Chương 8
“Xin chào, và cảm ơn sự tham gia của mọi người,” Cathy nói với máy ghi hình. “Báo cáo về Mark Watney trên CNN hôm nay: Vài chuyến EVA trong mấy ngày vừa qua… điều đó có nghĩa gì? NASA có tiển triển gì về khả năng cứu hộ không? Và những chuyện này ảnh hưởng thế nào đến sự chuẩn bị cho chuyến Ares 4?
“Hôm nay có Tiến sĩ Venkat Kapoor, Giám đốc Phi vụ sao Hỏa của NASA, góp mặt với chúng ta. Tiến sĩ Kapoor, cảm ơn ông đã đến.”
“Tôi rất hân hạnh được đến đây, cô Cathy,” Venkat nói.
“Tiến sĩ Kapoor,” Cathy bắt đầu, “Ông có cho rằng Mark Watney là người được theo dõi nhiều nhất trong hệ mặt trời không?”
Venkat gật đầu. “Chắc chắn là NASA được theo dõi nhiều nhất. Tất cả mười hai vệ tinh sao Hỏa của chúng tôi đều chụp hình ngay khi khu vực của anh ấy rơi vào tầm nhìn. Cả hai cái của Cơ quan Không gian Châu Âu cũng thế.”
“Tổng cộng là, cứ bao lâu thì ông có được những bức ảnh ấy?”
“Cách vài phút. Đôi khi có một khoảng trống, tùy vào quỹ đạo của vệ tinh. Nhưng cũng đủ để chúng tôi lần theo dấu vết tất cả mọi hoạt động EVA của anh ấy.”
“Hãy cho chúng tôi biết về những chuyến EVAs gần đây nhất.”
“À,” Venkat bắt đầu, “dường như anh ấy đang sửa soạn một chuyến đi dài cho chiếc Rover 2. Vào ngày sol 65, anh ấy lấy pin từ chiếc rover kia và gắn nó vào một cái võng tự chế. Ngày hôm sau, anh ấy gỡ 14 bảng pin mặt trời và chất chúng lên nóc rover.”
“Rồi anh ấy chạy một vòng nhỏ, đúng không?” Cathy tiếp lời.
“Vâng, đúng thế. Như là đi không phương hướng cả giờ đồng hồ, rồi trở về Hab. Anh ấy có lẽ đang thử nghiệm nó. Lần tiếp theo chúng tôi thấy anh ấy là hai ngày sau, khi anh ấy lái 4km, rồi quay về. Một thử nghiệm lớn hơn, chúng tôi nghĩ vậy. Rồi, vài ngày vừa qua, anh ấy đang sắp xếp đồ dự trữ trong đó.”
“Hừm,” Cathy nói, “đa số các nhà phân tích nghĩ rằng hy vọng duy nhất được cứu sống của Mark là đến được địa phận của Ares 4. Ông có nghĩ rằng anh ấy cũng sẽ đi đến kết luận như vậy không?”
“Có lẽ vậy,” Venkat nói. “Anh ấy không biết chúng ta đang quan sát. Nhìn từ góc độ của anh ấy, Ares 4 là hy vọng duy nhất.”
“Ông có nghĩ rằng anh ấy đang lên kế hoạch để đi sớm không? Anh ấy dường như đang chuẩn bị sẵn sàng cho một chuyến đi.”
“Tôi hy vọng là không,” Venkat nói. “Ở khu vực ấy hiện chẳng có một thứ gì ngoài chiếc MAV. Không một nguồn dự trữ có sẵn nào cả. Đó sẽ là một chuyến đi rất dài và rất nguy hiểm, và anh ấy sẽ bỏ lại sự an toàn của căn Hab sau lưng.”
“Tại sao anh ấy lại muốn làm liều như thế?”
“Để liên lạc,” Venkat nói. “Một khi đến MAV rồi thì anh ấy có thể liên lạc với chúng ta.”
“Vậy đó chẳng phải là chuyện tốt hay sao?”
“Liên lạc có thể là một chuyện
tuyệt vời. Nhưng di chuyển 3.200km đến Ares 4 lại nguy hiểm khôn cùng. Chúng tôi thà rằng anh ấy cứ ở yên một chỗ. Nếu chúng tôi có thể nói chuyện được với anh ấy, chúng tôi chắc chắn sẽ bảo anh ấy như thế.”
“Anh ấy không thể ở yên một chỗ mãi, có đúng không?” cô hỏi. “Đến cuối cùng thì anh ấy cần phải đến chỗ chiếc MAV.”
“Cũng không hẳn,” Venkat noi. “JPL đang thử nghiệm với những thay đổi cho chiếc MDV để nó có thể làm một cuộc chuyến bay ngắn gọn sau khi hạ cánh.”
