Dã Sử Cố niên hoa - Cập nhật - Phương Uyên

ngocnungocnu

Gà trùm
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
11/9/14
Bài viết
5.249
Gạo
5.253,0
Lúc "tiễn" Nguyễn Nam, mình cũng buồn rười rượi vì đúng là mình rất thích nhân vật này. Những chương sau chắc ảnh sẽ xuất hiện đôi chút trong hồi tưởng của mọi người á. Cảm ơn Nữ nhiều lắm nhe! ^_^
Ráng lấp hố nha. Bạn Ngọc đợi nhé! :)
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 22: GIEO THÁI SƠN NHẸ TỰA HỒNG MAO[1]

Đi vòng sang mặt sau chùa, tôi hé mở cánh cửa gỗ len vào, lần theo dãy hành lang mà ra được đến sau thượng điện, nơi tiếng kêu khóc đang nhỏ dần. Tôi nhìn qua song cửa nhỏ hẹp, hai đứa trẻ lúc nãy đang ôm chặt lấy nhau run bần bật, ở giữa còn có một đứa trẻ khác trông như một chú sa di, chúng rúc sâu vào dưới ban thờ Phật, tay chắp lại như đang cầu xin đấng Thế tôn hãy chở che. Mắt chúng đẫm nước, mồm không ngừng kêu thét, hướng về cổng chính. Tôi tiến thêm vài bước nữa đến góc tường để nhìn ra phía ngoài, suýt chút nữa đã kêu to:

- Ông Đảm!

Độc túc tráng sĩ của tôi đang chặn ở cổng chùa tả xung hữu đột cùng một đám quân Thát mặt mày hung tợn. Ngõ hẹp trước chùa ngăn chúng ồ ạt tiến vào, có vài tên đã bị hạ, nằm la liệt dưới chân ông. Nhưng độc túc tráng sĩ cũng là người, lại là một người già tàn tật, toàn thân ông đều đã bị thương, xem chừng không trụ được bao lâu nữa. Tôi toan xông lên nhưng cố gắng trấn tĩnh lại để quan sát, đoạn chạy đến cổng phụ đang bị lèn chặt phía trong, nhìn qua song phía trên cửa, có khoảng mười tên giặc đang lăm lăm lưỡi đao sáng loáng. Tôi rút nỏ, bắn liền một lúc năm mũi, nhân lúc chúng không chú ý mà hạ được ba tên. Ông Đảm nhận ra sự có mặt của tôi, một tay vẫn bám vào cổng chùa để giữ thăng bằng, tay kia không ngừng vung đao, thét to:

- Nhóc, dẫn bọn trẻ chạy mau!

- Có chạy thì cùng chạy! – Tôi còn thét to hơn, buông dây nỏ diệt thêm được một tên nữa bên ngoài.

Bên kia, một tên râu ria hung tợn vung đao định chém xuống cánh tay ông Đảm đang bám vào tường, ông buông tay để tránh, bị hắn vung thêm một nhát, mất đà ngã xuống. Tôi liền vớ thanh kiếm đeo trên lưng, không kịp rút khỏi vỏ, lao đến chắn ngang nhát chém của hắn. Một tay tôi nắm chuôi kiếm, tay còn lại nắm chặt vỏ, càng lúc càng không chống nổi sức mạnh của tên rợ Thát đang ép mạnh đao từ trên xuống. Sức vóc tôi chẳng là gì so với bọn chúng. Nếu để tên này qua khỏi cổng, những tên còn lại cũng tiến vào trong, cả tôi, cả ông Đảm và bọn trẻ đều chết chắc. Sau lưng tôi, ông cụ đang cố gượng dậy, không ngừng kêu:

- Mặc kệ ta! Chạy mau! Mặc kệ ta!

- Cháu đã hứa khi thanh bình sẽ cùng mọi người uống rượu, sẽ gội đầu cho ông, cháu không đi đâu hết! – Tôi nghiến răng, mồ hôi tuôn thành dòng.

- Cháu vẫn còn Trần Tung! – Ông cụ thét trong tuyệt vọng.

Đúng vậy, tôi còn phải gặp lại lão già, làm thế nào bỏ mạng nơi này được! Dùng hết sức bình sinh, tôi trụ vững trên chân trái, chân phải thúc mạnh gối vào hạ bộ tên giặc. Hắn rú lên đau đớn rồi ngã ra sau, tôi thừa cơ rút kiếm chém ngang cổ, hắn rơi xuống đất như bao gạo, mắt vẫn mở trừng trừng, hẳn là tức vì phải làm ma bán nam bán nữ.

Tôi còn chưa kịp cười đắc thắng, một tên khác đã xông tới từ trên lưng ngựa. Hắn đạp vào ngực tôi một cú đau như trời giáng, tôi ngã sấp xuống đất, tưởng đã ngừng thở. Liền đó bên tai tôi vang lên tiếng thét buộc tôi bừng tỉnh.

- Ông ơi! – Tôi ước gì đây chỉ là một cơn ác mộng.

Độc túc tráng sĩ vừa đỡ cho tôi một nhát chém ngang lưng, ngã huỵch xuống. Thằng giặc lại vung đao chém tới, đúng lúc tôi tưởng mình sắp chết thì một bát hương bằng đồng bay thẳng vào mặt hắn, tro bụi vương vãi khắp nơi. Bọn trẻ, nhất là chú sa di nọ, đang không ngừng ném hết đồ đạc trên bàn thờ Phật vào người tên giặc, hết chân nến đến bình hoa, ném luôn cả mấy bức tượng nhỏ đặt chung quanh, vừa ném vừa không ngừng khóc rống:

- Phật đang ở đâu sao không cứu khổ cứu nạn cho chúng con! Con không tin Phật nữa! Không tin Phật nữa!

Tôi nghe chú mà thương đến nghẹn lòng, thật rất muốn ôm chú một cái, nhưng hơi thở của tôi vẫn chưa trở lại bình thường, đứng dậy còn khó khăn. Cạnh bên, ông cụ tàn mà không phế của tôi vẫn chưa bỏ cuộc, một lần ngã lại một lần tìm cách gượng lên, thân thể cứ như làm bằng sắt bằng đồng mà chẳng biết đớn đau.

Bọn giặc cũng lì lợm không kém, tên này vừa gục, lại một tên khác quất ngựa xông vào. Hắn phóng như bay qua người tôi và ông Đảm, lao đến phía bọn trẻ. Tôi hốt hoảng:

- Chạy mau!

Nỗi sợ tiếp thêm cho tôi sức mạnh, tôi bật dậy chộp lấy cây nỏ, rút một mũi tên bắn thật nhanh vào cổ hắn. Tên đó ngã xuống, con ngựa của hắn liền quay lại phóng đến chỗ tôi, chồm lên lồng lộn. Tức thì, một cái bóng lớn chắn trước mắt tôi.

- Cụ Nhỏ!

Con ngựa của Trần Cụ đang chiến đấu với đối thủ to gấp đôi nó để bảo vệ cho tôi, khí thế chẳng hề nao núng. Tôi cắn chặt răng để ngăn cơn xúc động, lại nhìn ra cổng, ông Đảm quỳ trên đất, mặc thương tích, mặc cái chân tật nguyền, vẫn vung từng đường đao dũng mãnh. Trong thoáng chốc đó, tôi tưởng mình đã thấy một chiến thần.

Nhặt thanh kiếm lên, giữ chặt bằng cả hai tay, tôi lao đến quyết tâm liều sinh tử với người đồng đội vong niên của mình. Võ thuật của bọn Thát chẳng tinh nhuệ bằng chúng tôi nhưng chúng rất to con, ngựa lại khỏe, tôi càng đánh càng đuối sức. Tôi liên tục nghĩ kế để thoát thân, nhưng ở đây không có binh lực, lại không có cả thời gian để sắp xếp, chúng tôi phải thoát thế nào? Đó là chưa kể, không biết đằng sau chúng còn quân tiếp viện hay không.

Trong vô thức, tôi đưa mắt nhìn về thượng điện, tượng Phật trên ban thờ vẫn hiền từ, vẫn tĩnh tại như đời này chẳng có gì là đau khổ, không mảy may hay biết dưới chân người, năm sinh mệnh sắp mất đi. Lẽ nào vì sống chết là lẽ thường tình mà cuộc sống không đáng giữ? Bên tai tôi, chú sa di vẫn văng vẳng khóc:

- Con không tin Phật nữa! Phật chẳng từ bi! Con không tin nữa!

Mắt tôi cũng cay xè. Tiên sinh! Tiên sinh! Trong đầu thầm gọi không biết bao nhiêu lần. Phen này người không đến kịp để cứu Tuệ An rồi!

Có tiếng vun vút như mũi tên lao đi trong gió. Tim tôi như sững lại vì sợ hãi.

Phập một tiếng, mũi tên cắm phập vào ngực vị dũng tướng đang liều mạng chiến đấu của tôi, mũi đao của ông chống mạnh trên nền đá, mồm hộc máu tươi. Ông hét như ra lệnh:

- Đi!

- Ông ơi!

- Chẳng lẽ đến chết ta vẫn làm một phế nhân, cả mấy đứa trẻ cũng không cứu được? – Mắt ông đỏ ngầu, mặt đã tái dần đi.

Trong một lúc, tôi như hiểu ra một điều gì, dù điều đó khó chấp nhận vô cùng. Ông Đảm một tay ôm vết thương trên ngực, tay còn lại vẫn không rời thanh đao, sống lưng vẫn thẳng tắp như cột đá chống trời. Cái chân cụt của ông chống đỡ từ nãy đến giờ đã nhoe nhoét máu. Giọng ông quả quyết như vị chủ soái đang điều binh khiển tướng:

- Đi!

Tôi nhìn bóng lưng kiêu hãnh của ông cho thật kỹ, cố khắc ghi từng đường nét. Phía ngoài, bọn Thát dường như sợ hãi trước người chiến binh bất tử, do dự không dám tiến lên ngay. Tôi như thấy ông nở một nụ cười ngạo nghễ. Tay siết chặt thành nắm, răng cắn vào môi đến bật máu, tôi nói lớn:

- Tuân lệnh!

Huýt một tiếng gọi Cụ Nhỏ, tôi nhảy lên lưng nó rồi phóng đến ba đứa trẻ, lôi bọn chúng lên, hướng cửa sau mà chạy. Tiếng vó ngựa, tiếng binh khí choảng nhau ầm ĩ phía sau. Nước mắt ướt đẫm mặt tôi, ngực đau nghẹn như có ai siết chặt, tôi đều mặc. Lúc ngang qua tượng Phật, dường như tôi thấy có vệt máu của tên giặc lúc nãy bắn lên mặt đấng từ bi, tròn như giọt lệ.

Bên tai tôi chợt văng vẳng tiếng lão già ngâm nga trong tiếng chuông chiều của một mùa đông nào đã xa xôi lắm, mọi ngày tôi vẫn khen là tứ thơ tự tại an nhiên, mãi đến hôm nay mới biết não nề:

“Nhân chi hữu thịnh hề hữu suy

Hoa chi hữu diễm hề hữu uỷ

Quốc chi hữu hưng hề hữu vong…”[2]


***


Cụ Nhỏ chạy mải miết về phía tây, phần vì vóc nhỏ hơn, phần vì chở nặng nên rất nhanh nó đã bị bọn ngựa thảo nguyên đuổi kịp. Tôi rẽ đến mấy lần vào các ngõ ngách nhưng vẫn không cách nào thoát khỏi. Đến một khúc quanh để đến cổng làng, đứa trẻ ngồi sau cùng ngã xuống đất. Tôi vội ghìm cương nhảy xuống để đón nó, nghe tiếng vó ngựa càng lúc càng gần. Vô tình, tôi thấy một cái hốc rất to dưới gốc cây đa đầu làng, liền lôi bọn trẻ vào đó, lấy mấy manh áo tơi vương vãi phủ lên trên, toan nhảy lên lưng ngựa một lần nữa để đánh lạc hướng bọn chúng thì Cụ Nhỏ đã hất mạnh khiến tôi ngã dúi dụi. Một mình nó tung vó phóng về phía làng làm bụi cuốn mù trời. Bọn trẻ lôi tôi vào nơi trú ẩn, cả bọn ôm chặt nhau, nép thật sát thật sát vào gốc đa, đứa nào cũng đưa tay bịt mồm để ngăn tiếng khóc.

Rầm rập, rầm rập. Ngựa của bọn Thát lướt qua chỗ chúng tôi rồi xa dần, về phía con ngựa trung thành của tôi đã chạy.

Tao xin mày! Mày không được chết, xin mày đấy! Tôi thầm rên rỉ trong đầu, không dám hồi tưởng những gì vừa mới xảy ra.

Được một lúc lâu, tiếng ngựa lại rầm rập chạy về phía chúng tôi. Tôi vừa ức, vừa sợ điếng người. Lẽ nào bọn chúng đã phát hiện ra? Lẽ nào thực sự bọn tôi không còn đường sống? Đã đến được đây rồi, tôi không thể để sự hy sinh của ông Đảm trở nên vô nghĩa được!

Ôm bọn trẻ chặt hơn, tôi thều thào vào tai chúng:

- Đừng sợ! Chỉ cần chúng ta im lặng, bọn chúng không thể biết đâu!

Tôi nín thở lắng nghe, gần hơn một chút, rồi một chút, tiếng vó ngựa như bản án tử vang lên càng lúc càng to. Hít một hơi thật sâu, tôi thầm thì dặn mấy đứa trẻ:

- Dù có bất cứ việc gì xảy ra cũng không được ra ngoài, có biết không.

Bọn nhỏ gật gật đầu, mắt đứa nào cũng sưng húp cả rồi.

Vạch lớp lá đang phủ phía trên, tôi ghé mắt nhìn xung quanh xem nên chạy hướng nào để bọn chúng đuổi theo mà lũ trẻ vẫn an toàn. Tay lại nắm chặt thanh kiếm, tôi tìm thời cơ để xông ra.,

Ánh sáng bên ngoài hắt lên chữ “Tuệ” trên thân kiếm. Tôi nở nụ cười chua chát. Nếu thực sự có luân hồi, người nhất định phải tìm em!

Không ngờ rằng bọn Thát lướt qua chỗ bọn tôi đang đứng rồi ruổi về hướng Đông. Rầm rập, rầm rập, tiếng vó ngựa như sát bên rồi lại nhỏ dần. Trán tôi giãn ra từng chút, hơi thở cũng chậm lại từng chút. Lẽ nào là bọn chúng đuổi theo Cụ Nhỏ rồi nghĩ rằng bọn tôi giở trò dương đông kích tây, bèn đuổi theo hướng ngược lại. Nếu như thế, tôi thật không biết con ngựa của Trần Cụ có linh tính hay không nên mới khôn ngoan nhường vậy, hay là nó chỉ ăn may…?

Đợi một lúc lâu, tôi len lén bước ra khỏi hốc cây, khẽ khàng áp tai xuống đất để nghe ngóng. Hoàn toàn không nghe thấy gì, tôi thở phào, nước mắt chực trào, tôi vội lau đi để khỏi làm bọn trẻ lo sợ. Tôi lôi chúng ra ngoài, lau mặt cho từng đứa trấn an:

- Thoát rồi, chúng ta thoát rồi!

Vì sợ bọn giặc quay lại, chúng tôi ba chân bốn cẳng dắt nhau chạy một mạch đến làng Cổ Sở. Vừa thấp thoáng một bờ lũy dựng bằng tre, tôi lại nghe tiếng lộc cộc như vó ngựa. Quỷ tha ma bắt! Bọn trẻ chực òa khóc không dám nhìn lại phía sau. Chân đã muốn nhũn ra, tôi vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh trên mặt:

- Tiếng chân không đông như lúc nãy, xem chừng chỉ có một tên thôi.

Quệt mồ hôi trên trán, tôi lại sẵn sàng thanh kiếm trong tay, không ngờ bóng dáng từ xa đến lại rất quen, tôi kêu lên mừng rỡ:

- Cụ Nhỏ!

Con ngựa vừa cứu mạng tôi lao như bay đến, dụi vào lòng tôi. Tôi ôm chặt lấy đầu nó, tay không ngừng xoa lên cái bờm rối tung vì gió bụi của nó. Trên người nó loang lổ mấy vết thương, máu bết cả lại, chắc lúc nãy bị bọn rợ bắn trúng.

- Mày giỏi lắm! Can đảm lắm! – Tôi cứ siết chặt người bạn duy nhất còn lại của mình.

Từ trong làng, người dân nào cuốc nào xẻng nào tầm vông giáo mác vội vã chạy ra. Bọn trẻ vội la lên:

- Đừng đánh! Là người mình, người mình cả! Đừng đánh!

Đến nơi chỉ thấy mấy đứa trẻ lớn nhỏ và một con ngựa bị thương, họ liền bỏ “vũ khí” trên tay xuống. Mãi đến giờ mới thấy đã hết hiểm nguy, tôi thở phào một tiếng rồi gục trên nền đất.


***


Hóa ra tôi đã bị thương không ít nhưng lúc ấy chẳng biết đau. Hóa ra túi hành lý của ông Đảm vẫn trên lưng Cụ Nhỏ, người trong làng đã mang vào đặt bên cạnh gối cho tôi. Sau khi ngủ một giấc dài, tôi mới cảm nhận cơn đau rõ ràng từng chút, từng chút trên người, trong lồng ngực. Tôi mệt mỏi chống tay ngồi dậy, lần giở túi vải loang lổ máu. Bên trong chỉ có một bộ y phục cũ, hai quyển kinh Phật đã sờn gáy và một chuỗi tràng hạt. Tôi lấy chéo áo lau từng món, rồi đặt lại vào túi vải, chỉ có tràng hạt vẫn cầm mãi trên tay, cố tìm lấy chút hơi ấm của người chủ cũ.

Nếu như hôm ấy tôi không bướng bỉnh rời đi, hẳn là giờ này chúng tôi vẫn ở Dưỡng Chân Trang chờ tin quân ta chiến thắng.

Nếu như trước đó tôi ăn nói lễ độ với Nguyễn Nam hơn một chút, biết đâu cả ba chúng tôi vẫn còn nhiều dịp cùng nhau uống rượu bình thơ ở lương đình.

Tiên sinh, em biết dùng thuốc gì để cứu mọi người sống lại như trước kia đây?

Lòng tôi cứ như bị ai đó cầm dao khoét một mảng lớn, càng lúc càng trống rỗng. Bất giác, tôi không dám nghĩ nữa, tôi sợ tôi hận bản thân đến mức thấy mình không đáng sống. Tôi còn phải thay Nguyễn Nam xin tội cho Trần Doãn, còn phải thay cụ ông Lý Đảm… giết chết Trần Thủ Độ.

Phải, thứ ông muốn làm nhất, hẳn là giết chết Trần Thủ Độ! Ông chẳng đã nói như thế với tôi lúc rời làng Vạn Niên sao?

Tâm trí có nỗi hận để tựa vào, tôi liền thấy dễ chịu hơn hẳn. Ngồi thêm một lúc cho tỉnh táo, tôi bèn cầm tràng hạt của ông Đảm bước ra ngoài. Nơi tôi đang ở chỉ là một ngôi nhà nhỏ đơn sơ, vách đất, mái tranh, bên trong không có nhiều đồ đạc. Tôi bị trúng một nhát trên vai, cánh tay cũng xây xước, ngực có vết bầm vì cú đá của tên nọ, người trong làng chỉ biết bang bó qua loa. Mỗi bước đi đều khiến tôi đau đến trào nước mắt nhưng giờ nào phải lúc để nghỉ ngơi. Dù tôi có nằm một chỗ, tâm trí cũng không có cách nào bình yên để ngủ thêm lần nữa.

Ba đứa trẻ đang ngồi buồn bã trên bậu cửa nhìn trời đất bâng quơ, vẻ như đang đợi tôi tỉnh dậy. Tôi bước đến ngồi giữa chúng, giọng ráo hoảnh hỏi lấy lệ:

- Các em đã ăn cơm chưa?

Một đứa bé buồn bã nói:

- Rồi ạ.

- Sao mọi người lại đến ngôi chùa đó? – Tôi bỗng nhiên thắc mắc.

- Bọn em cùng cụ ông đi được một lúc thì gặp chú tiểu này, chú bảo lúc vội vàng di tản đã bỏ quên một quyển kinh rất quý nên trốn mọi người quay lại lấy, thế là bọn em đi với chú đến chùa. Không ngờ chưa kịp vào chùa thì gặp bọn kia… - Đứa bé lớn hơn nghẹn giọng.

Tôi thở dài, giá như lúc đó mọi người đều đi nhanh hơn một chút. Nhưng nếu đã có chuyện “giá như”, tôi thà ước rằng bọn giặc chưa từng đặt chân vào Đại Việt.

Chú sa di ngồi xa tôi nhất, vẻ mặt vô cùng ảm đạm:

- Đều là lỗi tại tôi. – Rồi giọng chú bỗng trở nên sắt đá. - Tôi sẽ hoàn tục. Tôi phải tự tay giết chết bọn khốn đó!

Đứa bé nhất hoảng hốt:

- Cậu là người xuất gia, Phật dạy không được sát sinh đâu!

Chú cười khẩy, giọng nói mỉa mai:

- Phật dạy phải từ bi, nhưng lúc chúng sinh sắp chết thì Phật ở đâu sao không đến cứu? Đều là dối trá, gạt người cả!

Nói rồi, chú tháo chuỗi hạt vẫn đeo trên cổ ném xuống đất, gương mặt tràn đầy phẫn nộ. Tôi bước liền mấy bước đến trước mặt chú ta, vung tay tát thật mạnh làm chú ngã nhào. Chú nhỏ ôm má, thảng thốt quay lại nhìn tôi:

- Chị…?

- Ai bảo với cậu Phật chẳng từ bi? Ai cho phép cậu buông lời xúc phạm? – Tôi thét lớn. – Chẳng phải Phật đã cứu cậu mà liều cả thân mình sao? Chỉ có điều… có điều… - Tôi xúc động đến nghẹn ngào, run run nhặt chuỗi hạt đặt lại vào tay chú sa di. – Vị Phật này không ngự tòa sen, lại chỉ có một chân…

Nói đến đây, tôi phải bám chặt vai chú. Chú nhào đến ôm chặt lấy cổ tôi, rồi cả bọn òa lên khóc. Tôi cũng nước mắt nhạt nhòa, cố gắng nhìn xung quanh cố tìm xem hồn ông có lẩn khuất đâu đây. Sau hàng cau xanh, mặt trời xuống núi đỏ quạch như màu máu. Tôi như nhìn thấy bóng lưng vững vàng như bức tượng đồng đang chặn đường quân xâm lược, như nghe tiếng ông cười, đắc chí vì đã bảo vệ được mấy đứa trẻ của ông. Ông hất hàm bảo tôi, nhóc con thấy rõ chưa, ông đây vẫn còn hữu dụng, ông đây là một đại anh hùng!

Tôi gật đầu liền mấy cái rồi nhận ra trước mặt chẳng có ai, ruột cứ thắt lại từng cơn. Khi nào thanh bình, khi nào thanh bình… Đại anh hùng của cháu cả đời tự hào tài cung nỏ, cuối cùng đã ra đi vì một mũi tên. Thật nực cười! Thật mỉa mai!

Ngày xưa tôi háo hức tham chiến để lập công thế nào thì bây giờ sợ hãi chiến tranh thế ấy. Hóa ra loạn thế không chỉ tạo ra người trung can nghĩa đảm, loạn thế còn tạo ra những kẻ hèn nhát chỉ biết bỏ chạy và báo hại người khác như tôi.

Không đâu! Không đâu! Ngày nào trận chiến này còn chưa kết thúc, sẽ còn rất nhiều người ngã xuống, như ông Đảm, như Nguyễn Nam. Độc túc tráng sĩ còn chiến đấu ngoan cường như thế, lẽ nào một người trẻ tuổi như tôi chỉ biết bận tâm việc của cá nhân mình?

Nghĩ ngợi một hồi lâu, tôi rời khỏi vòng ôm của chú sa di, nắm chặt bàn tay bé bỏng của chú vuốt ve như bảo vật, ân cần nói:

- Cậu phải giữ cho tay mình thật sạch, không được để nhuộm máu tanh để phụng sự dưới chân Phật cả đời. Thù của ông Đảm cứ để cho tôi trả!

Rồi tôi quấn tràng hạt của ông quanh cổ tay mình mấy vòng. Mân mê hồi lâu, tôi cắn môi, lau nước mắt đứng lên, ra lệnh cho bọn trẻ:

- Đi thôi, chúng ta tìm dân làng hỏi chuyện!


[1]Trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm.

[2] Trích bài thơ Trừu thần ngâm (Bài ngâm bĩu môi) của Tuệ Trung Thượng sĩ, nghĩa là:

“Người đời có thịnh thì có suy

Hoa kia có tươi thì có héo

Quốc gia có hưng thì có vong.”
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 23: BINH VÔ THƯỜNG THẾ[1]

Sau khi dùng cơm tối với một nhà dân trong làng, tôi đến chăm sóc cho Cụ Nhỏ rồi trở về phòng, bò ra vẽ lại địa đồ bên trong thành Thăng Long và các vùng phụ cận. Địa đồ này do lão già vẽ ngày còn ở Dưỡng Chân Trang. Lúc sắp đi Hồng Lộ nhậm chức lão đã bảo tôi học thuộc, vẽ lại mấy lần để kiểm tra rồi đốt đi để tránh người khác nhìn thấy mà hại đến quân cơ. Những nét đầu tiên mãi mới thành hình vì tôi không kìm được nỗi xót xa, vẽ một nét lại tức ngực không thở nổi. Xưa nay, mất kinh đô nghĩa là mất nước!

Vết thương trên người tôi càng lúc càng trầm trọng, trán lúc nào cũng hâm hấp sốt, đầu óc mơ mơ hồ hồ như trong mộng. Túi thuốc tôi mang theo đã bị rơi mất trong lúc chạy trốn. May là quyển y thư của Nguyễn Nam vẫn giữ được. Dân làng để tôi ở nhà của một ông đồ hiện đang có việc ở bên ngoài ít hôm. Ở đây chỉ có cỏ mực để cầm máu và mấy loại cây thông thường dùng trị thương, muốn có tác dụng cũng phải đợi mươi ngày nửa tháng. Tôi chỉ hứng thú với độc dược, ngày thường hay ỷ lại lão già nên không tinh tường y lý đến mức biết kết hợp mấy loại cây xoàng xĩnh này thành thuốc tốt, giờ lại chẳng thể nhờ ai vì tôi mà liều mạng đi xa, đành dặn mình cố gắng ngồi yên một chỗ, cố gắng không nghĩ nhiều đến những chuyện đau lòng để tránh tinh thần sa sút hơn.

- Chị Nhã Phong, Minh Tịnh vào có được không? – Chú sa di đứng ngoài cửa nói vọng vào.

- Cậu vào đi. – Tôi giấu tấm địa đồ xuống gối rồi đáp, nén đau ngồi thẳng người hơn một chút.

Chú bước vào, tay bưng khay đựng hai bát tô, gương mặt non nớt sáng như trăng rằm nhìn tôi rất đỗi quan tâm:

- Ban chiều chị chỉ xơi có một ít cơm, bao giờ mới khỏi được. Minh Tịnh mang thêm cháo và thuốc đến.

Tôi mỉm cười, khẽ gật đầu tỏ ý cảm ơn. Chú sa di đặt cháo lên bàn, đưa thìa cho tôi rồi ngồi xuống nhìn tôi cố gắng nuốt từng chút một.

- Đau lắm phải không? Chị gắng lên một chút! – Giọng chú ôn tồn.

Miệng đắng lưỡi khô nhưng tôi vẫn cố ăn cho chú vui lòng. Đoạn, thấy không gian im ắng quá, tôi tìm chuyện hỏi bâng quơ:

- Cậu xuất gia bao lâu rồi?

- Thưa, được nửa năm. Sinh mẫu của Minh Tịnh biết mình khó qua khỏi nên gửi Minh Tịnh cho sư phụ…

- Đã thuộc bài kinh nào chưa? – Tôi hỏi tránh đi.

- Thưa, một vài rồi.

- Bỗng dưng đêm nay tôi thèm nghe quá... – Tôi cười nhạt, mắt nhìn mông lung ra màn đêm tĩnh mịch. – Cậu thuộc nhất bài nào thì tụng bài đó cho tôi vậy.

- Nghe nói Thần chú Dược sư quán đỉnh chân ngôn có thể giúp tiêu trừ bệnh tật. Đạo hạnh của Minh Tịnh chẳng có, nhưng cũng xin thử hầu mong giúp chị chóng lành.

