mơ nào đó, tôi thấy lão già hay tin tôi ốm nặng nên trở về thăm. Tai tôi nghe rõ tiếng lão răn dạy mọi người phải trông chừng tôi cẩn thận hơn. Mắt tôi thấy rõ dáng lão ngồi đọc văn thư ở phòng tôi cả ngày, không rời đi đâu cả. Tôi tỉnh dậy, thừa dịp lão không để ý mà bò đến ôm chân lão tỏ vẻ hối lỗi. Lão nghiêm mặt, giọng lạnh tanh:

- Em nghỉ ngơi vài hôm nữa đi. Đợi chân khỏi hẳn rồi ra dọn chuồng ngựa và vớt bèo dưới ao. Không vội!

Tôi sợ hãi khóc ròng:

- Lần này không phải lỗi của em đâu, tại anh Voi không dạy em cách thương lượng với rắn lục đấy chứ!

Tôi khóc như thật, nước mắt ướt đẫm gối, chị Hạnh hoảng hốt lay tôi dậy:

- Cô Phong! Cô Phong! Làm sao thế? Cô thấy ác mộng sao?

Tôi choàng tỉnh, đảo mắt nhìn quanh phòng mãi một lúc lâu rồi lẩm bẩm:

- Chuồng ngựa đã dọn chưa? Bèo dưới ao đã vớt sạch chưa?

Chị Hạnh tròn mắt nhìn tôi rồi đưa tay lên trán, đoạn chạy ra cửa gọi lớn:

- Cậu Nam ơi, cô Phong tỉnh rồi, cậu đến xem cho một chút!

Nguyễn Nam nhanh nhẹn đến bắt mạch, xem chân, bắt tôi uống hết một bát thuốc đắng rồi mới từ tốn bảo tình trạng đã khá hơn nhiều.

Nằm mãi một chỗ khiến tôi buồn bực chết đi được. Tôi chống gậy lò dò đến chỗ ông Đảm đang dạy mọi người rèn vũ khí. Nào chuốt tên, nào rèn gươm, các anh thợ mình trần mướt mồ hôi làm hăng say như thể đang giết giặc. Ông Đảm hôm nay hoàn toàn khác người đàn ông đã say bí tỉ vì buồn tình hôm mới đến. Tôi ngồi chống cằm quan sát ông một hồi lâu, chắc mẩm thời trẻ ông cũng là một thanh niên tuấn tú, rất xứng đôi với mẹ của lão già.

- Hưng Ninh vương không dạy em rằng nhìn chằm chằm vào nam nhân là thiếu đoan trang sao? – Tiếng Nguyễn Nam từ sau vọng đến.

Tôi nhìn bát thuốc hắn vừa đặt trước mặt rồi quay sang nhìn hắn, bĩu môi không thèm đáp. Hắn đợi mãi không thấy tôi uống, toan cầm tay tôi ấn bát thuốc vào, tôi đánh mạnh lên tay hắn:

- Công tử, xin tự trọng!

Ông Đảm ngồi ngay đó phì cười. Tôi tập tễnh bước đến sau lưng ông:

- Ông ơi cứu cháu! Tên kia muốn giở trò…

Nét mặt Nguyễn Nam không rõ là buồn cười hay tức giận, hồi lâu hắn thở dài:

- Em cứ dở người như thế thì bao giờ khỏe lại? Đợi quân Thát đến thì đánh giặc bằng một chân à?

Chợt nhận ra mình đã lỡ lời, tên thầy thuốc e dè nhìn ông Đảm:

- Xin lỗi cụ, tôi không…

Bàn tay ông đưa lên cắt ngang lời hắn, ông chống tay lên bàn đứng dậy, nhìn tôi với ánh mắt đầy kiêu hãnh:

- Nhóc, ta nghe nói cháu bị thương vẫn cố gắng tự mình xuống núi. Mang kiếm ra đây, ta dạy cháu làm thế nào một chân giết giặc!

Cả xưởng rèn đều bỏ dở việc chạy đến xem, không biết ai báo mà chị tôi và anh Thân cũng đến, có người còn mang theo cả trống. Tôi nắm chặt thanh kiếm khắc chữ “Tuệ”, quên đi cái chân đau đang được bó vào đùi, cố trụ vững trên chân phải. Phía bên kia ông Đảm cũng lăm lăm thanh đao lấy bừa trong xưởng, ánh nhìn bỗng trở nên sắc lạnh. Cánh tay ông và lưỡi đao tạo thành một đường thẳng tắp, khí thế rợn người. Đó không còn là ông cụ lánh đời chỉ nói được ba câu ở ngôi chùa trên núi, không phải là một người đau khổ vì vết thương lòng, không phải là một vị hoàng thân thất thế. Đó là một dũng sĩ sẵn sàng tiêu diệt bất cứ kẻ nào dám cản đường! Ông nhìn chằm chằm về phía tôi, nói như ra lệnh:

- Nhóc, lên!

Tiếng trống vang lên giòn giã. Tôi buông gậy, lấy đà nhảy lên cao, lộn người trên không một vòng rồi vung kiếm chém mạnh xuống. Nhanh như cắt, ông Đảm đưa đao lên đỡ, hất tôi ngã về phía sau đồng thời nhào lộn liên tục mấy vòng, thoắt một cái, lưỡi đao đã ở ngay trên đỉnh đầu tôi.

Tôi chỉ có một chân, không chạy được nên chỉ biết lăn trên đất để tránh né. Ông Đảm vẫn liên tục đánh xuống, một tay nạng một tay đao, tôi thấy khắp người đau buốt. Mọi người xung quanh nhất loạt kêu:

- Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!

Ông Đảm vẫn đứng vững, lưỡi đao hướng về phía tôi, ánh mắt không hề lộ vẻ từ bi. Trong khoảnh khắc đó, tôi thực sự muốn khóc.

- Ra chiến trường, giặc không vì ta bị thương mà dừng lại. Nhóc, nhặt kiếm lên!

Phải rồi, tôi đã quên đi mình từng khổ luyện thế nào những ngày đầu. Cuộc sống của tôi luôn êm đềm, đi đâu cũng có lão già che chở, tôi chỉ mải mê tập luyện cho kiếm pháp thật đẹp, thật thanh tao giống lão mà quên đi rằng đao kiếm vốn là hung khí để giết người. Tôi chưa từng nghĩ xem lão già của tôi lúc ra trận sẽ thế nào, ánh mắt có còn phẳng lặng như mặt hồ thu hay cũng đằng đằng sát khí. Nhưng lúc này, đối diện với cụ ông trước mặt, sau lưng chẳng có đường lùi, tôi biết mình sắp chết.

Tôi không muốn chết! Tôi không muốn thừa nhận mình vô dụng!

Tôi duỗi ngón tay rồi lại nắm chặt vào chuôi kiếm, dùng hết sức bình sinh bật người dậy, xoay cổ tay đâm thẳng đến. Ông Đảm đưa thân đao ra đỡ rồi lại lao đến phản công, tôi dồn sức một lần nữa, dùng cả hai tay chém thật mạnh về phía trước.

- Hay! Hay quá! – Mọi người đồng loạt reo lên.

Tôi thở hồng hộc, gượng ngồi dậy, nhìn về phía đối thủ. Ông Đảm vẫn cầm thanh đao đã gãy đôi, ôm quyền cúi nhẹ người chào.

Anh Thân đỡ tôi đứng lên, tiến về phía ông. Ông cụ hất hàm cười:

- Thế mới xứng là truyền nhân của tên nhóc kia chứ!

Tôi nhìn thanh kiếm trong tay mình:

- Cũng nhờ thanh bảo kiếm này…

Ông Đảm đưa tay phủ nhận:

- Vũ khí sắc bén nhất là đây. – Ông đưa tay đấm lên ngực mình. – Chỉ cần trong lòng có quyết tâm muốn sống, dù là kiếm tốt, hay thanh đao gãy, dù đủ đầy tứ chi hay què cụt, ta đều có thể chiến đấu đến cùng.