“Tôi nghe nói ý tưởng ấy đã bị bác bỏ vì quá nguy hiểm,” Cathy nói.
“Đề xuất ban đầu thì đúng là vậy. Nhưng sau đó, họ đã làm việc suốt để đưa ra một cách thức an toàn hơn.”
“Chỉ còn ba năm rưỡi nữa là đến ngày Ares 4 cất cánh theo kế hoạch, có đủ thời gian để làm và thử nghiệm những sửa đổi cho chiếc MDV không?”
“Tôi không thể trả lời chắc chắn. Nhưng hãy nhớ, chúng ta đã chế tạo ra chiếc phi thuyền hạ cánh xuống mặt trăng chỉ từ con số không trong vòng bảy năm.”
“Nói đúng lắm,” Cathy mỉm cười. “Vậy cơ hội của anh ta hiện giờ là bao nhiêu?”
“Chẳng biết nữa,” Venkat nói. “Nhưng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì chúng tôi có thể để đưa anh ấy sống sót trở về nhà.”
“Hôm nay tôi biểu hiện thế nào?” Venkat hỏi.
“Èo,” Annie nói. “Tôi nghĩ anh đã không nên nói những lời như ‘đưa anh ấy sống sót trở về nhà.’ Nó gợi cho người ta nhớ rằng cậu ấy có thể chết.”
“Cô nghĩ họ sẽ quên điều đó sao?”
“Anh hỏi ý kiến của tôi mà. Không thích câu trả lời à? Đi chết đi.”
“Cô thật là một yểu điệu thụ nữ, Annie. Làm thế nào mà cô trở thành Giám Đốc Truyền Thông của NASA vậy?”
“Tra tấn chết tôi đến khi chịu nhận làm,” Annie nói.
“Này hai anh chị,” Bruce Ng, Giám đốc JPL, nói. “Còn ba giờ nữa là ôi cần phải đón chuyến bay về LA. Teddy có đến không thì bảo?”
“Thôi đừng có mà lải nhải, Bruce à,” Annie nói. “Chẳng ai trong chúng ta muốn ở đây đâu.”
“Thế thì,” Giám đốc Chuyến bay Hermes Mitch Henderson lên tiếng, “nói lại xem, cô là ai vậy?”
“Ừm,” Mindy nói, “tôi là Mindy Park. Tôi làm bên SatCon.”
“Cô là giám đốc hay là gì?”
“Không, tôi chỉ làm việc bên SatCon thôi. Tôi chẳng là ai cả.”
Venkat nhìn về hướng Mitch, “Tôi cho cô ấy đảm trách việc theo vết Watney. Cô ấy lấy hình ảnh về cho chúng ta.”
“Hả,” Mitch nói. “Không phải là Giám đốc SatCon à?”
“Bob có nhiều việc để giải quyết chứ không chỉ sao Hỏa. Mindy xử lý mọi vệ tinh sao Hỏa, và giữ cho chúng chỉa về hướng Mark.”
“Sao lại là Mindy chứ?” Mitch hỏi.
“Cô ấy là người đầu tiên phát hiện cậu ta còn sống.”
“Cô ấy được thăng chức vì cô ấy ngồi ngay cái ghế chỗ nhận được hình ảnh lúc chúng được gửi về?”
“Không,” Venkat nhăn mặt, “cô ấy được thăng chức vì cô ấy kết luận được rằng anh ta còn sống. Đừng có làm một thằng dở hơi nữa, Mitch à. Anh đang làm cho cô ấy cảm thấy không vui.”
Mitch nhìn sang Mindy. “Xin lỗi.”
Mindy nhìn xuống bàn và cố nói “ờ”.
Teddy bước vào phòng. “Xin lỗi tôi đến trễ. Bắt đầu đi nào,” ông ngồi xuống ghế, “Venkat, tình trạng Watney ra sao?”
“Sống và khỏe,” Venkat nói. “Chẳng có thay đổi gì từ lúc tôi gửi cái email hồi sớm nay.”
“Thế còn cái RTG thì sao. Công chúng có biết về nó chưa?” Teddy hỏi.
Annie nhướn người về phía trước. “Đến giờ vẫn ổn,” cô nói. “Những hình ảnh đều công khai, nhưng chúng ta không bắt buộc phải cho họ biết phân tích của mình. Chưa ai đoán ra được gì cả.”
“Vì sao anh ấy đào nó lên?”
“Để sưởi, tôi nghĩ thế,” Venkat nói. “Anh ta muốn con rover đi đường dài. Nó cần rất nhiều năng lượng để giữ ấm. Con RTG có thể sưởi khoang bên trong mà không phải ăn sạch đến nguồn điện của pin. Một ý kiến hay, thật đấy.”