Nói rồi, chú sải bước ra ngoài, liền sau quay lại với một nén hương và một bộ mõ. Rồi chú cung kính đốt hương, thành tâm đỉnh lễ, bắt đầu tụng nguyện:

“Nam-mô bạt dà phạt đế

Bệ sát xả

Lụ rô thích lưu ly

Bát lặt bà

Hắt ra xà dã

Đát tha yết đa da

A ra hắt đế

Tam miệu tam bột đà da…”

Minh Tịnh ung dung tụng hết một trăm linh tám biến. Tôi ăn cháo, uống thuốc xong thì lên giường nằm, thiếp dần đi trong âm thanh bình an ấy.

Sáng hôm sau thức dậy, tôi thấy cơ thể khỏe khoắn hơn rất nhiều. Trong giấc mơ tối qua, dường như tôi đã đi một chuyến rất dài về những ngày thơ ấu, tôi hay ngồi cạnh khi lão già giảng pháp cho chư tăng đến lúc ngủ thiếp đi. Xưa giờ chỉ có cư sĩ đến thỉnh giáo tăng lữ, nay người xuất gia lại vì nể giác ngộ của kẻ ở phàm trần mà đến cầu chân lý, tôi lấy làm hãnh diện lắm, miệng cười cả trong mơ. Tôi không hiểu được Phạn ngữ như lão, nhưng điều nhiệm màu của Phật giáo là kẻ nghe kinh, chú chẳng cần phải hiểu cũng được chữa lành. Có lẽ vì lão già của tôi đã mang hết tấm lòng quảng đại đặt vào mỗi một chữ thốt ra, cũng như chú Minh Tịnh đêm qua đã dùng hết lòng thành nguyện cầu cho tôi mau bình phục.

Hai tấm địa đồ cuối cùng cũng hoàn thành, một của Thăng Long, một của làng Cổ Sở. Nhưng vẽ xong rồi thì đã làm sao? Tôi lại thấy mình thừa thãi. Tôi chỉ hỏi được dân làng chuyện mấy ngày trước, có toán lính triều đình đến truyền lệnh bảo họ chuẩn bị vũ khí đề phòng giặc đến cướp, nếu không chống nổi thì lánh vào rừng, tuyệt không được hàng. Biết thế cũng bằng không! Trong tay tôi chẳng có lấy một binh một tốt. Giữa lúc này, dù là mãnh tướng thì một thân một mình cũng chẳng làm nên trò trống gì nữa là đứa nhãi nhép như tôi. Nơi này, đừng nói là những người đàn ông cứng cổ, ở làng còn có hương chức hội tề, hội đồng kỳ mục, đâu phải là Dưỡng Chân Trang hay quân doanh Thánh Dực của lão già, đâu ai biết tôi cũng thông thạo binh thư, cũng lắm mưu nhiều kế mà chịu nghe cho nửa chữ. Mà, dù họ có tin, giờ tôi cũng thấy không tự tin với mưu kế bé mọn của mình. Tôi sợ… lại có người vì trò ngu dại của tôi mà hy sinh oan uổng!

Thậm chí, cả việc của địa đồ Thăng Long có chính xác hay không tôi cũng không dám chắc. Cơ thể suy nhược lại nghĩ toàn chuyện thương tâm, đầu óc chẳng thể nào minh mẫn được. Ai cũng bảo tôi là truyền nhân mà lão già tâm đắc nhất, nhưng lần này tôi khiến lão thất vọng rồi! Chẳng có lão già ở bên, có lẽ việc tốt nhất tôi làm được là ngồi yên một chỗ đừng gây họa nữa. Dũng mãnh không xong, an phận không đành, lòng tôi cứ như lửa đốt.

- Chị là người ở làng khác đến phỏng? – Một người đàn ông tuổi trạc tứ tuần vừa đến bờ rào, hỏi.

Tôi nhìn vóc dáng thư sinh của ông ta, mạnh dạn đoán:

- Thưa phải, mấy ngày qua tôi mạo muội ở nhà thầy, mong thầy không phiền trách!

Ông đồ nọ khẽ gật đầu rồi đi vào nhà, đặt túi vải lên bàn. Tôi đến gần nhìn rồi buộc miệng reo lên:

- Cây đẳng sâm rừng!

- Chị cũng biết nhìn đấy nhỉ. – Ông đồ cười đáp. – Thầy nghe bác Diệp kể chị bị thương trong lúc chạy nạn, vừa hay lần này hái được sâm quý. Chốc nữa thầy sắc cho mà dùng.

Bấy giờ tôi mới nhìn kỹ gương mặt thầy đồ. Đoạn cố tỏ ra bình thản, tôi vờ như vô tình hỏi:

- Tôi người ở Gia Lâm lưu lạc đến đây. Nghe nói phía tây Thăng Long có làng Giá rất nhiều con gái đẹp, làng đó có gần đây không ạ?

Thầy đồ ngẩn người một lúc rồi cười to:

- Cổ Sở là làng Giá, làng Giá là Cổ Sở! Mấy ngày qua chị đã thấy được mấy cô có nhan sắc rồi?

Suýt chút nữa tôi đã ngã nhào vì kinh ngạc. Tôi rời làng khi còn quá bé, vốn không biết đến cái tên “Cổ Sở” mà người ngoài làng vẫn gọi. Thảo nào lúc ngang qua cổng làng, chạy trên con đê dẫn vào đây, tôi thấy mọi thứ quen thuộc lắm mà cứ nghĩ vì làng nào chẳng giống nhau…

- Thưa, thầy cho tôi hỏi quý danh?

- Mọi người đều gọi thầy là đồ Vĩ.

Ông đồ mang mấy củ sâm xuống bếp, tôi ngồi thừ suy nghĩ hồi lâu. Bỗng tôi nhớ ra một việc, liền mang giấu thanh bảo kiếm Trần Cụ đã tặng xuống dưới chăn. Nửa ngày sau, ông mang siêu thuốc vào bảo tôi uống cho mau lại sức. Tôi nhận bằng hai tay, thong thả uống rồi cất giọng ngâm nga:

“Quốc phá sơn hà tại,

Thành xuân thảo mộc thâm.

Cảm thì hoa tiễn lệ,

Hận biệt điểu kinh tâm.

Phong hoả liên tam nguyệt,

Gia thư để vạn kim.

Bạch đầu tao cánh đoản,

Hồn dục bất thăng trâm.”[2]

Ông sững người, nhìn tôi trân trối. Tôi mỉm cười, vô tư đáp:

- Thuở bé thơ tôi mang ơn một người con gái đẹp đến từ làng Giá. Nàng cứu tôi, còn dạy cho bài thơ này. Tôi ít chữ chẳng hiểu được, nhờ thầy giảng giúp cho!

Ông đồ bỗng sững sờ rồi sắc mặt càng lúc càng tệ, ông ngồi bất động hồi lâu, đưa ánh nhìn mênh mông về phía dãy núi mờ xa.

Nhiều năm trôi qua như thế, ký ức của tôi đã phai nhạt ít nhiều mà hình dáng người cũng đổi khác. Tôi chỉ nhớ được ánh nhìn buồn rười rượi và giọng nói ôn tồn đó. Người này họ Phạm, tên Vĩ, là thanh mai trúc mã của dì Lý Cát, đã mấy lần qua lại nhà của mẹ con tôi để thăm dì. Từng yêu thương dì tôi sâu đậm, chắn chắn ông ta ít nhiều ghi hận họ Trần. Mấy ngày qua, giữa lúc mọi người cố lánh giặc thì ông ta lại rời làng, tôi đồ rằng không đi bán tin cho quân Thát thì cũng đi tìm mấy vị nữ quyến họ Lý trước đây bị gả cho các tộc trưởng người Man ở vùng núi phía tây, lợi dụng lúc họ Trần rời khỏi kinh sư mà bàn chuyện đông phong tái khởi. Người được dì tôi lựa chọn, người có ánh mắt lay động tâm can đó chắc không đến nỗi cõng rắn cắn gà nhà nên tôi thiên về nghi vấn thứ hai, nhất là khi ở vùng núi ấy đầy cây đẳng sâm mọc dại.

Cũng có thể tôi đã nghĩ quá nhiều nhưng nhìn dáng vẻ đau khổ nọ, tôi biết tôi đoán chẳng sai. Ông Đảm từng kể với tôi, những người một lòng theo họ Lý đến giờ vẫn chưa bỏ cuộc, họ vẫn âm thầm hội binh đợi thời cơ. Tình thế bây giờ, kẻ có đầu óc đều biết không phải thời cơ, nhưng nếu một mặt phải chống giặc ngoài, mặt khác phải đối phó thù trong, họ Trần chưa tận cũng suy. Tôi hy vọng cái cơ đồ hai trăm năm kia hãy còn để lại những người biết suy nghĩ cho đại cuộc.

- Thầy làm sao thế, tôi đã nói điều gì không phải phép chăng? – Tôi bước đến trước mặt ông đồ Vĩ, ngây thơ hỏi.

- Chị họ gì? – Ông chợt nắm chặt cổ tay tôi, giọng siết bao tha thiết.

- Nguyễn… Thầy tôi họ Nguyễn! – Tôi tròn mắt, môi run run.

Ông nhìn tôi một lúc rồi lại buông tay, thở dài một tiếng. Tôi cũng thở phào, thầm cảm ơn mẹ đã cho tôi gương mặt rất hiền lành, chỉ cần tỏ ra ngơ ngác thì chẳng ai nghi ngờ gì nữa. Năm xưa, khi họ Trần có được giang sơn đã ra lệnh cho toàn dân ai họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn, lấy cớ là phạm húy Nguyên Tổ[3] nhưng ai mà chẳng rõ nguyên nhân thực sự. Tôi bảo thầy tôi họ Nguyễn, nửa không liên quan, nửa lại rất gần gũi, mặc ông đồ muốn đoán sao thì đoán. Tôi muốn thuyết phục ông ta nhưng dù thế nào, tôi cũng không thể để ai biết việc trong phủ Hưng Ninh vương có một kẻ giả họ Trần nên chẳng thể tiết lộ gì hơn.

- Lúc thầy ra ngoài có nghe ngóng được gì chăng? Động tĩnh quân giặc thế nào rồi ạ? – Tôi lảng sang chuyện khác.

- Vẻ như bọn chúng đã tràn vào kinh sư. – Ông đáp rồi buồn bã đến lấy cần câu dựng ở chái nhà, đi một mạch ra đồng.

Đến chiều mà ông đồ Vĩ vẫn chưa về, tôi bèn nấu một bữa cơm chay rồi đi tìm Minh Tịnh.

- Cậu ra bờ sông mời thầy đồ Vĩ về giúp tôi, bảo thầy rằng tôi muốn cúng một bữa cơm cho cụ ông Lý Đảm.

Tôi biết Minh Tịnh sẽ kể cho ông Vĩ chuyện ông Đảm đã anh dũng chiến đấu thế nào. Tôi muốn ông ta biết, một người họ Lý muốn họ Trần tận diệt đã vì người dân mà liều mạng ra sao. Người đời ai cũng nói “quốc phá gia vong”, chỉ có dì tôi và lão già hay dạy rằng “quốc phá, sơn hà tại”[4]. Tôi không dám chắc mối nguy này có thật không, chỉ biết phải dốc hết sức để đề phòng. Đây là việc duy nhất tôi làm được lúc này.

Nén hương kính vong linh cụ Đảm vừa tàn, anh mõ đã đến gọi mọi người ra đình làng gấp. Tin cấp báo về: quân Thát đang kéo quân đến cướp bóc ở mấy làng bên cạnh, dân làng chống trả rất quyết liệt, giặc thương vong mất một nửa mà chỉ cướp được một bao thóc nhỏ. Có làng còn đốt cả kho gạo rồi đưa nhau trốn vào rừng, giữa đường chết không ít người. Tôi thấy sởn tóc gáy, mũi như lại ngửi thấy mùi tanh của máu.

Giữa đám đông, một thiếu phụ ôm chặt đứa con nhỏ vào lòng, thảng thốt kêu:

- Sớm muộn gì bọn chúng cũng cướp đến làng ta, biết làm thế nào đây?

Tôi nhìn quanh, vài bác gái khác cũng nhíu mày lo lắng. Nếu là trước đây, có lẽ tôi đã nhảy lên giữa đình mà nói mấy lời ái quốc trung quân khiến ai cũng rơi nước mắt rồi hăng hái cầm đao giết giặc. Nhưng hôm nay, tôi có chút hoài nghi…

Ông đồ Vĩ dường như ông ta đã mất vẻ ủ ê ban sáng, gương mặt đầy quyết tâm bước lên thềm cao dõng dạc nói với mọi người:

- Tôi nghe chú tiểu kia kể lại mấy ngày trước ở Thăng Long, một vị anh hùng chỉ có một chân cũng tả xung hữu đột giết được hơn mười tên giặc, bị tên cắm vào người vẫn đứng hiên ngang. Lẽ nào làng ta toàn những người lành lặn thế này lại chỉ biết trốn tránh, chỉ biết bỏ chạy sao?

Cả đình bỗng lặng đi, chốc sau trong đám trai làng có người đáp lớn:

- Thường ngày chúng ta theo lệnh vua, vào vụ mùa thì cấy gặt, lúc nông nhàn thì luyện tập kiếm cung. Mỗi người chúng ta cũng là một quân nhân. Giặc đến thì ta đánh, bọn tôi không sợ!

- Không sợ! Không sợ! – Một, hai người rồi cả làng đồng thanh hưởng ứng.

- Nếu mọi người tin tưởng đồ Vĩ tôi có đọc chút binh thư, xin theo sự sắp xếp của tôi mà chống giặc!

- Được! Được! – Muôn người lại một lòng.

Tôi đứng ở góc đình, nhìn khí thế ấy mà mừng suýt khóc, mọi băn khoăn từ bấy đến giờ bỗng tiêu tan. Tuy không biết tình hình quân đội ta thế nào, nhưng dù chỉ diệt được vài tên lính, trận này vẫn đáng đánh hơn cảnh ngồi yên chờ chết! Một làng như thế, rồi cả nước đều như thế! Tôi nghe mọi người lao xao bàn tính, bèn nghĩ ngợi một lúc rồi cao giọng:

- Phải chi làng ta có khu đầm lầy nào đó dụ bọn Thát vào cho ngựa sa lầy thì hay quá! – Mọi người đều nhìn cả về phía tôi ngồi.

- Ồ, có chứ! – Ông trưởng làng hồ hởi đáp. – Từ cổng làng đi về phía bắc hai dặm có một khu đất trũng, chỉ có người quen thuộc địa hình mới băng qua được.

- Để cho tôi. – Một anh nông dân thấp người vỗ ngực tự hào. – Cứ cách ngày tôi lại vào đó bắt cá, biết từng viên đá ngọn cỏ, nhắm mắt cũng có thể vượt qua.

Rồi mọi người lại nói tranh, nào đặt bẫy, nào cắm chông, ồn ào như ong vỡ tổ.

Ông đồ Vĩ bước đến chỗ tôi nói nhỏ:

- Chị còn quỷ kế gì cứ đưa ra, không cần tỏ vẻ ngờ nghệch nữa.

Tôi bị vạch mặt bèn cười giả lả, đoạn lấy từ ống tay áo ra tấm địa đồ tôi vẽ khu vực quanh làng, môi chẳng còn khô, miệng chẳng còn đắng, tôi nói liền một mạch:

- Thay vì ngồi đợi giặc đến cướp, chi bằng chúng ta chủ động dụ địch sa vào bẫy. Tôi đoán ở cổng thành phía Tây sẽ có chốt chặn, chúng ta chỉ cần giả vờ lén tải lương thực ngang qua. Đến cổng làng, ta chia thành hai hướng, một về phía đầm lầy, một chạy về làng. Bọn chúng nhất định sẽ chia quân đuổi theo. Đầm lầy sẽ giúp ta diệt một nửa toán quân, nửa còn lại, ta chỉ cần giả vờ chống trả…

- Chị muốn tẩm độc vào gạo đó rồi để chúng cướp đi sao? – Ông đồ Vĩ lập tức đoán được ý tôi.

- Ồ, đó cũng là một ý hay, thầy quả là một cao thủ dùng binh! – Tôi không ngớt lời ca tụng.

Cây đẳng sâm quả nhiên là thuốc bổ, tối ấy tôi bày dân làng cách làm bẫy, chế độc đến tận khuya mà vẫn còn tỉnh táo. Đồ Vĩ sang ở cùng trưởng làng, nhường hẳn nhà cho tôi và ba đứa trẻ. Khi mọi người đều đã về nghỉ, tôi lại đóng cửa thảo một bức thư trên một dải lụa dài. Đây là cách viết thư mà lão già đã dạy cho tôi để tránh lộ thông tin cơ mật: lấy một dải lụa quấn quanh cây trúc rồi viết từng dòng theo thân cây, khi tháo ra, dải băng chỉ là những từ rời rạc vô nghĩa. Tôi chọn một cây trúc có kích thước bằng với cây sáo ngọc của tôi, tin rằng lão sẽ đoán ra ngay. Viết xong, tôi lại bỏ thư vào một túi vải, rút dây thật chặt rồi mang qua đưa cho Minh Tịnh.

- Sau khi giặc tan, nếu quá nửa tháng mà tôi không trở lại làng, phiền cậu mang thư này đến Dưỡng Chân Trang giao cho thầy Tuệ Trung rồi nhận ngài ấy làm sư phụ.

- Chị định sẽ làm gì? – Chú lo lắng hỏi tôi.

- Chỉ đề phòng bất trắc thôi. Thời tao loạn thế này, ai mà lường trước được ngày mai! – Tôi cười hiền. – Cậu đừng để ai biết việc này!

Chú sa di nhìn tôi rất lâu, tôi bèn ngồi xuống bên cạnh chú.

- Cậu có giận tôi dùng độc để sát sinh không?

Chú khẽ lắc đầu. Tôi xòe bàn tay trái ra trước mặt mình, mân mê cổ tay còn quấn tràng hạt của ông Đảm, rồi nắm chặt thành đấm, nhếch mép cười:

- Cậu giận cũng đành… Chỉ cần có thể cứu được thêm một mạng người dân Đại Việt, tôi tình nguyện vào địa ngục!


***


Trời vừa rạng sáng, ba anh trai làng đã rời đi theo kế hoạch. Vết thương tuy đã hồi phục ít nhiều nhưng vẫn không thể phản ứng nhanh, tôi đành giành việc quan sát trên điếm canh đê cùng với hai cậu Nhất, Nhị, một bên để thanh kiếm, tay kia sẵn cái tù và. Đợi từ lúc mặt trời chưa mọc đến khi nắng lên, phía cổng làng vang lên tiếng vó ngựai. Hai anh trai làng đánh ngựa chạy thục mạng, kéo theo một xe gạo, phía sau có khoảng hai mươi tên lính chạy dọc đường đê. Như vậy bọn chúng có khoảng ba đến bốn mươi tên, một nửa sẽ bỏ mạng ở khu đất trũng. Bọn ngựa giẫm phải bẫy đặt dưới các hố đất, hất bọn giặc ngã nhào. Tôi đưa tù và lên thổi một hồi dài. Dân làng từ dưới ruộng lúa bắn tên tới tấp, dân trong làng ùa ra đánh. Tầm vông, cuốc, xẻng đều trở thành vũ khí lợi hại. Bọn chúng rất hung hãn toan chém giết nhưng mọi người theo như kế hoạch chỉ đánh cầm chừng rồi nhanh chóng rút lui, bỏ lại một xe gạo đầy, bên trên còn phủ mấy bó cỏ lớn cho ngựa ăn. Quân Thát còn lại khoảng mười tên sợ phía trước có mai phục không dám đuổi theo, nhìn thấy chiến lợi phẩm bị bỏ lại liền kéo về thành. Chúng vừa đi khuất, hai đứa trẻ đứng cạnh tôi liền reo hò phấn khích.

Chưa kịp vui mừng, sau lưng tôi lại nghe tiếng rầm rập, chắc một đám lính khác nghe tiếng tù và nên kéo đến. Tôi chộp lấy thanh kiếm, bảo hai đứa trẻ ở yên trong điếm rồi nhảy ra ngoài, chặn giữa đường bọn chúng.

Không ngờ người dẫn đầu lại rất quen mặt. Tôi mừng rỡ kêu:

- Anh Dã Tượng!

Người đàn ông vạm vỡ ngồi trên ngựa cũng ngỡ ngàng:

- Cô Nhã Phong? Sao cô lại ở đây?

Chợt thấy quân lính phía sau anh ta toan đuổi theo chặn đường bọn giặc để cướp lại quân lương, tôi liền ngăn cản:

- Cứ để bọn chúng đi, đó là kế của em!

Tôi hay lén gọi Dã Tượng là anh Voi Lớn. Anh to lớn nhưng hiền như voi, chất phác thật thà, trong một lúc không kịp hiểu chuyện gì bèn nhảy xuống ngựa đến trước mặt tôi, tôi lại hỏi dồn:

- Anh ở đây nghĩa là Hưng Đạo vương đến rồi? Quân ta sắp phản công sao?

Gia tướng của Hưng Đạo vương vỗ vỗ vai tôi, chỉ chỉ lên lá cờ hiệu, là cờ của quân Thánh Dực! Mấy anh lính giờ mới nhận ra tôi, liền xuống ngựa ôm quyền chào. Voi Lớn ôn tồn bảo:

- Lần này tôi theo Hưng Ninh vương có nhiệm vụ khác. Vương gia đang ở rất gần đây!






[1] Tôn Tử binh pháp viết: “Binh vô thường thế, thủy vô thường hình, năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vị chi thần”. Ý nghĩa là: người dụng binh cũng giống như thế nước chảy, luôn vô định, vô hình tuỳ cơ ứng biến, không có quy mô làm mẫu. Nếu như có thể tùy theo tình hình biến hóa của địch mà biến đổi theo đó giành thắng lợi. Đó chính là cái được gọi “dụng binh như Thần”.

[2] Dịch nghĩa:

“Nước mất núi sông còn đó,

Vào xuân hoa cỏ xanh rì.

Đau xót hoa còn rướm lệ,

Kinh hoàng chim sợ phân ly.

Khói lửa mịt mờ ba tháng,

Thư nhà khoắc khoải người đi.

Tóc bạc bơ phờ năm tháng,

Trâm cài chẳng được còn chi!”

(Xuân vọng – Đỗ Phủ)

[3] Trần Nguyên Tổ (1151 – 1210): tên thật là Trần Lý, cha của Thượng hoàng Trần Tự Khánh, ông của Trần Thái Tông, được xem là ông tổ của nhà Trần.

[4] “Quốc phá gia vong”: Nước mất nhà tan.

“Quốc phá, sơn hà tại”: Nước mất, sông núi vẫn còn.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 24: TÚY NGỌA SA TRƯỜNG QUÂN MẠC TIẾU[1]

- Tiên sinh ở gần đây? – Tôi vội vàng hỏi lại. – Ý anh là tiên sinh đang dẫn quân phía sau, sắp đến đây phải không?

- Không… không! – Voi Lớn lúng túng. – Vương đóng quân nơi khác. Để tôi đưa cô đến đó, còn giờ… - Anh nhìn sang lũ trẻ đang đứng ở điếm canh trông ra. – Tôi không nói được.

Tôi liền hiểu ra sự việc, mỉm cười với anh ta:

- Ngựa và hành lý của em vẫn ở trong làng. Em vào chào mọi người một tiếng rồi sẽ đi cùng anh ngay!

- Bọn tôi đợi cô bên ngoài vậy. – Anh cười hiền.

Tôi gật đầu với Voi Lớn, đưa tay vẫy hai đứa trẻ rồi nhanh chóng chạy về nhà ông đồ Vĩ. Chẳng ngờ vừa đến đầu ngõ đã nghe tiếng người nhốn nháo, chú Minh Tịnh vừa trông thấy tôi đã kêu lên:

- Chị Nhã Phong, nhanh lên, bác Thôi bị thương nặng lắm!

Tim tôi liền hẫng đi một nhịp. Bác Thôi là người đàn ông hăng hái vỗ ngực bảo mình hiểu rất rõ địa thế khu đất lầy, cứ cách ngày lại vào bắt cá, tình nguyện tiên phong dụ địch. Tôi theo chú sa di chạy đến nhà bác, cố chen qua đám đông ken chặt ngoài sân, ai nấy cũng lo lắng, luôn miệng hỏi han, khung cảnh cực kỳ hỗn loạn.

- Thầy Vĩ, bác Thôi sao rồi? – Tôi hỏi ngay khi nhác thấy bóng lưng đồ Vĩ.

Ông đồ quay lại nhìn tôi, mặt tối sầm chẳng đáp được câu nào. Cạnh giường, một người đàn bà bụng mang dạ chửa đang giặt tấm khăn trong chậu nước đỏ ối, chị ta cố không khóc nên gương mặt càng méo mó. Tôi tiến thêm một bước, thấy bác Thôi đang nằm sấp, khó nhọc thở, cả người toàn vết chém ngang dọc, trên lưng còn cắm một mũi tên rất gần tim. Hình ảnh của ông Đảm hôm nọ tràn về trong đầu, nước mắt cứ thế tuôn ướt đẫm mặt mà tôi không hề hay biết.

- Tại sao lại như vậy? – Tôi nghe giọng mình lạ lẫm. – Không phải còn rất nhiều người tiếp ứng cho bác ấy sao? Sao lại ra nông nỗi thế này? Không phải chúng ta đã thắng sao? – Gần như tôi đã thét lên với đồ Vĩ.

- Quân Thát đuổi theo bác ấy đông hơn ta dự tính. Bác Thôi muốn diệt tất cả địch nên dụ chúng đi sâu hơn, qua khỏi địa phận ta mai phục, mọi người không đến kịp. – Ông đồ né tránh ánh mắt của tôi.

- Ba… gần ba mươi tên… - Người bị trọng thương cố giơ ba ngón tay lên. – Chết sạch! Chết sạch! – Bác Thôi cười gằn vài tiếng rồi đổ ra ho, máu tuôn ra từ miệng, từ mũi.

- Bác giỏi lắm! Giỏi lắm! – Tôi vội vã vuốt lưng bác trấn an, quệt nước mắt trên mặt mình – Bác chịu đau một chút, tôi nhổ mũi tên ra.

Đồ Vĩ liền nắm chặt cổ tay tôi, cau mày, khẽ lắc đầu. Tôi biết y thuật của mình có hạn, chưa chắc so được với ông ta chứ đừng nói đến việc cải tử hoàn sinh. Thế nhưng cứ nhìn người đã vì kế hoạch của mình vào sinh ra tử bị thương thế này mà không làm gì, tôi sẽ phát điên lên mất! Vết thương của bác Thôi hệt như ông Đảm, tôi không thể lần nữa để ông Đảm ra đi trước mắt mình! Tôi giằng mạnh tay, lạnh lùng nói với Minh Tịnh đang đứng phía sau:

- Cậu lấy con dao nhỏ nung nóng lên cho tôi.

Đoạn, tôi cố trấn tĩnh, quay sang hỏi chuyện người vợ đang ngồi cạnh bác:

- Con đầu của hai người ạ?

- Vâng! – Chị ta sụt sùi. – Sống hơn bốn mươi năm trên đời mới có được một mụn con…

- Những gì tốt đẹp thường đến muộn mà! – Tôi cố chọc cho chị ta vui. – Đứa bé này lớn lên nhất định sẽ là một đại anh hùng!

Nụ cười yếu ớt hiện lên trên môi người đàn ông thô kệch. Chú Minh Tịnh mang con dao để trên vải sạch đến trước mặt tôi. Vừa lúc đó, Dã Tượng bước vào:

- Cô Nhã Phong định…

Tôi cắt lời anh bằng ánh mắt đầy trông cậy, anh lập tức hiểu ra, nói với bác Thôi gái:

- Phu nhân, xin lui ra một chút!

Khi Dã Tượng đã chắn trước tầm nhìn của vợ người bệnh, tôi đưa cuộn vải vào miệng bác ta, khẽ nói:

- Chúng ta cùng cố nhé!

Bác Thôi cắn chặt cuộn vải, tôi cũng hít sâu một hơi, đưa mũi dao đến cạnh mũi tên đang cắm sâu vào da thịt bác, bắt đầu rạch xuống. Chiếc giường tre như run lên bởi cơn đau của người bị thương. Đâu đó ngoài kia vang lên tiếng khóc, tiếng kêu la hoảng sợ. Tôi thấy ông Đảm như đang nhìn mình, tôi mấp máy môi khẽ nói với ông:

- Cháu sẽ không để ông chết! Không để ai chết nữa!

Vì cố nén cơn xúc động, rạch được miệng vết thương thì tay tôi đã gần cạn sức. Tôi run run nắm lấy mũi tên toan nhổ ra thì đồ Vĩ đã nhanh tay hơn, ông ta khảng khái bảo tôi:

- Để cho thầy. – Ông ta nhếch mép cười. – Y thuật của chị chẳng biết thế nào nhưng tinh thần không bỏ cuộc quả là đáng để thầy học tập.

