[Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)

They Eye of the World
Con Mắt Thế Giới
Tác giả: Robert Jordan
Người dịch: Kim Lưu
Thể loại: tiểu thuyết kì ảo, thiếu nhi
Độ dài: 53 chương - 305.902 từ (nguyên tác)
Cảnh báo: không

The-Eye-of-the-World-Hardcover-L9780312850098.JPG

Giới thiệu tác giả:
Jame Oliver Rigney, Jr, (17/10/1948 - 16/09/2007) nổi tiếng với bút danh Robert Jordan, là tác giả người Mỹ chuyên viết thể loại Kỳ Ảo. Ông nổi tiếng nhất với bộ truyện The Wheel of Time, bao gồm 14 cuốn. Ông cũng viết tiểu thuyết lịch sử dưới bút danh tiếng địa phương Reagan O'neal, hoặc tiếng Anh là Jackson O'Reilly.

Giới thiệu tác phẩm

The Eye of the World là tập 1 trong series truyện kỳ ảo nổi tiếng The Wheel Of The Time của tác giả Robert Jordan.

Trong bộ truyện này, Thượng Đế (the Creator) tạo ra vũ trụ và Bánh Xe Thời Gian (the Wheel of Time). Bánh Xe này có bảy nan hoa, tương ứng với bảy “thời đại” (age), và xoay chuyển dưới tác động của Quyền Năng (One Power), là thứ chảy ra từ Nguồn Chân Lý (True Source). Nguồn Chân Lý được cấu thành bởi một nửa nam (saidin) và một nửa nữ (saidar). Trong số con người, những ai có thể sử dụng quyền năng này được gọi là những Dị Nhân (channeler), tổ chức nòng cốt xuyên suất bộ truyện là Aes Sedai, cũng gọi là “Tôi Tớ Mọi Người” (Servants of all)

Thượng Đế đã cầm tù kẻ chống đối mình là Satan (shaitan), thường gọi là Chúa Tế Bóng Tối (Dark One). Một sai sót của Aes Sedai đã để cho Saitan có cơ hội ảnh hưởng đến thế giới, làm ô uế phần saidin của Nguồn Chân Lý. Xuyên suốt bộ truyện là cuộc đối đấu giữa Saitan và các thế lực của hắn đối chọi với lực lượng của Sự Sáng (Light), phe thiện, dẫn đầu bởi nhân vật Rand al’Thor, được gọi là Rồng Tái Sinh (Dragon Reborn).

Trong tập 1, Con Mắt Thế Giới (The Eye of the World), nhân vật chính là Rand al’Thor, một thanh niên sống bình yên tại một ngôi làng nhỏ có tên là Emond’s Field, khám phá ra mình chính là Rồng Tái Sinh. Chính vì thân phận đó mà chàng bị các tay sai của Saitan, dưới hình dạng đáng sợ, không ngừng truy bắt. Chàng phải lên đường, cùng với những người bạn và những người trợ giúp mình, rời bỏ làng quê thanh bình bắt đầu sứ mệnh đối phó với Saitan sắp thoát ngục. Trước tiên họ đến Aes Saida tại thành phố Tar Valon trong nỗ lực đoàn kết các vương quốc con người nhằm chống lại Saitan và các thế lực của hắn.

Các bạn có thể đọc nguyên tác tại địa chỉ này: http://folk.uio.no/morters/wot/TheEyeoftheWorldv6/-TheEyeoftheWorld-.html
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Mở đầu

Đỉnh Rồng

Tòa cung điện thỉnh thoảng vẫn rung lên khi mặt đất rùng mình trong ký ức, rên rỉ như muốn chối bỏ những gì đã xảy ra. Những vạt nắng rọi xuyên qua những khe hở trên các bức tường làm long lanh mấy đám bụi còn vất vưởng giữa không trung . Những vệt cháy xém hoen ố tường nhà, sàn nhà và trần nhà. Những vết loang lổ đen xì bự chảng vắt ngang lớp sơn bong tróc và lớp mạ vàng của các bức bích họa một thời tươi sáng, bồ hóng khỏa lấp những mảnh vỡ vụn của cái diềm mái* tạc hình người và thú, trông bọn họ như thể thà bỏ chạy còn hơn chờ cơn thịnh nộ lắng xuống. Xác chết ngổn ngang, đàn ông, đàn bà lẫn trẻ con, họ hoặc bị những tia sét trút xuống các hành lang đánh gục trong lúc tháo chạy, hoặc bị những ngọn lửa đuổi theo tóm được, hoặc bị nhấn chìm trong đá tảng của cung điện, những tảng đá này, như thể có sự sống, đã văng ra tung tóe, đuổi bắt mục tiêu, trước khi nằm yên trở lại. Điểm tương phản đến kì lạ ở chỗ, tất cả những tấm thảm sặc sỡ, những bức tranh cùng hết thảy các tác phẩm khác, ngoại trừ nơi những bức tường lồi ra khiến chúng méo xệch đi, thì vẫn còn treo nghiêm chỉnh. Những thứ đồ gỗ chạm trổ tinh xảo, khảm ngà và vàng, ngoại trừ nơi nền nhà lồi lõm đẩy chúng nhô lên, vẫn đứng bất động. Cơn quẫn trí đã giáng xuống khu vực trung tâm, bỏ qua những thứ chung quanh.

Lews Therin Telamon lang thang trong cung điện, khéo léo giữ thăng bằng mỗi khi mặt đất run lên. “Ilyena! Em ơi, em ở đâu?” Tà áo choàng xám lợt của chàng vấy máu khi bước qua xác một thiếu phụ, vẻ đẹp nơi mái tóc vàng hoe của nàng đượm nỗi kinh hoàng phút lâm chung, đôi mắt vẫn còn trợn trừng như không tin vào điều mình thấy. “Mình ơi, em ở đâu? Mọi người trốn đâu cả rồi?”

Đôi mắt chàng bắt gặp phản ảnh của mình trong tấm gương treo xiêu vẹo trên tấm đá hoa cương sùn bọt. Y phục của chàng vốn rất vương giả với tông màu xám, màu điều và vàng; giờ đây tấm áo khéo may được các thương nhân mang đến từ bên kia Biển Thế Giới ấy, thật nhàu nát và bẩn thỉu, phủ một lớp dày đặc cùng thứ bụi đóng trên tóc và da chàng. Chợt chàng sờ vào biểu tượng trên tấm áo, một vòng tròn nửa trắng nửa đen, phân tách bởi một đường kẻ lượn sóng. Chắc biểu tượng này, nó mang một ý nghĩa nào đó. Nhưng cái vòng tròn thêu đó chẳng làm chàng phân tâm được lâu. Chàng nhìn chăm chú vào hình ảnh mình trong gương cũng với sự ngạc nhiên ấy. Một gã đàn ông cao lớn đang độ trung niên, vốn rất bảnh trai, nhưng giờ đây mái tóc nâu đã ngả bạc và khuôn mặt nhăn nheo bởi lo âu và căng thẳng, đôi mắt đen đã trải lắm sự đời. Lews Therin cười thầm, rồi quay đầu lại; tiếng cười của chàng vọng xuống các gian sảnh chết chóc.