“Chuyện đó nguy hiểm đến mức nào?” Teddy hỏi.
“Miễn là phần vỏ bọc còn nguyên vẹn, không có nguy hiểm gì. Ngay khi nó nứt vỡ ra thì anh ta cũng chẳng hề hấn gì nếu những hạt nhỏ bên trong không bị vỡ. Nhưng nếu những hạt nhỏ cũng vỡ ra thì anh ta đi đời chắc luôn.”
“Hãy cùng hy vọng điều đó không xảy ra,” Teddy nói. “JPL, kế hoạch MDV đến đâu rồi?”
“Bọn tôi đưa ra kế hoạch lâu rồi,” Bruce nói. “Ông bác bỏ nó.”
“Bruce,” Teddy nhắc nhở.
Bruce thở dài. “Chiếc MDV không phải được chế tạo để mà cất cánh và bay ngang. Thêm xăng vào cũng chẳng ích gì. Bọn tôi cần một động cơ lớn hơn và chúng ta không có thời gian để sáng chế ra một cái. Cho nên bọn tôi cần làm chiếc MDV nhẹ đi.
“Bọn tôi có một sáng kiến. Chiếc MDV có thể có trọng lượng bình thường trong giai đoạn hạ độ cao chính thức. Nếu chúng ta làm cho tấm chắn nhiệt và vỏ bên ngoài có khả năng tự tách rời, họ có thể bỏ bớt trọng lượng sau khi hạ cánh ở Ares 3, và có một con tàu nhẹ hơn để di chuyển đến Ares 4. Hiện tại bọn tôi đang làm các phép tính.”
“Nhớ cho tôi biết tình hình,” Teddy nói. Ông quay sang Mindy. “Cô Park. Chào mừng cô tham gia vào nhóm của các ông lớn.”
“Thưa sếp,” Mindy nói.
“Lỗ hỏng lớn nhất trong phạm vi bao phủ của Watney mà chúng ta có được là phần nào?”
“Ừm,” Mindy nói. “Cứ mỗi 41 tiếng, chúng ta có 17 phút trống. Quỹ đạo buộc phải thế.”
“Cô có câu trả lời ngay lập tức,” Teddy nói. “Tốt.”
“Cám ơn sếp.”
“Tôi muốn thu nhỏ khoảng trống ấy xuống còn 4 phút,” Teddy nói. “Tôi cho cô toàn quyền quyết định quỹ đạo vệ tinh và mọi điều chỉnh quỹ đạo. Chuyện đó phải làm cho được.”
“Vâng thưa sếp,” Mindy nói, hoàn toàn không biết phải làm sao.
Teddy nhìn Mitch. “Mitch, email của anh nói anh có chuyện gấp gì đấy?”
“Vâng,” Mitch nói. “Chúng ta còn giấu diếm chuyện này với phi hành đoàn Ares 3 bao lâu nữa? Tất cả bọn họ đều nghĩ Watney chết rồi. Chuyện này làm cho tinh thần họ sút kém lắm.”
Teddy nhìn về hướng Venkat.
“Mitch,” Venkat nói. “Chúng ta đã bàn chuyện này,”
“Không,
anh bàn chuyện này,” Mitch ngắt lời. “Bọn họ nghĩ rằng mình đã mất đi một người đồng đội. Họ rất đau buồn.”
“Và khi họ phát hiện ra mình
bỏ rơi một người đồng đội thì sao?” Venkat hỏi, “Khi đó họ thấy đỡ hơn à?”
Mitch mò mẫm ngón tay mình trên mặt bàn, “Họ có quyền được biết. Anh không nghĩ rằng Chỉ huy Lewis có thể đối mặt với sự thật sao?”
“Đây là vấn đề nhuệ khí,” Venkat nói. “Họ có thể tập trung lo việc trở về…”
“Tôi quyết định chuyện đó,” Mitch nói. “Tôi mới là người quyết định cái gì tốt nhất cho phi hành đoàn. Và tôi cho rằng chúng ta nên cập nhật thông tin cho họ.”
Sau một hồi im lặng, mọi người đều nhìn về hướng Teddy.
Ông suy nghĩ một lúc. “Xin lỗi, Mitch, chuyện này tôi đồng ý với Venkat,” ông nói. “Nhưng ngay khi chúng ta đưa ra được kế hoạch giải cứu, thì chúng ta có thể nói với Hermes. Phải có hy vọng nào đó còn không thì nói họ nghe chẳng có ích gì.”
“Nhảm nhí,” Mitch lầm bầm, khoanh tay lại. “Toàn lời nhảm nhí,”
“Tôi biết anh khó chịu,” Teddy bình tĩnh nói, “Chúng ta sẽ sửa sai ngay. Chỉ là ngay khi chúng ta có ý tưởng nào đó để cứu Watney.”