Tôi không đáp chỉ dịch người sang một bên nhường chỗ cho ông ta, mắt chăm chú nhìn vào mũi tên. Đồ Vĩ rút mạnh một cái, bác Thôi thét lớn. Máu bắn lên thành tia, tôi sợ điếng người, lập tức lấy tay giữ chặt miệng vết thương để ông đồ bịt vào bao nhiêu là thuốc cầm máu. Vải sạch, băng gạc, lá thuốc, từng chậu nước đầy máu liên tục được đưa ra đưa vào. Không biết là bao lâu đã trôi qua, máu vẫn không ngừng tuôn dưới tay tôi, sinh mạng của bác Thôi cứ thế tuột đi, tôi giữ thế nào cũng không được!

- Bác cố lên! Cố lên! – Tôi thét lớn, không còn giữ được bình tĩnh nữa.

- Cô Nhã Phong!

- Chị Phong! Tên cắm quá sâu, chúng ta đã làm hết sức rồi!

Đồ Vĩ và Dã Tượng kéo tôi ra, cố trấn an. Tay tôi vẫn giữ chặt vết thương, mắt chỉ còn thấy màu đỏ, mũi chỉ còn ngửi được mùi tanh, tai chỉ còn nghe được tiếng gươm giáo chạm nhau loảng xoảng, tiếng thét la, tiếng khóc. Bóng lưng của ông Đảm cứ sừng sững trong đầu. Mọi người vì tin tưởng tôi mà lao đi chiến đấu nhưng tôi đã không cứu được ai, không giữ được ai!

- Tiên sinh đang ở gần đây phải không? Em đi tìm người! Chắc chắn người sẽ cứu được bác ấy! – Tôi vén áo toan chạy ra ngoài.

Dã Tượng giữ chặt lấy tôi, tha thiết can ngăn:

- Cô Nhã Phong! Cô Nhã Phong! Bình tĩnh lại!

- Anh muốn nói cả tiên sinh cũng không cứu được bác Thôi sao? Em không làm gì được cho bác ấy nữa sao?

- Cô Nhã Phong! – Dã Tượng nhìn tôi như van xin.

Chúng ta không được để lộ nơi đóng quân! Dù có chạy như bay thì cũng mất nửa ngày tiên sinh mới có thể đến đây, bác Thôi không đợi được! Những việc này tôi đều hiểu cả.

“Phong, thầy thuốc không phải là thần tiên. Có rất nhiều việc chúng ta không cách nào thay đổi. Sinh tử vốn lẽ thường, không nên vì cố thỏa mãn chấp niệm của mình mà khiến người bệnh đau đớn thêm.” Lão già từng dạy như thế, tôi đều hiểu cả.

Tôi đều hiểu cả!

- Mình ơi! – Tiếng khóc nỉ non của bác Thôi gái làm tôi chết lặng.

Trên giường bệnh, người đàn ông toàn thân đầy máu đang an tĩnh tựa vào vai vợ mình, tay bác đặt lên chiếc bụng tròn trĩnh của chị, gương mặt chỉ có thanh thản và hạnh phúc, như chưa hề có trận chiến đổ máu vừa qua, như chưa hề có tiếng thét đau xé lòng khi nãy.

- Nếu là con gái, hãy đặt tên nó là An. Nếu là con trai, nó sẽ tên là Bình. – Bác thều thào. – Mình có giận tôi không?

Bác Thôi gái lắc đầu nguầy nguậy, dịu dàng nắm lấy bàn tay gân guốc của chồng:

- Tôi hãnh diện về mình!

Nụ cười nở trên đôi môi đã xám ngoét. Bác Thôi nhìn về phía tôi, tôi vội chạy đến ngồi sụp bên bác, khóc nấc lên:

- Tôi xin lỗi! Xin lỗi bác… !

Người đàn ông nọ chỉ khoát nhẹ tay như bảo tôi chẳng có chuyện gì to tát. Lại khó nhọc hít một hơi dài, bác nói:

- Tôi là nhà nông nghèo ít học, đời này chỉ có hai việc đáng tự hào. Một là, để lại người nối dõi cho dòng họ. Hai là, hôm nay giết được những ba mươi tên giặc…

Tôi gật đầu liên tục, cố nở một nụ cười.

- Lẽ ra tôi muốn đặt tên con trai là Thắng. Nhưng khi nó lớn lên, Đại Việt hẳn đã thanh bình. Nói với nó, cảnh ấy do thầy nó dùng máu vẽ nên, nó phải cố gắng giữ gìn. Cố gắng giữ gìn…

Bàn tay đang vẽ cảnh thanh bình dừng giữa không trung rồi rơi phịch xuống. Bác Thôi gái ghì chặt chồng vào ngực, khóc không thành tiếng. Dã Tượng đưa tay lên ngực, cúi gập người tiễn bác một cách trang trọng. Bên ngoài, dân làng ôm chặt lấy nhau.

Tôi cứ ngồi mãi, ngồi mãi bên giường, khi bác Thôi gái đã để mọi người đưa thi thể bác ra ngoài, khi dân làng đều đã rời đi hết, mãi đến lúc Dã Tượng đến quỳ một chân trước mặt, bảo tôi:

- Cô Nhã Phong, chúng ta phải đi rồi, vương gia đang đợi.


***


- Chị Nhã Phong đi thật sao? – Hai cậu Nhất, Nhị níu tay tôi.

- Hai em ngoan ngoãn ở lại cùng dân làng, khi nào giặc tan, hãy sống lương thiện. – Tôi khẽ khàng vuốt tóc chúng dặn dò.

- Chị là người nhà quan? – Đồ Vĩ hỏi.

- Sau này tôi sẽ giải thích với thầy.

Khi mọi người đều đã rời đi, tôi xếp lại cái đẫy, lấy thanh kiếm toan theo Dã Tượng rời làng. Anh tay dắt Cụ Nhỏ, ân cần hỏi:

- Cô không định thay y phục sao?

Tôi nhìn xuống áo mình, hóa ra cả người đã dính đầy máu mà không hay biết.

- Vương gia trông thấy cô như vậy sẽ lo lắng lắm.

Tôi chậm chạp gật đầu với anh rồi trở vào thay một bộ áo sạch sẽ. Khi bước trở ra, tôi hướng về phía ngôi nhà của bác Thôi, vái chào.

Tôi nhất định sẽ trở lại đây, đưa tiên sinh trở lại đây, sẽ chăm sóc vợ con của bác, sẽ dùng cả đời bảo vệ sự thanh bình cho con bác.

Tôi khẽ thầm thì với chính mình như thế rồi dứt khoát nhảy lên lưng ngựa, rời khỏi làng Cổ Sở.


***


Dã Tượng dẫn tôi đi rất lâu, băng qua mấy đoạn đèo, vượt mấy khe suối mới đến rừng mơ. Anh bảo vùng này gọi là Cổ Mai, ở ngay phía nam Thăng Long nhưng rất ít người biết đến vì địa thế hiểm trở. Tiết đang vào cuối đông, hoa mơ nở trắng trời, từng cành kiêu hãnh trong giá rét, phơn phớt một màu hồng dịu dàng, hương thơm thoang thoảng. Ngoài lão già, trên đời chắc chẳng có ai chọn một nơi thơ mộng như thế này để đóng quân.

Trên đường đi, Dã Tượng không ngớt lời kể cho tôi kế hoạch của quân ta. Khi quân triều đình vừa khởi hành đến Bình Lệ Nguyên, người dân trong thành đã nhận được lệnh đi sơ tán. Đích thân quốc mẫu ra sắc lệnh này, quân đội của thái sư tỏa ra sắp xếp việc thi hành. Nhanh như cắt, toàn bộ lương thực, thuốc men và hành lý của mọi người đã được chuyển lên thuyền, xuôi về các làng ở phía tây và phía nam. Hai ngày sau, khi bệ hạ rút quân về từ Phù Lỗ, ngài cùng người trong cung và tôn thất cũng lên mấy con thuyền lớn để đến một nơi an toàn khác. Tâm trạng vẫn còn nặng nề nên từ đầu đến cuối tôi chỉ im lặng lắng nghe.

“Anh Cả, nếu như ta để lại cho giặc một tòa thành trống rỗng, chúng có dám tiến vào không? Có trụ lại được lâu không?” Nhiều năm trước, có lần Hưng Đạo vương đã hỏi lão già câu này, đến giờ tôi mới nhớ.

“Tôn Vũ dạy Bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã, bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã[2].” Lão già đáp, vẻ như rất tán đồng.

Chẳng trách hôm trước tôi nghe Hưng Đạo vương định đón đầu giặc ở Quy Hóa rồi sau không nghe tung tích nữa. Vương say mê binh thư từ thuở bé, mỗi khi nghĩ được trận pháp nào hay đều nhân lúc rỗi việc chạy từ Vạn Kiếp đến Yên Bang bàn luận với lão già. Tính vương vốn quật cường, quyết đoán, ý tưởng táo bạo như việc bỏ thành dụ địch cũng không phải lạ. Đó là chưa kể phò trợ cho bệ hạ còn có thái sư. Trần Thủ Độ là thái sư. Tôi vì ông Đảm mà muốn giết Trần Thủ Độ, người dân thương tiếc họ Lý mà hận Trần Thủ Độ, nhưng ai cũng biết Trần Thủ Độ là một kẻ bản lĩnh khó ai bì.

Hơn nữa, mỗi một người lính đều giống như Nguyễn Nam, như ông Đảm, như bác Thôi, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vẫn không bỏ cuộc, lúc ra đi chẳng mảy may ân hận.

Hậu phương của họ còn có lão già mà tôi xem như trời như đất!


***


Khi tôi đến được quân doanh đóng ở lưng chừng núi, trời đất của tôi đang ngồi tựa gốc cây tự đánh cờ vô cùng nhàn hạ. Bàn cờ vẽ bằng kiếm gạch trên nền đá, sỏi thay cho quân đen, hoa mơ thay cho quân trắng. Hôm nay lão không mặc bộ áo màu lam quen thuộc mà toàn thân gọn gàng y phục đen, tóc búi cao rất ra dáng chủ tướng quân Thánh Dực nhưng cử chỉ vẫn ung dung như thể khói lửa ngoài kia chẳng là gì. Bên cạnh, Trần Cụ đang ngồi săm soi mấy mũi tên.

- Vương gia, Dã Tượng về rồi! – Người anh lớn của tôi đứng từ xa ôm quyền cúi chào.

Quân lính ở gần đó trông thấy tôi, nhất tề đứng lên hành lễ, tôi cũng khẽ gật đầu chào họ. Quân Thánh Dực bao gồm quân của hai lộ Hồng và Khoái, đặt dưới sự chỉ huy của lão già. Nửa năm ở Hồng Lộ tôi hay theo lão già đến quân doanh nên đa số bọn họ đều biết mặt tôi.

- Cô Nhã Phong! – Trần Cụ mừng rỡ chạy đến. – Không phải cô về Yên Bang sao? Sao giờ lại ở đây?

Tôi gật đầu chào hắn thay cho lời đáp, mắt chỉ hướng về phía lão già. Từ hôm tạm biệt lão ở Hồng Lộ đến giờ chỉ hơn hai tháng, nhưng nhiều việc xảy ra quá khiến tôi ngỡ như cả một đời đã trôi qua, trong chốc lát, tôi không biết phải đối diện với lão thế nào. Giữa khung cảnh thần tiên thế này, giữa ba quân khí thế choáng ngợp này, người ở trên cao, tôi dưới thấp. Đó là lần đầu trong đời tôi cảm thấy lão cách xa mình đến vậy.

Lão già đặt “quân cờ” trên tay xuống bàn, đoạn cầm chiếc áo choàng đứng dậy, thong thả bước đến, gương mặt không thể hiện cảm xúc gì. Khi lão đến cách tôi một sải tay, tôi khẽ cúi chào:

- Tiên sinh!

Đôi hài của lão dừng lại, tôi chậm chạp nhìn lên. Thoắt một cái, chiếc áo choàng của lão đã trùm lên vai tôi, rồi lão từ tốn nắm lấy cổ tay tôi dắt đến chỗ bàn cờ, thong thả ngồi xuống vị trí ban nãy. Tôi không biết phản ứng thế nào chỉ có thể ngoan ngoãn xuôi theo, ngồi xuống bên gối lão. Lão vẫy Dã Tượng đến ngồi đối diện, hỏi:

- Tình hình bên ngoài thế nào rồi?

- Bẩm vương gia, đúng như chúng ta dự đoán, quân Thát không tìm thấy gì ở Thăng Long đã chia quân ra các làng cướp bóc. Nông dân của ta ngày thường chăm chỉ tập luyện võ nghệ, bọn chúng tổn thất rất nhiều. Cô Nhã Phong cũng đã dẫn dắt dân làng Cổ Sở diệt được không ít giặc.

Tôi không rõ lão có nhìn mình cười một cái hay khen cho một câu dễ nghe không. Đầu óc vẫn lơ lửng tận đâu đâu, tôi ngồi cạnh nghe lão và Dã Tượng bàn chuyện công mà chẳng vào được câu nào. Vết thương trên người vì đường xa mà bắt đầu đau nhức, gió lạnh thổi từng cơn, chỉ có hơi ấm từ tấm áo của lão giữ cho tôi biết mình còn sống.

- Mấy cái vại kia dùng để làm gìạ? – Hồi lâu, tôi chợt nhìn thấy rất nhiều vại lớn nhỏ dựng trong góc, bèn lên tiếng hỏi.

Mặt mũi của Trần Cụ và Dã Tượng bỗng nhiên trở nên rất khó coi, ú ớ không nói được tiếng nào. Bỗng nhiên lão bật cười sảng khoái:

- Hỏi hay lắm! Quên mất việc này phải giao cho em mới phải!

Nói rồi lão kéo tôi đến chỗ để vại, ấn một cái vào tay tôi, bảo:

- Ta muốn ủ rượu mơ để vài hôm làm tiệc mừng công. Bình này dành riêng cho Quốc Tuấn, em phải làm cho thật thơm thật ngon vào đấy!

- Giờ là lúc nào mà thầyvẫn muốn ủ rượu? – Trần Cụ há hốc mồm.

- Vương gia, Hưng Đạo vương đâu có thích rượu mơ? – Dã Tượng thật thà, hỏi rồi chợt đưa tay bịt mồm như nhận ra mình đã lỡ lời.

Lão nhìn khắp lượt, cười cười bảo:

- Bọn Thát đang chết đói trong thành. Chúng ta thong dong đợi thời cơ ở nơi non nước hữu tình thế này mà không tận hưởng, quả là lãng phí!

Rồi mặc kệ mọi người ngơ ngác, lão quay lại chỗ bàn cờ, vừa đi vừa ngâm nga mấy câu thơ Lý Bạch:

“Sầm phu tử

Đan Khâu sinh.

Thương tiến tửu,

Bôi mạc đình!

Dữ quân ca nhất khúc,

Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:

Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,

Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!

Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,

Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh…”[3]

Đến khi hiểu ra mọi việc, tôi thấy mình đang ngồi một góc tuyển chọn những quả ngon nhất trong số mơ mà binh sĩ đã hái về. Phía xa kia, lão già vẫn đang bàn việc quân cùng tướng sĩ đến tận hoàng hôn. Tôi nhìn Dã Tượng chợt thấy thương cảm cho anh. Trước giờ quen tác phong quy củ của Hưng Đạo vương, mấy hôm nay theo lão già nhà tôi hẳn là đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ khác, người như anh khó mà thích ứng được. Tôi chọn mơ xong thì mang ra suối rửa, rửa sạch lại vẩy cho ráo nước rồi xếp vào bình, rót thêm ít rượu rồi lèn chặt, nhờ anh lính đào hố chôn sâu xuống gốc mơ to nhất, cắm thêm một nhánh cây làm dấu. Tôi cứ mơ hồ thấy có gì đó không đúng lắm, nhìn dáng vẻ của Dã Tượng và Trần Cụ lúc nãy có thể đoán được lão đang cố giấu chuyện gì, nhưng đầu óc vẫn không tỉnh táo nên tôi chẳng buồn nghĩ thêm gì nữa. Xưa giờ chỉ cần có lão ở cạnh, tôi liền sinh ra ỷ lại. Hết việc rồi tôi lại nằm dài trên một cành cây thấp, nhìn trời nhìn đất rồi nghĩ mông lung. Nếu không phải ngoài kia chiến chinh loạn lạc, khung cảnh này thật khiến người ta muốn quên hết sự đời giống như lời lão hát.

Trời về chiều, binh lính thay nhau nhảy xuống suối tắm rồi chia lương khô ăn cho qua bữa. Nhìn mấy người đàn ông mình trần tóc ướt đi đi lại lại nói cười vui vẻ, tôi ngán ngẩm thở dài. Tuy chẳng câu nệ mấy việc này nhưng thân thể tôi không như họ, không thể cứ vậy mà ùm xuống nước. Ở đây ít ngày, không chừng Quang Khải có thể mang bài vè năm xưa trêu ngược lại tôi. Cũng may, trời rất lạnh nên đi cả ngày cũng chưa đổ mồ hôi.

- Đói chưa? – Lão già từ xa đi đến, hỏi.

Lão cũng vừa tắm xong, tóc vẫn còn sũng nước, áo chỉ khoác hờ để lộ văn thân trên vai và ngực. Nam nhân họ Trần ai cũng xăm mình, nghe nói vì năm xưa tổ tiên sống bằng nghề chài lưới nên họ hay xăm hình thủy quái lên người để dọa cá dữ, lâu dần thành tục lệ. Tôi cũng vài lần trông thấy hình xăm trên người lão, nhưng vì ngày thường lão mặc y phục rất kín đáo, rất thư sinh, rất có dáng vẻ thanh cao thoát tục nên mỗi lần thấy mấy hình vẽ ngoằn ngoèo đáng sợ tôi lại buồn cười. Lần này cũng không ngoại lệ. Lão nhìn nhìn tôi một lúc rồi đưa gói lương khô, ngồi xuống bên cạnh:

- Quân doanh đông người, nổi lửa nấu ăn sẽ tạo khói làm lộ tung tích. Về nhà ta bảo bác Dương nấu món ngon cho mà ăn!

Tôi cầm lấy, bốc một miếng cho vào mồm, ký ức lại chợt nhớ về hôm người phương Bắc đưa túi lương khô đến Dưỡng Chân Trang. Lắc lắc đầu để không chìm vào những suy nghĩ chán chường, tôi quay sang nhìn lão, chợt thấy dải băng trắng quấn trên cổ tay mà từ trưa đến giờ tôi vô tâm chẳng nhận ra. Lòng lại như bị ai đó cứa vào, tôi cứ lật tới lật lui săm soi mãi.

- Có cần tháo ra để xem nên dùng thuốc gì thì tác dụng nhanh mà tiết kiệm nhất không? – Lão cười cười có ý châm chọc.

Nhưng tôi không buồn đáp, nhắc đến y thuật tôi lại giận mình không giúp được bác Thôi mà chỉ làm bác ấy khổ sở thêm, ủ rũ lắc đầu.

- Chắc tình cảnh khi ấy nguy khốn lắm! – Tôi đau lòng nhìn vết máu nhờ nhờ bên dưới lớp băng vừa mới.

- Ở trận Phù Lỗ, ta muốn giúp Phú Lương hầu một tay nhưng không kịp… - Giọng lão nhẹ như gió.

Tôi nghe Dã Tượng kể Phú Lương hầu đã hy sinh ở Phù Lỗ. Quân triều đình rút về Thăng Long, ngài đã chặt cầu rồi ở lại bên này sông Cà Lồ chặn giặc, sau cùng tuẫn tiết để giặc khỏi bắt làm con tin. Tiền tuyến hay hậu phương, đâu cũng có người ngã xuống, đâu cũng có cảnh tang thương. Lão già của tôi tài giỏi như thế nhưng cũng là người, cũng có máu có thịt, mạng sống cũng có hạn kỳ… Tôi nén tiếng thở dài, chân thành nói với lão:

- Thời gian qua em đã hiểu ra được nhiều thứ lắm, tiên sinh không cần lo em chịu khổ không quen!

Lão cười hiền, đoạn tự kéo áo vò tóc cho ráo nước rồi đưa bình rượu lên miệng hớp một ngụm lớn cho ấm người. Tôi nhẩn nha ăn hết phần lương khô lão đưa, nhìn màn đêm dần phủ lên tán hoa trắng như mây trời. Tôi có nhiều điều chưa nói với lão, nhiều ấm ức chưa được giãi bày, nhưng giờ chẳng phải lúc thích hợp, nơi này càng không phải nơi thích hợp. Đã không giúp được gì thì cũng đừng làm tảng đá vướng chân! Lão còn phải nghĩ cách đối phó giặc, tâm trí nào để chăm lo những muộn phiền nhỏ nhặt của tôi?

- Vại rượu chôn ở dưới này sao? – Lão lười nhác gõ gõ mũi kiếm xuống chỗ đất tôi đánh dấu ban nãy.

- Vâng ạ. – Tôi đáp. – Vài hôm nữa quân ta thắng trận hẳn cũng vừa kịp uống.

- Đúng là những lúc thế này không thể thiếu em. – Giọng lão bỗng nghiêm túc. – Hôm qua ta nhờ Trần Cụ…

- Hắn không biết ủ rượu ư? – Tôi ngạc nhiên hỏi, nhớ lại bình rượu nếp cái hoa vàng mà hắn mang ra thết đãiở hồ Cấm Sơn hôm nọ, vẫn có thể tưởng ra được mùi thơm ấy.

- Hai cân mơ ta sai người hái về, nó lựa được mười quả. Quả thì chê vàng không đều, quả thì bảo hai bên lá không đối xứng.

Tôi bật cười, nhìn lên cao, cơn gió mạnh lướt qua thổi hoa mơ bay như tuyết trắng.




[1]Câu trong bài Lương châu từ của Vương Hàn:

“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”

(Nghĩa là:

“Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, anh chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu.”)

[2] Người lãnh đạo bách chiến bách thắng cũng không hẳn đã phải là người lãnh đạo giỏi thiện chiến. Không đánh mà có thể khuất phục được quân địch mới là người giỏi thiện chiến, mới là người lãnh đạo có cảnh giới cao nhất.

[3] Trích bài Tương tiến tửu của Lý Bạch, dịch nghĩa:

“Này ông bạn họ Sầm
Này ông bạn Đan Khâu
Xin mời uống rượu
Chớ có ngừng chén
Tôi xin ca một khúc cho các anh
Xin các anh vì tôi lắng tai nghe
Chuông trống cỗ bàn không đáng quý trọng
Chỉ xin được say hoài không muốn tỉnh
Xưa nay các bậc thánh hiền đều không còn tiếng tăm
Chỉ có kẻ uống rượu mới để lại tên tuổi…”
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 25: TÂM VIÊN Ý MÃ[1]

- Cô Nhã Phong, sư phụ đâu? – Trần Cụ đến ngồi trước mặt tôi.

- Lúc nãy Địa Lô đến mời đi rồi. – Tôi trỏ phía vách đá đằng xa, mắt vẫn dán vào bàn cờ lão đang chơi dở từ trưa, tìm cách phá.

Nguyễn Địa Lô chỉ mới mười hai tuổi, là người trẻ nhất trong quân Thánh Dực. Nghe nói lúc triều đình có lệnh triệu tập, cậu ta đến đập cửa An phủ sứ ở Hồng lộ xin đầu quân, Trần Cụ chân thành bảo cậu ngoan ngoãn về nhà ở cho yên, cha mẹ đi đâu thì phải bám sát kẻo lạc. Không ngờ cậu ta nổi cơn tự ái, nửa đêm trèo tường bắn liên tiếp năm mũi tên xuyên qua ô cao nhất cửa thư phòng của lão già, cắm thành một đường thẳng tắp, trong đó có một mũi tên mang theo một bức thư trần tình, tha thiết xin được sung quân. Trần Cụ điên tiết vì thái độ láo xược, đòi đem cậu ta ra đánh, nhưng lão già chỉ phạt cậu ta ở lại phủ khắc mộc bản kinh Pháp hoa. Địa Lô thức trắng mấy đêm liền, không thiết ăn uống, chỉ trong nửa tháng đã hoàn thành, mang đến quỳ trước cửa thư phòng suốt mấy canh giờ xin lão già thu nhận.

- Ta nghe bảo Địa Lô bắn cung còn chính xác hơn ngươi, chắc ngươi không thích lắm? – Tôi hỏi tên Thích Đối Xứng.

- Cụ dùng nỏ, hắn dùng cung, so sánh rất khập khiễng. Hơn nữa, sư phụ dạy người tu thiền không được động tâm phân biệt hơn thua.

- Rất tốt! – Tôi gật gù khen. – Thật ra ngươi không làm xạ thủ thì cũng là một tay rèn vũ khí rất cừ. Thanh kiếm của ngươi tặng đúng là bảo vật, ta rất thích đấy!

- Thật không? – Trần Cụ thật thà cười. – Để sau này Cụ làm thêm cho cô vài món nữa!

Trần Cụ cười như trẻ con làm tôi cũng thấy vui lây. Lướt mắt xuống bàn cờ, tôi nảy ra cách giải, liền đánh xuống một quân.

- Đáng nể thật. – Tên sư đệ của tôi trầm trồ.

- Ngươi chăm chỉ học đánh cờ với tiên sinh vài năm nữa cũng sẽ được như vậy! – Tôi nhớ lại lúc mới đến, lão già ngồi chơi một mình dù hắn ngồi ngay cạnh.

- Cụ có học, cụ còn tự mình nghiên cứu rất nhiều kỳ phổ, nhưng học thế nào cũng mới đi được mấy nước đã bại, cứ khiến thầy cụt hứng… - Hắn gãi gãi đầu.

Tôi ngẩng lên nhìn hắn, ngẫm nghĩ một lúc rồi bật cười:

- Ai bảo ngươi nguyên tắc quá, xuất chiêu cứ phải theo thứ tự lớp lang, bị lão đoán được là phải rồi! Đánh cờ cũng như đánh trận, như làm người, phải tùy cơ ứng biến, linh hoạt thay đổi không ngừng! Hiểu không? – Tôi bắt chước dáng điệu của lão già lúc gõ gõ cây quạt lên trán tôi dạy dỗ.

- Hiểu! – Trần Cụ quả quyết. – Nhưng bảo bỏ đi thứ tự, nguyên tắc thì Cụ không làm được. – Vẫn rất quả quyết.

Cái tên này đúng là đầu đất! Thế này thì ngày hắn được dẫn binh vẫn còn xa lắm. Tôi thở dài, đoạn nhớ ra một việc, lòng chùng xuống, hồi lâu tôi mới ngập ngừng:

- Ta có chuyện này phải nói với ngươi. Cụ Đảm mất rồi.

Cụ Đảm là người đã dạy Trần Cụ làm binh khí, cũng xem như là thầy của hắn, tôi nghĩ hắn đau lòng chẳng kém gì tôi. Thế nhưng, phản ứng của hắn lại chẳng có gì kinh ngạc hay xúc động:

- À, Cụ cũng biết… cũng biết thời thế này, sinh tử rất vô thường. Thật đáng tiếc!

- Ngươi biết chuyện này rồi? – Tôi lập tức hỏi lại. – Cả tiên sinh ta cũng chưa có dịp kể, làm sao ngươi biết?

- Không… Cô nói Cụ mới biết thôi. Cụ quên mất còn một việc sư phụ đã giao! - Hắn đứng dậy, toan chuồn đi, tôi lập tức níu lấy vạt áo giữ lại hỏi cho ra lẽ.

Ông Đảm gặp nạn khi Thăng Long chẳng còn ai, nếu quân báo có nhắc đến việc này, sao lão già chưa từng nói gì với tôi? Cho là lão quá bận bịu nên quên, chuyện này cũng chẳng có gì đáng giấu, sao Trần Cụ lại lúng ta lúng túng như gà mắc tóc?

- Các người có gì giấu ta? – Tôi nhìn hắn đầy đe dọa. – Từ lúc ta đến đây, tiên sinh cứ tìm việc cho ta làm để không nghe lão bàn việc quân, hết ủ rượu đến phá cờ thế! Những dịp thế này, lão càng muốn ta theo lão học hỏi mới đúng!

- Cụ không biết! Không biết gì hết! – Tên sư đệ cao hơn tôi nửa cái đầu lắp bắp.

- Phong, qua đây! – Lão già gọi từ xa.

Trần Cụ như bắt được vàng, lập tức chạy bay biến.

- Sư phụ gọi kìa, cô đi nhanh đi, Cụ cũng phải đi làm mấy việc kẻo thầy trách phạt!

Quả nhiên họ có việc không muốn cho tôi biết!

Hít sâu mấy hơi để dẹp nỗi hậm hực trong lòng, tôi tự nhắc mình phải ngoan ngoãn để lão già không phải bận tâm, có việc gì thì để sau trận chiến ép lão nói cũng không muộn. Tuy vậy, tôi vẫn không ngừng lo lắng, liệu có gì đó nguy hiểm mà lão không muốn tôi vướng vào hay không?

- Đói bụng sao mà đi chậm vậy? – Lão hỏi tôi.