Dừng một lúc, ông nói tiếp:

- Tên nhóc kia có vẻ rất nhàn nhã, nhưng một khi cần chiến đấu, hắn cũng sẽ không khoan nhượng. Ta chưa được nhìn thấy dáng vẻ đó của hắn, đành nhìn vẻ mặt hôm nay của cháu. Ánh mắt rất kiên định, rất sắc sảo. Đó không phải là dã tâm, sát ý. Đó là niềm kiêu hãnh của giống tiên rồng, vung kiếm để bảo vệ nghìn năm lịch sử!

Ông mỉm cười, nét mặt trở nên nhu hòa:

- Nhóc con, hiểu rồi chứ?

Tôi nghe những lời ông nói, nhìn gương mặt tràn đầy khí thế kia, không kìm được xúc động mà thấy cay cay nơi khóe mắt:

- Cháu hiểu rồi, cảm ơn ông ạ!

Ông dõng dạc hướng về những người đang tụ tập xem trận đấu, dừng lại một chút chỗ tên thầy thuốc:

- Các người đã hiểu cả chưa?

- Hiểu ạ! – Muôn người đồng lòng như một.


***


Từ sau trận đấu ấy, danh tiếng của ông Đảm ngày một vang xa, rất nhiều chú bác trong làng cũng tìm đến gặp ông, được ông động viên ghi tên nhập ngũ. Tin từ kinh đô truyền lại, tên chủ tướng quân Thát là Ngột Lương Hợp Thai cho sứ giả sang dụ hàng bị quan gia bắt giam vào ngục. Không khí chiến tranh đến bây giờ bỗng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Cả nước bừng bừng khí thế chuẩn bị chống xâm lăng. Việc quân mỗi ngày một nhiều thứ phải lo, hôm nào tôi cũng cùng sư ông, chị cả và anh Thân bàn bạc đến khi trời tối.

- Sau khi bổ sung quân lực cho tiền tuyến, chúng ta còn tổng cộng năm nghìn quân. Anh Thân giúp em chọn ra những người thể lực tốt, trèo cao, nhanh chân, chạy giỏi thành một nhóm quan binh, chia nhau trấn giữ bốn mặt Đông – Tây – Nam – Bắc và những nơi trọng yếu như phủ đệ, đền đài. Chị giúp em tuyển một toán du quân, gồm những kẻ có tài ẩn mình, đi như rắn, nấp như chuột, vượt thành, khoét vách, dùng để liên hệ giữa các quân, thường ngày thì bí mật theo dõi an ninh đề phòng có người thừa lúc loạn lạc làm càn. Ai còn nặng lòng với họ Lý và tin theo ông Đảm thì cứ để ông ấy dẫn dắt, phía Phật tử xin nhờ sư ông. Những kẻ mạnh dạn, liều chết, không sợ gươm giáo sẽ theo em, lập thành một toán quân tiên phong đánh phủ đầu giặc khi cần.

- Chị không đồng ý! Như vậy quá nguy hiểm cho em! – Chị tôi hơi kích động.

- Chị yên tâm, em không chết được đâu!

- Cô Phong, cậu Cả mà biết sẽ giết bọn tôi mất! – Anh Thân cũng mất bình tĩnh.

- Huệ Tâm! – Sư ông từ tốn cất lời. – Con là truyền nhân tâm đắc nhất của Tuệ Trung, con không ở lại lãnh đạo thì làm sao mọi người yên tâm chiến đấu!

Tôi toan đáp lại thì bên ngoài có tiếng gõ cửa. Tôi gấp tấm địa đồ bằng da dê lại, cao giọng đáp:

- Vào đi!

Nguyễn Nam bưng khay thuốc bước vào đưa cho tôi rồi quay mặt ra ngoài. Tôi uống một hơi cạn sạch rồi đưa bát lại cho hắn. Tên lang băm lặng lẽ rời đi, khép cửa phòng lại, từ đầu đến cuối không nói một lời nào.

Thật ra những hôm đầu tiên hắn có hỏi, nhưng chỉ nhận được vài câu đáp ậm ờ:

- Bọn tôi đang bàn tí việc.

Thế nên giờ hắn cũng biết ý, không hỏi thêm gì nữa.

Chị tôi nhìn cánh cửa đã đóng chặt, khẽ thở dài:

- Không đủ thân thiết để chia sẻ quân cơ, không đủ tầm thường để ghi danh vào quân ngũ. Cũng không biết phải đối xử với cậu ta thế nào mới phải.

- Nếu tôi là cậu ấy, chắc sớm đã không chịu nổi. – Anh Thân chép miệng đầy cảm thông.

- Lúc đầu tỏ ý giữ hắn lại, em cũng không ngờ không khí ở hậu phương lại nhàm chán thế này, vốn không có chỗ cho hắn lập công. – Tôi lật tấm địa đồ ra nhìn vu vơ vào một điểm.

- A di đà Phật! – Sư ông ôn tồn. – Cậu trai ấy là người thông tuệ, vốn hiểu rõ lòng mình, các con không cần lo lắng thay cậu ấy.

Tuy vô tâm vô phế, tôi cũng đọc được sự chán nản trên vẻ mặt Nguyễn Nam hôm vào rừng tìm tôi, hắn có tài lại có mưu trí, vốn không nên ở chốn này ngày ngày nghe bọn tôi sai vặt. Tôi nghĩ sư ông nói không sai, ngày hắn nói lời từ biệt chắc chẳng còn xa nữa.

Quả nhiên, ngay sau cái hôm tôi tháo vải băng ở cổ chân, Nguyễn Nam lặng lẽ ra đi, chỉ để lại một phong thư và một quyển sách gửi cho tôi.

“Nhã Phong, tạm biệt.

Nhờ em giúp tôi cảm tạ Hưng Ninh vương đã ngăn tôi phạm sai lầm. Ông ta nói không sai, nếu tôi muốn bảo vệ những người tôi coi trọng, tôi phải có thực quyền trước đã.

Tiếp tục ở lại Dưỡng Chân Trang, tôi mãi mãi chỉ là một tên thầy thuốc quèn, cố gắng lắm thì cứu chữa được mấy chục người. Cụ Lý Đảm tuy tuổi đã cao lại tàn nhưng không phế, có lý nào tôi cam phận thấp hèn mãi được?

Y thuật của tôi không thể sánh bằng vị tiên sinh mà em tôn kính, nhưng lúc này không có ông ta ở bên, những ghi chép của tôi chắc cũng giúp em được đôi phần.

Tôi tin em không ngạc nhiên, cũng không thương tiếc.

Bảo trọng. Hẹn ngày tái ngộ.”

Tôi lật nhanh quyển y thư của hắn, bên trong là rất nhiều hình vẽ và ghi chép về những cây thuốc quý tôi chưa thấy bao giờ, còn có những căn bệnh lạ mà hắn gặp trên đường hành y bấy lâu nay. Tôi mải mê đọc hồi lâu, khi xếp sách lại rồi mới nhìn đến chiếc phong bì, một bên hắn viết rõ tên tôi, bên còn lại, là một cái tên lạ lẫm. Tôi nghĩ một lúc rồi ngỡ ngàng nhận ra tên Nguyễn Nam tôi vẫn gọi hắn bấy lâu nay là giả. Trong vô thức, môi tôi bật ra tiếng gọi tên thật của hắn lần đầu:

- Phạm Cự Chích!



[1] Câu thơ trích trong bài Đi thi tự vịnh của Nguyễn Công Trứ.

“Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng”

[2] Cây hoàng đằng: còn gọi là cây vàng đắng, là dạng cây leo hoang dã nhưng là một loại thuốc Nam quý hiếm.
 

bupbecaumua

gà luộc
Nhóm Biên tập
Tham gia
9/12/13
Bài viết
3.401
Gạo
6.529,0
Lâu lắm mới lội vào Gác để đọc. Con dở hơi Nhã Phong vẫn không bớt dở hơi, tự tin vào nhan sắc sánh với nữ sơn thần, nhưng lại tự nhẩm đại trượng phu. :)):)):)):)):))
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
Lâu lắm mới lội vào Gác để đọc. Con dở hơi Nhã Phong vẫn không bớt dở hơi, tự tin vào nhan sắc sánh với nữ sơn thần, nhưng lại tự nhẩm đại trượng phu. :)):)):)):)):))

Người nó có cái công tắc chuyển đổi nam nữ theo ý thích đó em!
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 20: NGỰA HÍ VANG TRỜI

Nguyễn Nam, à không, Phạm Cự Chích rời Dưỡng Chân Trang chẳng bao lâu thì vó ngựa Thát quân đặt chân vào biên giới Đại Việt.