Teddy để vài giây bình tâm trôi qua trước rồi mới nói tiếp.
“Ok, JPL thì lo chuyện cứu hộ,” ông nói, gật đầu về hướng Bruce. “Nhưng đó sẽ là một phần của Ares 4. Làm thế nào mà cậu ta có thể sống sót đến ngày ấy? Venkat?”
Venkat mở một tập hồ sơ ra và liếc nhìn mớ giấy tờ bên trong. “Tôi có tất cả các đội kiểm tra đi kiểm tra lại độ bền của hệ thống của họ. Chúng tôi rất chắc chắn căn Hab có thể hoạt động được 4 năm. Đặc biệt là khi có một người sống ở đó để sửa chữa khi có vấn đề xảy ra. Chúng ta
phải gửi đồ dự trữ cho anh ấy. Đơn giản vậy thôi.”
“Vậy còn đồ dự trữ gửi sớm cho Ares 4 thì sao?” Teddy nói. “Thay vì vậy hãy gửi nó đến khu vực của Ares 3 đi.”
“Chúng tôi cũng đang nghĩ vậy, vâng,” Venkat xác định. “Vấn đề là, kế hoạch ban đầu là còn một năm nữa chúng ta mới gửi đồ dự trữ. Mọi thứ vẫn chưa sẵn sàng.”
“Trong hoàn cảnh tốt nhất phải mất đến 8 tháng để gửi tàu thám hiểm đến sao Hỏa. Vị trí của Trái Đất và Sao Hỏa ngay lúc này… thật chẳng phải hoàn cảnh tốt nhất. Chúng tôi cho rằng chúng tôi có thể đến được đó trong vòng 9 tháng. Giả định rằng cậu ấy giảm khẩu phần, cậu ta cũng có đủ để sống hơn 350 ngày. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải gửi lương thực trong vòng
ba tháng. JPL vẫn chưa bắt đầu nữa.”
“Hơi chật vật đấy,” Bruce nói. “Chuẩn bị đồ dự trữ là một quá trình dài 6 tháng. Cách chúng ta thiết lập hệ thống là để gửi nhiều thứ cùng lúc, chứ không phải gửi từng cái một cách vội vã.”
“Xin lỗi, Bruce,” Teddy nói. “Tôi biết chúng ta đòi hỏi rất nhiều, nhưng anh phải tìm ra cách thôi.”
“Chúng ta sẽ tìm ra cách,” Bruce nói. “Nhưng chỉ cái OT thôi cũng là cơn ác mộng rồi.”
“Hãy bắt đầu đi. Tôi sẽ kiếm ngân sách cho anh.”
“Còn chuyện cái máy tăng thế nữa,” Venkat nói. “Với các hành tình nằm ở vị trí hiện nay, cách duy nhất để đưa tàu thăm dò lên sao Hỏa là dùng rất rất nhiều năng lượng. Chúng ta chỉ có một máy tăng thế có khả năng làm điều đó. Máy Delta IX nằm trên bệ của tàu thăm dò sao Thổ EagleEye 3. Chúng ta phải chôm nó thôi. Tôi đã nói chuyện với ULA, và họ không thể làm kịp thêm một máy tăng thế nữa.”
“Đội EagleEye 3 sẽ rất bực mình đấy, nhưng được thôi,” Teddy nói. “Chúng ta có thể trì hoãn phi vụ của họ nếu JPL có thể xử lý kịp vấn đề tải trọng.”
Bruce dụi mắt mình. “Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức.”
“Anh ấy sẽ chết đói nếu các anh không làm vậy,” Teddy nói.
Venkat nhấp một ngụm cà phê và nhăn nhó nhìn màn hình của mình. Mới một tháng trước đây thôi chuyện uống cà phê lúc 9 giờ tối thật không tưởng. Nhưng lúc này nó lại là nguồn năng lượng cần thiết. Sắp xếp thời gian biểu, phân phối tiền quỹ, xoay xở các kế hoạch, hết chôm lại chỉ từ các dự án khác… Trong cuộc đời này chẳng khi nào ông lại chơi nhiều mánh khóe đến thế.
“NASA là một tổ chức lớn,” ông đánh máy.
“Nó không giỏi xử lý những thay đổi đột ngột. Lý do duy nhất mà chúng ta có thể vượt qua được chính là những tình huống tuyệt vọng. Mọi người đều đồng tâm hiệp lực để cứu Mark Watney, mà chẳng có tranh cãi om sòm giữa các bộ phận. Tôi phải công nhận rằng điều đó rất hiếm. Mặc dù vậy, chuyện này sẽ tốn vài chục triện đô la, có lẽ vài trăm triệu không chừng. Nội chuyện thay đổi chiếc MDV cũng là cả một công trình đang được bố trí nhân viên vào làm. Hy vọng rằng sự lưu tâm của quần chúng sẽ giúp công việc của quý vị dễ dàng hơn. Thưa các Nghị sĩ, chúng tôi trân trọng sự ủng hộ thường trực của quý vị, và hy vọng các vị có thể thuyết phục Hội đồng xét duyệt cho quỹ khẩn cấp mà chúng tôi cần.”