- Chẳng hay tiểu nhân giúp được gì cho tướng quân? – Tôi ôm quyền trịnh trọng thưa, cố lấy lại dáng vẻ hoạt bát thường ngày. – Xong việc rồi sẽ được thưởng mấy bát cơm trắng, mấy lượng vàng, mấy đêm với mỹ nhân?

Nguyễn Địa Lô đứng cạnh cố nhịn cười. Lão búng vào trán tôi đau điếng, đoạn đưa ra bốn thẻ tre:

- Giải đi, giải không xong thì từ giờ về sau chỉ được ăn lương khô uống nước lã thôi.

- Cái này là…? – Tôi ôm trán nhăn nhó hỏi.

- Thưa, là mật thư của quân Thát cho người đưa ra khỏi thành, đi về hướng bắc, có lẽ là gửi cho khả hãn của bọn chúng xin chi viện. – Cậu bé cung thủ kính cẩn trình.

- Mật thư? Làm sao mà cậu lấy được? – Tôi ngạc nhiên.

- Nhân lúc chúng vẫn chưa tản ra, tôi bắn chúng chết rồi lấy thôi ạ. – Cậu hồn nhiên đáp. – Tôi có mang cả xác chúng về nữa, cô xem.

Tôi nhìn theo hướng tay của cậu, thấy bốn tên giặc đang nằm chồng lên nhau, chết không nhắm mắt. Nét mặt của bọn chúng giống người Hán, có lẽ xuất thân từ quân của Đoàn Hưng Trí. Nhìn dáng vẻ nhỏ thó của cậu ta, ngẫm lại mình hôm trước ì ạch mãi mới phi tang được xác tên giặc nọ, tôi không khỏi thán phục.

Bốn thẻ tre lấy được chỉ ghi những từ rời rạc, tôi xếp xuôi xếp ngược thế nào cũng không thành câu. Cách đây rất nhiều năm, có một nhóm tăng ni người Nguyên đến Dưỡng Chân Trang, lão già đã nhờ họ dạy cho ít chữ nên bọn tôi cũng có thể đọc được một số văn tự cơ bản, nhưng chữ trong bức thư này thì tôi chẳng rõ chúng còn nghĩa gì khác hay không. Tôi chán nản tựa lưng vào gốc cây, lơ đãng nhìn trời. Một đóa hoa bay là đà rồi đậu ngay lên mũi, tôi chun miệng thổi thổi. Trăng dần lên cao, vừa mới qua rằm nên hãy còn tròn và sáng lắm. Tôi chợt nhớ đến những ngày ngồi tựa gác chuông ngắm trăng ở làng Vạn Niên, bèn dáo dác đưa mắt tìm lão già, vừa hay lão đang đến.

- Sao rồi? Nghĩ ra chưa?

Tôi dẫu môi, lắc lắc đầu. Lão đặt nghiên mực xuống bàn đá, thong thả mài, lại lấy ra bốn thẻ tre, ghi mỗi thẻ mấy chữ rồi úp xuống mặt bàn. Rõ ràng lão đã hiểu bức thư này từ sớm nhưng cứ thích thử thách tôi, thế thì tôi cứ từ từ mà giải vậy. Tôi co người, chống cằm lên gối:

- Đợi sau khi ngủ một giấc tỉnh táo, em nhất định sẽ hiểu được!

Lão định nói gì đó thì anh Voi Lớn đã sải bước đến, bẩm:

- Vương gia, người đến rồi.

Tôi nhìn bốn người đi phía sau anh, hai cao, hai thấp, mặc y phục của bọn lính Thát vừa như in, bỗng dưng nghĩ ra một ý. Di ngón tay kéo hai thẻ tre ở giữa xuống thấp hơn một dòng, lại xoay ngang cả ba thẻ, bỏ đi những chữ thừa so với thẻ thấp hơn kia, nội dung bức thư hiện ra rõ ràng trước mắt: “Nước Nam dùng kế thanh dã, xin chi viện quân lương, tìm đường vòng sang Lão Qua tạo thế gọng kìm”. Tôi thở hắt ra một tiếng, bọn chúng đã chia nhỏ bức thư để tránh bị người bắt được, lại còn dùng ám hiệu tương ứng chiều cao của kẻ đưa thư, quả là thận trọng! Chẳng trách ai nấy đều ca ngợi người Thát là bậc thầy truyền tin tức. Nhưng mưu kế càng kín kẽ càng có thể lừa người thì càng dễ bị gậy ông đập lưng ông. Lão già của tôi hẳn đã viết một bức thư giả với cách thức tương tự, nội dung ắt là báo tin vui, bảo kha hãn của chúng cứ yên tâm đợi ngày thắng trận.

Phấn khởi vì đã giải được nỗi thắc mắc lớn, tôi hồ hởi chạy đến chỗ lão già đang hỏi chuyện mấy anh lính:

- Các anh vào quân Dũng Nghĩa bao lâu rồi?

Tôi suýt há hốc mồm. Quân Thánh Dực Dũng Nghĩa là tập hợp những người bần cùng, cô nhi, đạo tặc, không ai quan tâm đến, được đào tạo để sẵn sàng hy sinh báo quốc bất cứ lúc nào. Phải rồi! Lão già muốn họ giả làm quân đưa thư, đi sang đất địch, bị phát hiện chắc chắn bỏ mạng, nếu may mắn qua được cũng khó có ngày về. Chân tôi bất giác run run, tôi cố giữ nụ cười, nhìn thật kỹ từng gương mặt mới gặp lần đầu mà đã có thể là lần cuối.

- Bẩm vương, được bốn năm rồi! – Người lớn tuổi nhất thưa, vẻ mặt tràn ngập tự hào.

- Thưa, khi trong quân họ đã được dạy một ít tiếng Hán, chỉ cần không bị tra hỏi gắt gao thì có thể qua mặt được. – Dã Tượng trình.

- Tên anh là gì? – Lão chân thành hỏi anh lính nọ.

- Thưa, toàn quân Dũng Nghĩa chỉ có một cái tên, là dân-Đại-Việt.

Lão già nhìn anh ta hồi lâu, đoạn gật gật đầu, nắm tay đấm nhẹ vào ngực anh ta đầy tin cậy:

- Hành sự cẩn trọng. Ngày về, đến Yên Bang tìm ta. – Lão mỉm cười thật hiền với cả bốn người.

Những người đàn ông đã dày dạn gió sương bỗng rưng rưng xúc động. Họ cúi đầu đưa tay nhận mỗi người một thẻ tre rồi nhất loạt cúi chào, đoạn dứt khoát quay đi. Tôi ngơ ngác nhìn rồi vội vàng đưa tay lên miệng làm loa:

- Các anh đi sớm về sớm, tôi sẽ ủ thêm rượu mơ đợi mọi người!

Bước chân của họ sững lại một khắc rồi tiếp tục tiến lên, không hề quay đầu lại.

Tôi trông theo bóng lưng thẳng tắp của bốn vị anh hùng cảm tử, nhìn những tấm áo choàng bay phần phật đầy kiêu hãnh tiến vào rừng mơ trắng xóa, họ cứ ung dung như đang trên đường đến cõi niết bàn. Mãi đến khi núi rừng đã che khuất họ, tôi nghe tiếng sụt sịt phía sau. Địa Lô đứng đấy từ bao giờ, miệng đang cắn chặt cổ tay để ngăn tiếng nấc:

- Tại tôi phải không? Vì tôi đã giết mấy tên Thát đó nên giờ họ phải ra đi? – Cậu bé lì lợm ngày nào bỗng như đứa trẻ. – Tôi chỉ muốn làm gì đó để báo ơn vương gia, không ngờ… không ngờ…

Tôi đặt tay lên vai cậu ta, nghĩ mãi cũng không biết nên an ủi thế nào. Cơn bão trong lòng vừa lặng một chút lại nổi lên, vai tôi cũng run run, tôi cúi thấp đầu để tóc che đi đôi mắt đã đỏ hoe. Tôi cũng không rõ đâu là đúng là sai nữa, chỉ biết Địa Lô chặn đường cướp thư là việc phải làm, lão già gửi một bức thư khác thay vào để phía kha hãn khỏi sinh nghi mà đưa thêm quân đến cũng là việc phải làm. Thời cuộc này, còn bao nhiêu việc “phải làm” dẫu ta không hề mong muốn.

Lão già đặt một tay lên vai tôi, siết nhẹ. Tôi nhớ lại lúc xưa, có lần Hưng Đạo vương hỏi lão:

- Phật dạy sinh tử là lẽ tự nhiên, thân này không thật. Vậy mỗi khi dẫn binh chinh phạt, một lệnh công thành là đầu rơi máu chảy, anh thấy thế nào?

Lão nhàn nhã đáp:

- Kẻ xem trọng sinh tử há đáng bước vào cửa Không? Kẻ coi khinh sống chết của sĩ tốt và nhân dân há xứng cầm quân lệnh?

- Thế thì phải làm sao cho vẹn đôi đường?

- Đóng vai nào thì diễn tròn vai ấy, đôi đường chẳng vẹn.

Giờ khắc này, tôi hiểu, lão ra quyết định đó cũng chẳng dễ dàng gì.


***


Đêm đông lạnh, không khí trên núi lạnh, cả trại quân chỉ thưa thớt vài đống lửa nhỏ nên càng se sắt lạnh. Tôi ngồi tựa cửa lán của lão già, bó gối nhìn lửa reo. Hương trầm thoang thoảng trong nơi ở của lão khiến tâm tư tôi dần lắng lại. Bấy lâu tôi không hề nhận ra mình đã nhớ mùi hương quen thuộc này đến thế, lúc nào cũng chỉ ngửi thấy mùi máu lạnh tanh. Không có việc gì làm, tôi bèn giở tấm địa đồ Thăng Long ra xem lần nữa, nhớ mãi cũng không nhận ra mình có vẽ sai điểm nào không.

- Sao em chưa ngủ đi, mệt cả ngày rồi? – Lão về đến từ lúc nào, đưa tay lấy tấm địa đồ của tôi giấu vào ngực áo rồi ngồi xuống cạnh bên.

Ở các lán xung quanh, binh sĩ đều ngủ cả, chỉ để lại một vài người canh gác, không gian yên lặng như tờ. Lúc chiều, Trần Cụ hỏi có thể dựng lán của tôi cạnh của lão hay không, lão vẫn đang dán mắt vào quyển binh thư, bâng quơ đáp:

- Chỗ của ta rất rộng, cứ bảo nó vào đó đi.

- Nhưng cô Nhã Phong là nữ, như vậy có vẻ không tiện lắm! – Trần Cụ cả kinh.

- Ta chưa từng nghĩ thế.

“Chưa từng nghĩ thế” nghĩa là chưa từng coi tôi là nữ hay chưa từng nghĩ việc tôi ở cùng lão là không tiện, khi ấy tôi không buồn hỏi, giờ mới thấy bất bình. Còn chưa kịp trả lời câu hỏi của lão thì một âm thanh đáng xấu hổ vang lên: bụng tôi sôi réo vì đói. Lão bật cười, tôi thẹn quá đưa cả hai tay che mặt, đi vào trong lán:

- Giờ em ngủ! Người cũng đừng thức khuya quá đó!

- Người thì bẩn, bụng thì đói, ngủ được không? – Lão vẫn giữ nụ cười trêu chọc.

Nhanh như cắt, lão với tay lấy cái áo khoác lông cừu treo trên cột rồi kéo tôi ra chỗ con ngựa của lão. Lão nhảy lên lưng nó, chìa tay xuống cho tôi:

- Ta vốn nghĩ sau này mới đưa em đến, không ngờ em nhanh chân như vậy. Đi thôi!

Thoắt một cái, tôi đã ngồi trước mặt lão. Lão thúc ngựa chạy như bay, xuống đường mòn, tiến thẳng vào rừng. Mặt trăng rải ánh sáng xuống tàn mơ trắng, tôi như lạc vào trong mộng, tiếng vó ngựa gần đây ám ảnh trong mơ bỗng dưng trở nên thật hiền lành.

Băng qua mấy lượt ghềnh thác, bọn tôi dừng lại trước một ôn tuyền. Suối này khá nhỏ lại nằm khuất sau một mỏm đá to, ba phía còn lại là rừng cây bao bọc. Nước lăn tăn gợn trên nền sỏi phản chiếu ánh trăng, lấp lánh như dát bạc. Lão đỡ tôi xuống ngựa, ôn tồn bảo:

- Trời rất lạnh, đừng ngâm lâu quá đấy. Ta đợi ngoài kia. – Lão trỏ về phía sau mỏm đá.

Tôi vẫn đang ngẩn ngơ, chỉ biết gật gật đầu. Lão đặt tấm áo lông cừu và một chiếc khăn to lên mỏm đá, lại dặn dò:

- Tắm xong thì khoác cái này, ta xem vết thương của em đã.

- Sao tiên sinh biết em bị thương? – Tôi kinh ngạc.

- Sao ta lại không biết? – Lão nhướn mày hỏi lại.

Tôi nhớ ra lúc vừa gặp mặt lão đã nắm lấy cổ tay tôi, hóa ra không đơn giản là dắt tay trẻ con, lão đã bắt mạch ngay khi ấy.

Lão già dắt ngựa rời khỏi rồi, tôi trút y phục, từ từ bước chân xuống nước. Nước ấm dâng đến đâu tôi tỉnh đến đấy, cả người duỗi ra khoan khoái. Dưới thứ ánh sáng huyền ảo này, làn da thô ráp vì nắng gió của tôi cũng trở nên trắng trẻo mềm mại như nhung lụa. Trong một thoáng, tôi không còn nhớ gì đến những chuyện buồn, chỉ thấy cơ thể và đầu óc đều nhẹ nhõm, khoan khoái ngâm nga:

“Bạc vụ nùng vân sầu vĩnh trú,

Thuỵ não tiêu kim thú.

Giai tiết hựu trùng dương,

Ngọc chẩm sa trù,

Bán dạ lương sơ thấu.


Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu,

Hữu ám hương doanh tụ.

Mạc đạo bất tiêu hồn,

Liêm quyển tây phong,

Nhân tỷ hoàng hoa sấu.”[2]

Vừa hết bài thơ, làn gió lạnh đưa lại một mùi thơm cực kỳ quyến rũ. Tôi vội vã lên bờ, lấy khăn quấn tóc, cuộn người trong tấm áo lông cừu rồi chạy ra chỗ lão già. Lão đang ung dung nướng mấy con cá, tôi đứng ngẩn ra nhìn, lát sau mới khe khẽ reo lên:

- Thơm quá!

Lão vỗ nhẹ lên bàn tay hấp tấp của tôi, kéo tôi ngồi xuống bên cạnh:

- Bỏng bây giờ! Chỉ háu ăn là giỏi.

Mắt tôi vẫn chăm chú nhìn lớp da cá vàng ruộm và làn khói nghi ngút, mồm nịnh nọt không ngừng:

- Tiên sinh nếu sinh trong nhà thường dân cũng có thể dựa vào tài nấu ăn mà trở thành đại phú đấy! Thơm chết mất!

Lão cười khẩy không giấu vẻ khinh bỉ, thong thả thổi cá cho nguội rồi bốc một miếng đưa đến trước mồm tôi. Tôi không ngần ngại ngoạm lấy, vị ngọt và hương thơm của cá nướng tràn đầy trong miệng. Tôi cười tít mắt, cảm thấy bao nhiêu sơn hào hải vị trên đời cũng không bì được với món này. Trong chớp mắt, ba con cá đã vào bụng, tôi chợt nhớ ra:

- Tiên sinh… không ăn sao?

Lão nhìn mấy bộ xương cá nằm chỏng chơ trên nền đất, thờ ơ đáp:

- Không. Ta không đói!

Nỗi áy náy hình thức của tôi kéo dài chẳng bao lâu vì trước nay vẫn thế. Tôi có tật xấu là khi đói hoặc thèm món gì ngon mà không được ăn thì không cách nào ngủ được. Lúc còn ở Dưỡng Chân Trang, mỗi lần như thế tôi lại gõ cửa phòng lão để mè nheo. Bao giờ lão cũng chê trách mấy câu, bao giờ cũng vào bếp làm một món rất đơn giản nhưng thật ngon, bao giờ cũng nhường tôi ăn hết. Song hôm nay giữa lúc việc quân bận rộn mà lão vẫn còn quan tâm những điều nhỏ nhặt này, tôi cảm động vô cùng! Người này là vương gia cao quý của Đại Việt, là tướng quân oai dũng của doanh Thánh Dực, là thiền sư đức cao vọng trọng của Dưỡng Chân Trang, đồng thời cũng là lão già xiết bao dịu dàng và thân thiết của riêng tôi. Khoảng cách trong lòng biến mất như chưa từng tồn tại, tôi nhìn lão đầy trìu mến.

- Sao vậy? Mặt ta lấm bụi than sao? – Lão hỏi.

Tôi lắc lắc đầu, đoạn nhớ ra điều thắc mắc bấy lâu:

- Em không ngoan ngoãn ở Yên Bang mà chạy đến quân doanh thế này, có phải tiên sinh thấy giận, thấy phiền không? - Tôi bỗng trở nên dè dặt, nhìn xuống chân mình.

- Mặt nào đó, thì phải. - Giọng lão lạnh lùng. - Đúng là trẻ con!

- Vậy, còn mặt khác thì sao?

- Thì... cũng vui.

Tim tôi đập rõ to, tôi ngước lên nhìn lão chỉ thấy lọn tóc dài đã che nửa mặt. Có cơn gió khẽ lướt qua giữa bọn tôi. Lão nói tiếp:

- Đâu có đứa trẻ nào gan lì như vậy.

Tôi phì cười, tựa đầu vào cánh tay lão, sung sướng tận hưởng cảm giác yên bình hiếm có này. Lát sau, lão đưa tay kéo chiếc khăn tôi đang quấn tóc, điềm nhiên dùng nó lau sạch bàn tay vừa gỡ cá. Đoạn, lão đến chỗ con ngựa lấy túi thuốc rồi quay lại bảo tôi:

- Bị thương thế nào, để ta xem.

- Vâng ạ.

Tôi ngoan ngoãn vén tóc sang một bên, tụt áo choàng xuống để lộ ra vết chém trên vai và lưng, tôi đoán giờ chúng đã đóng vảy. Gió lạnh khiến tôi hơi run rẩy. Mãi không thấy động tĩnh gì, tôi quay lại nhìn, gương mặt lão không có vẻ gì vui, đáy mắt còn thoáng nét đau lòng. Tôi chân thành nói:

- Giờ em vẫn sống, vẫn được ăn cá mà tiên sinh nướng, em thấy đủ lắm rồi. – Xoa xoa chỗ tránhơi nhíu lại giữa hai chân mày lão, tôi nói tiếp. – Tiên sinh đừng giận, đừng giận nữa!

Tôi biết những áp lực mà lão phải chịu lớn hơn tôi rất nhiều, những tâm sự trong lòng lại không có ai chia sẻ nên chỉ biết dùng cách này để xoa dịu phần nào.

Lão thở nhẹ, đưa tay mở hộp thuốc, rất chậm rãi xoa lên từng vết thương trên người tôi. Thuốc làm chúng rát buốt nhưng tôi cố giữ vẻ bình thản, sợ lão buồn thêm. Thoa thuốc xong rồi, lão thận trọng kéo áo lên tận cằm tôi, đoạn lại gỡ mớ tóc ướt tôi vừa gội, hong trước ánh lửa, tỉ mỉ như nâng niu thứ tơ tằm thượng hạng. Tôi cứ nhìn mãi bàn tay thon dài của lão, lớp thành trì kiên cố tôi dựng trong lòng bấy lâu nay theo mỗi động tác dịu dàng ấy mà vỡ vụn từng chút một. Khóe mắt tôi nóng dần lên rồi nước mắt cứ thế tuôn ra, tôi khóc nấc từng tiếng rồi cuối cùng gục lên gối lão òa lên nức nở, tôi khóc như gió như mưa, như trẻ con vừa lạc mẹ. Lão vỗ vỗ lưng tôi một lúc lại nắm chặt bờ vai đang run lên nức nở của tôi, hỏi khẽ:

- Sợ lắm phải không?

Ký ức mới mấy ngày trước ùa về, tiếng la hét, tiếng chém giết rền rĩ bên tai, màu đỏ tràn đầy trong mắt, mùi máu tươi ngập trong mũi, trong lồng ngực. Tôi gật đầu liên tục, vai tôi bị siết chặt hơn một chút. Một khắc sau, tôi dần nhận ra lúc này tôi không thấy lạnh, không thấy đau, không thấy hoang mang chẳng biết đây có phải là đêm trăng cuối cùng mình được nhìn thấy hay không. Mùi thuốc trên tay lão và hương trầm trên người lão già như có như không chầm chậm kéo tôi về thực tại, tôi lại lắc lắc đầu. Với tay nắm lấy tay lão đang đặt trên vai mình, lần mò mấy vết chai vì cầm kiếm và mấy vết cắt ghi dấu chuyện ngày xưa lão đẽo ngọc làm sáo cho tôi, tôi mỉm cười mặc kệ mắt vẫn ngân ngấn nước:

- Giờ em không sợ chi nữa!

Tôi nghe tiếng lão thở ra khe khẽ, bàn tay ấy vẫn kiên nhẫn vỗ về trên tóc. Tôi cứ nằm như thế trên gối lão, kể hết chuyện này sang chuyện khác: chuyện Nguyễn Nam, chuyện ông Đảm, chuyện bác Thôi, chuyện tôi trốn quân Thát ra sao, lại hoảng hốt khi thấy Thăng Long hoang vắng thế nào. Khóc mệt, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào chẳng rõ, xung quanh chỉ còn tiếng lửa reo và tiếng vượn trầm từ hang sâu vẳng lại.[3] Trong cơn mơ chập chờn, tôi vẫn cảm nhận được hơi ấm của lão, vẫn nghe giọng lão lẫn trong tiếng vó ngựa, tiếng gió reo, êm dịu như lời ru của mẹ năm xưa:

- Ngủ đi. Ta ở đây rồi!




[1] Trần Thái Tông viết trong Khóa hư lục: “Nếu khi ngồi thiền chẳng tắt mọi niệm thời tâm vượn nổi dậy, ý ngựa lông bông”.

Trong bài Trữ từ tự cảnh văn (Bài văn trữ tình tự răn mình), Tuệ Trung thượng sĩ viết:

“Miết nhĩ tuỳ tâm viên ý mã,

Nan miễn luỵ lợi toả danh cương.”

Nghĩa là:

“Lắm lét theo lòng hươu ý vượn,

Tránh khỏi sao lợi buộc danh ràng?”

[2] Bài thơ Túy hoa âm của Lý Thanh Chiếu thời nhà Tống. Dịch nghĩa:

“Khói nhạt mây dày, ngày dài tẻ ngắt,

Hương trầm đã nguội, lò vàng đã tắt.

Tiết trời tươi đẹp đúng dịp trùng dương,

Gối ngọc màn the,

Nửa đêm hơi lạnh len vào.


Bên bờ giậu phía đông, nâng ly sau buổi hoàng hôn,

Hương thầm đầy tay áo.

Chớ nói cảnh chẳng tiêu hồn,

Rèm cuốn gió tây,

Người so với hoa vàng còn mảnh mai hơn.”


[3] Trong bài Phỏng Tăng Điền đại sư, Tuệ Trung Thượng sĩ viết:

“Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu

Thuỳ thính cô viên đề xứ thâm.”

Dịch nghĩa:

“Người đời chỉ nhìn thấy nghìn núi vào buổi sáng

Ai nghe tiếng vượn cô đơn kêu nơi rừng sâu thẳm.”

Hoặc sau này trong bài Tụng Thánh Tông đạo học, ngài viết:

“Nhân gian chỉ kiến thiên sơn tú,

Thuỳ thính viên đề thâm xứ thâm.”

Dịch nghĩa:

“Người đời chỉ thấy núi non xanh tốt,

Nào ai nghe thấy tiếng vượn kêu sâu thẳm trong nơi sâu thẳm.”

Nghe tiếng vượn kêu nghĩa là nghe âm thanh từ nguồn gốc, cảm được cái bản chất của rừng núi, tức là nhìn thấy tự tánh.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 26: TRĂNG RỤNG LÒNG SÔNG, ĐÊM MẤY CANH?[1]

Trời đã sáng từ lâu, ánh nắng chiếu xiên khoai qua mành che lán khiến tôi chói mắt nhưng tôi vẫn kéo áo choàng lên kín đầu, luyến tiếc cảm giác ấm áp thêm chốc nữa. Lão già đã dậy từ sớm để duyệt quân, nằm trong này có thể nghe thấy tiếng chân người đi đi lại lại, nói cười rôm rả. Tôi đoán cả doanh trại chắc chỉ còn mỗi mình tôi còn nằm ườn biếng nhác đến bây giờ.

Nằm mãi cũng chán, tôi lăn mấy vòng rồi bước ra khỏi tấm thảm da hổ trải trên đống cỏ khô, thấy quần áo trên người đã chỉnh tề, uể oải vươn vai. Hôm nay trời có vẻ ấm hơn, chắc vì xuân sắp đến. Tôi đưa mắt nhìn quanh lán, trên cái bàn nhỏ được kê bằng mảnh gỗ và hai viên đá lớn, ngoài ngọn đèn dầu lạc đã cạn thì chỉ có một quyển binh thư và cây sáo ngọc của tôi được bọc kỹ trong một lớp vải. Tôi vui vẻ giở quyển binh thư ra đọc mấy trang rồi úp xuống bàn, đoạn giở cây sáo ra nhìn, không thấy thêm vết xước nào, bèn cầm theo nó bước ra ngoài.

Đã lâu rồi tâm trạng mới thư thái như sáng nay, tôi hăm hở đi một vòng chào hỏi mọi người trong doanh. Vừa bước đến con dốc dẫn xuống bờ suối, tôi gặp ngay một anh lính thấp người, để râu quai nón, đang vác một bó tre to, tôi liền lớn tiếng gọi:

- Chào anh! Sáng ra đã chăm chỉ quá!

Anh ta nhanh nhẹn đặt bó tre xuống, gập người đáp lại:

- Chúc vương phi buổi sáng tốt lành!

Tôi ngơ ngác trỏ mặt mình, hỏi lại:

- Vương phi?

- Thưa phải! Tôi nghe tiếng Hưng Ninh vương phi sắc nước hương trời, nhưng nghĩ thế nào cũng không tưởng được, người đã gả cho vương gia gần chục năm rồi mà dung nhan vẫn như thiếu nữ thế này. Vương quả là khéo chọn!

Nụ cười trên môi tôi cứng lại, bèn hỏi:

- Anh tên gì?

- Bẩm, ai cũng gọi tôi là Trương Phi!

- Trương Phi! - Tôi dịu dàng đáp. - Nghe anh khen tôi rất vui, nhưng anh đã lầm rồi!

- Anh ta lập tức chữa cháy:

- Phu nhân không phải vương phi, vậy chắc chắn là tiểu thiếp mà vương sủng ái đến mức đi đánh trận cũng phải mang theo! Chắc chắn không sai được!

- Hàm dưới của tôi vừa chạm đất, anh Voi Lớn đã nhanh nhẹn đến cặp cổ anh ta lôi ngược về sau, vừa đi vừa không quên phân trần:

- Gã này trước làm nông, vừa gia nhập quân Thánh Dực được mấy tháng, cái gì cũng không biết nên cô đừng chấp nhất!

Tôi nhìn hai người đàn ông to lớn lôi kéo nhau, thấy vừa thương vừa tức cười. Hai người đã xuống cuối con dốc, tôi hãy còn nghe anh lính mới kia léo nhéo:

- Không phải vương phi, không phải ái thiếp, vậy cô ấy là ai, tại sao... tại sao...?

Quay người trở về đường cũ, tôi thấy lão già đang đứng trên đỉnh dốc dặn dò Trần Cụ gì đó, có vẻ như không hề nghe thấy cuộc trò chuyện của tôi với Trương Phi. Tôi sải bước đến chỗ họ, Trần Cụ thấy tôi liền lễ phép gật đầu chào. Lão già hơi nhếch mép cười:

- Giữa lúc giặc giã, nằm trong lán dã chiến mà có thể ngủ say như chết đến giữa trưa, đúng là bản lĩnh hơn người!

- Ồ, phải đấy! – Tôi gõ gõ cây sáo trong tay. – Bản lĩnh lớn nhất của em là có thể tìm được một vị tướng rất oai phong dũng mãnh canh giấc ngủ cho em, dù trời sập cũng không cần chớp mắt!

Chưa kịp cười đắc thắng, tôi đã bị lão già ấn đầu xuống rồi xoa đến tóc rối bù như tổ chim. Trần Cụ đứng ngơ ngác nhìn chúng tôi đoạn cúi chào lão rồi quay lưng đi mất. Tôi nhìn theo bóng lưng hắn đến khi đã tít đằng xa mới chợt nhớ hôm qua mình vẫn chưa điều tra được thứ họ đang giấu giếm.