“Ilyena, tình yêu ơi! Đến đây với ta, mình ơi. Em phải thấy điều này.”

Phía sau chàng không khí sôi sục, bừng sáng rồi đông đặc lại thành một người đàn ông rảo mắt nhìn quanh, miệng hắn ta chúm lại với vẻ khó chịu. Không cao như Lews Therin, hắn ta mặc toàn màu đen, chừa lại sợi dây buộc trắng như tuyết trên cổ và thứ đồ bạc ở chỗ gấp xuống trên đầu đôi ủng cao đùi. Hắn ta bước đi thận trọng, chăm chú vén tấm áo choàng cho khỏi quẹt vào đám xác chết. Sàn nhà run lên do các cơn dư chấn, nhưng sự chú ý của hắn dồn cả vào cái người đang nhìn vào gương mà cười kia.

“Chúa Tể Bình Minh,” hắn ta nói, “Ta đến với ngươi đây.”

Tiếng cười chợt tắt như chưa hề có, rồi Lews Therin quay lại, vẻ điềm nhiên. “Ah, một vị khách. Kẻ lạ, ngươi có Giọng chứ? Sắp tới giờ Ca Hát rồi, và nơi đây đón chào tất cả đến dự. Ilyena mình ơi, chúng ta có một vị khách. Ilyena, em ở đâu?”

Đôi mắt của kẻ mặc đồ đen trợn lên, phóng ánh nhìn xuống thi thể người thiếu phụ tóc vàng, rồi trở lại Lews Therin. “Satan* bắt ngươi đi, có phải sự ô uế đã kìm hãm ngươi cho tới tận bây giờ?”

“Cái tên đó. Sa…” Lews Therin rùng mình và giơ một tay lên như muốn với lấy thứ gì đó. “Ngươi không được xưng danh ấy ra. Nguy hiểm lắm.”

“Vậy ít nhất ngươi hẵng còn nhớ rõ điều đó. Nguy hiểm cho ngươi, đồ ngốc, không phải cho ta. Ngươi còn nhớ gì nữa? Nhớ lại đi, ngươi, Sự Sáng, - một tên điên mù lòa! Ta sẽ không để ngươi chấm dứt trong vô thức! Nhớ đi!”

Trong một thoáng Lews Therin nhìn chằm chằm vào bàn tay giơ lên của mình, mê mẩn với những lớp bụi. Rồi chàng lau bàn tay ấy lên tấm áo còn dơ bẩn hơn của mình và hướng sự chú ý trở lại kẻ kia. “Ngươi là ai? Ngươi muốn gì?”

Kẻ mặc đồ đen thẳng người ngạo nghễ. “Ta từng được gọi là Elan Morin Tedronai, nhưng bây giờ…”

“Kẻ Phản Bội Hi Vọng.” Đó là lời thì thầm phát ra từ Lews Therin. Ký ức lùng bùng, nhưng chàng lắc đầu, xua đi ý nghĩ đó.

“Vậy ngươi cũng nhớ ra gì đó. Đúng, Kẻ Phản Bội Hi Vọng. Loài người gọi tên ta như vậy, cũng như chúng gọi ngươi là Con Rồng, nhưng không như ngươi ta gắn với danh của ta. Chúng gọi như vậy để nhục mạ ta, nhưng rồi ta sẽ khiến chúng quỳ mọp xuống mà thờ lạy cái danh đó. Ngươi sẽ làm gì với tên của ngươi? Sau ngày này, loài người sẽ gọi ngươi là Kẻ Giết Người Thân. Vậy ngươi định sẽ làm gì?”

Lews Therin cau mày nhìn xuống tòa sảnh hoang tàn. “Lẽ ra Ilyena nên ở đây để có lời chào khách,” Chàng tần ngần nói thầm, rồi cao giọng. “Ilyena, em ở đâu?” Nền nhà rung rinh; thi thể người thiếu phụ tóc vàng nảy lên như để trả lời tiếng gọi của chàng. Mắt chàng không trông thấy nàng.

Elan Morin nhăn mặt. “Nhìn ngươi đi,” hắn khinh bỉ nói. “Ngươi từng là kẻ đứng đầu trong số các Tôi Tớ. Ngươi từng mang Chiếc Nhẫn Tamyrlin, và ngồi ở Tòa Cao. Ngươi có thuở từng triệu hồi Bộ Chín Quyền Lực. Giờ xem lại mình đi! Một tên khốn nạn sa cơ thối tha. Chưa hết đâu. Ngươi đã hạ nhục ta giữa Hội Đồng Các Tôi Tớ. Ngươi đánh bại ta tại Cổng thành Paaran Disen. Nhưng giờ đây, ta mới là kẻ cao cả hơn. Ta sẽ không để ngươi chết mà không biết điều đó. Khi ngươi chết, ý nghĩ sau cùng trong ngươi phải hiểu rõ ngươi đã thất bại, thất bại dứt khoát và hoàn toàn thế nào. Ấy là nếu rốt cuộc ta có cho ngươi chết.”

“Ta không hình dung được cái gì đang giữ Ilyena. Nàng sẽ dùng lời oán ghét từ môi miệng mà trách mắng ta nếu cho rằng ta giấu nàng một vị khách. Ta mong ngươi thích trò chuyện, vì chắc chắn nàng cũng thích thế. Nói trước cho ngươi biết. Ilyena sẽ hỏi ngươi nhiều câu hỏi đến nỗi rốt cuộc ngươi phải nói cho nàng mọi điều ngươi biết.”

Hất tấm áo choàng về sau, Elan Morin gập đôi bàn tay lại. “Khốn khổ cho ngươi,” hắn chế nhạo, “khi các Chị Em của ngươi chẳng một ai có ở đây. Ta vốn không giỏi thuật Chữa Lành cho lắm, và bây giờ thì đang theo đuổi một thứ sức mạnh khác. Nhưng ngay cả một trong số chúng, nếu chưa bị ngươi tiêu diệt, cũng chỉ có thể giúp cho người vài phút tỉnh táo. Vậy ta sẽ làm việc đó, với mục đích riêng của ta.” Nụ cười bất chợt của hắn thật nham hiểm. “Nhưng ta e sự chữa lành của Satan khác xa với thứ ngươi biết. Hãy bình phục, Lews Therin!” Hắn giang hai tay ra, và ánh sáng nhòa đi như thể một cái bóng đã chắn trước mặt trời.