Ông bị tiếng gõ ngoài cửa phòng mình làm gián đoạn. Ông nhìn lên và thấy Mindy.
“Xin lỗi đã làm phiền ông,” Mindy nói.
“Không sao,” Venkat nói. “Tôi cũng cần nghỉ giải lao một chút. Có chuyện gì?”
“Anh ấy đang di chuyển,” cô nói.
Venkat thõng người xuống ghế của mình. “Có khi nào chỉ là một cuộc lái thử hay không?”
Cô lắc đầu. “Anh ấy chạy thẳng khỏi căn Hab cách đây chừng hai tiếng, làm một chuyến EVA ngắn ngủi, rồi chạy thêm hai tiếng nữa. Chúng tôi nghĩ rằng chuyến EVA là để thay pin.”
Venkat thở dài ủ rũ. “Có lẽ đó chỉ là một cuộc thử nghiệm dài hơn? Một chuyến đi qua đêm chẳng hạn?”
“Anh ấy cách căn Hab 76km,” Mindy nói. “Nếu là một chuyến thử nghiệm qua đêm, không phải anh ấy nên ở lại trong phạm vi có thể đi bộ trở về sao?”
“Ừ, cậu ấy nên thế,” Venkat nói. “Khốn kiếp. Chúng ta đã dự trù tất cả mọi tình huống có thể xảy ra. Chẳng có cách nào mà cậu ta có thể đến được Ares 4 với một hệ thống như thế. Chúng ta chưa từng thấy cậu ta cài đặt máy lọc ôxy và máy trữ nước. Cậu ta chẳng thể nào có đủ những thứ căn bản nhất để duy trì sự sống đến đó.”
“Tôi không nghĩ anh ấy đang đi đến Ares 4,” Mindy nói. “Nếu anh ấy làm vậy, thì anh ấy đang đi một lộ trình kì quặc.”
“Ồ?” Venkat nói.
“Anh ấy đi về hướng nam – tây nam. Schiaparelli Crater nằm ở hướng đông nam.”
“Ok, vậy còn hy vọng,” Venkat nói. “Giờ cậu ta đang làm gì?”
“Đang sạc pin. Anh ấy dựng mấy bảng pin lên,” Mindy nói. “Lần trước anh ấy làm thế chừng 12 giờ. Tôi đang định chuồn về nhà ngủ một tí nếu được.”
“Đương nhiên, thế thì tốt đấy. Để xem ngày mai cậu ta sẽ làm gì. Có lẽ cậu ta sẽ trở về căn Hab.”
“Có lẽ vậy,” Mindy nói dù cô không tin điều đó.
“Chào mừng các bạn trở lại,” Cathy nói về hướng máy quay. “Chúng ta đang trò chuyện với Marcus Washington đến từ Bưu Cục Hoa Kỳ. Vâng, thưa ông Washington, theo tôi hiểu thì phi vụ Ares 3 đã dẫn đến một sự kiện đầu tiên của Bưu Cục. Ông có thể giải thích với các khán giả của chúng ta về vấn đế nay được không?”
“À, được chứ,” Marcus nói. “Suốt hai tháng liên ai cũng tưởng anh ấy đã chết. Trong khoảng thời gian ấy, Bưu Cục in một bộ tem để tưởng niệm anh ấy. 20.000 con tem đã được in, và gửi đến bưu điện khắp cả nước.”
“Rồi hóa ra thì anh ấy vẫn còn sống,” Cathy nói.
“Vâng,” Marcus đáp. “Chúng tôi ngừng in ngay lập tức và thu hồi chúng ngay lập tức, nhưng hàng nghìn con đã được bán rồi. Vấn đề là, chúng tôi không in tem của người còn sống.”
“Chuyện vậy đã từng xảy ra trước đây chưa?” Cathy nói.
“Chưa. Chưa một lần trong lịch sử Bưu Cục.”
“Tôi cá là giờ nó cũng đáng vài xu chứ.”
Marcus cười. “Có lẽ vậy. Nhưng không nhiều lắm. Như tôi đã nói, vài ngàn con đã được bán ra. Chúng sẽ hiếm, nhưng không phải là rất hiếm đâu.”