Đợi mãi không thấy bọn sứ giả quay về, tướng quân Cốt Đãi Ngột Lang quyết định khởi binh từ trại A Mân. Lão già viết thư về báo, phò mã Hoài Đô và tướng Triệt Triệt Đô dẫn hai đạo quân tiên phong tiến theo tả hữu ngạn sông Thao, trung quân do A Truật dẫn đầu, cuối cùng là hậu quân của Cốt Đãi Ngột Lang trực tiếp chỉ huy. Tôi thường nghe Hưng Đạo vương nhiều lần khen ngợi viên tướng này trước mặt lão già, bảo đây là con trai của danh tướng Tốc Bất Đài – một trong tứ dũng của Thành Cát Tư Hãn. Cha hắn đã từng tham gia chinh phạt nước Kim và Hoa Thích Tử Mô[1], bản thân hắn cũng là nguyên soái tiêu diệt Nam Chiếu trong vỏn vẹn vài tuần. Thuở ấy nghe chuyện kiêu hùng trên lưng ngựa của cha con hắn, tôi cứ trầm trồ khâm phục mãi, mơ về một ngày được dong ruổi trên thảo nguyên bao la mà giương cung bắn hạ hùng ưng, chẳng ngờ có một ngày phải đứng hai bên chiến tuyến.

- Theo tin báo về từ biên giới, thiết kỵ binh của bọn chúng sang Đại Việt chừng ba vạn, cộng với hai vạn quân Đại Lý của vua Đoàn Hưng Trí đã đầu hàng, tất cả khoảng năm vạn. – Chị Thiên Hương nhìn đăm đăm vào tấm địa đồ, chậm rãi nói. – Xét về quân số thì nước ta không hề thua kém, nhưng bấy lâu nay tiếng vó ngựa của người Thát là nỗi ám ảnh của các nước lân bang nên ta không có cách nào lạc quan được.

- Vương phi, quan gia đã ra lệnh điều động quân đội đích thân xuất trận, cả nước đang vô cùng phấn khích, sĩ khí rất cao, người không cần lo lắng quá! – Anh Thân hồ hởi đáp.

- Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương Thánh, Thần Sách, Củng Thần, ngoài sáu quân chủ lực này ra còn có sương quân của các lộ gần bên cùng với quân đội riêng của các vương hầu ở xa chưa kịp về tụ hội, quân đội đang đóng ở phía Nam để trông chừng người Chiêm nếu cần cũng có thể dùng. – Tôi ngồi co một chân trên ghế, cằm tựa lên gối, tay xoay xoay cốc trà đã cạn. – Hưng Đạo vương đã được điều lên trại Quy Hóa để đón đầu giặc, em tin là bọn Thát chẳng thể đắc ý được đâu. Chúng ta cũng nên sẵn sàng thôi.

Nói rồi, tôi nhìn sang sư ông vẫn đang trầm ngâm từ chiều:

- May là bọn con có sư ông, nếu không kế hoạch thông tin của tiên sinh chẳng thể nào thực hiện rồi.

Để rút ngắn thời gian báo tin giữa tiền tuyến với hậu phương, lão già đã nghĩ ra cách tận dụng số lượng đền chùa dày đặc trong nước. Mỗi vùng có một chùa lớn phụ trách thông tin chính và nhiều chùa nhỏ thay nhau “chạy trạm”. Sư ông Tiêu Dao – vị thiền sư đức cao vọng trọng nhất nhì cả nước – đã giúp bọn tôi thuyết phục và tổ chức hệ thống này, chính vì thế, buổi sớm có việc gì xảy ra ở Thăng Long thì buổi chiều tôi đã biết được ngay. Tất nhiên, có tin cần bảo mật, có tin cần lan tỏa. Sư ông nhìn tôi mỉm cười hiền hậu, khẽ gật đầu như bảo hãy an lòng.

***

Dù tin tức truyền về ở tiền tuyến có dầu sôi lửa bỏng thế nào, ngày nào Thăng Long còn đứng vững, hậu phương như làng Vạn Niên của tôi hãy còn nhàn nhã. Mấy hôm liền sau đó, chiều nào tôi cũng ngồi ở hiên nhà, miệng nhai mía chưng hoa bưởi thơm lựng, tay lúc thì chuốt dược nỏ[2], lúc thì cầm que vẽ sơ đồ trận nào Hạc Dực, nào Bát Môn Kim Tỏa cho các đô trưởng hiểu. Theo quy định của triều đình, cứ năm người lính hợp thành một ngũ, đứng đầu là ngũ trưởng, năm ngũ hợp thành một đô, ba mươi đô lại thành một quân. Ở Vạn Niên có một quân là thân binh của lão già, do chị Thiên Hương trực tiếp chỉ huy nhưng bọn họ nghe lời tôi lắm. Mỗi lần hoa tay múa chân ra chiều nghiêm trọng với thuộc cấp, tôi đều hình dung trong đầu cảnh nữ tướng Trần Nhã Phong oai vệ cưỡi trên lưng voi, ung dung lấy đầu quân Thát, khí thế chẳng kém Bà Trưng, Bà Triệu ngày nào, chỉ nghĩ thôi đã sướng run người, dù rằng tôi chưa được học cách cưỡi voi. Lần này, anh Voi Lớn và anh Cá To hẳn đã theo Hưng Đạo vương xuất trận, hẳn là oai phong lẫm liệt khiến người ta đố kỵ. Nhất định khi thanh bình gặp lại, tôi sẽ bắt họ dạy tôi cách trò chuyện, điều khiển thú rừng và cá biển!

- Cụ đang làm món gì vậy, có trò hay mới sao không cho cháu cùng chơi? – Tôi đảo khúc mía trong miệng, ú ớ bảo ông Đảm đang săm soi mũi tên bé tẹo bên kia.

- Qua đây. – Ông vẫy vẫy tay.

Tôi nhè xác mía ra bát, lau vội bàn tay đang dính đầy độc dược, chạy đến chỗ ông. Ông lão lấy một ống trúc nhỏ xíu, bỏ mũi tên gỗ đầu dày đầu nhọn vào, đưa cho tôi bảo:

- Thử xem.

Tôi hồ nghi cầm lấy, nhìn nhìn một lúc mới đưa lên miệng, nhắm vào thân cây đại cách chỗ tôi đứng chừng mươi bước, thổi mạnh một cái. Mũi tên cắm phập vào thân cây. Tôi mở to mắt chạy đến nhổ ra, lại lùi xa ba mươi bước, thử lại lần nữa, mũi tên vẫn cắm mạnh vào chỗ cũ.

- Cái này nhỏ tí mà lợi hại ghê, bắn được xa phết ông ạ! – Tôi nói như reo.

Ông Đảm cười cười tự đắc, hồi sau mới bảo:

- Trước ta dùng để săn thú, no bụng là nhờ nó cả đấy!

Tôi nghe ông nói, chợt nảy ra một ý:

- Nếu ta có thể làm mũi tên bé hơn một tí rồi tẩm độc, nhân lúc bọn giặc Thát không để ý mà thổi vào chân ngựa thì có thể khiến ngựa tự dưng ngã lăn quay, nhất định sẽ làm bọn chúng không hiểu chuyện gì, hoảng sợ mà bỏ chạy!

Ông lão một chân nhướn mày ra chiều thích thú, gật gật đầu.

- Vậy ông cháu mình chuốt thêm nhiều cái nữa để dùng dần cụ nhé! – Tôi ngoác mồm cười.

Lần sau gặp lại, tôi nhất định sẽ bày một bàn tiệc linh đình cảm ơn Trần Cụ đã giới thiệu cụ Lý Đảm cho tôi. Ông ấy biết rất nhiều loại binh khí khác nhau, từ cách chế tạo sử dụng đến việc dùng món nào vào trận nào là hợp lý. Ông thấy tôi càng nghe càng hỏi, lại sáng dạ học một hiểu mười nên rất tích cực dạy dỗ, tôi giác ngộ được bao nhiêu điều mới lạ.