Cơn đau cấu xé Lews Therin, chàng thét lên, tiếng thét thốt ra từ tận tâm can, tiếng thét chàng không sao ngăn được. Ngọn lửa thiêu đốt xương tủy chàng; axit chảy dồn trong huyết mạch chàng. Chàng ngã về sau, đổ sụp trên nền nhà lát đá hoa cương; đầu đánh vào tảng đá và nảy lên. Trái tim chàng đập dồn, cố gắng phá đường ra khỏi lồng ngực, và mỗi nhịp thở lại có tia lửa phụt ra xuyên qua người chàng. Trong bất lực chàng co giật, vẫy vùng, hộp sọ của chàng giờ là một khối cầu cùng cực đau khổ sắp sửa bùng nổ. Tiếng thét khàn đục của chàng vang vọng trong cung điện.

Chầm chậm, hết sức chầm chậm, cơn đau lui dần. Cơn đau ấy tưởng như mất cả ngàn năm mới thoát ra hết và để lại nơi chàng cơn co giật yếu ớt; hơi thở khó nhọc đi xuyên qua cái cổ họng khô khốc. Và dường như phải trôi qua thêm một ngàn năm nữa trước khi chàng có thể gắng gượng nhấc mình lên, những thớ thịt nhũn như sứa, chống đỡ trên đôi tay và đầu gối. Đôi mắt chàng buông cái nhìn lên người thiếu phụ tóc vàng, và một tiếng hét phát ra từ chàng lấn át mọi âm thanh chàng đã tạo ra trước đó. Lảo đảo chực té, chàng khổ sở lần mò trên sàn nhà tới chỗ nàng ta. Phải dùng hết chút sức lực còn lại chàng mới kéo được nàng vào trong tay mình. Đôi tay chàng run rẩy vuốt ngược mái tóc từ khuôn mặt trợn trừng của nàng.

“Ilyena! Sự Sáng hãy giúp tôi, Ilyena!” Thân thể chàng gập lại quanh thân thể nàng như muốn bảo vệ, tiếng nức nở của chàng là tiếng khóc nghẹn ứ nơi cổ họng của người đàn ông không còn lẽ sống. “Ilyena, không! Không!”

“Ngươi cứu được cô ta đấy, Kẻ Giết Người Thân ạ. Chúa Tể Bóng Tối Vĩ Đại có thể hồi sinh cô ta, nếu ngươi chịu phục tùng ngài. Nếu ngươi chịu phục tùng ta.”

Lews Therin ngẩng đầu lên, và người đàn ông mặc đồ đen bất giác lùi lại trước cái nhìn ấy. “Mười năm, hỡi Kẻ Phản Bội,” Lews Therin thì thào, âm thanh nhẹ nhàng như thanh gươm tuốt khỏi vỏ. “Chủ nhân bẩn thỉu của ngươi tàn phá thế giới đã mười năm nay. Và giờ đây là điều này. Ta sẽ…”

“Mười năm ư! Tên ngu xuẩn đáng thương! Cuộc chiến này không phải từ mười năm trước, nhưng từ lúc khởi đầu của thời gian. Trong sự xoay vần của Bánh Xe, ta và ngươi đã giao đấu cả ngàn trận, một ngàn lần ngàn, và sẽ còn đánh cho tới khi nào thời gian qua đi và Bóng Tối toàn thắng!” Hắn kết thúc bằng một tiếng la lớn, với nắm đấm giơ lên, và đến lượt Lews Therin lùi lại, hơi thở bắt lấy tia sáng trong đôi mắt Kẻ Phản Bội.

Lews Therin cẩn thận đặt Ilyena nằm xuống, lấy ngón tay chùi nhẹ mái tóc nàng. Nước mắt làm nhòa tầm nhìn khi chàng đứng, nhưng giọng chàng vẫn lạnh như tiền: “Vì mọi điều khác ngươi đã làm, đừng hòng có sự tha thứ, hỡi Kẻ Phản Bội, và vì cái chết của Ilyena ta sẽ hủy diệt ngươi thành thứ vượt xa bất cứ thứ gì chủ nhân ngươi có thể cứu chữa. Chuẩn bị mà…”

Nhớ lại đi đồ ngu xuẩn! Hãy nhớ lại cuộc tấn công vô ích của ngươi vào Chúa Tể Bóng Tối Vĩ Đại! Hãy nhớ lại sự đáp trả của ngài! Nhớ lại đi! Ngay bây giờ nhóm Một Trăm Chiến Hữu đang xé thế giới thành từng mảnh, và hàng ngày có thêm trăm tên nữa tham gia cùng chúng. Bàn tay nào đã giết chết Ilyena Tóc Ánh Dương hả, Kẻ Giết Người Thân? Không phải tay ta. Không phải tay ta đâu. Bàn tay nào đã hạ sát những sinh mạng mang giọt máu của ngươi, mọi kẻ yêu thương ngươi, mọi kẻ ngươi thương yêu? Không phải tay ta đâu Tên Giết Người Thân. Không phải tay ta. Nhớ lại đi, và hãy nhận ra cái giá của việc chống lại Satan!”

Dòng mồ hôi thất thần chảy ròng xuống khuôn mặt Lews Therin qua lớp bụi cát. Chàng nhớ lại, một mớ ký ức mù mờ như mộng trong mộng, nhưng chàng biết đó là thật.”

Tiếng chàng gào thét đập vào các bức tường, là tiếng gào thét của người khám phá ra linh hồn đã bị chính đôi tay mình tha hóa, và chàng cào cấu khuôn mặt như thế muốn xé tan đi cảnh tưởng của những gì mình đã làm. Đôi mắt chàng nhìn đâu cũng thấy xác chết. Họ hoặc bị xé nát, hoặc bị gãy giập, hoặc bị thiêu cháy, hoặc bị đá đè dập thân mình. Nơi nơi ngập những khuôn mặt chết chóc mà chàng thân quen, những khuôn mặt chàng yêu thương. Và lũ trẻ của chàng. Con trai và con gái, nằm sõng soài tựa lũ búp bê bị hỏng, cuộc chơi vĩnh viễn im lìm. Tất cả đã chết dưới tay chàng. Tiếng cười của Kẻ Phản Bội quất vào chàng, nhấn chìm đi tiếng chàng gào thét. Chàng chịu không được những khuôn mặt ấy, cơn đau ấy. Chàng không thể gắng gượng thêm được nữa. Trong tuyệt vọng chàng hướng về Nguồn Chân Lý, về saidin đã bị ô uế, rồi chàng Xuyên Không*.