- Năm trước ta có dạy em làm pháo đá, còn nhớ không? – Lão già hỏi.

- Nhớ ạ. – Tôi gật đầu, đoạn híp mắt nhìn lão đầy thấu hiểu. – Trước khi đến đây em còn làm mấy cỗ cho quân ta ở Yên Bang. Chẳng hay tướng quân cần bao nhiêu cỗ, bắn xa bao nhiêu bộ?

- Một thôi, loại gọn nhẹ nhất có thể đặt trên thuyền chiến.

- Được ạ, em sẽ bảo binh sĩ làm ngay. – Tôi vụt chạy về phía bờ suối.

- Trước khi mặt trời lặn phải hoàn thành. – Giọng lão nghiêm túc lạ thường.

Tôi vừa đi vừa nghĩ, ở đây thêm mấy ngày nữa không biết lão sẽ còn bày ra những việc gì để giữ tôi bận rộn. Sáng nay mọi người đã chặt về rất nhiều cây to nên việc làm máy bắn pháo diễn ra rất nhanh. Mấy anh binh sĩ đều còn khá trẻ nên ai nấy cũng tinh nghịch, vừa làm vừa ca hát rất đỗi yêu đời. Người không biết nhìn vào còn tưởng đây là phường mộc ở một thái ấp nào đó thuở khói lửa chiến tranh chưa tràn đến.

- Nếu ở nhà tôi có một mỹ nhân như cô Nhã Phong, tôi nhất định sẽ giấu thật kỹ, không để ai nhìn thấy! – Anh lính đang mướt mồ hôi buộc lại mối dây vẫn dẻo miệng trêu đùa.

- Nhìn thấy thì đã làm sao? – Một anh lính khác chen vào. – Chúng ta đều là bọn phàm phu thô kệch, bác nghĩ vương gia cần lo lắng chắc?

- Tôi có một cô em vợ. – Anh lính hơi đứng tuổi nói với sang. – Năm trước nó đến Dưỡng Chân Trang thắp hương một lần, vô tình được diện kiến vương rồi thưa chuyện vài câu, từ đó về sau đám nào đến hỏi cũng bị khước từ. – Đoạn, anh cười lớn. – Sau trận này tôi sẽ nói với cô ấy, phải tỉnh mộng, tỉnh mộng thôi!

Tôi ngồi trên gốc cây, chống cằm theo dõi câu chuyện của họ mà bật cười rũ rượi. Anh lính có cô em vợ nọ nói tiếp:

- Người xứng đáng để đứng cạnh vương phải như cô đây, chẳng những đẹp người lại còn thông tuệ. Đến máy bắn pháo đá rắc rối thế này mà chúng ta làm theo cách của cô ấy chỉ một loáng là xong. Các anh thấy có đúng phỏng?

- Đúng thế! Đúng thế! – Mọi người tán đồng. – Quả là rồng phụng trong thiên hạ!

- Các bác quá lời rồi! – Tôi xua xua tay. – Tôi may mắn được vương gia của mọi người dạy bảo, gần đây còn được học hỏi từ một cao nhân… - Nhắc đến ông Đảm, lòng tôi lại không khỏi buồn phiền. – Tuy ông ấy tàn tật nhưng tài làm vũ khí thì không ai bì được!

- Tàn tật? Làm vũ khí rất tài? Cô đang nói đến cụ Lý Đảm phải không? – Người tên Trương Phi tôi gặp lúc sáng cũng vừa đi đến.

- Phải. – Tôi sững người, nhảy khỏi gốc cây. – Mọi người cũng biết ông ấy sao?

- Thưa. – Trương Phi thật thà đáp. – Mấy hôm trước bọn Thát vào thành thấy xác của bọn sứ giả trong ngục của ta, tức giận đập phá lung tung, còn treo cả xác một người trên bến sông để thị uy. Bọn tôi đi nghe ngóng nên thấy được, vội về bẩm lại. Cái xác cụt chân nhưng gương mặt rất có uy, mắt vẫn mở trừng trừng, cậu Trần Cụ nói bọn tôi mới biết tên ông ấy.

Tôi nghe như đất sụp dưới chân mình, cố giữ giọng nói khỏi run, tôi hỏi lại:

- Việc ấy xảy ra bao lâu rồi? Giờ xác ông ấy ở đâu?

- Thưa… - Trương Phi lắp bắp trước thái độ của tôi. – Cũng ba, bốn hôm rồi. Bọn tôi thấy anh hùng phải phơi thây như thế thì đau xót lắm, nhưng vương đã lệnh không được manh động mà hỏng việc, nên không ai dám cãi. Cái xác… chắc vẫn còn ở đó.

- Trương Phi! – Dã Tượng từ xa quát lại. – Ta đã bảo anh không được nói lung tung, sao mãi vẫn chứng nào tật nấy?

Anh lính nghĩ gì nói đó kia lầm bầm đáp những gì tôi nghe chẳng rõ, vì Dã Tượng đã đến chắn trước mặt, lo lắng bảo tôi:

- Cô Nhã Phong, tôi đã chuẩn bị cơm trưa cho cô, về ăn nhé! Cô Nhã Phong!

Tôi đứng như trời trồng, Dã Tượng gọi mấy lần mới sực tỉnh:

- Không phải vương gia không cho phép nổi lửa nấu cơm sao? – Tôi cười nhạt. – Cứ theo quân lệnh mà làm.

Tôi lững thững bước về lán như người mộng du, trong đầu không ngừng nhớ lại cảnh tượng ngày hôm ấy. Tôi đã đớn hèn bỏ ông Đảm mà chạy giữa lúc sinh tử, đã không thể để ông mồ yên mả đẹp, lại nhắm mắt làm ngơ thi thể ông bị bọn xâm lăng mang ra chà đạp. Người ra sắc lệnh ấy, mỉa mai thay, lại là lão già mà tôi yêu quý nhất, là người đã khiến tôi bất chấp tất cả rời khỏi Yên Bang buộc ông Đảm phải đồng hành rồi không bao giờ trở về được nữa.

- Cô Nhã Phong, vương gia có nỗi khổ của ngài ấy! – Dã Tượng bám tôi không rời nửa bước.

- Anh không biết đó thôi. – Tôi cười chua chát, chợt nhớ lại một đoạn đối thoại năm xưa giữa lão già và chúng tăng mà tôi vô tình nghe được. – Đối với Tuệ Trung Thiền sư mà nói, thân thể chỉ là máu thịt hôi tanh, dù có nhan sắc đẹp đẽ thế nào, khi hồn lìa khỏi xác thì tất cả đều trở về với cát bụi...

- Xin cô đừng nghĩ vương tuyệt tình đến thế! – Anh kéo tôi đến sau lán để không ai trông thấy.

- Anh Dã Tượng! – Tôi nhìn anh rất chân thành. – Ngày thường em nghe tiên sinh giảng Phật lý, tuy không hiểu thấu đáo nhưng những lời người nói em đều xem như khuôn vàng thước ngọc. Mãi đến cuộc chiến này, khi phải đối diện với sống chết, em mới biết em không thể nào buông bỏ nhẹ nhàng như người được. Ông Đảm vì em mà rơi vào nguy hiểm, vì cứu em mà chết, bảo em mặc kệ ông ấy bị treo nơi bến sông lạnh lẽo kia đến khi mục rữa thối nát, em không làm được! – Tôi đưa tay quệt nước mắt, cố ngăn tiếng nấc. – Em không làm được!

Dã Tượng nhìn tôi bối rối, không biết phải an ủi thế nào. Hồi lâu, anh khổ sở thưa:

- Tôi biết cô Nhã Phong trân trọng mạng sống của từng người, dẫu là sĩ tốt thấp hèn. Nhưng cô đã nghĩ được như thế, sao lại không hiểu cho vương gia? – Người anh cao lớn của tôi cũng xúc động mạnh. – Hưng Ninh vương là người thế nào? Thà vương bị trọng thương còn hơn thấy thuộc hạ phải đổ máu! Tôi theo vương chẳng bao lâu còn rõ việc này, sao cô là người thân thiết nhất với vương lại nỡ trách cứ?

Tôi giương mắt nhìn, đợi anh nói tiếp.

- Vết thương trên tay vương lẽ nào cô không nhìn thấy? Hôm đó trận Phù Lỗ ác liệt thế nào, vương vì không đành nhìn Phú Lương hầu tử nạn mà suýt nữa cũng đã không về được. Nếu không như thế, sao chúng tôi có thể liều chết chiến đấu với ngài? – Nói đến đây, mắt anh cũng hoe hoe đỏ. – Giá chỉ có một mình, tôi tin vương cũng sẽ không ngần ngại xông vào trại địch mang ông Đảm về an táng, nhưng lần này vương là chủ tướng, một quyết định của vương sẽ khiến bao nhiêu người đổ máu, bao nhiêu người vợ mất chồng, bao nhiêu đứa trẻ không cha… So với thảm cảnh đó, nỗi nhục nhìn ông Đảm bị bêu xác đã là gì?

Tôi đưa tay cắt ngang lời anh, tay còn lại ôm lấy ngực, tưởng như mình không thở được. Những điều này sao tôi có thể không hiểu? Quyết định này sao tôi có thể chẳng tán đồng?

Chỉ là, khi người ra lệnh là một lão già luôn dịu dàng bao bọc tôi bằng thứ tình thương và lòng bao dung vô hạn, tôi lại không có cách nào chấp nhận. Tôi thừa biết trong mắt người ngoài, lão vốn là một người khôn ngoan và tỉnh táo, nhưng khi phải đối mặt với con người khôn ngoan tỉnh táo ấy, tôi lại thấy xa lạ và sợ hãi.

Có tiếng giày giẫm lên cỏ sột soạt, tôi và Dã Tượng cùng quay đầu lại, lão già đã đến. Dã Tượng buồn bã nhìn lão một lúc rồi ôm quyền hành lễ:

- Vương gia, cô Nhã Phong đã biết chuyện. Dã Tượng không hoàn thành trách nhiệm, xin nhận phạt!

Lão khoát khoát tay ra hiệu anh rời đi. Đoạn, tôi và lão cứ đứng nhìn nhau mà chẳng nói gì. Trong đầu tôi hoàn toàn trống rỗng, hồi lâu, lão trầm giọng bảo:

- Ta không có gì để giải thích.

Tôi nhắm mắt, hít một hơi thật sâu rồi khẽ thở ra, đầu cúi thấp. Bàn tay lão đưa tới trước định vỗ vai tôi, bất giác tôi bước lùi thật nhanh. Bàn tay kia ngưng giữa khoảng không, khẽ nắm hờ rồi buông xuống. Lão đứng thêm một chốc rồi vào lán, lát sau cầm áo choàng và kiếm bước ra, lại đến trước mặt tôi, nói khẽ:

- Có thể sau đêm nay, căn cứ Cổ Mai này sẽ bị lộ. Em thu dọn sẵn hành lý, khi cần ta sẽ cho người đưa em đến chỗ hoàng thất đang lánh nạn. – Dừng một đỗi, lão tiếp. – Ở đó xa tiền tuyến, không cần phải chứng kiến cảnh máu chảy đầu rơi.

Tôi vẫn không dám ngẩng đầu lên, lão nói xong rồi đi mất. Hóa ra đêm nay quân Thánh Dực sẽ có hành động. Chẳng trách lão lại bảo tôi phải làm xong cỗ pháo đá trước hoàng hôn. Giờ chỉ mới đầu giờ Thân, trời hãy còn sáng, hẳn phải hơn một canh giờ nữa họ mới lên đường.

Tôi ngồi thừ trước lán, cảm thấy mọi việc xảy đến rất nực cười. Mới tối qua, chúng tôi còn thân thiết đến thế, tôi còn rúc trong lòng lão kể lể chuyện này sang chuyện nọ. Vậy mà bây giờ, mỗi người lại có một ý nghĩ riêng, cả việc nói với lão một câu “Tiên sinh cẩn trọng”, tôi cũng không cách nào mở miệng. Đêm nay, lão phải đối mặt với bọn Thát mà tôi còn ở đây phiền trách lão vì một người đã không cách nào sống lại.

Tôi đã mang nỗi ray rứt giương mắt nhìn ông Đảm mất trút lên người lão, vô lý và bất công như vậy…!

Nghĩ lại mấy lời anh lính nói lúc nãy, cái gì mà rồng phụng xứng đôi, thật nực cười! Chỉ riêng việc ở cạnh lão thế này đã rất khó khăn rồi!

Tôi vào lán, bắt đầu thu dọn hành lý. Ngoan ngoãn đến một nơi an toàn, rời khỏi tầm mắt của lão để lão yên tâm đánh trận có lẽ là việc duy nhất tôi làm được bây giờ.

Dọn gần hết đồ đạc của mình vào đẫy, tôi bước đến lấy quyển binh thư đang đọc dở thì thấy một vật tròn tròn nho nhỏ nằm khuất phía dưới. Tôi tò mò cầm lên xem thử, hóa ra là hộp thuốc trị thương, trông hơi khác hộp hôm qua lão dùng để bôi vết thương cho tôi. Tôi đưa lên mũi, một mùi hăng rất đặc trưng xộc đến, chuyện xưa lập tức hiện về. Có lần lão đưa tôi lên núi hái thuốc thì tìm thấy một loại cây mọc nơi vách đá cheo leo. Lão bảo tôi ở yên một chỗ rồi tìm cách trèo ra hái, suýt chút nữa đã trượt chân. Tôi sợ phát khóc, lão quát lớn:

- Ở yên đấy! Ta không sao!

Loay hoay một hồi, lão cũng trở vào an toàn. Tôi đưa cây thuốc lên mũi ngửi thử, đoạn nhăn nhó vứt xuống đất. Lão cười hiền xoa đầu tôi, tôi ấm ức bảo:

- Sao tiên sinh lại vì thứ hôi thối này mà mạo hiểm như thế?

- Đây là thuốc quý, trị được vết thương rất sâu đấy! Binh sĩ ra trận nếu có loại thuốc này sẽ có thêm vài cơ hội sống.

Phải rồi, lão già của tôi vốn là một người nhân hậu nhường ấy nên tôi mới không dễ dàng chấp nhận việc hôm nay… Nhưng, phải dùng đến loại thuốc này, lẽ nào vết thương trên tay lão nghiêm trọng hơn tôi nghĩ?

Tim chợt hẫng đi một nhịp, nỗi bất an từ đó thi nhau kéo đến, mọi nghi ngại bỗng tan biến, tôi tỉnh táo lạ lùng. Đêm nay, lão định đánh thế nào? Quân số của doanh Thánh Dực ở Cổ Mai tuyệt đối không bì được với quân Thát đang đóng trong thành. Lão lại đang bị thương, giao chiến trực diện rất bất lợi. Cho là tập kích cũng không thể tránh khỏi hiểm nguy.

Là vương gia, là tướng quân hay thiền sư đắc đạo, coi trọng sinh tử hay xem mọi thứ tựa phù vân, lão vẫn chỉ là người. Hôm trước lão đã có thể bị thương, hôm nay lỡ như, lỡ như lão không về nữa…?


***


Lần thứ hai tôi ngắm hoàng hôn giữa rừng mơ, cảnh vật còn tráng lệ hơn hôm trước, có lẽ vì tôi nghĩ rất có thể đây là lần cuối cùng tôi được nhìn thấy cảnh đẹp này. Tôi đã vượt bao hiểm nguy đến đây tìm lão thì dù thế nào cũng sẽ không bỏ đi. Huống hồ, ngày rời khỏi Yên Bang, tôi đã thề sẽ không để lão phải một mình thêm lần nào nữa.

“Đời này chắc chẳng có ai muốn bảo vệ tên nhóc ấy hơn cháu.” Ông Đảm từng nói với tôi như thế.

Lòng tôi vẫn chưa hết băn khoăn, chưa hết xa lạ và sợ hãi, nhưng tôi biết nếu không cùng lão chiến đấu, lỡ như lão có bất trắc gì tôi sẽ ân hận cả đời.

Gió bắt đầu thổi mạnh, tôi đưa tay kéo lại tấm áo choàng lão đã khoác cho mình ngay lúc tôi vừa đến đây, hương trầm hãy còn thoang thoảng. Thôi thì, ông ơi, cho là cõi niết bàn hay địa ngục, cháu cũng tình nguyện theo người là được!

Tôi ngồi trên lưng Cụ Nhỏ, đợi rất lâu ở cuối con dốc phía bắc Cổ Mai – đường độc dạo dẫn xuống Thăng Long – đến khi mặt trời xuống giữa tàn cây thì quân kỳ Thánh Dực hiện ra rực rỡ dưới bóng ác tà, nổi bần bật giữa màu hoa trắng. Lão già cưỡi ngựa dẫn đầu một đội quân đi đến. Nhìn thấy tôi, lão thoáng sững sờ. Trần Cụ đi ngay phía sau, thảng thốt hỏi:

- Cô Nhã Phong! Tôi tưởng cô vẫn còn ở doanh trại?

Tôi mỉm cười, khẽ lắc đầu, hướng mắt về phía lão.

Lão nhìn tôi như ngẫm nghĩ, đoạn nở một nụ cười ngạo nghễ rồi quay lại nhìn binh sĩ phía sau, tay giương cao kiếm, giọng nói vang vang:

- Vừa xuất phát đã gặp gió đông, trận này quân ta tất thắng!

- Tất thắng! Tất thắng!

Mọi người đồng thanh hô rất khẽ, rừng mơ nhè nhẹ rung lên như thầm thì hẹn khúc khải hoàn.



[1]Câu cuối trong Tứ sơn kệ của (Sinh – Lão – Bệnh – Tử) của Trần Thái Tông, viết về cái chết:

“Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh
Ngư ông túy lí điếu chu hoành
Tứ thùy vân hiệp âm mai sắc
Nhất phái ba phiên cổ động thanh
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh
Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỉ canh?”

Dịch thơ:

“Cào đất đùng đùng trận gió hanh,
Lão ngư say tít, chiếc thuyền chành.
Bốn bề mù mịt mây sầm bóng,
Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh.
Theo lớp hạt mưa bay phấp phới,
Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành.
Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh,
Trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh?”
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 27: THIÊN THƯ ĐỊNH PHẬN[1]

Đoàn quân xuất phát từ rừng mơ chưa đến năm trăm người nên di chuyển rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến đồng bằng, đi thêm một đoạn ngắn nữa thì gặp bờ kênh. Đón chúng tôi là hai mươi chiếc thuyền chiến Mông Đồng loại nhỏ, toàn thân đen tuyền, mái cong phía trên được thay bằng sàn gỗ, đuôi cao vút, mỗi thuyền sẵn hai mươi lăm trạo phu.

Lão già phất tay ra hiệu, cả đoàn người phía sau nhanh chóng xuống ngựa, lần lượt theo các đô trưởng lên thuyền. Lúc này tôi mới thấy trên tay họ đều mang theo một cái vại, nỗi thắc mắc càng lớn nhưng không tiện hỏi. Tôi nhìn xuống lòng kênh đen thăm thẳm, nuốt nước bọt đánh ực một cái. Mãi suy nghĩ rồi kiên quyết chạy đến đây, tôi đã quên mất thế mạnh của họ Trần là thủy chiến, càng quên mất điểm yếu chí mạng của mình: Tôi không biết bơi!

Thuở xưa, lão già đã từng mang tôi quẳng xuống nước rất nhiều lần, lần nào tôi cũng bấu víu loạn xạ khiến lão uống không ít nước, sau đó tôi ôm lão gào như lợn bị chọc tiết, vừa oán trách vừa van xin. Lần cuối cùng, nhân dịp Yết Kiêu theo Hưng Đạo vương đến Yên Bang, lão liền bảo anh dạy tôi, chẳng cần phải thành kình ngư giống anh, chỉ cần tôi rơi xuống nước có thể cầm cự đến lúc có người cứu là được. Anh Cá To mướt mồ hôi hết một ngày bèn quay về quỳ trước thư phòng lão dập đầu nhận tội.

Chẳng trách, nửa năm trước tôi đi tìm lão già mất gần một tháng, khi đi cùng ông Đảm lại chỉ có mấy ngày. Ông lão đi thuyền còn tôi hèn nhát chỉ dám đi đường bộ. Thường ngày, nếu có người đáng tin cậy ở cạnh thì tôi sẽ không lo lắng, nhưng hôm nay đi đánh trận, nhỡ đang giao tranh với địch lại rơi xuống nước báo hại mọi người, biết đâu tôi sẽ thành tội nhân thiên cổ?

Lão già đã lên thuyền, ngoái lại trông thấy tôi vẫn tần ngần đứng trên bờ, ái ngại nhìn tấm ván bắc giữa bờ và thuyền nhấp nhô theo nhịp sóng, lão nén cười thở nhẹ một tiếng toan trở lại đón tôi. Vừa lúc đó Trần Cụ đi sau đã bước lên giữa ván, chìa tay ra vui vẻ cười:

- Để Cụ đỡ cô.

Thường ngày vẫn tự hào làm việc gì cũng giỏi hơn tên sư đệ này nên giờ tôi cảm thấy hơi mất mặt, song không muốn làm chậm trễ hành trình của mọi người, bèn vội nắm lấy tay hắn làm điểm tựa, đi như chạy qua tấm ván. Đến đầu bên kia, tôi chưa kịp tìm chỗ đặt chân, lão già đã nhấc tôi xuống một cách nhẹ nhàng. Tôi theo lão đến mũi thuyền, ngoan ngoãn ngồi trên sập quan sát. Đêm nay trời nhiều mây, trăng mờ, thật thích hợp để làm những việc không quang minh chính đại. Tuy lão già không nói gì, tôi cũng hiểu với nhóm người ít ỏi này, lão sẽ không chọn cách tập kích doanh trại địch để gây tử thương vô nghĩa. Suốt dọc đường đi tôi không thấy Dã Tượng và Địa Lô nên càng chắc mẩm lão có một kế hoạch khác thường.

Đoàn quân hôm nay không mặc giáp mà y phục đen tuyền để lẫn vào đêm tối. Lão già ngồi ở mũi thuyền trông ra, dáng người lão rất cao lại thêm tư thế trầm tĩnh vững vàng, thành thử lúc này trông như một vị chiến thần, ai nấy đều tin tưởng. Nhớ đến mệnh lệnh lạnh lùng nọ của lão, lòng chợt đau nhói, tôi liền buộc mình không được nghĩ lung tung lúc này.

Thuyền đi xuôi gió, lướt như bay, từ kênh nhỏ đã ra giữa dòng Lô giang, đi vòng sang phía đông Thăng Long. Tiếng mái chèo khua nước êm như ru, trước mắt là gương mặt điềm nhiên tĩnh tại của lão già, tôi bỗng nhớ đến những lúc thong thả dạo chơi ngày trước, thả thuyền dọc các thôn làng, lão đánh đàn, tôi thổi sáo, mệt thì dừng lại ăn món ngon, uống chè mát, mua sản vật chất đầy thuyền, vui vẻ bao nhiêu! Tôi hít một hơi để gió mát lạnh căng đầy lồng ngực, mắt nhắm hờ, lẩm nhẩm trong đầu bài thơ lão đã làm trong một lần rong chơi như thế:

“Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma,

Quang âm như tiễn hựu như thoa.

Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc,

Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.

Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn,

Vãn hoành đoản địch lộng yên ba…”[2]

Tôi vừa nhớ đến đây, thật trùng hợp, giữa dòng đêm thanh vắng bỗng vút cao tiếng sáo. Tôi hoảng hốt mở choàng mắt, lão đã đứng lên từ bao giờ, tay đang cầm cây sáo ngọc của tôi, thổi từng hơi dài dứt khoát. Bốn bề vang lên tiếng rít và tiếng đập cánh mạnh mẽ. Từ những tán cây lớn hai bên bờ, những bóng hùng ưng vun vút lao ra, sải cánh rợp trời, tiến thẳng về phía kinh thành, khí thế như đang xông trận.

Vừa hay đến ngã tư sông, đoàn thuyền cũng nhanh chóng tản ra theo các nhánh. Thuyền chúng tôi tiếp tục đi thẳng, lướt nhanh về hướng bộ đầu Triều Đông. Lão già vẫn đứng ở mũi thuyền, thổi sáo điều khiển đội quân đang thống trị bầu trời, đôi mắt không còn nhu hòa như vừa nãy mà ánh lên những tia sáng sắc lạnh. Càng đi, tôi càng nghe rõ một âm thanh khác, là tiếng voi rống, vọng đến từ những khu rừng bao quanh Thăng Long. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, đưa âm thanh đi rất xa, tôi nghĩ cả người ở nơi sâu nhất trong cung cấm cũng phải nghe thấy mà hoảng sợ.

Bộ đầu Triều Đông là bãi bồi rất rộng nằm bên trái điện Kính Thiên, xưa nay vẫn là nơi đỗ chiến thuyền của triều đình. Tôi nghe nói rất nhiều năm trước đây, nhà vua đã cho xây điện Phong Thủy để trú chân trước khi về kinh sư. Mỗi khi vua đến hoặc đi, bá quan đều đến nghênh đón hoặc tiễn đưa đều dân trầu cau, mời trà, nên còn có một tên gọi rất tao nhã là “Trà điện”. Trần Cụ nói, Trà điện ấy bây giờ đang là nơi bọn Thát đang đóng doanh. Bọn chúng e ngại không dám vào Tử Cấm thành vì sợ có mai phục, liền hạ trại ngay bến sông cho tiện việc tiến lùi.

Khi bến thuyền đã hiện ra trong tầm mắt, tôi nghe ra trong tiếng voi rống đinh tai còn có tiếng ngựa hí hoảng loạn và tiếng người láo nháo. Đội hùng ưng của chúng tôi chọc giận những người anh em khác họ của bọn chúng, tạo thành một cuộc hỗn chiến khác trên không. Bọn Thát rất giỏi huấn luyện chim ưng, giống của chúng lại vừa to vừa khỏe hơn đáng kể, nhưng những anh hùng do Dã Tượng một tay nuôi dưỡng không hề nao núng, chiến đấu rất quật cường, bị thương vẫn kiên quyết tiến lên.

Thuyền của chúng tôi tiến càng lúc càng gần. “Phập” một tiếng, những mũi tên bắt đầu được bắn lên, có vài con ưng rơi xuống, bọn Thát bắt đầu hành động. Tôi thấy rất xót xa, liền bước đến chỗ lão già thì tay lão đã nhanh chóng đưa tay ra phía sau, che mắt tôi lại. Toan hỏi lão đang làm gì, bỗng tôi lập tức nghĩ ra một việc, nghe tim đánh “thịch” một cái. Tôi run run cầm lấy bàn tay lão đang bịt mắt mình, khẽ khàng gỡ xuống, chầm chậm nhìn về phía bờ sông.

- Ông Lý Đảm…! – Ở phía sau tôi, Trần Cụ không ngăn được nỗi xúc động.

Tôi như thấy lại bóng dáng của ông sừng sững giữa trời chiều hôm ấy, gương mặt phong sương đượm ý vui vẻ, hất hàm bảo tôi: “Nhóc con thấy rõ chưa, ông đây vẫn còn hữu dụng, ông đây là một đại anh hùng!”. Đại anh hùng của tôi đang bị bọn chúng treo lên một cây cột cao vươn ra mép sông, chơi vơi, rã rượi. Trên gương mặt khô quắt đã lúc nhúc giòi bọ, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, vô hồn nhưng sáng quắc. Hai mũi tên vẫn cắm sâu vào ngực ông, quần áo ngang dọc vết chém, cái chân cụt lơ lửng, chỉ có sống lưng vẫn thẳng như tre. Tôi đưa tay che miệng, nửa giận run người, nửa đau chết lặng. Phía sau tôi, quân sĩ và trạo phu nghiến răng ken két.

Giờ này khắc này, tôi thật chỉ muốn nhảy lên bờ, đâm từng nhát từng nhát vào tim bọn xâm lăng để lót đường ông xuống suối vàng. Nghĩ thế, tôi đã nắm chặt thanh kiếm từ lúc nào, đưa tay quệt nước mắt, vô thức bước từng bước đến gần mũi thuyền hơn một chút. Bỗng vai tôi bị một bàn tay to lớn chộp lấy, lão già kéo tôi ném trở vào trong thuyền. Cơn đau làm tôi chợt tỉnh, lại nhìn sang lão. Mặt lão vẫn hướng về phía cái xác nên tôi không nhìn được, không rõ lão đang nghĩ gì. Đoạn, lão chậm rãi ra lệnh:

- Chèo về hướng tây, mang rượu và cung!

Ngay lập tức, mũi thuyền rẽ sang hướng khác. Trần Cụ nhanh chóng dâng đến một cây cung rất to, to hơn hẳn thứ của đội cung binh vẫn dùng, một mũi tên dài tương ứng và một vại rượu hoàng hoa. Tôi chỉ biết ngồi ngây ra nhìn. Bỗng nhiên lão đến trước mặt tôi, nhẹ giọng bảo:

- Đưa chuỗi hạt cho ta.