Cathy cười khúc khích rồi lại nhìn về hướng máy quay. “Chúng đa vừa nói chuyện với Marcus Washinton của Bưu Cục Hoa Kỳ. Nếu bạn có một con tem tưởng niệm Mark Watney, có lẽ bạn sẽ muốn giữ nó lại đấy. Cảm ơn đã đến đây nhé, ông Washington.”
“Cảm ơn đã mời tôi,” Marcus đáp.
“Vị khách mời tiếp theo của chúng ta là Bác sĩ Irene Shields, Bác sĩ Tâm lý Chuyến bay cho các phi vụ Ares. Bác sĩ Shields, chào mừng bà đến với chương trình.”
“Cảm ơn,” Irene vừa nói vừa điều chỉnh micro cài áo của mình.
“Bà có quen biết với Mark Watney hay không?”
“Đương nhiên,” Irene nói. “Tôi thực hiện đánh giá tâm lý hàng tháng cho tất cả các phi hành gia của đoàn.”
“Có thông tin nào có thể cho chúng tôi biết về anh ấy không? Tính cách của anh ấy? Tư duy của anh ấy?”
“Ừm,” Irene nói. “Anh ấy rất thông mình. Đương nhiên, tất cả bọn họ đều như thế. Nhưng anh ấy rất có tài xoay xở và giỏi giải quyết vấn đề.”
“Điều đó có thể sẽ cứu mạng anh ấy,” Cathy xen lời nhận xét vào.
“Đúng là có thể thật,” Irene đồng tình. “Ngoài ra, anh ấy tính tình cũng rất dễ chịu. Thường luôn vui vẻ, rất có tính hài hước. Anh ấy nghĩ ra mấy lời đùa cợt rất nhanh. Trong những tháng ngay trước khi khởi hành, cả đoàn đều có lịch luyện tập đến mệt nhoài. Ai cũng có dấu hiệu căng thẳng và trạng thái ủ rũ. Mark cũng không ngoại lệ, nhưng
cái cách anh ấy thể hiện ra điều đó là đùa cợt càng nhiều và khiến mọi người đều phải cười.”
“Nghe có vẻ như anh ấy là một anh chàng thật tuyệt vời,” Cathy nói.
“Anh ấy thật sự như thế,” Irene nói. “Anh ấy được chọn cho phi vụ một phần là vì tính cách của anh ấy. Phi hành đoàn Ares phải chung đụng với nhau suốt 13 tháng. Sự hòa hợp tập thể là điểm mấu chốt. Không những Mark thích hợp với bất cứ tập thể nào, anh ta còn là chất xúc tác khiến nhóm ấy hoạt động tốt hơn. Thật sự là một mất mát
khủng khiếp với đoàn khi anh ấy ‘chết.’”
“Và họ vẫn còn nghĩ anh ấy đã chết, đúng không? Phi hành đoàn Ares 3 ấy?”
“Vâng, thật không may, họ vẫn nghĩ thế,” Irene xác nhận. “Cấp lãnh đạo đã quyết định giấu chuyện này không nói với họ, ít ra là trong lúc này. Tôi biết chắc đó chẳng phải là quyết định dễ dàng.”
Cathy ngừng lại một chút, rồi nói. “Được rồi. Bà biết là tôi phải hỏi câu này: Ngay lúc này đây điều gì đang xảy ra trong tâm trí anh ấy? Một người như Mark Watney sẽ phản ứng thế nào trong tình huống này? Bị mắc kẹt, đơn độc, và không biết gì cả về việc chúng ta đang cố giúp anh ấy?”
“Chẳng có cách nào để biết chắc chắn cả,” Irene nói. “Nguy cơ lớn nhất là anh ấy từ bỏ hy vọng. Nếu anh ấy quyết rằng chẳng có cơ hội sống sót nào, anh ấy sẽ ngừng cố gắng.”
“Vậy thì lúc này chúng ta vẫn ổn, đúng không?” Cathy hỏi. “Dường như anh ấy làm việc rất cật lực. Anh ấy đang chuẩn bị chiếc rover cho một hành trình dài và đang thử nghiệm nó. Anh ấy dự tính sẽ có mặt ở đó lúc Ares 4 hạ cánh.”
“Đó là một cách giải thích, vâng,” Irene nói.
“Còn có cách khác sao?”
Irene suy nghĩ câu trả lời của mình cẩn thận rồi mới lên tiếng. “Khi đối diện cái chết, con người ta muốn được nghe thấy. Họ không muốn chết một mình. Có thể anh ấy chỉ muốn radio từ MAV để nói chuyện với một linh hồn nào đó trước khi chết.
“Nếu anh ấy đã mất hy vọng, anh ấy sẽ không quan tâm đến sự sinh tồn. Điều duy nhất anh ấy quan tâm là tìm được đến chỗ chiếc radio. Sau đó, anh ấy có thể sẽ chọn lối thoát dễ dàng hơn là chết đói. Thuốc dự trữ của phi vụ Ares có đủ morphine (thuốc giảm đau) để giết chết một người.”