Mặt đất chung quanh chàng bằng phẳng và trống trải. Một con sông chảy gần đó, thẳng và rộng, nhưng chàng có thể cảm thấy trong vòng trăm dặm không có một bóng người. Chàng cô độc, cô độc đến tột cùng mà một người còn sống có thể cảm thấy, nhưng chàng không thoát khỏi ký ức. Những đôi mắt đeo đuổi chàng qua những hang động bất tận trong tâm trí. Chàng không thể trốn khỏi chúng. Đôi mắt của lũ trẻ. Đôi mắt của Ilyena. Những giọt lệ long lanh trên cổ khi chàng ngẩng mặt nhìn trời.

“Sự Sáng, xin tha tội cho con!” Sự tha thứ, chàng không tin nó sẽ đến. Không bởi vì những điều chàng đã phạm. Nhưng chàng vẫn cứ thế gào thét với trời cao, van lơn điều chàng không tin rằng mình sẽ được nhận. “Sự Sáng, xin tha tội cho con!”

Chàng vẫn còn đang liên kết với saidin, nửa đàn ông thứ quyền năng vận hành vũ trụ, là thứ xoay vần Bánh Xe Thời Gian, và chàng có thể cảm thấy sự ô uế nhơ nhuốc vấy bẩn bề mặt của nó, sự ô uế do cuộc phản kháng của Bóng Tối, thứ ô uế làm lu mờ thế giới. Chính vì chàng. Chính vì sự kiêu ngạo mà chàng đã tin rằng loài người có thể sánh ngang với Thượng Đế, có thể sửa đổi điều mà Thượng Đế đã làm và bị họ phá vỡ. Vì sự kiêu ngạo chàng đã tin như thế.

Chàng chìm sâu vào Nguồn Chân Lý; cứ thế sâu hơn, như một người đang chết vì khát. Trước đó chàng đã bất chấp vơ vét Quyền Năng nhiều hơn mức chàng có thể tự mình kiểm soát; da chàng có cảm giác như cháy bừng. Trong bấn loạn, chàng ép mình phải hấp thu nhiều hơn, cố gắng hấp thu hết tất cả.

“Sự Sáng, xin tha thứ cho tôi! Ilyena ơi!”

Không khí biến thành lửa, lửa hóa thành ánh sáng. Tia sét giáng xuống từ các tầng trời sẽ thiêu đốt và làm cho đui mù bất kì con mắt nào thoáng nhìn vào nó, dù chỉ trong khoảnh khắc. Từ các tầng trời nó hiện đến, đánh xuyên qua Lews Therin Telamon, khoan xuống lòng đất sâu. Nơi nó chạm đến đá biến thành dung nham. Mặt đất rúng động và run rẩy như một sinh vật trong cơn đau khổ. Chỉ trong một nhịp tim luồng sáng ấy đã thoát ra, nối đất và trời, nhưng dù sau khi nó đã tan biến mặt đất vẫn cuồn cuộn như mặt biển trong cơn bão tố. Đá bị nóng chảy phun vào không trung năm trăm bộ*, và mặt đất rền rĩ nhô lên, đẩy những tia lửa cứ thế bắn lên cao, thật cao. Từ phương bắc và phương nam, từ phương đông và phương tây, gió nổi lên, uốn bẻ cây cối như những cành con, gào thét tung hoành như muốn giúp ngọn nui đang nổi lên kia vươn lên trời, lên tận trời.

Sau cùng gió cũng lặng, mặt đất lắng xuống thành những tiếng rên rỉ. Còn Lews Therin Telamon, không còn vết tích gì cả. Nơi chàng đứng giờ đây là một ngọn núi vươn cao hàng dặm lên bầu trời, dung nham nóng chảy hẵng còn bắn ra tung tóe từ trên đỉnh núi ghồ ghề. Con sông rộng và thẳng đã bị uốn vào một khúc quanh chảy xa ngọn ngúi, ở đó nó bị xẻ đôi tạo thành một hòn đảo dài giữa lòng sông. Bóng của ngọn núi vươn gần tới hòn đảo ấy; Nó phủ bóng tôi lên mặt đất như ghi chép tăm tối của lời tiên tri. Qua một hồi thì cơn run rẩy uể oải của trái đất chỉ còn âm ỉ.

Trên hòn đảo, không khí đông đặc và mờ ảo. Người đàn ông bận đồ đen nhìn vào ngọn núi rực lửa vươn cao giữa đồng bằng. Khuân mặt hắn nhăn lại khó chịu và khinh bỉ. “Ngươi đừng hòng thoát đi dễ dàng như vậy, Con Rồng à. Giữa chúng ta chưa xong đâu. Chưa xong đâu cho đến tận thời viên mãn.”

Rồi hắn bỏ đi, ngọn núi và hòn đảo vẫn đứng im lìm. Chờ đợi.



Và Bóng Tối bao trùm Xứ Sở, Thế Giới là đống hoang tàn vỡ vụn. Các đại dương biến mất, các ngọn núi bị nuốt chửng, và các quốc gia tản mác về tám phương của Thế Giới. Mặt trăng như máu và mặt trời như tro. Biển cả sôi sục, và sự sống đố kị với cái chết. Tất cả biến thành bình địa, tất cả ngoại trừ ký ức đều tan biến, và có một ký ức trên hết thảy các ký ức khác, của người đã mang đến Bóng Tối và Sự Sụp Đổ Của Thế Giới. Và kẻ ấy được người ta gọi là Con Rồng.

Trích từ tác phẩm Aleth nin Taerin alta Camora

Sự Sụp Đổ Của Thế Giới

Tác giả vô danh, Kỷ Đệ Tứ​



Rồi những ngày ấy cũng đến, như nó đã đến trước đây và sẽ còn trở lại, ngày Bóng Tối bao trùm xứ sở và làm lòng người trĩu nặng, cây xanh tàn úa, hi vọng tan biến. Rồi loài người kêu lên cùng Thượng Đế, nói rằng, Sự Sáng trên các Tầng Trời, Sự Sáng của Thế Giới, hãy cho Đấng Đã Hứa sinh ra trên núi này, theo lời các tiên tri, như ngài ấy đã đến trong quá khứ và sẽ đến trong tương lai. Xin để Hoàng Tử Bình Minh cất tiếng hát trên mặt đất ngõ hầu cây cối sẽ sinh sôi và các thung lũng ngập tràn chiên bò. Hãy để cánh tay của Chúa Tể Rạng Đông kéo chúng tôi khỏi Bóng Tối, và thanh gươm công lý vĩ đại bảo vệ chúng tôi. Hãy để Con Rồng lại cưỡi trên những ngọn gió thời gian mà trở lại.