- Các người có vẻ rất tín nhiệm thằng nhãi Cảnh. – Một hôm, ông bỗng bắt đầu câu chuyện với tôi như thế.

Thằng-nhãi-Cảnh là cách ông vẫn hay gọi quan gia, ban đầu tôi có chút lo sợ sửa lời ông nhưng nói mãi không xong, nhìn quanh quất cũng chẳng có ai xa lạ, tôi đành xem như không có gì đáng bận tâm:

- Điều đó là tất nhiên ạ! Quan gia tại ngôi chẳng bao lâu, đất nước từ sắp suy vong đã no ấm vững mạnh như hôm nay, bây giờ còn không xem quân Thát là đáng sợ. Mấy năm trước, ngài mới đánh Chiêm Thành xong đã mang chiến thuyền đi thị uy trên đất Tống, nhổ neo sắt của người Tống mang về. Oai dũng là thế nhưng vẫn rất thấu hiểu nhân tình, tinh thông Phật pháp. Tiên sinh nhà cháu kính phục quan gia lắm, hay kể sự tích anh hùng của ngài ấy nên ai nấy ở đây cũng như vậy cả cụ ạ!

- Thế à. – Cụ nhếch mép cười.

Tôi biết, phải thừa nhận tình địch của mình là một điều vô cùng khó khăn nên tôi cũng không chấp gì ông cụ. Đàn ông nhiều khi cũng chỉ là một đứa trẻ to xác mà thôi!

***

Bình bình an an chuốt ống thổi tiêu được vài hôm nữa, tôi nhận được mật báo rằng quân Thát đã chiếm được Quy Hóa, chủ trại Hà Khuất phải lẩn vào rừng. Tôi đập bàn hỏi lớn:

- Hưng Đạo vương đâu? Ngài ấy không phải đến Quy Hóa rồi sao?

Chú sa di đến truyền tin bị tôi dọa sợ tái mặt:

- Bẩm, không nghe nói gì về đức ông!

Tôi nhận ra mình thất lễ, mời chú lui xuống hậu viện nghỉ ngơi. Bọn Thát tiến quân nhanh hơn chúng tôi nghĩ rất nhiều. Quân đội viễn chinh thường phải đem theo lượng lương thực, vũ khí và quân hậu cần lớn nên sẽ làm chậm tốc độ di chuyển, nhưng bọn này không những chỉ mang mọi thứ trên lưng ngựa mà vai trò của người nấu ăn và thợ rèn chúng cũng thay phiên nhau đảm trách. Giờ tôi đã lờ mờ hiểu vì sao chúng kiêu ngạo nói rằng “vó ngựa quân Thát đi đến đâu, cỏ nơi ấy không mọc nổi”. Tôi trấn an mọi người nhưng lòng đã như lửa đốt:

- Chắc là Hưng Đạo vương chủ động rút lui vì có một kế hoạch sâu xa hơn, chúng ta phải tin tưởng, ngài ấy đã từng thất bại bao giờ?

Gần suốt một đêm, tôi chong đèn nhìn tấm địa đồ suy nghĩ rất lung. Họ Trần xuất thân nghề chài lưới nên thủy quân vốn là thế mạnh. Tôi đoán quan gia sẽ cho binh thuyền đi từ Thăng Long ngược dòng Phú Lương, rẽ vào sông Cà Lồ để tiến lên Bình Lệ Nguyên. Sông Cà Lồ vốn là nơi đỗ chiến thuyền do lòng sông rộng lớn, có thể tận dụng làm chiến hào, còn Bình Lệ Nguyên là một cánh đồng cao có nhiều chỗ uốn lượn, có thể trở thành một chiến trường tương đối bằng phẳng cho tượng binh của quân ta. Chiến trường do ta chọn, lực lượng ta áp đảo, lẽ ra tôi không cần cảm thấy bất an thế này mới đúng.

Nhưng đêm ấy, tôi mơ thấy mình lạc giữa đám loạn binh, chạy mãi chạy mãi mà không thấy lối ra, khắp nơi toàn là máu và tiếng rên la, vó ngựa của bọn chúng đuổi theo cận kề, rầm rập, rầm rập.

***

Ngày mười hai tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ bảy, tôi đang ngồi gảy đàn cho mọi người nghe sau bữa ăn tối thì bỗng dung dây đàn đứt khiến ngón tay tôi bật máu. Vừa lúc đó khoái mã về trình: quân ta thua trận ở Bình Lệ Nguyên, quan gia vốn định tử chiến với quân Thát nhưng được tướng Lê Phụ Trần can gián và liều thân cứu nguy, đã rút lui. Về đến sách Cụ Bản, quân triều đình được viện binh ứng cứu nhưng người thủ lĩnh đã hy sinh, tên là Phạm Cự Chích.

Từng giọt máu trên tay nhỏ xuống đàn, trước mắt tôi chỉ thấy toàn màu đỏ.

Mọi người chẳng ai nói thêm gì cả. Một lúc lâu sau, sư ông chỉ niệm một tiếng “A di đà Phật” rồi lặng lẽ bước đến Phật điện, chị tôi, anh Thân và ông cụ Đảm lần lượt rời đi. Tôi trở về phòng mình nhưng không vào mà ngồi như trời trồng trước bậu cửa. Ngồi mãi đến khi trời sáng. Từng việc, từng việc một từ lúc gặp anh ta ở quán trọ đến lúc chia tay cứ lần lượt kéo nhau về.

“Em buôn thần bán thánh như thế không sợ Hưng Ninh vương trách phạt sao?”

“Nhã Phong, rốt cuộc đâu mới là bộ mặt thật của cô?”

“Tôi quay lại, nhưng vẫn là con chim sợ cành cong, bất an nhiều thứ lắm.”

“Tôi vì ai mà say thế này, phải có bù đắp chứ!”

“Tôi đã luôn nghĩ em là đàn bà của Hưng Ninh vương kia đấy!”

“Tôi biết bây giờ tôi không thể so được với Hưng Ninh vương, nhưng sẽ có ngày…”

- Ngươi đúng là đồ ngốc! Đến bao giờ ngươi mới so được với tiên sinh của ta? Tại sao phải mang mạng mình ra mà cược? Ngươi chết rồi, ai sẽ giúp Vũ Thành vương xin tội? Ai sẽ giúp ngài ta mỗi lần lên cơn háo suyễn? – Tôi rít qua kẽ răng, giá có tên thầy thuốc ấy ở đây, tôi sẽ cho hắn một trận ra trò.

“Nhã Phong, tôi đi rồi em có buồn không?”

Không. Ai lại buồn vì kẻ ngốc như ngươi?

Ai đã hẹn có ngày gặp lại?

Tôi đặt bát hương dành cho hắn lên bàn thờ, thắp một nén nhang, tay hãy còn run run không rõ vì bất ngờ hay tức giận. Sư ông khẽ vỗ đầu tôi như thấu hiểu, tôi nói khẽ với người:

- Con biết đối với sư ông hay với tiên sinh nhà con, có sinh ắt sẽ có diệt, có hợp ắt sẽ có tan, sống chết là việc thường tình không cần thương tiếc quá. Nhưng con không phải là một vị thiền sư đắc đạo, con còn nhiều món ngon vật lạ chưa được thưởng qua, chết là hết, là không được làm gì nữa…

- A di đà Phật! – Sư ông ôn tồn đáp. – Cậu Nam ra đi vì đất nước, tuy quá sớm, nhưng chắc trong lòng cũng không hối tiếc gì. Huệ Tâm, con có thể xót thương nhưng đừng đau lòng quá mức.

Tôi cúi mặt, gật gật đầu thay cho lời đáp. Tôi biết Nguyễn Nam cũng như tôi, rất tầm thường và thực dụng, làm sao lại không luyến tiếc cuộc sống này?

Tôi ngồi ở Phật điện đến khi mặt trời đã lên cao. Trước lúc rời đi, tôi nói khẽ với vong linh tên lang băm nọ:

- Khi nào bọn Thát rút lui, ta sẽ thay ngươi xin tội cho Trần Doãn, thay ngươi kê thuốc trị bệnh giúp ông ta, ngươi cứ yên tâm mà siêu thoát.