Tôi ngẩn người một lúc mới nhớ đến tràng hạt của ông Đảm vẫn đeo bên người, vội giơ tay lên, chưa kịp gỡ ra thì động tác của lão đã nhanh hơn, đoạn lão quấn nó vào tay mình. Ngay sau đó, lão cởi một bên tay áo để tiện hoạt động, văn thân lại hiện rõ ràng trên bờ vai và cánh tay rắn chắc. Một tay lão cầm mũi tên, tay còn lại lấy từ trong ngực áo ra một vật khiến tôi sững sờ: là chiếc khăn mộc lan thêu dang dở mà công chúa Thuận Thiên để lại, lâu nay lão vẫn cất giữ như báu vật. Lão nhìn nó một lần rồi nhanh chóng quấn chặt vào đầu mũi tên.

Đoạn, lão cầm cả bình rượu và cung, tên, chống tay nhảy lên sàn gỗ trên mái thuyền, tôi không hiểu gì nhưng cũng vội vã trèo theo. Trên này lồng lộng gió, tôi chật vật lắm mới đứng vững được nhưng giờ lại chẳng thấy sợ hãi chút nào. Lão gỡ nút bình rượu, giơ nó về phía ông Đảm như đang nói một tiếng “Mời!”, rồi đổ lên chiếc khăn đến khi ướt đẫm, rượu rơi tí tách trên sàn, buồn như nước mắt cố nhân.

Lão trầm ngâm một lúc như chờ đợi điều gì, rồi, lão chầm chậm đặt mũi tên lên cánh cung cong vút, dùng hết sức kéo dây cung, gân nổi rõ trên cánh tay, mắt sáng quắc nhắm thẳng mục tiêu, hàm nghiến chặt. Cả đời tôi chưa từng thấy dáng vẻ dũng mãnh này của lão nên cứ đứng ngẩn ra. Tôi ngỡ lão định bắn đứt sợi dây đang cột xác ông Đảm để sau đó quân ta tìm cách vớt lên, nhưng khi nhìn lại phía bờ sông, thấy chậu lửa đặt gần đó, thẳng hàng từ vị trí của chúng tôi đến nơi treo xác, tôi chợt hiểu ra mệnh lệnh đổi hướng thuyền ban nãy.

“Vút!”

Mũi tên xé gió lao đi, vụt qua chậu lửa, mảnh khăn thấm rượu bén lửa bùng cháy rồi cắm phập vào cái xác, cháy lan qua quần áo. Độc túc tráng sĩ của tôi trong phút chốc biến thành ngọn lửa cháy rừng rực giữa trời đêm. Tôi đứng sau lão, xúc động nghẹn ngào. Bất thình lình, lão cầm bình rượu hãy còn đầy một nửa ném thẳng lên cao, vung cây cung to đập thật mạnh, bình rượu vỡ giòn giữa không trung, hơi men bay ngào ngạt làm mắt tôi cay xè.

Ngọn lửa ấy là hiệu lệnh, ngay lập tức, từ bốn phía, những mũi tên lửa bắn đến, cắm vào những ụ cỏ khô tẩm dầu bọc trong vải đen ai đặt sẵn dọc bờ sông, lửa bốc lên ngùn ngụt khiến quân Thát không cách nào tiến ra để đánh trả. Lửa soi sáng mái lều của bọn chúng, nhìn rõ cảnh tượng người đuổi, ngựa chạy khắp nơi, hỗn loạn bát nháo. Lão già đã cầm tràng hạt trên tay từ lúc nào, ánh mắt không chút cảm xúc, chắp tay bắt đầu trì chú Lăng Nghiêm.

Giọng lão vang như tiếng chuông đồng, đầy uy lực, vọng khắp dòng sông Lô. Chỉ sau câu đầu tiên, từ bốn phía Thăng Long, tiếng trì chú đồng thanh rộ lên, âm vang khác thường, nghe như như tiếng sấm từ trời cao giáng xuống. Tôi chợt hiểu ra tác dụng của mấy chiếc vại nọ, lại sững sờ nhìn người đang đứng trước mặt mình, gai ốc nổi khắp người. Tôi đã quen nhìn dáng vẻ thư sinh nho nhã của lão mà quên mất việc vì sao lão chỉ là một nửa thiền sư lại có thể làm chư tăng nể phục. Chú Lăng Nghiêm là thần chú uy lực nhất của nhà Phật, tụng lên có thể khiến quỷ thần hồn xiêu phách tán, người nào có tâm ma, đạo hạnh không vững cũng tự thấy khiếp đảm rã rời. Đằng xa, trong tiếng voi rống, tiếng chim ưng quang quác, tiếng ngựa hí và lời chú rền rĩ, xác ông Đảm vẫn cháy rừng rực như ngọn lửa Niết bàn, thiêu đốt mọi thứ ô trọc, nhơ bẩn. Nước mắt tôi cứ thế lăn dài.

Ông ơi, cháu đưa lão già đến tiễn ông, lão trả kỷ vật của công chúa cho ông, bọn cháu cho quân Thát biết giang sơn Đại Việt ta một khi xâm phạm nhất định phải bị trừng phạt, ông hãy an tâm mà nhắm mắt!

Khi lão già đọc đến những câu chú cuối cùng, từ trên cao, một quả cầu lửa rơi xuống giữa doanh trại giặc. Chiếc máy bắn đá của tôi đã có đất dụng võ! Lúc quả cầu rơi xuống thấp tôi mới nhìn rõ, đó là xác của một con sói lớn đang bốc cháy. Truyền thuyết kể lại, sói là tổ tiên của người Nguyên. Xác con vật linh thiêng vừa chạm đất thì bài chú cũng vừa hết, tiếng voi liền ngưng bặt, bốn bề lại rơi vào im lặng, lũ chim ưng đồng loạt rút đi, nhanh như thể mọi việc vừa xảy ra chỉ là một cơn ác mộng. Tiếng kêu la hoảng loạn của bọn giặc bấy giờ mới vang lên rõ ràng khắp bến sông.

Thuyền của chúng tôi nhân lúc đám lửa dọc bờ vẫn chưa tắt nhanh chóng chèo lui. Sợi dây treo ông Đảm bị lửa làm đứt, đại anh hùng của tôi cuối cùng rơi xuống lòng sông, trở về với cát bụi, kết thúc cuộc đời dài như giấc mộng, nhẹ nhàng như chiếc lông ngỗng nghiêng chao.

Thuyền đã lùi xa, lão già vẫn đứng yên, đầu khẽ cúi, mắt nhắm hờ. Hồi lâu, lão chầm chậm mở mắt, quấn lại tràng hạt vào cổ tay mình. Đoạn, lão quay người về phía tôi đang đứng, đôi mắt trở về vẻ trầm tĩnh trước nay. Tôi nhìn lão rất lâu mới tiến lên một bước, đưa tay chỉnh lại áo lão cho chỉnh tề như mọi ngày. Rồi, tôi cứ thế kiễng chân choàng tay lên cổ ôm chầm lấy lão, tay vuốt nhẹ tóc trên gáy lão, lòng khe khẽ run rẩy chẳng hiểu vì sao. Lão lặng đi trong chốc lát rồi cũng vòng một tay đỡ lưng tôi, kéo tôi sát vào lòng, gió sông vẫn lồng lộng thổi, chúng tôi cứ đứng như vậy trên nóc thuyền, nhìn Thăng Long dần khuất phía chân trời.


***


Khi chúng tôi xuống khoang dưới gặp lại mọi người, tôitrông thấy một gương mặt quen thuộc đã lâu không gặp:

- Anh Yết Kiêu! – Tôi chạy đến chỗ người đang ngồi lau khô tóc.

Thấy lão già, anh vội đứng lên hành lễ, lão nâng tay anh dậy, dúi cho một bình rượu uống cho ấm người rồi ân cần dặn dò binh sĩ:

- Trời đông nước lạnh, lấy thêm áo khoác cho cậu ta kẻo ốm.

- Hóa ra ngọn lửa thiêng cháy dọc bờ sông ban nãy là kiệt tác của anh. – Trần Cụ vội đưa đến một tấm áo choàng, giọng không giấu vẻ thán phục. – Có thể tiếp cận mà bọn Thát không hay biết gì, thật tài hoa, thật quả cảm!

Cá To đón lấy áo choàng, cúi đầu cảm tạ lão già, đoạn nhìn tôi cười cười đáp:

- Cậu quá lời rồi! So với năm xưa dạy cô Nhã Phong tập bơi, việc lẻn vào doanh trại địch vẫn an toàn chán ạ!

Tôi há hốc mồm nhìn anh ta, quay sang định mách lão già đã nghe tiếng lão cười sảng khoái, giận không để đâu cho hết, hậm hực giậm chân bước ra mũi thuyền ngồi một mình. Trần Cụ hồn nhiên kêu lớn:

- Cô Nhã Phong cẩn thận khéo rơi xuống nước!

Bấy giờ, cả binh sĩ và trạo phu đều không nể mặt, tiếng cười vang vọng cả khoang thuyền. Cười chán, mọi người lại lao xao nói về hành động vừa qua:

- Kế của vương gia hay thật, tôi cược là bọn Thát sợ đến vãi ra quần! – Một anh đô trưởng hồ hởi lên tiếng.

- Đừng nói là bọn giặc làm nhiều việc ác, cả tôi nghe tiếng vương trì chú cũng sởn gai ốc, cứ tưởng thần linh trách phạt! – Anh lính khác phụ họa theo.

- Vương gia của chúng ta quả chẳng phải người phàm, chỉ một bài chú cũng có thể gọi về hồn thiêng sông núi!

- Mấy hôm nay chúng đã thiếu lương thực, bị trúng độc của cô Nhã Phong, lúc nãy còn bị dọa thế này, hẳn là không đánh cũng tự rã rồi! – Mọi người nhao nhao bàn tán.

- Cho bọn chúng biết sông núi nước Nam là của vua Nam, biên giới đất ta chỉ có đến được mà không về được!

“Đến được không về được! Đến được không về được!” Tôi như nhìn thấy cảnh hôm nọ, ông Đảm cưỡi ngựa đi trước, hai cậu Nhất, Nhị lững thững theo sau, vừa đi vừa nghêu ngao, bất giác mỉm cười, trong lòng thanh thản lạ thường.

Trời bắt đầu hửng sáng, chúng tôi về lại ngã tư sông hội ngộ với mọi người. Hai mươi chiến thuyền đều về đủ, chuyến này không tổn một binh một tốt đã dọa được quân giặc sợ mất hồn, thật đáng để uống một trận thật say!

Một chiếc thuyền cập sát thuyền của bọn tôi, Dã Tượng và Địa Lô nhanh nhẹn nhảy sang, đến trước mặt lão già phục mệnh. Lão đấm đấm lên ngực từng người thay cho lời động viên. Tôi nhìn họ, chợt hiểu ra:

- Tiếng voi rống lúc nãy là do quân của anh giả, đúng không? Không lý nào một đàn voi đông đúc như thế có thể bao vây Thăng Long mà không gây chú ý!

Anh Voi Lớn cười có vẻ thẹn vì bị bắt quả tang, đoạn anh nhìn Cá To rồi quay sang lão, lễ phép thưa:

- Bẩm vương, không biết kế hoạch tiếp theo sẽ thế nào?

Lão cười hiền, nói nhỏ vừa đủ cho mấy người nghe thấy:

- Số quân Thánh Dực còn lại ở Cổ Mai đã chia nhau đến các núi gần Thăng Long, hai ngày sắp tới cứ đúng nửa đêm giờ Tý sẽ hành quân tập trận, dùng thêm bù nhìn để chúng không biết quân số thực của ta. Hai cậu có thể đến chỗ Quốc Tuấn, bảo chú ấy bàn bạc với bệ hạ, tìm thời cơ mà phản công cho kịp lúc.

Tôi đứng cạnh nghe chuyện, bỗng thấy âm mưu tôi đã dùng ở Cổ Sở vừa thô thiển vừa tự hại mình, thầm than một tiếng. Lão già quay sang nhìn tôi, bảo:

- Chúng ta rút thôi, hết việc rồi.

Tôi ngơ ngác:

- Sao ạ?

Lão cười cười nửa đùa nửa thật:

- Ta là quan văn, những việc quan văn làm được chỉ có bấy nhiêu. Còn lại để chú em võ tướng giỏi giang của ta làm tiếp vậy!

Khi nói những lời này, ánh mắt lão vẫn đau đáu nhìn về hướng Thăng Long.



[1]Mượn chữ trong câu đối khắc ở Đền Hùng:

“Thiên thư định phận, chính thống triệu minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ

Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn.”

Nghĩa là:

“Sách trời đã định, chính thống dựng kinh đô, non sông Bách Việt đã có tổ

Núi sáng linh thiêng, cố cung lập thành miếu, ba sông một dải hướng về nguồn.”

[2] Trích bài Giang hồ tự thích II của Tuệ Trung Thượng sĩ.

Dịch nghĩa:

“Tấm lòng hồ hải trước đây chưa từng tiêu mòn,

Bóng quang âm vun vút như tên lại như thoi.

Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ,

Non xanh nước biếc, kế sống dồi dào.

Buổi sớm, kéo cánh buồm cô đơn băng mặt nước mênh mông,

Chiều hôm, cầm ngang chiếc sáo ngắn, đùa với khói sóng.”
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 28: TRONG CÂY CÓ LỬA[1]

Từ biệt chúng tôi, Dã Tượng và Yết Kiêu mang theo âm phù tìm đến bản doanh Hưng Đạo vương đang đóng. Địa Lô đứng mãi ở mạn thuyền, nhìn theo bóng hai người đến khi khuất hẳn. Lão già thấy thế, gọi cậu ta lại, hỏi:

- Cậu có muốn theo Dã Tượng không?

Địa Lô hốt hoảng:

- Thưa, Địa Lô đã thề cả đời phụng sự cho vương gia. Tôi chỉ thấy anh ấy dẫn đầu toán quân giả tiếng thú rừng dọa địch rất oai phong nên ngưỡng mộ, không có ý gì khác!

Lão thấy vẻ nghiêm túc trên mặt cậu nhóc, cười hiền:

- Ta vốn không hứng thú với binh nghiệp, lần này tham chiến chỉ là bất đắc dĩ. Cậu theo ta sẽ mai một tài năng. Đợi giặc tan, ta sẽ gửi cậu cho Hưng Đạo. – Ánh mắt Địa Lô vẫn chưa hết vẻ hoang mang, lão nói tiếp. – Lời thề của cậu với ta vẫn giữ theo một cách khác.

Địa Lô nhìn sang phía tôi như cầu cứu, tôi bèn vỗ vỗ vai cậu bé:

- Tiên sinh chỉ muốn tốt cho cậu, không phải chê cậu phiền tìm cách đuổi đi đâu! Hưng Đạo vương rất hay đến thăm tiên sinh, cậu nhớ chúng tôi thì cứ đi theo vương là được ấy mà!

Địa Lô ngớ người, nghĩ một lúc mới hiểu ra, sụp xuống lạy. Tôi nhìn sang lão già, nụ cười thuần hậu vẫn nguyên, ánh mắt xa xăm vẫn đó, lòng tôi bỗng khó chịu như có trăm con kiến đang bò. Chợt nhớ ra một việc, tôi kéo lão ra mũi thuyền, ngồi cuối gió, cầm tay lão lên xem. Lớp băng trắng giờ đã loang lổ máu.

- Em biết ngay mà, cây cung lúc nãy vừa to vừa nặng. – Tôi nhăn nhó. – Vết thương nứt toác cả rồi này!

Lão cười cười, đẩy đẩy trán tôi. Tôi nghiêng người tránh né, đoạn giở lớp băng, cố nhẹ nhàng kẻo làm lão đau thêm. Ngay khi thấy vết thương, suýt nữa tôi đã kêu lên vì nó trầm trọng hơn tôi nghĩ. Chỗ da thịt bị chém rất sâu, rất nham nhở, không biết bọn Thát chết tiệt đó đã dùng loại binh khí quái quỷ gì. Tôi lấy băng và thuốc trị thương mang theo người, lau máu sạch sẽ rồi bôi lại cho lão, thấy xót, thấy đau y như mình bị chém.

- Bấy lâu nghe câu “lương y như từ mẫu”, ta cứ cho là thậm xưng, giờ nhìn vẻ mặt cau có của em mới tin là thật. – Lão bình thản như thể vết thương nọ ở trên người ai khác.

Tôi hậm hực lườm lão một cái sắc như dao, song vẫn chun môi thổi thổi chỗ vừa bôi cao cho đỡ buốt, vừa thổi vừa lẩm bẩm:

- Tiên sinh cũng là thầy thuốc mà chẳng biết tự chăm sóc mình gì cả!

- …

- Thế này còn vung kiếm giương cung, bao giờ mới khỏi?

- …

- Người còn nhớ mặt tên Thát đó không? Lần sau gặp lại em sẽ băm nó thành trăm mảnh cho hả giận!

- Kẻ bị thương nào vào tay em cũng bị dằn vặt thế này sao? Xem chừng cơ thể vừa lành lại đã mắc tâm bệnh. – Lão tựa lưng vào cột, gió từ sông thổi đến bay bay mấy sợi tóc trên trán lão, tạo nên một vẻ thong dong cực kỳ đáng ghét.

Tôi dừng tay, chợt nhận ra từ nãy đến giờ mình cứ làu bàu như một oán phụ lôi thôi, thật mất mặt, bèn thở hắt ra, đoạn nheo nheo mắt nhìn lão, lấy lại tinh thần nở một nụ cười diễm lệ:

- Em vốn chỉ biết dùng độc, kẻ được em chữa trị tự cổ chí kim độc có một anh lính đã yểu mệnh và đại tướng quân doanh Thánh Dực người thôi.

Lão bật cười, vò vò tóc tôi rồi ánh mắt lại hướng về phía Thăng Long. Tôi không nói thêm gì, lẳng lặng hoàn thành việc băng bó rồi đến ngồi sát mép nước trông ra. Mặt trời dần lên, sóng đùa mặt nước phản chiếu ban mai lấp lánh. Cả đêm qua chúng tôi không ngủ nhưng chẳng ai thấy mệt mỏi chút nào vì thắng lợi tinh thần nọ.

- Nghe nói khúc sông này có cá trắm đen, nướng riềng sả vừa thơm ngon vừa bổ dưỡng, rất tốt cho vết thương của em đấy. Muốn ăn không? – Lão hỏi vu vơ.

Tôi lắc lắc đầu, nhặt bừa một viên sỏi nhỏ dưới lòng thuyền, ném cho nó lướt lướt trên mặt sông.

- Lại không vừa ý chuyện gì rồi? – Lão bước đến ngồi cạnh tôi, giọng nói có vẻ rất cao hứng.

- Người thấy cam tâm sao? – Tôi hỏi ngược lại.

- Hửm?

Tôi quay lại nhìn lão thật dịu dàng:

- Mấy năm qua chỉ chuyên tâm đọc Phật lý mà có thể dùng kế lung lạc lòng quân như thế. Giả như tiên sinh không phải là con trai của Khâm Minh đại vương, không biết binh nghiệp sẽ rực rỡ đến mực nào... – Nói đến đây, giọng tôi bỗng dưng nghẹn lại, tôi sợ lão buồn.

Lão nhìn theo một con cá đang bơi về phía xa, cười nhạt:

- Đi chỉ mấy ngày mà miệng lưỡi dẻo hơn nhiều đấy!

Tôi không buồn đáp trả, ngẫm nghĩ một chốc rồi chân thành nói tiếp:

- Nếu em đến Hoàng giang làm con tin, ngay khi Hưng Đạo vương phản công ở bộ đầu Triều Đông, người có thể dẫn quân vòng ra phía sau quân Thát để chiếm lại Thăng Long mà hoàng đế và thái sư vẫn yên tâm chứ?

Mắt lão thoáng mở to, chính tôi cũng kinh ngạc trước những gì mình vừa nói. Lão nhìn tôi hồi lâu, đoạn nhếch mép cợt nhả:

- Em là ai? Là vương phi hay ái thiếp của Hưng Ninh vương? Trong lòng ông ta em nặng nhẹ mấy cân? Họ Trần ở Hoàng giang giữ em lại ngoài việc tốn mỗi ngày thêm vài đấu gạo thì được lợi ích gì?

Tôi không ngờ lão đã nghe thấy cuộc nói chuyện của tôi và Trương Phi hôm trước, ngượng chín người song vẫn cố tỏ ra bình thản. Mãi không tìm được lý lẽ nào để thuyết phục, tôi chỉ biết nhìn lão chăm chăm. Đôi mắt lão trở lại vẻ điềm nhiên muôn thuở:

- Phải, ta đã hiểu quy luật tạo khói và cờ hiệu của chúng, cũng đã tìm được cách đột kích vào quân doanh, tất cả là nhờ tấm địa đồ của em.

- Thật ạ? – Tôi sửng sốt.

- Em vẽ dư một mật đạo dẫn từ cổng thành phía tây sang bộ đầu Triều Đông. – Lão nheo nheo mắt. – Buồn cười nhất là mật đạo ấy có thật nhưng người họ Trần vốn không hay biết. Ta nghe kể lúc còn rất nhỏ, nhiều năm qua chỉ nhìn địa đồ hiện tại mà quên mất chuyện này.

Thật không ngờ tôi nhớ mãi không biết mình vẽ sai điểm nào mà hóa ra lại ăn may! Họ Trần vốn không biết, như thế chỉ có thể do công chúa Thuận Thiên nói cho lão già. Cảnh này quả thật tình ngay lý gian. Người cha từng âm mưu làm phản, giờ con trai thứ thống lĩnh đại quân ở tiền tuyến, con trai trưởng theo một mật đạo cả hoàng đế cũng không hay biết mà chiếm lại kinh thành, chỉ sợ chưa diệt được giặc, quân ta đã tự loạn. Hơn cả hoàng đế, Trần Thủ Độ vốn luôn giữ mối nghi ngờ với chi Vạn Kiếp. Chẳng trách, quân đội đóng ở Cổ Mai chỉ bằng một nửa so với toàn quân Thánh Dực hôm xưa tôi gặp.

Ban nãy, chính vì đoán ý lão già e ngại điều này mà rút quân nên tôi mới xin tự mình đến chỗ những người trong cung đang lánh nạn để làm con tin, quên mất mình vốn chẳng có danh phận gì chính đáng. Ngồi một chỗ thì tôi lại không yên! Nếu không nhìn thấy dáng vẻ uy dũng và ánh mắt rực lửa cùng nụ cười ngạo nghễ của lão trong cuộc đột kích tối qua, sợ rằng chẳng bao lâu nữa tôi cũng như mọi người, tin rằng lão chỉ là một vị vương gia tuổi đã cao, nhàn nhã vô hại, ra làm quan theo phận sự rồi vui thú tu hành. Thân là chủ tướng đội quân mang tên đôi cánh thần thánh mà không được toại ý tung bay như mình muốn, tôi thấy uất ức thay cho lão.

- Hay em đến đó cứ tự xưng là tiểu thiếp người sủng ái nhất, đằng nào mà sĩ tốt đã chẳng đồn ầm lên như thế. Cái gì danh tiết hay hậu quả, đợi giặc tan rồi mới tính có được không? – Nghĩ mãi không ra cách, tôi buộc miệng nói bừa một hơi.

Ánh mắt đông cứng như bị người xúc phạm nặng nề của lão khiến tôi biết mình vừa phát ngôn ngu dại.

- Tiên sinh, em nói sai rồi…

Lão im lặng không đáp, tôi cụp mắt, chẳng dám nhìn lên. Hồi lâu, lão nói chậm rãi từng tiếng:

- Tiểu thiếp, dẫu sắc đẹp nghiêng thành hay cầm kỹ xuất chúng, đối với một thân vương mà nói, muốn mấy người sẽ có mấy người. – Dừng một thoáng, giọng lão lại lạnh như gió sớm. – Những chuyện như thế, sau này đừng nhắc nữa.

Tôi vẫn cúi gằm mặt, thuyền đã về đến bến sông tối qua, chuẩn bị cập bờ. Tôi len lén nhìn sang, lão thấy dáng vẻ lấm lét của tôi thì phì cười. Không muốn cả hai mang tâm trạng nặng nề mãi, tôi cố nghĩ chuyện chọc lão vui, đoạn ghé tai lão thỏ thẻ:

- Em nghĩ ra rồi, em sẽ xưng là nam sủng, đang mang thai con đầu lòng của vương gia.

Lão hơi nghệch mặt ra, khóe môi giật giật rồi lấy lại ngay vẻ bình thản đứng dậy, mặc kệ tôi vẫn ngồi đấy, toan bước lên bờ. Tôi không bỏ cuộc, bám theo sau lão léo nhéo:

- Hay em bảo em là đứa con rơi vương gia giấu diếm bấy lâu…

Tôi chưa nói hết câu, lão đã ném cái áo choàng to đùng phủ lên đầu tôi. Không kịp phản ứng, tôi thấy mình bị cắp ngang hông rồi nhấc bổng lên cao, trời đất bỗng chao đảo. Khi bình tĩnh lại và kéo được áo choàng ra, tôi đã an toàn đứng trên đất liền. Binh sĩ nhìn tôi, mặt mũi ai nấy rất khó coi như đang cố nén cười. Trần Cụ cũng nhìn tôi, vẻ thất thểu như không thể hiểu tại sao vị sư phụ tài trí của mình lại giữ một đứa dở người bên cạnh, vừa phiền nhiễu vừa mất mặt.

Lão già đã ở tít đằng xa, đang ngồi trên phiến đá xem xét vật gì đó. Tôi nhanh chân bước lại, một vị tướng trẻ cúi đầu hành lễ:

- Mạc tướng Đỗ Ngạc bái kiến tiểu thư!

Tôi cố nhớ ra cái tên này, đoạn kêu lên:

- Anh là phó tướng quân Thánh Dực phải không? Sao hôm nay tôi mới gặp?

- Thưa, trước tôi đóng ở lộ Khoái, mấy hôm nay theo lệnh vương gia ở lại Thăng Long để theo dõi động tĩnh quân Thát. Nghe danh tiểu thư Nhã Phong đã lâu, giờ mới được diện kiến!

Tôi quan sát người trước mặt, Đỗ Ngạc kém lão già vài tuổi, gương mặt và tác phong đều hiện rõ phong thái đĩnh đạc của người quen quân ngũ. Nghĩ đến chị gái tôi, nghĩ đến anh Thân, nghĩ đến Trần Cụ, tôi chợt nhận ra lão rất thích thuộc hạ nghiêm túc, hành xử theo phép tắc. Đã thế, tôi càng phải chăm chỉ ở cạnh lão bày trò vui để cuộc sống của lão bớt nhàm chán phần nào, nếu không vài năm nữa biết đâu lão sẽ lên Yên Tử xuất gia thực sự.

- Việc ấn nội mật bị mất, ngoài cậu ra còn ai biết nữa không? – Lão hỏi Đỗ Ngạc.

- Bẩm vương gia, chỉ có mạc tướng và thuộc hạ thân tín biết. – Anh ta nhỏ giọng trình.

Tôi nhìn vật lão đang cầm trên tay, hóa ra đây chính là con ấn của vua! Chắc nó bị lạc mất trên đường di tản, may mắn được quân ta tìm lại, nếu rơi vào tay giặc không biết hậu quả sẽ ra sao. Nhưng như thế, bấy lâu nay, thư lệnh trong quân đang dùng ấn gì, làm thế nào để hiệu lệnh cho tướng sĩ ở xa? Ngẫm nghĩ một hồi bỗng thấy ánh sáng trong đêm tối, đoan chắc lão cũng nghĩ như mình, tôi liền quỳ xuống, tay đặt lên gối lão rất thành khẩn:

- Tiên sinh, đây chẳng phải thời cơ ta đang đợi sao? Xin người để em đi!

Nếu tôi thay lão già mang ấn báu trả lại cho hoàng đế, lão có thể phối hợp với Hưng Đạo vương đánh vào Thăng Long mà không khiến triều đình nghi kỵ. Trận chiến này có thể kết thúc sớm hơn một chút, số người ngã xuống cũng ít đi một chút. Hùng tâm tráng chí của lão cũng được an ủi phần nào.

Bàn tay to lớn của lão nắm hờ rồi đặt lên tay tôi, mắt lão thoáng nét đăm chiêu đoạn chậm rãi khép lại như đang suy nghĩ rất lung. Hồi lâu, đôi mắt ấy mở to, trở về vẻ tinh anh và quyết liệt của đêm hôm trước, lão khẽ khàng ban từng lệnh:

- Đỗ Ngạc, cậu dẫn người dọ thám mật đạo ở cổng tây thành. Hơn hai mươi năm không ai dùng đến, phải kiểm tra cẩn thận phòng bất trắc.

- Tuân lệnh! – Đỗ Ngạc lập tức rời đi.