Trích từ tác phẩm Charal Driannan to Calamon,

Sự Đầu Thai Của Rồng

Tác giả vô danh, Kỷ Đệ Tứ.​




*Diềm mái (frieze): trong kiến trúc phương tây, nhất là Hi Lạp cổ đại, là bộ phận tiếp giáp giữa cột chống và mái nhà, thường có tạc các bức tranh. Xem hình dưới
Untitled-1.jpg

*Satan (Shaitan) tức Ma Vương trong văn hóa phương tây. Để hiểu rõ hơn hình ảnh Satan trong văn hóa phương tây, các bạn có thể xem Sách Khải Huyền, cuốn cuối cùng của bộ Kinh Thánh Kitô giáo.
*Bộ: tức foot, đơn vị tình chiều dài, ~0,3m
* Xuyên Không (Traveling): một loại phép thuật do một số nhân vật trong truyện sử dụng, có khả năng vượt một quãng đường xa trong nháy mắt để đến một nơi khác. Kiểu như hô biến ấy.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 1: Con đường vắng (phần 1)

Xe Thời Gian xoay vần, các thời đại đến rồi đi, những ký ức còn lại trở thành huyền thoại. Huyền thoại phai nhạt thành truyền thuyết, và ngay cả truyền thuyết cũng chìm trong lãng quên cho đến khi Thời Đại đã sinh ra nó quay trở lại. Trong Thời Đại ấy, có người gọi là Kỷ Đệ Tam, một thời đại chưa đến, một thời đại đã qua từ lâu, có một cơn gió trỗi lên từ Dãy Núi Mù Sương. Cơn gió ấy không phải là sự khởi đầu.

Không có khởi đầu và kết thúc trong sự xoay vần của Bánh Xe Thời Gian. Nhưng đó là một sự khởi đầu. Sinh ra dưới những đỉnh núi phủ mây vĩnh cửu, là thứ đã mang đến cái tên cho dãy núi, con gió ấy thổi về đông, băng qua Dải Đồi Cát, nơi từng là bờ của một đại dương, trước khi xảy ra Sự Sụp Đổ Của Thế Giới. Nó tràn xuống vùng Sông Đôi, thổi vào khu rừng rậm rạp tên là rừng Westwood, và dội vào hai người đàn ông đang đi cạnh một chiếc xe ngựa kéo xuôi xuống con đường đá lởm chởm gọi là đường Quarry Road. Mùa xuân lẽ ra đã đến từ hơn một tháng trước, ấy thế mà cơn gió lại mang theo cái lạnh buốt giá cứ như thế nó sẽ làm tuyết rơi.

Trận cuồng phong bạt tấm áo của Rand al’Thor dính vào lưng, xốc tung mớ lông cừu nhuốm màu đất quanh đôi chân chàng, rồi cuốn ra phía sau. Chàng ước giá tấm áo choàng nặng hơn, hoặc giả chàng có mặc thêm một cái áo nữa. Đôi lúc, khi chàng cố kéo cái áo choàng ra sau thì nó lại vướng vào cái bao đựng tên đeo bên hông. Dẫu sao dùng một tay giữ cái áo choàng cũng chẳng dễ dàng gì; chàng nâng cây cung lên bằng tay còn lại, một mũi tên đã lắp sẵn sàng giương lên.

Một luồng gió mạnh bất thường giằng tấm áo choàng ra khỏi tay chàng, chàng nhìn cha mình qua tấm lưng của con ngựa cái màu nâu xù xì. Chàng cảm thấy có chút ngớ ngẩn khi muốn chắc chắn rằng Tam vẫn còn ở đó, thật là một ngày gì đâu. Tiếng gió rít lên từng hồi, ngoài ra, sự yên tĩnh bao trùm mặt đất. So ra thì tiếng cọt kẹt khe khẽ của bánh xe thật ồn ào. Trong rừng không có chim hót, không có lũ sóc chuyền cành. Không có những thứ như chàng nghĩ, đúng thật; đây nào phải mùa xuân.

Chỉ có cây cối giữ được lá suốt mùa đông hoặc thuộc họ lá kim là còn đọng lại chút xanh tươi. Mấy bụi hoa mận xôi từ năm ngoái trải thành những cái mạng mầu nâu phủ qua mấy ụ đá dưới những tàn cây. Bọn cây tầm ma là sinh sôi mạnh nhất trong đám cỏ dại thưa thớt; phần còn lại là các cây gai nhọn hoặc cây quả có gai, cây gỗ hôi, loại này luôn để lại một thứ mùi đặc trưng trên đôi ủng nào vô duyên nào đạp nhầm nó. Những vạt tuyết rải rác vẫn còn điểm trên mặt đất nơi những bụi cây san sát tỏa bóng râm. Nơi nào mặt trời vươn đến, nó không còn giữ được sự bền bỉ cũng như hơi ấm nữa. Mặt trời nhợt nhạt lên ngang hàng cây về phía đông, nhưng ánh sáng hẵng còn tăm tối lắm, như thể bị pha trộn với bóng đêm. Đó là một buổi sáng kì cục, âu dành cho những suy nghĩ khó chịu.

Bất giác chàng chạm vào đầu mũi tên; sẵn sàng kéo nó qua má bằng một động tác mượt mà, theo cách Tam đã dạy. Mùa đông trên các nông trại đã rất tồi tệ, tồi tệ hơn cả cái lạnh mà vị bô lão cao niên nhất còn nhớ được, nhưng trên các ngọn núi ắt hẳn nó còn phải khắc nghiệt hơn nữa khi số các con sói tràn xuống vùng Sông Đôi xuất hiện mọi nơi. Lũ sói đột kích các trại cừu và cắn phá mở lối đi vào chuồng trại đoạt lấy ngựa và gia súc. Bọn gấu cũng bám theo lũ cừu, ở nơi mà trong nhiều năm nay không có bóng một con gấu nào. Đêm xuống ra ngoài không còn an toàn nữa. Con người cũng là miếng mồi thơm ngon chẳng kém cừu, và mặt trời thì không phải lúc nào cũng lặn.