Cả ngày hôm đó tôi cẩn thận sắp xếp mọi việc, dặn dò lại những việc thường ngày vẫn nói thêm một lượt, đi xem lại hết kho lương đến kho vũ khí, tới chiều thì đã thấm mệt, tôi bảo mọi người dọn cơm tối sớm. Ăn xong, tôi đứng ngoài vườn hồi lâu, nhìn thật kỹ từng cành cây, viên ngói của nơi tôi đã gắn bó suốt mười năm.

Hành lý thu dọn hôm nay cũng giản đơn như ngày đầu năm trốn nhà đi tìm lão, khác chăng, có thêm quyển sách ghi chép y lý mà Nguyễn Nam đã để lại cho tôi.

***

Vừa dắt Cụ Nhỏ ra đến đầu làng, tôi bị chặn lại bởi ông cụ Đảm. Dưới ánh trăng sắp tròn, gương mặt ông hiền lành hơn ban ngày rất nhiều lần.

- Độc túc tráng sĩ, cụ để cháu đi đi! – Tôi nửa đùa nửa thật.

- Cháu đã hứa với tên nhóc đó sẽ ở lại trông nom quân đội của hắn, sao giờ lại bỏ chạy sớm thế? – Cụ tỏ vẻ trêu chọc.

- Một mình chị cháu cũng đủ rồi! Thật ra, cháu chỉ là thích thị uy thôi chứ chẳng giúp được gì nhiều.

- Sao hôm nay tự ti như vậy? Cháu nhớ hắn đến mức đó sao?

Tôi nhìn ông không đáp. Ông cũng nhìn tôi, kiên quyết không tránh đường. Một lúc sau, cả hai đều mỏi mắt, tôi bèn cụp mắt, thở dài thú thật:

- Cháu sợ, ông à!

Cụ Đảm chẳng nói gì, đợi tôi tiếp tục.

- Ban đầu chính cháu kiên quyết trở về Dưỡng Chân Trang, cũng chính cháu hứa rằng sẽ thay tiên sinh dẫn dắt quân đội của người đến khi chiến thắng. Lúc đó cháu không ngờ rằng quân Thát tiến công nhanh đến vậy, không ngờ rằng Hưng Đạo vương sẽ lui binh, càng không ngờ, lần đó gặp Nguyễn Nam lại là lần cuối…

Cụ ông khẽ thở dài thấu hiểu. Tôi nghiến rang, cố ngăn mình không khóc:

- Tiên sinh là người quan trọng nhất trên đời của cháu, cháu không thể tưởng tượng rằng sau này nếu không gặp được người nữa… Ông Đảm, từ bé đến giờ cháu cứ nghĩ chiến tranh là cơ hội để anh tài có đất dụng võ, không hề biết hóa ra mạng sống có thể mong manh đến vậy, hóa ra sinh ly tử biệt lại đáng sợ thế này.

- Một mình đi tìm hắn rất nguy hiểm, lỡ như cháu bị tên bay đạn lạc không đến được chỗ tên nhóc đó thì sao?

- Cháu mặc kệ! – Tôi mở to mắt nhìn ông, hình ảnh cợt nhã như mới hôm qua của tên thầy thuốc cứ lởn vởn mãi trong đầu. – Cháu biết cháu rất nông nỗi, rất hồ đồ, nhưng nếu thế giặc mạnh, nếu trận chiến kéo dài, nếu tiên sinh có mệnh hệ nào, cháu tỉnh táo hay lý trí hơn nữa thì cũng có ý nghĩa gì đâu? Không phải cháu không tin tiên sinh tài giỏi, chỉ là cái chết của Nguyễn Nam làm cháu nhận ra chiến tranh thực sự rất tàn nhẫn.

Ông Đảm nhìn tôi thêm chốc nữa rồi cũng phì cười, hất hàm bảo:

- Vậy lên đường ngay cho kịp.

Đến lúc này tôi mới nhận ra ông đang ngồi trên lưng một con ngựa chiến, túi hành lý được treo gọn gàng ở một bên, trên lưng còn đeo thanh gươm lớn. Tôi hết bất ngờ rồi lại xúc động, hồi lâu mới nói được mấy chữ:

- Ông ở lại đây giúp mọi người đi, cháu tự lo cho mình được.

- Vũ khí đã rèn xong hết, như cháu đã nói, phu nhân có thể chỉ huy Dưỡng Chân Trang, cậu Thân phải bảo vệ cô ấy, chỉ có ta chẳng có việc gì làm, không trông nom cháu thì cũng thừa thãi lắm. Hay là cháu cũng chê ta tàn tật sẽ làm chậm hành trình?

- Xem ra cháu không mang ông theo thì không thể rời làng được. – Tôi cười khổ bỏ cuộc.

Hai người hai ngựa cứ thế lên đường. Tôi đi một chốc lại ngoái nhìn, cổng làng dần mất hút trong đêm, không biết có lúc nào còn được nhìn thấy lần nữa.

- Sao ông biết cháu sẽ trốn đi? – Tôi hỏi ông cho đỡ buồn ngủ.

- Ý định của nhóc hiện rõ trên mặt ấy. Không chỉ ta mà mọi người đều biết cả rồi.

- Hóa ra công sức cháu viết lá thư để lại cho chị là vô ích! – Tôi thở hắt ra.

Vì đêm tối nên không thể phóng nhanh, tôi và ông Đảm vừa đi vừa cười nói. Tình cảnh này thật làm tôi nhớ đến hôm cùng Nguyễn Nam chuốc ông uống say để tìm hiểu chuyện tình của ông và công chúa Thuận Thiên.

- Khoan đã, ông đi theo cháu chắc không chỉ là muốn hộ tống chứ? – Tôi chợt dừng ngựa, tỏ vẻ nghi ngờ.

- Nhóc đang nói nhảm gì vậy?

- Tình hình này rất có khả năng tiên sinh không còn ở Hồng Lộ mà sẽ đến hội binh với quan gia. Ông đi cùng cháu, đừng nói là muốn tìm thời cơ ám sát quan gia? Cháu đã nói với ông, tiên sinh rất kính trọng quan gia nên cháu nhất định sẽ chống đối đến cùng. Ông đừng quên lần trước so tài ông đã bại dưới tay của cháu!

Ông cụ nhìn tôi trân trối, cuối cùng bật cười sảng khoái:

- Thằng nhãi Cảnh có làm gì thì cũng là nạn nhân của thời cuộc. Thời thế này nếu ta giết nó, chẳng phải khiến quân Thát thừa cơ tấn công, khiến dân chúng rơi vào cảnh khổ? Nhóc con coi ta là kẻ vì ghen tuông cá nhân mà quên đi nghĩa lớn sao?

- Không! Không giống! – Tôi vội xua tay.

Ông Đảm cười cười rồi đánh ngựa đi, chầm chậm để tôi kịp đuổi theo. Được một đoạn, ông bỗng lên tiếng, khẽ khàng như gió lạnh trong đêm:

- Kẻ ta muốn giết là Trần Thủ Độ.


[1] Hoa Thích Tử Mô (Khwarezm): bao gồm Iran, Iraq ngày nay và một số vùng lãnh thổ khác.

[2] Dược nỏ: mũi tên tẩm thuốc độc, dùng nỏ bắn chứ không dùng cung.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

lâm băng1997

Gà cận
Tham gia
17/4/20
Bài viết
498
Gạo
0,0
Em có một câu hỏi khá là ngu
Đó là :Dã sử là gì vậy?
Thôi. Chui qua hố khác, em mới 11
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 21: CHÍ LÀM TRAI DẶM NGHÌN DA NGỰA[1]

Trời vừa hửng sáng đã đổ trận mưa to lại thêm gió đông khiến tôi rét run cầm cập. Bọn tôi bèn trú vào một mái hiên, chắc mẩm nơi này trước đã từng là một hàng chè đông đúc. Co ro trong tấm áo tơi, tôi đưa mắt nhìn mưa rơi rào rào trên mái lá rồi nói bâng quơ:

- Mươi ngày nữa là đến Tết ông Công ông Táo rồi, phải chi ta đuổi được bọn Thát đi trước lúc năm mới về ông nhỉ?