- Trần Nhã Phong, em mang ấn nội mật đến Hoàng giang giao cho Chiêu Minh. Những việc cần nói cứ để cậu ấy truyền đạt đến hoàng đế và thái sư.

- Tuân lệnh! – Tôi hồ hởi đáp.

- Trần Cụ! – Lão gọi to, hắn sải bước đến ngay.

- Sư phụ gọi con?

- Mang theo một ngũ binh bảo vệ ấn báu, nhất định phải đến nơi bình an vô sự.

- Thưa vâng!

Nói rồi, lão bước về phía ba quân đang đợi lệnh, dõng dạc nói to:

- Toàn quân nghe lệnh, trở về rừng mơ chỉnh đốn lực lượng, chuẩn bị tiến đánh Thăng Long!

- Rõ! – Muôn người đồng thanh rồi nhanh nhanh chóng chóng vào hàng ngũ lên đường.

Gió từ triền sông lồng lộng thổi vào, quân kỳ Thánh Dực bay phần phật, rực rỡ trong nắng sớm.


***


Tôi gói ấn nội mật vào mấy lần vải rồi để vào cái đẫy buộc chặt bên vai. Lão già đưa tay toan đỡ tôi bước xuống thuyền, song tôi chỉ siết tay lão thật chặt rồi buông ra ngay, đoạn nhanh như cắt lấy đà búng người lộn một vòng, gọn gàng đáp lên mũi thuyền. Thuyền chòng chành khiến tôi hơi choáng váng nhưng vẫn nở được một nụ cười rạng rỡ, chắc mẩm cả Trần Cụ và tướng sĩ xung quanh đều đang trầm trồ thán phục. Ông đây khi muốn ỷ lại lão già sẽ vô dụng hơn cả kẻ vô dụng nhất, khi cần được việc thì tuyệt nhiên không thua kém một ai, các người đã hiểu chưa?

Lão già đứng trên bờ mỉm cười có vẻ hài lòng. Vẫn giữ vẻ giương giương tự đắc, tôi ngẩng đầu nhìn quân kỳ đầy kiêu hãnh rồi đọc to hai câu thơ trong sử ký của ông Tư Mã:

“Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn,

Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.”[2]

Nhìn lại chỉ thấy lão già chuyển sang cười nhạt, còn lại binh sĩ ai nấy mặt mày xám ngoét. Trần Cụ đứng sau tôi khẽ nhắc:

- Cô Nhã Phong, chuyến này chúng ta không hề có ý định ám sát hoàng đế như Kinh Kha tráng sĩ!

Quả nhiên sau một đêm thiếu ngủ, dù là người sáng suốt tỉnh táo đến đâu cũng dễ phạm sai lầm. Vốn thông minh tuyệt đỉnh, tôi gỡ gạc được ngay, nét cười say đắm lòng người vẫn không lay chuyển:

- Đó là khẩu khí bi tráng của người xưa, còn Nhã Phong em đây vốn quý trọng cuộc sống vô cùng. Hôm nay từ biệt mọi người chỉ nói đơn giản một câu: Tiên sinh, hẹn thanh bình gặp lại! – Nói rồi, tôi ôm quyền chào lão, biết rõ trong lòng lão đang nhạo báng nhưng tôi không chấp, ngoài mặt vẫn giữ nguyên tư thế của một đại trung thần.

- Vương gia, thanh bình gặp lại! – Binh sĩ đã lên thuyền cũng nhất loạt cúi đầu chào.

Lão gật đầu, nụ cười sáng rực đầy tin tưởng, dáng người cao cao thẳng tắp, một tay chống hông, một tay đặt lên chuôi kiếm. Tôi nhìn thật lâu dáng hình thân thương ấy rồi hít một hơi sâu, nhắm mắt ngửa mặt lên trời mơ về một ngày cờ Thánh Dực quân lộng gió Thăng Long. Sau một tiếng hô của anh trạo phu trưởng, thuyền tách bến, xuôi về phương nam. Tôi biết lão sẽ thắng, tôi biết mình sẽ bình an trở về gặp lão. Nỗi buồn tiễn biệt hôm nay là để cánh chim bằng của tôi vút cao trên bầu trời rộng lớn. Đây có lẽ là chuyến đi ý nghĩa và hữu dụng nhất của tôi suốt mấy năm qua.


***


- Cô Nhã Phong uống chút cho ấm người! – Trần Cụ đưa cho tôi một bình rượu nhỏ.

- Ta không uống được rượu, cảm ơn ngươi! – Tôi mỉm cười với hắn, kéo lại tấm áo choàng của lão già. Thật lòng tôi muốn tìm góc mà đánh một giấc nhưng vẫn cố chống chọi, tự nhủ mình không được lộ vẻ mệt mỏi khiến binh sĩ mất tinh thần.

- Lúc ở hồ Cấm Sơn thấy cô khen rượu do Cụ ủ, Cụ cứ tưởng tửu lượng cô rất cao. Hóa ra Cụ không hiểu gì về cô cả! – Tên sư đệ của tôi bỗng buồn buồn.

- Chúng ta mới gặp nhau có vài lần, không rõ tính nhau cũng bình thường thôi mà! – Tôi bắt chước dáng vẻ của lão già, đấm đấm vào ngực hắn trêu.

Trần Cụ đưa tay sờ lên chỗ tôi vừa đấm, nét mặt rất lạ kỳ. Tôi nghĩ mình đã quá tay, liền nói:

- Xin lỗi! Ta làm ngươi đau có phải không?

- Không ạ. – Tên Thích Đối Xứng khẽ lắc đầu. – Do Cụ bất tài, cố gắng thế nào cũng không chạm đến một phần của sư phụ.

Tôi bật cười, xoa xoa đầu hắn:

- Ngươi kém lão hơn mười tuổi, sao mà so bì được. Ngươi sáng dạ lại chăm chỉ, vài năm sau thành tựu chắc chắn khiến người người ngưỡng mộ, đừng vội!

- Vội thế nào cũng không lấy lại được mười mấy năm qua cô Nhã Phong kề cận bên thầy. – Hắn tránh khỏi bàn tay của tôi, ánh mắt bỗng xa xăm.

- Nói cũng phải. – Tôi thở dài nhìn theo một đám lục bình trôi trên sông. – Xem ta là đối thủ để so bì thì dễ thất vọng lắm, xem là mục tiêu để noi theo thì rất được! Một ngày nào đó, ngươi nhất định sẽ tài trí như ta của bây giờ! – Tôi vỗ vỗ vai tên sư đệ động viên nhiệt tình.

Trần Cụ đúng là đầu đất, mãi không hiểu ý tốt của tôi nên thở dài đánh thượt rồi bỏ đi về phía đuôi thuyền, thả cần câu. Thuyền đi rất nhanh nên dĩ nhiên hắn không bắt được con cá nào. Dưới hàm hắn lún phún râu, dáng vẻ thì ủ rũ, trông cứ như ông Lã Vọng đang câu cá chờ thời.

Tôi lại tựa cột nghĩ bâng quơ, chuyến này tuy có thể tiếp cận Trần Thủ Độ nhưng tôi đang thay mặt lão già đến đó, không thể gây rắc rối cho lão, lời thề trả hận thay ông Đảm chỉ đành gác lại chờ dịp khác.

Khi gặp lại hẳn là Quang Khải rất ngưỡng mộ tôi, tôi có thể chỉ huy dân làng, một mình tả xung hữu đột với giặc, theo lão già gây náo loạn ở Triều Đông, mang ấn báu trả về khổ chủ. Còn hắn, thân là hoàng tử cao quý, là thiếu niên ngạo khí ngút trời, chuyến này chỉ vì còn trẻ tuổi mà phải ngoan ngoãn ở lại hành cung cùng với đám nữ quyến họ Trần, chịu sự quản thúc của quốc mẫu. Thành tựu lớn nhất trận này của hắn có khi lại là thêm vài tiểu thiếp. Nghĩ đến đây tôi bỗng thấy mình thật oai phong, che miệng cười không thành tiếng.

Thuyền đi đến lúc trời sập tối thì gần tới hành cung, tôi định lệnh cho mọi người dừng lại nghỉ ngơi kẻo tiếp cận trong đêm lại gây hiểu lầm không đáng có. Không ngờ trạo phu vừa dừng chèo đậu thuyền sát bờ lau lách, tiếng vó ngựa từ đâu vẳng đến ngày một gần hơn, tim tôi cũng theo đó mà lạc nhịp. Tôi biết đây không phải quân Đại Việt đang đi tuần, bởi âm thanh này đã ám ảnh tôi trong rất nhiều đêm trước. Ra hiệu cho mọi người im lặng cúi thấp đầu, tôi than thầm với Trần Cụ:

- Ngươi biết không, cái khổ của đại mỹ nhân như ta là đi đến đâu cũng được đón tiếp nồng nhiệt quá!





[1]Câu này dẫn bài kệ thị tịch “Nguyên hỏa” của thiền sư Khuông Việt thời tiền Lê:

“Mộc trung nguyên hữu hoả,

Nguyên hoả phục hoàn sinh.

Nhược vị mộc vô hoả,

Toàn toại hà do manh?”

Dịch nghĩa:

“Trong cây vốn có lửa,

Sẵn lửa, lửa mới sinh ra.

Nếu cây không có lửa,

Cọ xát sao lại thành?”

[2]Dịch thủy ca, nghĩa là:

“Gió se sắt chừ, sông Dịch lạnh tê

Tráng sĩ một đi chừ, chẳng trở về.”

Hai câu này chép trong Sử ký của Tư Mã Thiên. Tương truyền, Kinh Kha khi lên đường làm thích khách để ám sát Tần Thuỷ Hoàng, được thái tử Đan và quần thần đưa tiễn đến bờ sông Dịch, tại đây, Kinh Kha khảng khái hát hai câu này.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 29: NHỮNG NGƯỜI CHINH CHIẾN BẤY LÂU[1]

Tôi áp tai sát bờ đất để nghe ngóng, tiếng vó ngựa càng lúc càng gần nhưng không quá dồn dập. Tôi đoán đây chỉ là toán quân bọn chúng cử đi do thám các vùng lân cận rồi tình cờ phát hiện ra thuyền của chúng tôi. Đỗ Ngạc nhận lệnh phong tỏa Thăng Long, không hiểu sao hắn lại để lọt số quân này. Chúng tôi có thể thoát đến hành cung với tốc độ hiện tại, nhưng như thế, nếu bọn giặc không tiếp tục đuổi theo mà quay về báo tin rồi kéo đại quân tấn công trong lúc ta chưa chuẩn bị chu toàn, hậu quả sẽ khó lường.

Một vài mũi tên bắt đầu bay đến. Tôi nhìn quân số ít ỏi trên thuyền, cắn môi suy nghĩ hồi lâu, đoạn tháo cái đẫy giữ ấn báu trên vai trao cho Trần Cụ, thản nhiên căn dặn hắn:

- Nghe nói ngươi bơi cũng khá, nếu chẳng may thuyền không trụ được thì cố mà bơi đến hành cung tìm Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, bảo hắn đến chi viện cho ta.

Tên sư đệ chợt cả gan giữ chặt tay tôi, vẻ mặt hiền lành mọi ngày giờ chỉ còn lại nét cố chấp không gì lay chuyển. Hắn mỉm cười:

- Cô Nhã Phong không tin Cụ cũng phải tin thầy chứ! Dẫu gì Cụ cũng là đệ tử được thầy truyền dạy, sao có thể không hiểu tình hình hay để cô mạo hiểm!

Nói rồi, hắn ấn cái đẫy lại vào tay tôi, đoạn cầm lấy cái nỏ lớn, khoát tay ra hiệu cho cả toán quân phía sau cùng lên bờ. Vốn tôi định ở lại tìm cách giết sạch bọn giặc, phần để ấn báu an toàn đến được hành cung, phần để tung tích quân ta không bị lộ, chẳng ngờ rằng Trần Cụ đã đoán được ý này. Trong phút chốc, tôi như thấy ông Đảm, thấy bác Thôi, thấy bốn anh lính quân Thánh Dực Dũng Nghĩa đồng hành với hắn. Tôi vội gọi với theo:

- Trần Cụ!

Dáng người cao cao của gã con trai mới lớn thoáng sững lại, hắn quay đầu nhìn tôi, cười hiền, trong đôi mắt sáng lấp lánh một tia luyến tiếc khó hiểu. Hắn nói liền một mạch:

- Sư phụ nói cô Nhã Phong nấu ăn rất ngon. Cô đến hành cung trước, nếu Cụ có thể gặp lại cô ở đó thì phiền cô nấu cho một bát cháo cá.

Nhìn dáng vẻ này của hắn, cổ họng tôi bỗng dưng nghẹn lại, cố gắng lắm mới nói được mấy từ:

- Ngươi bị lão lừa rồi, cháo là món duy nhất ta không biết nấu.

Trần Cụ thở hắt ra, cười khổ, đoạn hắn đưa chân đạp mạnh, thuyền chúng tôi bị đẩy ra xa bờ. Đám trạo phu lập tức hiểu ý, chèo đi rất nhanh, ngũ binh trên bờ cũng lao nhanh như cắt về phía có tiếng vó ngựa, những mũi tên xé gió bắt đầu lao về phía xa. Vun vút. Vun vút.

- Các anh chèo nhanh lên, nhanh nữa lên! – Tôi quệt đi những giọt nước mắt đã dâng đầy tự lúc nào, thúc giục người trên thuyền.

Không hiểu sao thuyền càng đi xa, tai tôi càng nghe rõ tiếng binh khí và tiếng người la hét. Quai hàm cắn chặt, tôi tự nói thầm hàng trăm lần: “Trần Cụ, ngươi phải đợi ta, không được chết! Cả ngũ binh đó không ai được chết!”. Chúng tôi đã đến được tận đây, chúng tôi chỉ vừa mới hẹn với lão già sẽ gặp lại lúc thanh bình, cả tên của bọn họ cùng tôi còn chưa nhớ hết cơ mà…

“Tháng trước vợ bác mới sinh phỏng? Là trai hay gái đấy?”

“Thằng cu kháu lắm! Đợi nó lớn tôi sẽ xin vương gia cho nó gia nhập quân Thánh Dực!”

“Tôi cũng vừa lấy vợ, xem ra vài năm nữa, quân doanh sẽ đông đúc lắm!”

Tiếng cười nói vui vẻ của mọi người cứ vang lên bên tai khiến lòng tôi thắt lại từng cơn. Con sông thơ mộng hôm nào trên đường đến hội thề Đồng Cổ tôi còn thích thú dừng chân ngắm nhìn giờ bỗng dài ra thăm thẳm như trêu chọc, hết cong về mạn phải lại ngoặt về mạn trái, mãi mà bóng hành cung vẫn chẳng thấy đâu. Âm phù của lão già bị tôi nắm trong tay đến nóng sực, tôi không ngừng cầu khẩn để mình được gặp Quang Khải ngay khi đến Thiên Trường, nếu không, Trần Cụ và mọi người làm sao đợi được.

Đến khi thuyền qua một khúc quanh, từ triền đồi gần đó bỗng hiện lên ánh lửa lập lòe. Thấy những đốm lửa di chuyển rất thong dong như người đang đi tuần tra, tôi vội ra lệnh cho trạo phu chèo đến gần. Dưới ánh trăng hạ tuần, gương mặt của kẻ dẫn đầu hiện ra khiến tôi mừng suýt khóc. Tôi chộp lấy một mũi tên, xé vạt áo bịt phần đầu nhọn rồi bắn về phía hắn. Mũi tên bay vút qua mặt tên dẫn đầu, quân lính lập tức lao về phía chúng tôi. Thuyền nhanh chóng cập bến, tôi giương cao quân kỳ Thánh Dực vẫy liên hồi, miệng thét to:

- Khải! Khải! Trần Quang Khải ! Là ta đây!

- Phong! – Quang Khải lập tức nhận ra tôi, quả nhiên là huynh đệ tốt!

Nhanh như sóc, tôi vứt cây cờ sang bên, nhảy lên bờ rồi chạy về phía hắn. Quang Khải cũng thúc ngựa phóng đến chỗ tôi. Hắn vừa xuống ngựa, chúng tôi đã ôm chầm lấy nhau, xúc động khôn cùng:

- Phong, sao ngươi lại đến đây? Ngươi có bị thương ở đâu không? – Hắn luôn miệng hỏi. – Tiên sinh của ngươi đâu?

Tôi lắc đầu nguầy nguậy, đoạn gấp gáp bảo hắn:

- Ta cùng sư đệ đến tìm ngươi thì gặp quân Thát ở ngã ba sông, ngươi mau đến tiếp viện! Chúng chưa đến một trăm người! Mau lên không thì muộn mất!

Quang Khải mở to mắt kinh ngạc rồi phản ứng rất nhanh:

- Được, ta sẽ đi ngay!

Hắn đẩy tôi cho một anh lính đứng gần đó rồi lập tức lên ngựa, dẫn quân chạy về hướng tôi vừa chỉ. Anh lính lúng túng giây lâu rồi nhảy xuống, nhường ngựa cho tôi. Tôi gật đầu cảm ơn anh ta:

- Nhờ anh đưa mọi người trên thuyền về hành cung trước!

Nói đoạn, tôi thúc ngựa đuổi theo, cố gắng bắt kịp Quang Khải. Dẫn đầu đoàn quân, tên bằng hữu của tôi hôm nay bỗng cao lớn, oai phong lạ thường, khiến tôi phần nào thấy an tâm. Trong chớp mắt, ngã ba sông đã hiện ra phía trước, từ xa đã có thể ngửi được mùi máu tanh nồng. Tim tôi như thắt lại, tôi vụt chạy lên.

- Phong! Cẩn thận! – Khải kêu lên, vội đuổi theo tôi.

Đón tôi không phải cảnh giao tranh đang hồi sinh tử mà là chiến địa lặng lẽ đến đáng sợ. Những tàn cây lớn in lên nền trời đêm một màu đen thăm thẳm, bốn bề chỉ có gió xạc xào, rờn rợn. Tay run run, tôi cầm lấy cây đuốc của một người đứng gần đó, đưa về trước. Ánh lửa soi rõ những xác người. Quân Đại Việt và quân Thát nằm lẫn vào nhau, chồng lên nhau. Số lượng người Thát gần như gấp hai lần.

- Trần Cụ! – Tôi khe khẽ gọi. – Trần Cụ, ngươi ở đâu?

Không có tiếng đáp lại. Quang Khải đứng phía sau tôi, ra lệnh cho binh lính:

- Lục soát xung quanh xem có tên giặc nào chạy thoát không. Đưa những người còn sống về chữa trị.

Sĩ tốt lập tức tản ra, tôi cũng theo họ đến gần. Quang Khải nắm khuỷu tay tôi giữ lại song tôi gạt hắn ra để tiến lên.

- Trần Cụ! – Tôi lớn tiếng hơn, vẫn không có ai đáp lại.

Chân tôi vấp phải thứ gì đó, suýt nữa thì té sấp, có tiếng rên khe khẽ vang lên. Tôi vội cúi xuống thật sát để xem, dưới một cái xác lật úp, trên lưng có cắm một mũi tên, một bàn tay đẫm máu yếu ớt cố giơ cao. Tôi đẩy cái xác phía trên ra, gương mặt hồ hởi của anh lính sáng nay khoe mình vừa vui duyên mới giờ đã trắng bệt, lạnh ngắt. Bên dưới, anh lính lớn tuổi hơn vừa có con trai tháng trước gọi tên tôi trong khó nhọc:

- Cô Nhã Phong… vương gia…

Tôi vội vã đỡ đầu anh ta dậy, vui buồn lẫn lộn:

- May quá! Anh còn sống! Cố lên một chút, tôi đưa anh đi trị thương ngay!

- Chúng tôi giết sạch… giết sạch rồi… không cần đuổi… - Tay anh huơ huơ hệt như bác Thôi hôm trước tự hào khoe mình giết được những ba mươi tên giặc. - Cậu ấy… cậu ấy… - Đoạn, anh chỉ vào người vừa có vợ kia. – Đỡ tên cho tôi… cậu ấy nói tôi còn phải nuôi con... trên còn có mẹ già…

Tôi gật đầu liên tục, nước mắt tuôn ướt mặt, thận trọng đưa anh ta cho binh sĩ của Quang Khải. Tôi nhìn sang anh lính trẻ nọ giờ đã thành cái xác không hồn, gương mặt anh thanh thản lạ lùng, tay vẫn nắm chặt thanh đao đẫm máu giặc. Tay kia, dường như anh ta đang cố lấy ra vật gì từ ngực áo. Tôi liền kéo ra xem thử, đoạn đưa tay che miệng để ngăn mình khỏi nấc lên.

- Phong, sao vậy? – Quang Khải lo lắng hỏi tôi.

Tôi đưa cho Khải xem chiếc yếm màu đào có đóa hoa nhỏ rất duyên, kỷ vật của đôi vợ chồng son trẻ. Tôi có thể tưởng ra, người lính này đã nhìn thấy bóng dáng yêu kiều kia trong hình sông thế núi mà chiến đấu đến giây phút sau cùng. Lúc tiễn chồng đi, người vợ ấy có nghĩ đến sinh ly tử biệt không? Tình nước nặng, hay tình nhà nặng? Tôi lắc mạnh đầu để xua đi muôn vàn câu hỏi không hồi kết. Nhìn sang bên, Quang Khải cũng như tôi, nắm chặt cái yếm trong tay đến khi nhàu nát, mắt vằn lên những tia máu đỏ ngầu.

- Trần Cụ! Trần Cụ! – Tôi tiếp tục kiếm tìm, giọng lạc hẳn đi.

Lại cầm đuốc soi thật kỹ từng gương mặt, tôi không ngừng hồi tưởng bao nhiêu lần gặp nhau, Trần Cụ luôn là người đầu tiên lên tiếng chào tôi, chạy đến mừng tôi. Vậy còn lần này, ngươi đang ở đâu sao không ra đây? Có phải đã đuổi theo giặc Thát nên chưa kịp quay lại không? Có phải ngươi vẫn còn sống không? Lão già đã lệnh cho ngươi phải bảo vệ ấn nội mật an toàn đến hành cung, ấn vẫn chưa được trao lại cho hoàng đế, ngươi không được trốn tránh nhiệm vụ!

Tôi đi mãi, tìm mãi, Trần Cụ vẫn chẳng thấy tăm hơi. Nếu lúc đó không phải là Trần Cụ tranh đường vào cửa tử với tôi thì có lẽ bây giờ, Quang Khải mới là kẻ đang đốt đuốc đi tìm tôi giữa những xác người kia.

Chỉ còn lại một thi thể cuối cùng đang tựa gốc cây xa nhất, vai cắm một mũi tên, đầu ngoẻo sang một bên làm tóc che kín mặt. Tôi chậm chạp ngồi xuống bên cạnh, không rõ mình có muốn tìm thấy tên sư đệ hay không. Nếu như không có mặt trong số này, biết đâu hắn hãy còn sống, biết đâu hắn đã quay về báo tin lại cho lão già…

Hít sâu đến mấy lần, ngón tay tôi run run vén những lọn tóc bết máu đang rũ trên mặt người nọ, đoạn thét toáng lên:

- Quang Khải! Quang Khải!

Quang Khải nhanh chóng chạy đến. Một tay đặt lên vai tôi như trấn an, hắn ngồi xuống, ngón tay đặt lên mũi, lên cổ Trần Cụ để xem xét.

- Người đâu! – Hắn gọi binh lính đến. – Cậu ta vẫn còn thở, mau!

Binh sĩ thận trọng đỡ Trần Cụ mang về chữa trị. Tôi mất một lúc mới ngấm được sự thật này, thở hắt ra nhẹ nhõm, song vẫn ngồi bất động. Quang Khải ôm chặt vai tôi kéo dậy:

- Ngươi đừng lo, Phong, mạch vẫn còn rõ lắm, chúng ta sẽ cứu được hắn thôi!

Ánh mắt tôi lướt qua những người đang nằm dưới đất. Tôi rít qua kẽ răng:

- Khải, ta muốn về Cổ Mai. Lẽ ra ta không nên đến đây! Ta…

- Phong! Bình tĩnh lại, có ta đây! – Khải siết vai tôi đến đau nhói. – Tiên sinh của ngươi muốn ngươi đến đây ắt cũng hy vọng ngươi được bình an. Trần Cụ chưa chết, anh lính lúc nãy chưa chết, ngươi còn có ta đây…

Bất giác, tôi vòng tay ôm chặt tên bằng hữu đầu tiên của mình:

- Quang Khải, ngươi không được chết. Ta không bảo vệ được chiến hữu của mình, giờ chỉ còn mỗi ngươi thôi! Ngươi không được chết! Hứa với ta đi!

- Phong…

- Hứa với ta đi! – Tôi nằng nặc.

- Ta hứa! Ta hứa với ngươi, ta sẽ không chết! – Quang Khải vỗ vỗ vai tôi như dỗ trẻ con.

“Ta hứa, ta sẽ không chết.” Cách đây rất lâu, cũng có một người nói với tôi hệt như thế.

Người cũng không được chết! Nhất là người, không được chết!


***


Quang Khải là con trai cưng của hoàng đế, thế mà hắn đích thân đưa chúng tôi về lại hành cung vẫn không tránh khỏi một hồi thẩm vấn gắt gao theo lệnh của quốc mẫu, từ tra xét thân phận của tôi, lý do tôi không cùng di tản với hoàng thất mà đợi tận bây giờ, đến việc nửa đêm Quang Khải tự ý dẫn thân binh đi tuần quanh hành cung vì vốn đây không phải là việc một hoàng tử nên làm. Quang Khải ra mặt giải quyết hết những việc này. Đứng sau lưng hắn, tôi chua chát cười thầm, cũng may toán binh của Chiêu Minh vương phủ không phải tham chiến, nếu không chẳng biết hậu quả sẽ thế nào.

Lằng nhằng như thế nên đến khi tôi được xếp cho một căn phòng để nghỉ ngơi, đêm đã qua một nửa, tâm trạng kích động của tôi cũng dần lắng xuống. Thay xong một bộ y phục sạch sẽ, tôi nghe tiếng gọi dịu dàng ở bên ngoài.

- Chị Nhã Phong đã ngủ chưa? Phụng Dương vào có được không?

- Công chúa Phụng Dương! – Tôi reo lên rồi vội vàng mở cửa.

Khi nhìn thấy gương mặt non nớt mà đoan trang cao quý kia, động tác của tôi liền sững lại, tự thẹn mình quá quê mùa, thô lỗ.

- Bây giờ phải gọi công chúa là Chiêu Minh vương phi mới phải. – Tôi cười cười, tránh sang một bên để Phụng Dương vào phòng.

Cô nữ tì đi theo nàng nhanh nhẹn mang đặt lên bàn một bát cháo rồi lễ phép lui ra. Phụng Dương bảo tôi, giọng ngọt như mật ong rừng:

- Chị ăn ngay cho nóng.

Hương gạo mới, mùi thịt cá quả thơm lựng quyện với mùi tiêu cay nồng khiến bụng tôi sôi réo. Toan đưa một thìa vào miệng, một giọng nói lại vang lên bên tai tôi: “Nếu Cụ có thể gặp lại cô ở đó thì phiền cô nấu cho một bát cháo cá”. Tôi luyến tiếc đặt lại cái thìa vào bát, ngần ngừ hỏi Phụng Dương:

- Thật ngại quá, khuya rồi mà vương phi còn cất công chuẩn bị cho tôi. Nhưng tên sư đệ của tôi đang bị thương nặng, hắn lại rất thèm món này, không biết tôi có thể mang sang cho hắn không?

Công chúa bật cười, khóe mắt cong cong dịu dàng khôn tả:

- Phụng Dương đã đưa một bát sang đấy rồi, nghe ngự y nói vết thương của người tên Trần Cụ cũng không nghiêm trọng lắm, chỉ bị mất máu nhiều, nghỉ ngơi tẩm bổ là khỏi. Chị Nhã Phong cứ yên tâm dùng đi.

Được lời như cởi tấm lòng, tôi xì xụp xơi hết bát cháo vừa thơm vừa ngon. Trong thoáng chốc, tôi cảm thấy đố kỵ với Quang Khải vô cùng. Tôi thật rất muốn, rất muốn lấy một người vợ giống Phụng Dương. Nghĩ đến đây, chuyện cũ ùa về, tôi lại áy náy nhìn công chúa:

- Tôi xin lỗi, hôn lễ của hai người tôi không đến dự được, lỡ mất rượu mừng của vương phi…

Nụ cười ngọt ngào của công chúa vẫn không lay chuyển, nàng từ tốn bảo tôi:

- Phụng Dương đã được Hưng Ninh vương chúc mừng rồi. Chị Nhã Phong là hồng nhan tri kỷ của Chiêu Minh vương, đã làm chủ hôn cho vương gia và Nguyệt Nhi, sao có thể uống rượu tân hôn của vương gia và Phụng Dương được nữa. Đây là chuyện thiên kinh địa nghĩa, lẽ nào Phụng Dương lại không hiểu chuyện mà hờn trách chị!