Sau vài giây hoàn toàn im lặng trong phim trường, Cathy quay lại hướng máy quay. “Chúng tôi sẽ quay lại ngay (sau phần quảng cáo).”
“Này, Venk,” giọng Bruce vang ra từ loa điện thoại.
“Bruce, chào anh,” Venkat nói. “Cảm ơn đã dành chút thời gian. Tôi muốn bàn về đồ dự trữ để gửi.”
“Được thôi. Anh đang nghĩ sao?”
“Cho là chúng ta hạ cánh nhẹ nhàng một cách hoàn hảo. Làm thế nào mà Mark biết chuyện đó đã xảy ra? Và làm thế nào để anh ta biết chỗ mà tìm kiếm?”
“Bọn tôi đã nghĩ đến điều đó,” Bruce nói. “Bọn tôi có vài sáng kiến.”
“Tôi đang nghe đây,” Venkat nói.
“Đằng nào chúng ta cũng sẽ phải gửi cho cậu ấy hệ thống liên lạc, đúng không? Chúng ta có thể mở nó lên lúc nó hạ cánh. Nó sẽ phát thanh theo tầng suất của chiếc rover và bộ đồ phi hành gia. Tín hiệu đó cũng sẽ phải rất mạnh đấy.
Mấy chiếc rover được thiết kế để liên lạc với căn Hab và với những chiếc rover khác; nguồn của tín hiệu được giả định là trong vòng 20km. Chỉ là hệ thống tiếp nhận không nhạy lắm. Bộ đồ EVA còn tệ hơn. Nhưng miễn là chúng ta có tín hiệu mạnh thì chúng ta sẽ ổn thôi.
Một khi đồ dự trữ đáp xuống, chúng ta sẽ lấy vị trí chính xác của nó từ vệ tinh, rồi phát thanh vị trí đó để Mark có thể đến đó lấy chúng.”
“Nhưng có lẽ cậu ấy không lắng nghe tín hiệu,” Venkat nói. “Có lý do gì để lắng nghe chứ?”
“Chúng tôi có kế hoạch về việc đó. Chúng tôi sẽ làm một mớ ruy băng màu xanh lá chói lọi. Vật liệu nhẹ nhàng đề khi rơi xuống nó sẽ bay phấp phới, ngay cả trong môi trường sao Hỏa. Mỗi dây ruy băng sẽ có in dòng chữ ‘MARK: HÃY MỞ HỆ THỐNG LIÊN LẠC’. Chúng tôi đang thử nghiệm cơ cấu nhả khớp đây. Đương nhiên là trong các thao tác hạ cánh. Lý tưởng nhất là ở độ cao chừng 1000 mét tính từ bề mặt.”
“Tôi thích kế hoạch này đấy,” Venkat nói. “Cậu ấy chỉ cần để ý thấy một sợi là đủ. Và chắc chắn cậu ấy sẽ ra kiểm tra sợi ruy băng xanh chói lọi nếu nhìn thấy chúng bên ngoài.”
“Chúng tôi nghĩ vậy,” Bruce nói.
“Được lắm, làm rất tốt. Nhớ cho tôi biết tiến triển,” Venkat nói.
“Venk,” Bruce nói. “Nếu cậu ta đem chiếc ‘Watneymobile’ đi đến Ares 4, tất cả mọi thứ này sẽ là công cốc. Ý tôi là, chúng ta có thể hạ cánh ở khu Ares 4 nếu chuyện đó xảy ra, nhưng…”
“Nhưng cậu ta sẽ không có căn Hab. Ừ,” Venkat nói. “Từng chuyện một thôi. Nhớ cho tôi biết khi nào cách anh nghĩ ra cơ cấu nhả khớp cho mấy sợi ruy băng ấy nhé.”
“Nhớ rồi.”
Sauk hi cúp máy, ông thấy một mẩu email từ Mindy Park.
“Watney lại di chuyển nữa rồi.”
“Vẫn đi một đường thẳng,” Mindy vừa nói vừa chỉ lên màn hình của mình.
“Tôi thấy rồi,” Venkat nói. “Rõ ràng như ban ngày là cậu ta không có đi đến Ares 4. Trừ khi cậu ta đang cố đi vòng qua chướng ngại vật tự nhiên nào đó.”
“Chẳng có gì để anh ấy đi vòng qua cả,” Mindy nói. “Đây là Acidalia Planitia mà.”
“Đó có phải là pin mặt trời không?” Venkat chỉ tay về màn hình hỏi.
“Vâng,” Mindy nói. “Anh ấy chạy chuyến 2 tiếng như bình thường, EVA, rồi chạy 2 tiếng. Hiện giờ anh ấy cách căn Hab 156 km.”