Góc bên kia, ông Đảm cũng tựa cột nhìn ra màn mưa mù mịt, giọng buồn buồn đáp:

- Ừm. Nhóc không nhắc thì ta cũng quên mất Tết thế nào rồi.

Lời ông nói làm tim tôi hẫng đi một nhịp. Tôi chợt nhớ ra, mấy chục năm qua ông cô độc sống ở ngôi chùa trên núi Thiên Thai, ngày đầu năm, giữa năm hay cuối năm cũng đều như nhau cả, làm gì có người thân để quây quần. Tôi bèn đến gần ông thỏ thẻ:

- Chừng thanh bình rồi ông đến ở hẳn với bọn cháu đi. Tết ở làng Vạn Niên vui lắm! Cháu sẽ đưa ông đi khắp nơi cho lũ trẻ đến chúc Tết, chỉ sợ lúc đó ông phải phát tiền mừng mỏi cả tay, rỗng cả túi!

Gương mặt nhiều nét khắc khổ giãn ra đôi chút, ông Đảm khẽ mỉm cười khiến tôi cũng vui lây. Tôi lại tựa cằm lên gối nhìn mưa, nghĩ về bao nhiêu chuyện cũ. Bốn năm trước, lão già có việc công ngay mồng một nên cho phép tôi đi chúc Tết một mình. Tôi ăn mặc thật đẹp, nhờ chị tết tóc thật xinh rồi la cà mãi đến chiều, khi về nhà thì lão đang mài mực viết mấy câu đối trong thư phòng. Tôi hớn hở khoe:

- Hôm nay em đến đâu cũng nhận được tiền mừng tuổi. Tiên sinh thấy không, người ta nói đầu năm ra ngõ gặp gái là xui xẻo, nhưng em đáng yêu đến mức mọi người đã quên cả việc kiêng cữ đấy!

Lão không ngẩng đầu lên, nhẹ giọng trách:

- Ta đã dặn phải tìm chỗ bóng râm mà chơi, em muốn chép phạt mấy quyển kinh?

Tôi há hốc mồm không hiểu cớ sự gì. Mãi một lúc, lão không nghe đáp mới dừng bút nhìn tôi, lại mất một lúc nữa, lão tỏ ra rất lo âu, nói tiếp:

- Rõ ràng mặt mũi vẫn tươi tỉnh, hay lại va đầu vào đâu đó mà quên mất mình là nam tử hán rồi?

Nghĩ đến đây, tôi chợt muốn đánh người, bèn vơ hòn sỏi dẹt dưới chân ném trên vũng nước mưa ngập như sông trước quán. Viên đá nảy hơn chục lần mới rơi tõm xuống. Nỗi bực dọc trong lòng cũng tan, tôi liếc sang ông Đảm xem ông có chứng kiến màn ném thia lia điệu nghệ của mình không để được dịp lên mặt. Không ngờ ông nhướn mày, xòe tay về phía tôi. Tôi ngơ ngác một lúc mới hiểu ý, chọn một viên đá khác đặt vào tay ông. Ông lão cúi người, hất nhẹ cổ tay, viên đá lướt lướt trên mặt nước tạo nên từng đợt sóng nhỏ rồi mất hút ở phía xa. Tôi không giấu được vẻ thán phục, nhìn ông trân trối:

- Quả nhiên là cao thủ!

Độc túc tráng sĩ không cười, ánh nhìn của ông tan vào trong mưa, mênh mang, buồn rười rượi. Tôi đánh bạo đoán mò :

- Công chúa giỏi món này lắm hở ông ?

Ông lão không đáp, tôi nói tiếp:

- Cháu cứ nghĩ công chúa là một người rất dịu dàng hiền thục, xem ra không đúng lắm.

Ông nhếch mép cười :

- Bên ngoài rất mực thước đoan trang, tâm hồn lại là đứa trẻ lém lỉnh tinh quái. – Dừng một chút ông chợt nhìn tôi. – Thật không ngờ tên nhóc nàng ấy nhận nuôi và đứa bé mà tên nhóc ấy nhận nuôi lại giống y như đúc dù chẳng ruột thịt gì…

Suýt chút nữa hàm dưới của tôi cũng rơi xuống nước.Hẳn là vẻ mặt của tôi rất khó coi nên ông cụ liền nhận ra mình đã lỡ lời:

- Nhóc con không biết việc này sao?

Một vài sự kiện bắt đầu tự sắp xếp rồi gắn kết nhau trong đầu tôi. Hồi lâu, tôi nhìn ông lão một cách cực kỳ nghiêm túc:

- Chưa. Bây giờ thì ông nói cho cháu biết đi.

Cụ Đảm lại nhìn ra biển nước loang loáng bên ngoài, mấy lần định mở mồm nói lại thôi. Tôi biết ông đang cân nhắc vì tiết lộ việc của người khác là không đúng lắm, bèn chân thành nói:

- Việc nào tiên sinh kể thì cháu mới biết, còn lại cháu không dám hỏi thêm, cháu sợ người buồn… Nếu ông thấy không tiện thì thôi ạ, cháu chỉ tiếc vì không hiểu để chia sẻ được với tiên sinh.

Ông lão thở dài đánh thượt, đoạn nhìn tôi cười khẽ:

- Cho cháu biết cũng chẳng hại gì, ta nghĩ trên đời này chẳng ai muốn bảo vệ tên nhóc đó hơn cháu được.

Rồi ông bắt đầu kể những chuyện đã rất xưa, câu chuyện hòa vào tiếng sấm vang chớp giật, họa lại bức tranh loạn lạc những tháng năm triều đình đổi họ, chạy đến đâu cũng là gió tanh mưa máu.


***


Câu chuyện của ông Đảm vừa kể xong thì trời cũng dứt mưa, tôi vẫn yên lặng từ nãy đến giờ, đoạn khẽ khàng dắt ngựa ra ngoài, bình tĩnh nói với ông:

- Chúng ta đi nhanh hơn một chút được không ông, cháu không muốn để tiên sinh một mình thêm khắc nào nữa cả.

Tôi phóng ngựa như bay, nước mưa trên đường bị giẫm, bắn lên tung tóe. Trong đầu tôi chỉ nghĩ đến cảnh một đứa bé vừa ra đời đã lạc mẹ, suýt thì chết giữa loạn binh. Công chúa Thuận Thiên khi ấy vừa được gả cho Yên Sinh vương để đảm bảo quyền lực của họ Lý phải được chuyển giao trọn vẹn cho họ Trần, đã ôm đứa trẻ chỉ kém mình mười mấy tuổi ấy vào lòng, đã tránh mặt cả mẹ ruột mình một thời gian rất dài để khi gặp lại, chẳng ai biết đứa trẻ ấy không phải do công chúa dứt ruột sinh ra. Sinh mẫu của lão già vốn là một cô gái dân chài ở Cửu Liên, cùng quê với Trần Cụ, suýt nữa đã trở thành vợ của Trần Liễu – ngày chưa xảy ra biến loạn vẫn còn là một thường dân. Ông Đảm vốn luôn âm thầm theo dõi để bảo vệ cho công chúa đã phải đau lòng mà ra mặt hỏi bà rằng:

- Chấp nhận lấy Trần Liễu xem như vì vâng lệnh mẹ, nhưng bảo vệ đứa con hoang của hắn lại là ý nghĩa thế nào?

Công chúa mắt rơm rớm nói từng lời:

- Nếu ta không lấy một kẻ họ Trần, thì người ta lấy, dẫu là ai rồi cũng mang họa sát thân. Ta muốn chàng phải sống! – Đoạn bà kéo tay ông đặt lên cái má bầu bĩnh của đứa con vừa mới nhận nuôi. – Chàng nhìn xem, nhìn xem, đứa bé này kháu khỉnh đáng yêu biết mấy. Chàng họ Lý, ông Liễu họ Trần, các người vốn chẳng có ai hiểu được ta. Chỉ có đứa trẻ lạc lõng này, giờ ta nhận nó làm con nghĩa là trên đời có thêm một người hai họ, giống như chị em ta, thật giống chị em ta… - Công chúa cười dài như người mất trí.

- Nàng muốn bảo vệ nó đến vậy sao? Hai họ nghĩa là dù bên nào chiến thắng, mạng của nó vẫn được bảo toàn? Hoặc là, nàng mong khi nó lớn lên, dẫu họ Trần đã chiếm trọn giang sơn, nó cũng sẽ nương tay với người họ Lý?