Tam đang sải những bước vững chãi phía bên kia con ngựa Bela, sử dụng cây thương như một cái gậy đi bộ, phớt lờ cơn gió làm tấm áo choàng nâu của ông phồng lên như tấm bảng hiệu. Chốc chốc ông lại chạm nhẹ vào bên sườn con ngựa, nhắc nó tiến bước. Với bộ ngực đầy đặn và khuân mặt rộng, ông là điểm nhấn trong buổi sáng ấy, như một tảng đá nằm giữa dòng chảy xiết. Đôi má rạm nắng của ông có lẽ đã có nếp nhăn và mái tóc hoa râm lác đác sợi đen, nhưng nơi ông có sư vững chãi lạ kì, ngay cả khi một trận lụt có cuốn ông xoay vòng mà không có chỗ đặt chân. Lúc này ông thong thả nện gót giày xuống mặt đường. Lũ sói và gấu đều là những thứ, theo kiểu ông nói, rất khôn ngoan nên bất cứ ai có cừu đều phải biết điều đó, nhưng chúng tốt nhất đừng cản đường Tam al’Thor đến làng Emond’s Field.

Với một cái giật mình vì lơ đãng, Rand quay lại xem chừng con đường, vẻ thản nhiên của Tam nhắc chàng nhớ tới nhiệm vụ. Chàng cao hơn cha mình một cái đầu, cao hơn bất kỳ ai trong vùng, và ngoại hình có đôi chút giống Tam, có lẽ ngoại trừ đôi vai hơi rộng. Đôi mắt xám và mái tóc ánh hung kế thừa từ mẹ chàng, như Tam nói. Bà là người vùng khác, và ngoài một khuân mặt tươi vui thì Rand chỉ còn nhớ rất ít về bà, tuy năm nào chàng cũng đặt lên mộ bà một đóa hoa, vào ngày lễ Bel Tine, mùa xuân, và ngày hội Sunday, mùa hè.

Hai thùng nhỏ đứng thứ rượu táo loại mạnh của Tam nằm trong thùng xe chòng chành, và tám cái vại lớn đựng nước ép táo nữa, chỉ hơi đông lại sau khi trữ qua mùa đông. Mỗi năm Tam đều gửi đúng số đó đến quán trọ Winespring để dùng trong suốt dịp lễ Bel Tine, và ông đã tuyên bố rằng phải có thứ gì đó ghê ghớm hơn lũ sói và gió lạnh thì mới ngăn được ông mùa xuân này. Dù đã nhiều tuần nay họ không vào làng. Ngay cả Tam mấy hôm rày cũng không đi lại nhiều. Nhưng Tam đã giữ lời về chuyện rượu mạnh và nước ép táo, dù ông phải đợi tới tận ngày áp lễ mới giao hàng được. Giữ lời rất quan trọng đối với Tam. Còn Rand đơn thuần chỉ thấy vui khi được ra khỏi trang trại, cũng như được tham dự lễ Bel Tine.

Khi Rand xem chừng bên đường, có cảm giác nổi lên trong chàng là mình đang bị theo dõi. Trong một lúc chàng cố làm lơ. Không có gì chuyển động hoặc phát ra âm thanh giữa những lùm cây, ngoại trừ gió. Nhưng cảm giác không chỉ có vậy, nó cứ thế mạnh hơn. Lớp lông trên hai cánh tay chàng rung rinh; làn da ran rát như thể bị ngứa từ bên trong.

Chàng bực mình nhấc cây cung lên cọ xát vào hai cánh tay, và tự nhủ đừng để mấy cái trò ngớ ngẩn làm phân tâm. Chẳng có gì trong khu rừng bên này đường cả, và nếu bên kia đường có thì thì Tam đã nói rồi. Chàng nhìn lướt qua vai… chớp mắt. Cách khoảng hai mươi gang tay ngược về sau một người mặc áo choàng cưỡi trên lưng ngựa đi theo họ, con ngựa và kẻ cưỡi đều màu đen, u ám và tăm tối.

Chính thói quen chứ không phải thứ gì khác thúc chàng chạy ngược về cạnh chiếc xe ngựa dù mắt vẫn còn đang nhìn.

Tà áo choàng của tay kỵ sĩ phủ từ đầu tới chân, chiếc mù trùm được kéo hẳn về trước cho nên không lộ ra phần nào của hắn. Rand mơ hồ nghĩ rằng có thứ gì đó rất kì quái ở tay kỵ sĩ kia, nhưng khoảng không tăm tối của trong cái mũ trùm đã mê hoặc chàng. Chàng chỉ nhìn thấy được những đường nét mơ hồ của một khuân mặt, nhưng lại có cảm giác như đang nhìn vào chính đôi mắt của tay kị sĩ. Và không thể nhìn đi nơi khác được nữa. Một cơn buồn nôn dấy lên trong bụng. Chỉ có bóng tối bên trong cái mũ trùm ấy, nhưng chàng lại cảm thấy một nỗi căm ghét rõ ràng y như thể chàng đang nhìn một khuân mặt hung tợn, nó căm ghét mọi thứ có sự sống. Trên hết là căm ghét chàng, ghét chàng trên hết mọi sự.

Bỗng nhiên chàng bị một tảng đá ngáng gót chân và chàng lảo đảo chực té, đôi mắt bị giằng ra khỏi tay kỵ sĩ tăm tối kia. Cây cung rớt xuống đường, và chỉ một bàn tay chìa ra nắm lấy yên cương của con Bela mới cứu chàng khỏi một cú té ngửa. Khịt mũi một cái con ngựa dừng lại, ngúc ngoắc cái đầu để xem cái gì đã tóm lấy nó.

Tam cau mày nhìn chàng qua tấm lưng con Bela. “Ổn chứ con trai?”

“Một kỵ sĩ,” Rand hổn hển nói, kéo mình đứng thẳng lên. “Một kẻ lạ, đi theo chúng ta.”

“Đâu?” Ông bố nâng cây giáo lưỡi rộng lên và thận trọng dò xét phía sau.

“Đó, đằng sau…” câu nói của Rand im bặt khi chàng quay lại để chỉ. Con đường vắng tanh. Không tin nổi, chàng nhìn chòng chọc vào khi rừng trên cả hai bên đường. Đám cây ít cành không có lấy một chỗ ẩn nấp, nhưng ở đó chẳng có lấy một bóng ngựa hay kẻ cưỡi gì cả. Chàng gặp ngay cái nhìn chất vấn của cha mình. “Hắn ta ở đó. Một gã mặc đồ đen, trên lưng một con ngựa đen.”