Cả hai liếc nhìn màn hình.
“Chờ chút…” Venkat nói. “Chờ chút, không thể nào…”
“Gì thế?” Mindy nói.
Venkat lấy xấp giấy dán Post-it và bút. “Cho tôi biết vị trí của cậu ta, và vị trí của căn Hab.”
Mindy kiểm tra màn hình của mình. “Lúc này anh ấy ở… 28.9o Bắc, 29.6o Tây.” Bấm bàn phím vài cái, cô mở ra một tập tin khác. “Căn Hab nằm ở 31.2o Bắc, 28.5o Tây. Ông nhìn thấy gì vậy?”
Venkat ghi chép những con số xuống xong. Ông nói, “Đi theo tôi,” rồi nhanh chân bước ra ngoài.
“Ừm,” Mindy lắp bắp, bước đi theo sau. “Ông đi đâu thế?” Cô hỏi ngay khi vừa bắt kịp ông.
“Phòng giải lao của SatCon,” Venkat nói. “Các cô vẫn còn cái bản đồ sao Hỏa trên tường chứ?”
“Đương nhiên,” Mindy nói. “Nhưng đó chỉ là một bức poster từ quầy lưu niệm. Tôi có bản đồ HD trên máy tính…”
“Không. Tôi không thể vẽ lên mấy cái hình đó,” ông nói. Rồi ông quẹo cua đi đến phòng giải lao, chỉ tay vào bản đồ sao Hỏa trên tường. “Tôi có thể vẽ lên cái này.”
Phòng giải lao trống trải chỉ có một kỹ thuật viên máy tính ngồi nhâm nhi cà phê. Sự khẩn trương trong cách Venkat và Mindy bước vào phòng khiến anh ta phải chú ý.
“Tốt, nó có đường kinh tuyến và vĩ tuyến,” Venkat nói. Nhìn vào tờ Post-it, rồi lần ngón tay mình trên bản đồ, ông đánh dấu X. “Đó là căn Hab,” ông nói.
“Này,” tay kỹ thuật viên lên tiếng. “Ông đang vẽ lên poster của bọn tôi à?”
“Tôi sẽ mua cho mấy người một tấm mới,” Venkat đáp trả mà không thèm quay đầu lại nhìn. Rồi, ông vẽ thêm một dấu X. “Đó là vị trí hiện tại của anh ấy. Lấy cho tôi cái thước.”
Mindy nhìn quanh quất trái phải. Chẳng thấy cái thước nào, cô chộp lấy quyển tập của tay kỹ thuật viên.
“Này!” Anh ta phản đối.
Dùng cạnh tập, Venkat vẽ một đường dài từ căn Hab đến vị trí của Mark và kéo dài hơn thế nữa. Rồi ông lùi lại một bước.
“Đúng! Cậu ta đang đi đến đó!” Venkat hớn hở nói.
“Ồ!” Mindy nói.
Đường thẳng đi qua trung tâm của một đốm vàng sáng chói trên bản đồ.
“Pathfinder!” Mindy nói. “Anh ấy đang đi đến chỗ chiếc Pathfinder!”
“Đúng!” Venkat nói. “Giờ chúng ta có tiến triển đây. Nó cách chỗ cậu ta chừng 800km. Cậu ta có thể đi về với lượng đồ dự trữ hiện có.”
“Và đem chiếc Pathfinder và chiếc Sojourner Rover về với anh ấy,” Mindy nói thêm.
Venkat nhanh tay móc điện thoại ra. “Chúng ta mất liên lạc với nó từ năm 1997. Nếu cậu ta có thể lên mạng trở lại, chúng ta có thể liên lạc. Có thể nó chỉ cần ai đó chùi sạch bảng pin mặt trời. Thậm chí nếu nó có vấn đề gì to tát hơn, thì cậu ta là một kỹ sư mà!” Vừa quay số, ông vừa nói thêm “Sửa chữa đống rác rưởi chính là nghề của cậu ta mà!”
Mấy tuần rồi ông mới nở được một nụ cười, ông đưa điện thoại lên tai chờ nghe tiếng trả lời. “Bruce? Venkat đây. Mọi chuyện có thay đổi. Watney đang đi đến chỗ Pathfinder. Vâng! Tôi biết, thật ấy chứ!? Moi lên tất cả những ai đã từng làm việc cho dự án ấy và đem họ về JPL ngay lập tức. Tôi sẽ đón chuyến bay sớm nhất.”
Ông cúp máy, nhe răng cười với tấm bản đồ. “Mark, thằng khỉ chết tiệt, nham hiểm, thông minh này!”
*****************
Trở về
Chương 7 phần 2 <<>> Đọc tiếp chương 9