- Có thể. Hoặc bên nào cũng nghi hoặc, bên nào cũng chẳng nhận làm thân, còn phải xem số mệnh của nó thế nào… - Công chúa lại ôm chặt đứa trẻ trong lòng, âu yếm vuốt ve. – Chỉ biết rằng từ giờ ta và nó sẽ chẳng ai cô độc nữa.

Khi ấy công chúa còn nhỏ hơn tôi của bây giờ, một người chưa kíp lớn lại dốc sức chăm lo cho một sinh mệnh nhỏ nhoi khác, thảo nào mà tình thương của lão già dành cho mẹ sâu sắc đến vậy. Tôi không rõ lão già có biết sự thật này không, chỉ thấy xót thương vô hạn.

Con do công chúa sinh ra còn có Tĩnh Quốc vương và Quang Khải, nhưng hai người họ đều được biết là con trai của quan gia, là huyết mạch cao quý của họ Trần, là hoàng tử vốn chẳng có ai dám khinh nhờn. Còn lão già của tôi một mình lớn lên trong vương phủ, nhìn Trần Doãn và Hưng Đạo vương có mẹ ruột thương yêu, sau đó người mẹ nuôi cũng không thể giữ được...

“Lúc ta còn nhỏ hơn em bây giờ, mỗi năm đến giao thừa đều rất vui. Sau đó, mẹ của ta bị người ta cướp mất.”

Có lẽ vì gió tạt, mắt tôi cứ cay xè suốt dọc đường đi.

Từ lúc ấy mãi tận khi tôi xuất hiện trong đời, người đã trải qua sự cô độc khủng khiếp ấy thế nào?


***


Bằng phép nhiệm màu nào đó, tôi đã vượt quãng đường dài từ Yên Bang đến Thăng Long chỉ trong vài ngày. Khi bọn tôi dừng lại, hai con ngựa lăn đùng ra ngủ say như chết, chẳng thiết tha gì ăn uống. Bọn tôi trú tạm trong một ngôi nhà nhỏ bỏ hoang, mà nói cho đúng hơn, giờ nơi nào ở Thăng Long cũng đều không một bóng người. Xem ra, quân triều đình không về cố thủ ở kinh sư, lánh sang nơi khác mà tôi không hề biết. Nghĩ cũng đúng, chiến lược cơ mật như thế vốn không thể để nhiều người hay, hoặc khi lệnh bỏ thành truyền đến Dưỡng Chân Trang, tôi đã sớm rời đi. Cũng may bọn tôi có mang theo lương khô nên không lo chết đói, vì trong nhà cả một hạt thóc cũng chẳng còn. Tôi đoán đây cũng là lệnh của quan gia không để lại chút lương thực nào cho bọn Thát. Tôi ăn qua loa một chút rồi lười nhác nằm rũ ra bàn.

- Ông mệt lắm không? Ước chi bây giờ có một chậu nước kinh giới, vỏ bưởi, gừng và hương nhu, cháu sẽ lao vào ngâm mình cả một ngày. – Tôi kéo đuôi tóc lên mũi ngửi. – Đi đường gió bụi, đầu tóc cứ bết cả vào, chẳng còn thoang thoảng mùi bồ kết, mùi hoa thơm như mọi ngày. Bọn giặc Thát quả là đáng chết!

Ông lão nhìn tôi cười cười cho có lệ rồi lại nhìn ra cửa sổ, tôi đoan chắc ông nhớ hương thơm trên tóc người xưa. Món tắm gội cầu kỳ ấy là lão già đã dạy cho tôi, lúc bé lão thường tự tay đun nước thơm cho tôi tắm, có lúc còn lôi tôi ra giếng sau gội đầu, bảo rằng con gái thì tóc phải thật dày, thật mượt. Tôi đồ rằng cái tiếng thích tắm thơm của Hưng Đạo vương mà người ở Vạn Kiếp hay đồn đãi cũng từ đấy mà ra. Vương vốn là võ tướng, tính tình khảng khái uy vũ, hành sự quyết liệt như chém đinh chặt sắt, cớ gì lại có cái thú phong nhã nhường ấy nếu không phải thuở bé được công chúa bày cho? Nghĩ thêm một lúc chuyện tắm rửa, tôi lại nhớ đến bài đồng dao kể xấu Quang Khải cách đây chỉ mới nửa năm, lại thầm phục tài thơ trác tuyệt của mình, cứ thế phá lên cười một mình.

Ông Đảm nhìn sang đầy lo lắng, tôi bèn tìm cách trấn an:

- Vài hôm nữa trở về nhà, cháu sẽ pha nước gội tóc cho ông để đỡ nhớ hương xưa, ông yên tâm nhé.

Ông lão ngượng ngùng lảng đi nơi khác, tôi lại len lén bật cười rồi nói tiếp:

- Người xưa có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Ông với cháu một già một trẻ nghĩa là ở nhà hay ra đường gì cũng không sợ thằng nào hết! Ông thích mặc đồ màu đen, cháu thích mặc áo trắng, ông cháu mình giống như Hắc Bạch Vô Thường, là nỗi ám ảnh cho bọn Thát đấy! Chúng ta nhất định sẽ thắng trận rất nhanh!

Nói hươu nói vượn như thế mà cũng có thể khiến ông lão cười vui, tôi thật thán phục bản thân mình, lại nằm dài ra bàn nghĩ ngợi lung tung.

Khi về nhà, tôi nhất định sẽ bắt lão già để tôi gội đầu cho, để tôi hong khô tóc cho. Tôi muốn chăm sóc lão bằng tất cả những gì dịu dàng nhất mà lão đã sớm mất đi. Chỉ vài ngày nữa thôi, khi chúng tôi đã về nhà…


***


Chợp mắt một lúc cho hai con ngựa ngủ đẫy giấc, bọn tôi lại khăn gói lên đường. Nghĩ rằng quân Thát ít nhiều đã đến đây, chúng tôi chỉ dám đi trong ngõ hẹp, men theo lối tắt. Cũng may, những lần đến kinh sư tôi đều được lão già và Hưng Đạo vương dẫn đi khắp các đường ngang ngõ dọc nên cũng ít nhiều thông thạo. Mọi nơi đều chẳng một bóng người, tôi càng trông càng thấy đau lòng, càng thấy lo sợ. Thế giặc phải hùng mạnh nhường nào thì đội quân kiêu hãnh của họ Trần ta mới cam chịu bỏ Thăng Long? Thăng Long tráng lệ tụ hồn thiêng núi sông, Thăng Long kiên cố đứng vững qua bao lần thay triều đổi đại! Từ xa nhìn lại, nào cung điện nào lầu gác đền đài vẫn rực rỡ uy nghi nhưng Thăng Long hôm nay sao có vẻ gì hoang phế, điêu tàn. Là trời đứng gió hay vì một lẽ nào khác mà lá cờ trên đỉnh tường thành chẳng còn phần phật tung bay ngạo nghễ như mọi ngày nữa?

Đương cảm khái thì một tiếng khóc ré vang lên ở bên kia tường thành làm tôi giật bắn người. Tôi và ông Đảm nhìn nhau ra hiệu rồi mỗi người một hướng chạy vòng sang. Đúng như chúng tôi dự đoán, hai đứa trẻ con đang bị một tên giặc Thát dồn vào chân tường, vẻ mặt hắn vô cùng hung tợn, dáng người sừng sững ngồi trên một con ngựa chiến rất to, to hơn ngựa của ta nhiều, chỉ riêng bóng hắn đổ dài trên tường đã đủ nuốt chửng hai đứa trẻ. Gươm của hắn vừa vung lên, hai mũi tên của tôi và ông Đảm đã bắn tới từ hai phía, một vào bụng, một ngay cổ, hắn kêu lên một tiếng kinh hãi rồi trợn trừng mắt, ngã vật xuống. Tôi khoái chí nhảy sang ghìm cương con ngựa dữ, mất một lúc mới thuần phục được nó. Vứt sợi dây cương của Cụ Nhỏ sang cho ông Đảm, tôi nháy mắt bảo ông đổi ngựa. Với hai con ngựa chiến này, chúng tôi có thể đi nhanh hơn cả hôm qua.