“Ta không nghi ngờ lời con nói, nhưng hắn ta đi đâu rồi?”

“Con không biết. Nhưng hắn đã ở đó.” Chàng nhặt cung tên lên, vội vã kiểm tra lại lông vũ trước khi lắp tên, và kéo cung nửa đường trước buông lỏng dây cung. Chẳng có gì mà ngắm bắn. “Thật đấy cha à.”

Tam lắc lắc cái đầu hoa râm. “Nếu con nói vậy. Thì nhanh lên đi. Đã là ngựa thì sẽ để lại dấu chân, dù là trên mặt đất.” Ông nheo mắt nhìn vào hông chiếc xe, tà áo choàng tung bay trong gió. “Nếu chúng ta tìm thấy thì sẽ biết rằng hắn đã ở đó. Nếu không… chà, thì là do mấy ngày này làm cho con người ta cứ tưởng mình đã nhìn thấy gì đó.”

Bất chợt Rand nhận ra điều kỳ quái ở cái gã kỵ sĩ đó là gì, bên cạnh việc hắn đã rõ ràng ở đó. Cơn gió đập vào Tam và chàng không hề gợn một nếp gấp nào của tà áo choàng đen đó. Miệng chàng bỗng nhiên khô khốc. Chắc chắn chàng đã tưởng tượng ra nó. Cha chàng nói đúng; Đây đúng là một buổi sáng khêu gợi trí tưởng tượng con người ta. Nhưng chàng không tin điều đó. Chỉ có điều, làm sao cho cha biết rằng rằng cái kẻ như thể đã tan biến vào không khí kia có mặc một cái áo choàng mà gió không chạm đến được?

Với sự lo âu bực bội, chàng săm soi khu rừng chung quanh hai người; trông nó khác hẳn cái vẻ trước đây. Từ cái thời chàng đủ khôn lớn để rong chơi, chàng đã chạy thả sức trong rừng. Mấy cái ao và con suối trong rừng Waterwood, bên kia những nông trại xa nhất về hướng đông của làng Emond’s field, là nơi chàng từng học bơi. Chàng đã khám phá Dãy Đồi Cát – là nơi mà nhiều người trong vùng Sông Đôi nói rằng xui xẻo – và có lần chàng đã đi tận sát chân Dãy Núi Mù Sương, chàng và những đứa bạn nối khố của chàng, Mat Cauthon và Perrin Aybara. Nơi đó xa làng hơn hầu hết người trong làng Emond’s Field từng đi; với họ một chuyến đi đến các làng lân cận, lên làng Watch Hill hoặc xuống làng Deven Ride chẳng hạn, là cả một vấn đề lớn. Chẳng nơi nào trong mấy nơi đó chàng tìm thấy có điều đáng sợ. Vậy mà hôm nay, khu rừng Westwood này nào phải là nơi chàng nghĩ tới. Thế mà lại có một kẻ, có thể biến mất bất thình lình như vậy, cũng có thể lại hiện ra đột ngột như thế nữa, thậm chí có thể ngay bên cạnh họ.

Không cha ơi, không cần thế đâu.” Khi Tam ngạc nhiên dừng lại, Rand giấu đi sự hổ thẹn của mình bằng cách kéo cái mũ trùm tấm áo choàng lên. “Chắc cha nói đúng. Không cần phải tìm một thứ không có ở đó đâu, với lại chúng ta nên tận dụng thời gian mà vào làng và tránh trận gió này."

“Vậy ta đến chỗ nào ấm cùng,” Tam từ tốn nói, “rồi đốt điếu thuốc và làm vại bia.” Bỗng ông toét miệng cười. “Và ta nghĩ chắc con nôn gặp Egwene lắm rồi.”

Rand cố rặn ra một nụ cười. Trong tất cả những thứ chàng có thể sẽ muốn nghĩ tới thì, cô con gái ông Thị Trưởng hoàn toàn nằm ngoài danh sách. Điều này chàng không cần phải lăn tăn gì nữa. Vì năm ngoái cứ lúc nào hai người đi với nhau thì nàng ta lại làm chàng bẽ mặt. Tệ hơn là, đến cả điều đó nàng ta cũng không biết. Không, nhất định chàng không muốn thêm Egwene vào suy nghĩ của mình.

Chàng mong cha mình không định nhắc tới việc chàng đã sợ hãi khi ông nói, “Hãy nhớ tới ngọn lửa, con trai, và sự không vướng bận.”

Đó là một điều kỳ quặc mà Tam đã dạy chàng. Tập trung vào một ánh lửa và dốc hết xúc cảm của mình vào đó – sợ hãi, thù ghét, giận dữ - cho đến khi đầu óc ra trống rỗng. Trở thành người không vướng bận, Tam nói, và con sẽ làm được mọi chuyện. Không ai trong làng Emond’s Field ăn nói kiểu đó. Nhưng Tam đã thắng cuộc thi bắn cung trong dịp lễ Bel Tine mỗi năm với ngọn lửa và sự không vướng bận của ông. Rand nghĩ chắc năm nay chàng có cơ hội tự mình ghi điểm, nếu có thể giữ được cái sự không vướng bận gì đó. Vì tới tận bây giờ Tam cũng chỉ nói đến nó với ý nghĩa mà ông từng nói, chứ ông chưa chịu nói thêm gì cả.

Tam thúc con ngựa di chuyển một lần nữa, rồi họ tiếp tục chuyến đi, ông bố sải bước như thể chưa xảy ra bất trắc gì và cũng chẳng có gì bất trắc có thể xảy ra. Rand ước giá mình bắt chước ông được. Chàng cố tạo ra sự trống rỗng trong tâm trí, nhưng nó lại lướt sang những hình ảnh về tay kỵ sĩ mặc áo choàng đen.

Chàng muốn tin Tam nói đúng, rằng tay kỵ sĩ chỉ là sự tưởng tượng, nhưng cái cảm giác căm ghét đó chàng nhớ rất rõ. Đã có kẻ ở đó. Và hắn định làm hại chàng. Mãi cho đến khi những chóp mái nhà lợp tranh của ngôi làng Emond’s Field đã bao quanh mình chàng mới thôi không nhìn về sau nữa.

Ngôi làng nằm sát trên rừng Wetwood, khu rừng này thưa dần cho đến khi những thân cây cuối cùng còn trụ lại giữa những ngôi nhà vững chãi. Vùng này hơi dốc về hướng đông. Tuy không thiếu những vạt rừng, nhưng nông trại cùng những cánh đồng có hàng rào và bãi chăn gia súc phủ dày mặt đất mọi phía bên ngoài làng cho đến rừng Waterwood và những ao suối dày đặc của nó. Vùng đất trải dài về hướng tây cũng rất màu mỡ, và những đồng cỏ ở đó cũng quanh năm xanh tốt, nhưng ở trong rừng Westwood thì chỉ thấy có được vài nông trại.