Tôi cúi mặt nhìn bát cháo, tay khua khua cái thìa một cách vô nghĩa:

- Vương phi hiểu lầm rồi. Tôi đúng là tri kỷ của Chiêu Minh vương nhưng hắn không xem tôi là hồng nhan đâu. – Dừng một thoáng, tôi bỗng dưng muốn hỏi rất thật lòng. – Lâu nay, vương đối xử với nàng có tốt không?

Công chúa lại nhoẻn cười, tôi cúi đầu, đưa tay xoa trán, tự bảo mình: “Phong ơi Phong, huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục. Dẫu gì Phụng Dương cũng là chính thất cưới gả đường hoàng của Quang Khải, mày không được nghĩ lung tung”.

- Vương gia rất chu đáo, cuộc sống của ta rất tốt. Hay là kết thúc trận chiến này, mời Hưng Ninh vương và chị Nhã Phong đến Độc Lập làm khách để Phụng Dương có dịp đón tiếp hai người? – Công chúa vui vẻ nói.

- Được! Tôi nhất định sẽ mời tiên sinh cùng đến! – Tôi không do dự nhận lời ngay.

Chuyện trò thêm đôi câu, Phụng Dương rời đi để tôi ngủ một chút trước khi trời sáng. Bóng dáng mảnh mai vừa khuất cuối dãy nhà, tôi liền lớn tiếng hỏi bâng quơ:

- Có mang rượu phần ta không đấy?

Quang Khải từ xó xỉnh nào đó lập tức xuất hiện, tay đong đưa bình rượu quý. Hắn khoác vai tôi kéo về phía bờ sông, vừa đi vừa không quên nhắc chuyện xưa:

- Không cho ngươi uống nữa kẻo lão già nhà ngươi đến tận đây hỏi tội. Thân binh của Chiêu Minh vương phủ chống không lại Thánh Dực quân đâu!

- Vương phi của ngươi vừa bảo ta ngủ sớm cho lại sức thì ngươi lại kéo đi, đúng là đồ vô lương tâm! – Tôi nhăn nhó bảo hắn.

- Nếu không sợ ngươi chất chứa tâm sự trong lòng mà khó ngủ, giờ này bản vương đã chăn êm nệm ấm với hai người vợ xinh đẹp rồi. – Quang Khải không nể nang gì.

- Bảo người mang cho ta một ấm chè Mạn Hảo[2] ngay, trời lạnh cắt da thế này ai mà chịu được! – Tôi nói như ra lệnh.

- Đợi vài năm nữa ta được thống lĩnh một đội quân tương đương Thánh Dực, ta nhất định bắt ngươi uống với ta, không say không cho về!

Quang Khải nghêu ngao chỉ trời chỉ đất, không quan tâm gì đến thân phận hay quy củ. Tôi biết hắn rất uất ức vì không được ra trận tự tay giết giặc, liền nhiệt tình an ủi:

- Được! Ngươi vừa lĩnh quân phù là ta sẽ lập tức mua hết rượu ngon ở Thăng Long đến chúc mừng ngay.

Trăng lên giữa cây cầu bắt qua sông, mặt nước êm đềm soi rõ bóng. Tôichợt nói bâng quơ:

- Ngươi nói xem trận chiến này có kịp kết thúc trước năm mới không để ta còn ăn tết? Năm trước, lão già ở Hồng Lộ không về, giao thừa của ta đã chán ngắt rồi.

- Này! – Quang Khải không đáp mà gọi tôi. – Nếu có một ngày chẳng may ngươi trở thành thê thiếp của Hưng Ninh vương thật, lẽ nào mỗi lần gặp, ta phải kính ngươi là chị dâu?

- Ha ha ha. – Tôi cười thành tiếng. – Ngươi say rồi, bắt đầu nói nhảm rồi.

- Không thể được, khi ấy ta bắt lão già nhà ngươi phải làm bằng hữu ngang hàng với ta mới đúng. – Hắn vẫn lè nhè.

- Phụng Dương nhà ngươi mới mời ta và lão đến thái ấp của ngươi làm khách đấy. Chừng đó tha hồ mà kết giao, ta xem hai người cũng hợp tính. – Tôi mặc kệ hắn, chẳng thèm cải chính nữa. – Ta mà có phúc được cô vợ như công chúa, ta nhất định nâng niu nàng ấy như trứng mỏng.

- Trứng mỏng? – Quang Khải cười dài. – Ta đã bao giờ dám làm quả trứng của ngươi phật ý đâu?

- Ngươi lúc nào cũng dính lấy cô đào hát, chưa cần làm gì cũng đủ để nàng ấy chạnh lòng rồi.

- Đào hát? Ờ, phải! Đằng nào con của Nguyệt Nhi cũng không thể có địa vị như con của Phụng Dương nên ta muốn nàng ấy sinh trước, để ta dành nhiều thời gian cho nó một chút xem như bù đắp.

- Mới tí tuổi đầu vắt mũi chưa sạch mà đã tính chuyện sinh con! – Tôi trêu hắn. – Khi nào tự giác tắm thơm thì mới làm thầy người ta được!

Gió từ sông Hoàng thổi lên lồng lộng, chúng tôi ngồi tựa lưng nhau trên cầu bến, nói hết chuyện này sang chuyện nọ. Chỉ mới đầu năm nay, bọn tôi còn là những đứa trẻ hồn nhiên đánh nhau ở quán rượu rồi cùng uống say túy lúy, giờ trong mắt ai cũng đượm vẻ muộn phiền vì vận nước lẫn chuyện nhà.

Không biết khi cơn binh lửa này chấm dứt, bọn tôi còn dịp nào ngồi cạnh nhau không?





[1] Mượn câu trong Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn), bản dịch của Đoàn Thị Điểm:

“Những người chinh chiến bấy lâu

Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.”

(“Cổ lai chinh chiến nhân

Tính mệnh khinh như thảo.”)

[2] Trà Mạn Hảo: Danh trà quý, đắt tiền, chế biến từ giống trà shan tuyết cổ thụ, xưa chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc mà ngày nay đã thất truyền. Mạn Hảo là một địa danh trước thuộc Đại Việt. Từ thời vua Tự Đức, sau hiệp ước Pháp – Thanh ký năm 1885 mới thuộc Vân Nam Trung Quốc.

Ca dao thế kỷ 19 có câu:

“Làm trai biết đánh tổ tôm

Uống trà Mạn Hảo ngâm nôm Thuý Kiều."
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 30: TRẺ CHĂN TRÂU ĐẤT[1]

- Chiêu Minh vương, xin hỏi vương định nằm lì ở phòng của kẻ hèn đến lúc nào? – Tôi rời mắt khỏi khung thêu, nói vọng về phía Quang Khải đang nửa nằm nửa ngồi vắt vẻo trên bậu cửa sổ đọc sách.

Sau cái hôm tôi đến Hoàng giang, Quang Khải đã nhanh chóng gửi tôi đến ở cùng với em gái của lão già, rồi ngày nào hắn cũng vác mặt sang ngồi lì từ sáng đến chiều. Tôi cứ mặc kệ hắn ở đấy vì còn bận thêu một chiếc khăn tay có hình mộc lan hệt như cái mà công chúa Thuận Thiên để lại cho lão già. Chiếc khăn thật đã được tự tay lão trả về cho ông Đảm vào cái đêm tập kích bộ đầu Triều Đông, song tôi vẫn muốn thêu lại một chiếc để lão giữ làm kỷ niệm. Tôi đã từng ngắm nghía đóa mộc lan thêu dở ấy rất nhiều lần nên nhớ rõ như in, song tôi vốn không quen việc thêu thùa nên làm mãi vẫn chưa ưng ý. Quang Khải cũng không làm phiền tôi, chỉ ngồi một góc hết đọc binh thư lại luyện chữ, song chốc chốc lại có kẻ hầu đến tìm hắn xin chỉ thị về việc tuần tra ở hành cung. Thành thử, tôi tìm cách đuổi tên bằng hữu này đi để được yên tĩnh.

- Dẫu gì ở Hoàng giang ngươi cũng đâu quen biết ai. Bản vương ở lại đây bầu bạn, ngày ngày có người đến hầu hạ, dâng sản vật, ngươi còn không biết tạ ơn? – Tên hoàng tử đáp, giọng nói ngang phè.

- Bẩm vương, hiện kẻ hèn đang tá túc trong khuôn viên dành cho quận chúa Thiều, tin rằng không có ai cả gan khinh nhờn, dám đâu nhọc lòng vương. Mời vương về cho, hai vị phu nhân đang trông ngóng mỏi mòn. – Tôi giả đò ôm quyền, cung kính đáp.

Quang Khải cười khẩy một tiếng rồi tiếp tục đọc sách. Tôi đặt khung thêu xuống giường, đi ra chiếc bàn giữa phòng, nhón một quả quýt, tiện tay vứt một quả cho hắn.

- Ta biết ngươi cố ý đến đây trông chừng, sợ ta chạy lung tung. – Tôi thấp giọng. – Nhưng trải qua từng ấy chuyện, ta cũng lớn khôn được một chút rồi.

- Lớn khôn thế nào? – Quang Khải hất hàm hỏi tôi. Trong phút chốc, tôi đã ngỡ mình trông thấy nụ cười của lão già.

- Này, ta và ngươi bằng tuổi nhau đấy, đừng có mà ra vẻ. – Tôi bĩu môi.

- Quang Khải cười thành tiếng, cắm cúi bóc vỏ quýt.

- Ta rời khỏi Yên Bang để đi tìm lão già đã báo hại ông Đảm mất mạng. Từ Cổ Mai đến Hoàng giang, ta lại khiến Trần Cụ bị trọng thương. – Tôi bước đến bên cửa, nhìn về phía chân trời. – Ngươi biết không, Quang Khải, ngay khi gặp quận chúa Thiều, ta liền hiểu ra mình rất nực cười.

Quận chúa là em ruột của Hưng Đạo vương, em khác mẹ với lão già nhà tôi. Nàng ra đời lúc Khâm Minh đại vương, phụ thân của lão già, đã thất thế sau cuộc binh biến ở sông Cái. Lúc ấy, Hưng Đạo vương đã được đưa đến chỗ công chúa Thụy Bà từ lâu, một mặt để làm con tin, mặt khác, những người của chi Tức Mặc không muốn hai anh em lão già ở cùng một chỗ, cùng được Khâm Minh đại vương nuôi dưỡng. Khi quận chúa được vài tuổi thì mẹ nàng vắn số, nàng cũng được đưa đến ở cùng với Hưng Đạo vương, thi thoảng mới về Yên Bang thăm lão già nhà tôi. Thế nên từ trước đến giờ tôi và nàng chỉ gặp nhau được đôi lần.

- Nếu ngay cả người con gái yêu quý nhất của chi Vạn Kiếp đang ở Hoàng giang cũng không thể khiến những kẻ đang nắm quyền của Tức Mặc yên lòng, thì có thêm mười đứa nhãi nhép như ta đến cũng có ý nghĩa gì đâu. – Tôi cười nhạt. – Giao trả ấn nội mật chẳng qua cũng chỉ là cái cớ để lão già lừa ta đến đây, không phải đối đầu với những hiểm nguy nơi tiền tuyến mà thôi.

- Không đâu. – Quang Khải nhìn tôi, cười hiền. – Hôm trước lúc ta giao lại ấn cho quan gia, cả triều đình ai nấy cũng vui mừng. Ngươi thực sự đã lập được công to đấy.

Hắn đưa tay định xoa đầu tôi, tôi thở hắt ra, gạt đi. Rồi chúng tôi ngồi im lặng thật lâu, mỗi người đều theo đuổi ý nghĩ riêng. Tôi không biết mình phải làm gì ngoài việc ngoan ngoãn ở lại đây, đợi thanh bình rồi sẽ gặp lại lão già. Bao nhiêu lần muốn lẻn trốn về Thăng Long, bao nhiêu lần muốn xin thái tử cho gia nhập quân đội của ngài để nhanh chóng tiến gần lão già hơn, là bấy nhiêu lần tôi buộc mình đến thăm Trần Cụ, mở to mắt nhìn những cơn đau đang hành hạ hắn, tự nhắc mình không được liên lụy thêm một người nào nữa.

Mãi sau, tôi dứt khoát kéo Quang Khải đứng lên, đẩy ra cửa:

- Kẻ hèn đã biết tấm lòng bao la quảng đại của vương. Giờ thỉnh vương yên tâm về cho! Kẻ hèn phước lớn mạng lớn, không vì chút muộn phiền này mà chết được đâu!

Quang Khải đẩy tôi ra, lại bước vào phòng, ngồi xuống tiếp tục đọc sách.

- Khải! – Tôi bắt đầu nổi cáu. – Ngươi thực sự xem nơi ở của ta là Chiêu Minh vương phủ chắc. Ông đây không dịu dàng kiên nhẫn như hai người vợ của ngươi đâu!

- Chính vì hai người vợ ấy. – Quang Khải đặt quyển sách xuống, nhìn tôi, vẻ ngạo mạn ban nãy hoàn toàn biến mất. – Thái ấp Độc Lập của ta rất rộng lớn, trước đây mỗi người ở một nơi, từ sáng đến tối không cần chạm mặt nhau. Giờ đến cái hành cung nhỏ bé này, ba người ở cùng một khoảng sân, ta ở cùng ai cũng khó tránh khỏi cảm thấy bất công cho người còn lại.

- Phụng Dương của ta thèm vào đi đố kỵ với cô đào hát của ngươi. – Tôi cười cười.

- Đúng là nàng ấy không hề để mắt. – Quang Khải cũng bước đến ngồi đối diện tôi, trầm giọng. – Chính vì thế, ta càng thấy khó chịu hơn.

- Ha! Ha! – Tôi cười vài tiếng, định châm chọc thêm mấy câu nhưng ánh mắt hơi bối rối của ông hoàng trẻ con khiến tôi bỗng thấy thương hại, bèn giữ nguyên dáng vẻ nghiêm trang, nói tiếp. – Ngươi áy náy thế nào mà lại ở đây cả ngày, không chừng báo hại hai nàng ấy đến đây gây rắc rối cho ta.

- Không đâu. – Hắn đáp tỉnh rụi. – Họ thừa biết ta không có hứng thú với đàn ông.

Tôi chộp nhanh lấy thanh kiếm để trên giường, chĩa về phía hắn:

- Được, vậy hãy quyết đấu với ông như những trang hảo hán nào!

Quang Khải cười nhạt một tiếng rồi cũng cầm lấy thanh kiếm của hắn, sẵn sàng cho một trận thư hùng.

Bên ngoài vang lên tiếng ho sù sụ, quận chúa Thiều và cô thị nữ đi sau vờ như không thấy hành vi khiếm nhã của tôi, tôi cũng lập tức đặt kiếm lên bàn, giũ váy, cúi chào rất đoan trang. Quang Khải nghiêm mặt nhưng không giấu được tiếng cười trong cổ họng, tôi lờ đi như không nghe không biết.

Trong ký ức của tôi, quận chúa Thiều là một cô gái có cốt cách dịu dàng và có phần nhút nhát. Nàng sợ hổ, sợ sâu, thích nép sau lưng hai người anh lớn. Nhiều năm không gặp, vẻ nhút nhát ấy được khéo léo giấu sau nụ cười ngọt như rót mật.

- Nhã Phong, em ở đây có quen không? – Nàng nhỏ nhẹ hỏi tôi sau khi khẽ gật đầu chào Quang Khải.

- Thưa, tốt lắm ạ. – Tôi đáp. – Ngày nào cũng có người mang thức ăn ngon đến, em chỉ ăn rồi ngủ, sắp béo ú rồi đây.

- Chứ không phải mất ăn mất ngủ vì thêu mãi không ra hình mộc lan phỏng? – Quang Khải bước đến phía sau nói khẽ vào tai tôi.

Tôi nguýt hắn một phát rõ dài, đoạn nảy ra một ý, kéo quận chúa đến xem chiếc khung thêu:

- Quận chúa khéo tay, xem giúp em chỗ này phải thêu thế nào ạ?

Quận chúa ngắm nghía một lúc rồi cầm lấy kim, tôi vội ngăn:

- Cô dạy em là được, không dám phiền cô!

- Cái này… - Nàng nhìn tôi một lúc, hàng mi dài khẽ chớp. – Em tặng tình lang nên muốn tự mình làm lấy từ đầu đến cuối phải không?

- Thưa không, em thêu cho tiên sinh đấy ạ. – Tôi đáp.

Đôi mắt long lanh của quận chúa mở to hơn, đoạn nàng bật cười, đưa tay che miệng:

- Hóa ra cũng không hẳn là lời đồn.

- Sao ạ?

- Không có gì, để ta bày cho em. – Nàng ôn tồn đáp.

Được mỹ nhân tận tay chỉ việc, tôi hoàn thành mũi thêu rất nhanh. Quang Khải thấy bọn tôi trò chuyện tương đắc thì định rời đi, không ngờ vừa đến cửa đã đâm sầm vào cậu hoàng nhỏ tuổi.

- Nhật Duật, em chạy đâu mà vội thế? – Quang Khải bế cậu lên.

- Thái tử bảo em dẫn anh ấy đi tìm anh. – Nhật Duật đáp, bàn tay bé xíu chỉ về phía sân.

- Tìm anh? – Quang Khải ngạc nhiên. – Cả hành cung đều biết mấy ngày nay anh đi cùng Nhã Phong, mà chính thái tử lệnh cho anh gửi Phong đến chỗ quận chúa…

Nói đến đây, bọn tôi đều nhận ra gò má quận chúa hơi ửng hồng. Tôi liền nói ngay:

- Khải, không phải ngươi bảo ta nên đến hậu viên giúp đỡ chữa trị cho thương binh sao? Mau dẫn đường!

Quang Khải lập tức hiểu ý:

- Chỉ tại ngươi cà kê mãi, bổn vương đã đợi từ sớm đến giờ.

Thái tử vừa vào đến, chúng tôi nhanh nhẹn cúi chào rồi tiếp tục sải bước.

- Hai người đi nhanh quá, Duật đuổi theo không kịp!

Hóa ra cậu hoàng nhỏ tuổi đang đuổi theo bọn tôi, thở hổn hển, mồ hôi lấm tấm trên gương mặt phúng phính đỏ bừng.

- Em chạy theo làm gì? – Quang Khải bước đến hỏi cậu ta.

- Thế hai người chuồn nhanh như vậy làm gì? – Nhật Duật quệt mồ hôi trên trán, giọng như ông cụ non. – Còn không phải muốn để hai anh chị đấy có thời gian bên nhau phỏng?


***


Hậu viên là mỏm đất nhỏ nhô ra sông, trước có mấy mái đình dùng để câu cá và hóng mát, giờ đang được dùng làm y quán chữa trị cho những thương binh còn sống sót sau trận Bình Lệ Nguyên và trận chiến bất ngờ của Trần Cụ với quân Thát vừa rồi.

Cũng may trận chiến chưa kéo dài, thuốc men và lương thực vẫn còn đầy đủ, song không vì thế mà nỗi đau của những người lính kia giảm đi được chút nào. Vũ khí mà bọn rợ Thát dùng có thể gây ra những vết thương mãi không khép miệng. Tôi chợt nghĩ đến cánh tay của lão già, không biết lúc này lão đang ở đâu rồi, đã vào hoàng thành chưa, có biết tự chăm sóc cho mình không hay cứ để vết thương vừa kéo da non lại nứt ra rồi rỉ máu mãi.

- Cô Nhã Phong… cô là cô Nhã Phong có phải không? – Tiếng thì thào sau lưng cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.

Tôi giao việc băng bó cánh tay của một người lính cho Nhật Duật, đỡ anh lính đang chống gậy nọ ngồi xuống cạnh bên:

- Anh biết tôi sao? Vết thương của anh thế nào rồi? – Tôi ôn tồn hỏi.

- Bẩm, tôi là lính Thánh Dực, trước đây từng được thấy cô Nhã Phong ở Hồng Lộ. – Anh ta đáp.

- Cô Nhã Phong! Cô thật là cô Nhã Phong ư? – Lại có tiếng reo khe khẽ.

- Thật không ngờ chị nổi tiếng trong quân đội như thế! – Nhật Duật trầm trồ.

- Có phải thấy chị cậu rất lợi hại không? – Tôi nheo mắt nói nhỏ với cậu.

- Ngưỡng mộ! Ngưỡng mộ! – Hoàng tử nhỏ ôm quyền cười toe toét.

- Anh đợi một chút, tôi sẽ quay lại ngay. – Tôi nói với người chống gậy, đoạn đứng lên nhìn quanh. – Ai vừa gọi Nhã Phong thế ạ?

- Cô Nhã Phong… – Từ góc đình bên kia, một bàn tay run rẩy đưa lên.

Tôi nhanh chóng bước đến xem. Người này bị thương khá nặng, lớp băng trên ngực và vai ướt sũng máu. Ông ta cố gắng lắm cũng chỉ ngẩng đầu lên được một chút.

- Bác đừng vội! – Tôi thận trọng bước qua những người đang nằm phía bên ngoài, đoạn ngồi xuống, kê cao chiếc gối sau đầu để ông ấy dễ chịu hơn một chút. – Tôi là Nhã Phong đây ạ, bác biết tôi chăng?

Bàn tay gầy guộc của bác ta nắm chặt cổ tay tôi, yếu ớt nói:

- Tôi là gia nhân của nhà họ Phạm. Cậu chủ… cậu chủ kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về cô.

Nhà họ Phạm… Tôi nhớ ra ngay. Phạm Cự Chích! Nguyễn Nam! Đây chính là người trong quân của Nguyễn Nam. Gai ốc đột nhiên nổi khắp người, khóe mắt cay xè, tôi gấp gáp hỏi bác ta:

- Anh ấy nói gì về tôi?

- Cậu Chích nói, chính cô là người chỉ cho cậu ấy biết sứ mệnh thực sự của mình… - Cơn ho dữ dội cắt ngang lời nói của người thương binh khốn khổ nọ. - Cậu ấy còn dặn… nếu chẳng may cậu bạc phần, bọn tôi nhất định phải nghe theo mệnh lệnh của cô…

- Bọn tôi? – Tôi sững sờ nhìn những người nằm bên cạnh, kẻ băng đầu, người chỉ còn lại một chân, tất cả đều đang gượng đau ngồi dậy.

- Xin đợi lệnh của cô! – Gần ba mươi con người còn sống sót đồng thanh đáp.

Môi tôi run run không nói được lời nào. Nước mắt không kiềm được, cứ thế rơi ướt đẫm mặt. Những lời lão già kể vọng về bên tai, vẽ ra bức tranh thảm khốc của trận chiến hôm ấy.

Toàn quân Đại Việt sau khi bị vỡ trận ở Bình Lệ Nguyên đã lui về bến Lãnh Mỹ, nơi chiến thuyền neo sẵn phòng bất trắc. Giặc Thát vẫn đuổi theo ráo riết phía sau, tình thế rất ngặt nghèo. Đến sách Cụ Bản, một đội quân trang bị khác lạ xông ra. Người dẫn đầu đội quân ấy đã thúc ngựa vào giữa đoàn binh bọc hậu và quân giặc, miệng không ngừng gọi lớn:

- Hưng Ninh vương! Hưng Ninh vương! Ông ở đâu?

Chủ tướng quân Thánh Dực vừa giết giặc vừa dõng dạc trả lời:

- Ta đây!

Cậu thanh niên chỉ ngoài hai mươi nhanh chóng chạy đến tiếp ứng cho vương. Hai người chung lưng đấu cật diệt được mấy toán quân, đoạn trông thấy phía sau quân giặc bụi cuốn mù trời, vị thủ lĩnh trẻ ấy bỗng nhoẻn miệng cười, hất hàm bảo vương:

- Các người còn việc phải làm thì đi nhanh! Chỗ này để tôi lo là đủ!

- Cậu tên gì? – Hưng Ninh vương sững người.

- Phạm Cự Chích. – Cậu nói, đoạn đạp mạnh vào ngựa của vương làm nó lồng lên, phóng rất xa về phía trước. – Nhã Phong đang đợi. Về nói với cô ấy là tôi đã cứu ông!

Đội quân cứu viện không rõ từ đâu đến ấy nhanh chóng tạo thành một lớp hàng rào chặn sau quân triều đình, không lui nữa.

“Là cậu ấy đã cứu mạng ta.” Lão già nhắc lại với tôi như thế.

Khi ấy, tôi rúc trong lòng lão, cảm thấy mọi đau thương đều là việc đã qua rồi. Không ngờ lúc này đối mặt với những người lính của Nguyễn Nam, nỗi bi ai lại ngập tràn. Tôi vừa thương vừa giận, không biết thương ai mà cũng không biết giận ai.

Tôi gọi thêm vài người đến giúp thay băng và lau mặt, vệ sinh chỗ ở của những người lính bị thương. Mãi đến khi trời tối hẳn công việc mới hoàn thành, tôi ghé qua thăm Trần Cụ rồi uể oải trở về phòng mình. Dù đã tắm thật lâu, mùi máu tanh hãy còn phảng phất. Lúc này, tôi bỗng nhớ đến mềm lòng hương trầm luôn thoang thoảng trên người lão già. Hóa ra cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn, những thứ đã mất đi là thực sự đã mất đi, khói lửa vẫn còn cháy mãi ngoài kia…

Nghĩ thêm một chốc nữa, tôi quyết định mang quyển y thư mà Nguyễn Nam để lại cho tôi đến nơi ở của thái tử xin yết kiến. Tôi biết bây giờ không phải lúc thích hợp, song vẫn là việc phải làm.

- Xá tội cho Vũ Thành vương? – Thái tử kinh ngạc nhắc lại lời tôi.

- Thưa, phải! – Tôi quỳ trước mặt ngài, đầu cúi thấp. – Tôi biết lúc này cầu xin cho Vũ Thành vương là không thích hợp. Tôi cũng biết mang việc Phạm Cự Chích xả thân tiếp ứng để đổi lấy tự do cho một kẻ phản quốc là sỉ nhục tấm lòng tận trung của họ Phạm. Tuy nhiên… - Tôi mạnh dạn ngẩng lên tha thiết nhìn thái tử. – Tuy nhiên báo ơn cho Vũ Thành vương lại là tâm nguyện lớn nhất của Phạm Cự Chích lúc sinh thời, dù thái tử trách phạt, Nhã Phong cũng phải thay hắn hoàn thành. Hơn nữa…

- Hơn nữa thế nào? – Thái tử hỏi.

- Hơn nữa, ở hậu viên vẫn còn tàn quân của họ Phạm. Một lệnh ân xá của triều đình lúc này chính là lời an ủi tốt nhất giúp họ mau hồi phục.

- Ta nghe nói những người lính họ Phạm kia đã thề chết nghe lệnh cô Nhã Phong. Ta cũng nghe nói, Nhã Phong chính là người được sủng ái nhất phủ Hưng Ninh vương? – Thái tử không giấu vẻ thăm dò.

- Bẩm, phải. – Tôi không do dự đáp. – Hưng Ninh vương lại tận trung với họ Trần. Suy cho cùng, những người họ Phạm ấy đều là người của quan gia và thái tử.

Thái tử nhìn tôi, tôi cũng nhìn ông ta. Bỗng thái tử bật cười sảng khoái:

- Ta nghe danh truyền nhân của Hưng Ninh vương đã lâu, nay đã hiểu rồi. Chẳng trách tướng quân họ Phạm kia lại vì cô mà chiến đấu không màng sống chết.

- Phạm Cự Chích tướng quân là vì Đại Việt mà chiến đấu không màng sống chết. – Tôi chậm rãi đáp, đoạn lại cúi đầu sát đất. – Xin thái tử vì tấm lòng trung thành này mà thay tướng quân xin tội cho Vũ Thành vương trước mặt quan gia.

- Được. Ta hứa với cô. – Thái tử cũng đáp từng lời như đinh đóng cột.


[1]Lấy ý từ bài Thủ nghê nưu (Chăn con trâu đất) của Tuệ Trung Thượng sĩ:

Thủ nê ngưu

Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu,

Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu.

Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ,

Mang mang thuỷ cấp đả viên cầu.

Dịch nghĩa
Một mình riêng giữ con trâu đất,

Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ.

Đem đến Tào Khê thì thả ra,

Mênh mông nước chảy cuốn quả cầu tròn.


Trong Ngữ Lục Triệu Châu ghi:

“Có vị tăng hỏi: Đứa trẻ mới sinh đầy đủ sáu thức hay không? Thiền sư Triệu Châu trả lời: Giống như trên dòng nước chảy xiết đánh cầu.”

Chú thích: Trên dòng nước chảy xiết đánh cầu, ý nói đứa trẻ mới sinh tuy tâm niệm của nó như dòng nước chảy không dừng, nhưng sáu thức không phát khởi công dụng, do đó không có phân biệt sai quấy.
 
Bên trên