Chợt nhớ ra còn hai đứa trẻ, tôi xuống ngựa hỏi thăm:

- Người nhà các em ở đâu, chị sẽ đưa về?

Bọn trẻ giương đôi mắt ướt nhìn tôi nom rất tội nghiệp, khẽ lắc đầu. Đứa lớn hơn lễ phép thưa:

- Bọn em là trẻ lang thang, thường ngày ai thuê gì thì làm nấy. Giờ mọi người đều đã đi lánh nạn, bọn em chạy theo không kịp nên chẳng biết phải đến đâu.

Tôi nhìn ông Đảm đầy khó xử, để chúng ở lại chẳng khác nào thấy chết không cứu, mà dắt theo thì chỉ thêm bận bịu, lại chưa biết đích đến là đâu, chẳng biết nơi ấy còn bao nhiêu nguy hiểm. Dường như hiểu được ý tôi, ông cụ trầm ngâm một lúc rồi đưa tay cho bọn trẻ đỡ chúng leo lên con ngựa của ông. Đoạn, ông quay sang bảo tôi:

- Làng Cổ Sở ở rất gần đây, ta sẽ mang bọn trẻ gửi cho người ở đó rồi đuổi theo cháu. Cháu từng bảo Cụ Nhỏ biết theo dấu bằng cách đánh hơi mà, nên cứ yên tâm đi trước. Ta nghĩ bọn thằng nhãi Cảnh giờ chẳng hội quân ở nơi nào khác Thiên Trường được.

Thiên Trường ở hướng đông, làng Cổ Sở hướng tây. Tôi không yên tâm để một cụ già tàn tật đi cùng hai đứa nhỏ nên cứ ngần ngừ, cụ lại nghiêm giọng:

- Lúc này đi đông người rất dễ bị phát hiện. Cháu chẳng đã nói không muốn tên nhóc ấy một mình thêm chút nào nữa sao? Hay cháu xem lão già này đã là phế nhân không có đất dụng võ rồi?

Tôi sợ ông cụ buồn lòng nên vội xua tay, chỉ chỉ vào cái xác tên lính giặc đang nằm trơ trọi giữa đường:

- Ông mới một mũi tên mà hạ đo ván tên khổng lồ này, ai dám bảo ông vô dụng?

Nói rồi thấy cũng chẳng còn cách tốt hơn, tôi bèn phân công:

- Để hắn nằm đây e là cũng không ổn, cháu đoán hắn là lính tiên phong đến dọ thám, bọn kia chắc sẽ sớm đến đây thôi, để cháu mang vứt đi đâu đó, kẻo chúng lại nổi điên lên chém giết lung tung. Xong rồi cháu sẽ đi về hướng Thiên Trường, ông gắng đưa hai đứa trẻ về làng nhanh rồi đuổi theo cho kịp nhé. – Ngập ngừng một lát, tôi tiếp. – Ông đừng quên đã hứa sẽ để cháu gội đầu cho, còn phải nghe cháu chúc Tết để đưa phong bao mừng tuổi đấy.

Ông Đảm nắm chặt dây cương của cả hai con ngựa, miệng nở một nụ cười rất tự tin, hất hàm bảo tôi:

- Nhóc con lo lắng quá rồi. Giặc đến một tên thì ta giết một tên, để chúng biết, lãnh thổ Đại Việt ta chỉ có đến được mà không về được.

- Đến được không về được! Đến được không về được! – Lũ trẻ hùa theo.

Tôi phì cười, vẫy vẫy tay chào rồi nhìn bóng ba người khuất dần xa. Còn lại một mình, tôi cũng phải rất vất vả mới lôi được gã rợ Thát lên ngựa, lấy rơm phủ lên trên, tìm đường tắt mà đi đến bờ sông. Dọc đường, tôi chợt nhận ra mình ngu dại, ngựa của bọn chúng tuy khỏe nhưng vừa nhìn đã nhận ra ngay, nhỡ chạm mặt giữa đường lại chẳng biết phải ăn nói thế nào cho thoát. Nghĩ mãi không xong, tôi đành tặc lưỡi cho qua, cũng như ông Đảm nói, gặp một tên thì giết một tên, còn nghĩ gì đến chuyện lời qua tiếng lại.

Tôi đứng nhìn dòng sông Lô đỏ như màu máu, thấy không đành lòng để cái xác thối của tên giặc làm bẩn dòng phù sa của người dân, nhưng chẳng còn cách nào khác, tôi không có nhiều thời gian để lựa chọn, bèn đạp mạnh một cái rồi nhìn hắn bị nhấn chìm trong dòng chảy. Cũng là quân nhân, cũng vì quốc gia dân tộc mà chiến đấu, lẽ ra tôi đã có thể chôn cất hắn một cách tử tế hơn. Nhưng thôi, dẫu gì hắn cũng là kẻ xâm lăng, tôi thương tiếc chỉ tổ mất thì giờ, bọn xâm lăng thì chỉ đáng chết mất xác thế này thôi.

Buổi loạn lạc này, tôi tin hắn chỉ là kẻ đầu tiên chứ chẳng phải kẻ sau cùng. Khi kết thúc trận chiến, hẳn là những vụ lúa đầu tiên mùi sẽ rất tanh nồng.

Quay ngựa trở lại, tôi tìm đường rời khỏi thành, nhắm hướng Thiên Trường mà đi. Chưa gì đã nghe tiếng vó ngựa đuổi theo rầm rập phía sau, tôi chép miệng than thầm, quả nhiên là hồng nhan họa thủy, ở cùng cốc thâm sơn cũng sẽ có nam nhi lũ lượt rủ nhau kéo đến chiêm ngưỡng dung nhan. Ghìm ngựa nép vào một góc, tôi nhìn qua góc hẹp, hóa ra là Cụ Nhỏ, chỉ tại tôi có tật giật mình. Tôi huýt sáo một tiếng, nó liền chạy đến, vội vã đến mức suýt làm tôi ngã nhào. Tôi vuốt vuốt bờm nó định chọc ghẹo bỗng nhớ ra:

- Mày chạy đến đây, vậy ông Đảm đâu rồi?

Cụ Nhỏ giẫm mạnh móng xuống nền đất như muốn nói gì đó. Tôi liền nhảy lên lưng con ngựa của quân Thát rồi bảo nó:

- Dẫn đường!

Cụ Nhỏ chạy nhanh về phía tây Thăng Long, hướng ông Đảm đã đi cùng hai đứa trẻ. Lòng tôi cuồn cuộn một dự cảm không may, theo từng bước chân ngựa càng trở nên rõ rệt. Khi đến cổng một ngôi chùa nằm sâu trong nhỏ, tôi nghe bên trong vang tiếng khóc la, nhìn xung quanh thấy máu bắn tung tóe hai bên tường, tôi bèn vòng ra sau, tìm đường để lẻn vào.

Cảnh tượng bên trong khiến tôi suýt thét lên vì đau đớn và kinh hãi.


[1]Trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

ngocnungocnu

Gà trùm
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
11/9/14
Bài viết
5.249
Gạo
5.253,0
Hay lắm Uyên ạ! Càng đọc càng bị cuốn theo. Không ấn tượng lắm với nữ chính nhưng nam chính nào cũng để lại ấn tượng sâu đậm. Tội cho Nguyễn Nam ghê! Mặc dù anh này xuất hiện không nhiều nhưng trong tưởng tượng của mình, chắc hẳn cũng là một trang hảo hán! :)
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
Hay lắm Uyên ạ! Càng đọc càng bị cuốn theo. Không ấn tượng lắm với nữ chính nhưng nam chính nào cũng để lại ấn tượng sâu đậm. Tội cho Nguyễn Nam ghê! Mặc dù anh này xuất hiện không nhiều nhưng trong tưởng tượng của mình, chắc hẳn cũng là một trang hảo hán! :)

Lúc "tiễn" Nguyễn Nam, mình cũng buồn rười rượi vì đúng là mình rất thích nhân vật này. Những chương sau chắc ảnh sẽ xuất hiện đôi chút trong hồi tưởng của mọi người á. Cảm ơn Nữ nhiều lắm nhe! ^_^
 
Bên trên