Ngay cả số ít đó cũng suy giảm đến mức trong vài dặm quanh Dải Đồi Cát chẳng còn cái nào, đấy là chưa nói đến Dãy Núi Mù Sương, vươn lên trên các tầng cây rừng Westwood, tuy xa nhưng trực diện làng Emond’s Field. Có người bảo vùng này nhiều đá quá, cứ như trong vùng Sông Đôi chẳng nơi nào có đá, số khác thì bảo nó là một vùng kém may mắn. Một số kẻ kháo nhau rằng tiến gần đến dãy núi hơn mức cần thiết là rất vô dụng. Dù lý do có là gì, chỉ những người can đảm nhất mới dám dựng trại trong rừng Westwood. Lũ trẻ và đám chó chạy quanh chiếc xe thành một đám ồn ào khi nó băng qua dãy nhà đầu tiên. Bela kiên nhẫn lê bước, phớt lờ đi tiếng kêu réo của đám nhóc chạy lộn xộn dưới mũi nó, chơi đuổi bắt hoặc lăn vòng. Trong mấy tháng nay thưa tiếng trẻ nô đùa; thậm chí khi thời tiết đã dịu bớt cho chúng ra ngoài, thì nỗi sợ bọn sói vẫn giữ chúng trong nhà. Có lẽ dịp cận lễ Bel tine này đã dạy cho chúng cách chơi đùa trở lại.

Lễ hội cũng tác động tới cả người lớn. Những cánh cửa chớp rộng được kéo ra, và trong hầu hết mọi nhà thì cánh hiền mẫu đứng bên cửa sổ, mái tóc dài thắt bím búi trong một chiếc khăn choàng cổ, giũ những tấm gra hoặc phơi mấy tấm nệm qua bậu cửa sổ. Dù lá có mọc ra trên cây hay chưa thì không chị em nào lại để ngày lễ Bel Tine đến trước khi công việc dọn dẹp mùa xuân của mình được hoàn tất… Trong sân các nhà mấy tấm chăn treo trên dây phơi, và lũ trẻ không kịp chạy thoát thì thay vì tung tăng trên phố chúng đành phải dùng những cây gậy liễu gai mà trút nỗi thất vọng của mình lên mấy tấm thảm. Trên những mái nhà san sát nhau cánh gia trưởng leo qua leo lại, kiểm tra mấy nếp tranh xem xem liệu sự tàn phá của mùa đông có cần thiết phải gọi đến lão thợ sửa mái Cenn Buie già không.

Nhiều lần Tam dừng lại để chuyện phiếm với người này người nọ. Vì ông và Rand nhiều tuần nay không ra khỏi trang trại, mọi người đều muốn tìm hiểu xem tình hình bên ngoài thế nào. Vài người từ trong rừng Westwood đã vào làng. Tam kể về sự tàn phá của những cơn giông mùa đông, cứ cơn sau lại dữ dội hơn cơn trước, về những con cừu chết non, về những cánh đồng úa màu nơi cây trồng lẽ ra đang nảy mầm và đồng cỏ thì phải đương xanh tốt, về lũ quạ kéo thành bầy tại nơi mà mấy năm trước còn rộn tiếng chim. Chuyện vãn, họ nói tới sự chuẩn bị cho lễ Bel Tine đang diễn ra chung quanh họ, và nhiều cái lắc đầu. Đến đâu chuyện cũng chỉ có vậy.

Hầu hết cánh đàn ông lắc lư đôi vai và nói, “Ây chà, chúng ta sẽ sống thôi, vì Sự Sáng lòng lành.” Một số người thì toét miệng cười thêm vào, “Và nếu Sự Sáng không sẵn lòng, chúng ta cũng vẫn sẽ sống.”

Đấy chính là tính nết của hầu hết những người vùng Sông Đôi. Những người đã thấy mưa đá dội xuống mùa màng hoặc lũ sói cướp đi cừu của họ, hết lần này đến lần khác, thì dù nhựng sự đó đã xảy ra bao nhiêu năm, cũng không dễ bỏ qua. Còn hầu hết những người chịu bỏ qua thì đã mất từ lâu.

Tam sẽ không dừng lại vì Wit Congar nếu gã ta không lao ra đường cho nên họ hoặc phải thắng ngựa lại hoặc để Bela cán lên gã. Nhà Congars – và nhà Coplins; hai gia đình này cưới xin nhiều tới nỗi chẳng ai biết đích xác nhà này phát sinh từ đâu hay nhà kia bắt đầu từ chỗ nào – nổi danh từ làng Watch Hill cho tới làng Deven Ride, và chắc phải lan xa tới tận trấn Taren Ferry, là những kẻ ưa than phiền và chuyên môn gây rối.

“Tôi phải mang thứ này đến chỗ Bran al’Vere, Wit ạ,” Tam nói, hất đầu về phía mấy cái vại trong xe, nhưng cái gã gầy nhom vẫn đứng đấy với biểu hiện khinh khỉnh trên khuân mặt. Hắn ta vốn vẫn nằm ì trước bậc thềm, chứ không phải trên mái nhà, mặc dù mái tranh nhà gã trông đã cần lắm sự xem xét của ông thợ Buie. Gã dường như không bao giờ định làm lại, hoặc bắt đầu điều gã đã làm một lần trước đó. Hầu hết người nhà Coplin và Congar đều thế cả, những kẻ không thể tệ hơn được nữa.

“Chúng ta phải làm gì đó với Nynaeve, al’Thor à?” Congar yêu cầu. “Chúng ta chịu sao được một Nhà Thông Thái kiểu đó trong làng Emond’s Filed này.”

Tam buông tiếng thở nặng nề. “Đấy không phải chỗ cho chúng ta đâu, Wit. Nhà Thông Thái là chuyện của cánh đàn bà.”

“Thì tốt hơn chúng ta phải làm gì đó, ông al’Thor. Bà ta nói chúng ta đã có một mùa đông nhẹ nhàng. Một vụ mùa bội thu. Giờ anh mà hỏi xem bà ta nghe thấy gì từ tiếng gió, rồi bà ta sẽ chỉ cau có và dậm chân bồm bộp cho mà xem.”

“Nếu anh hỏi bà ta theo cách anh vẫn hay hỏi, Wit,” Tam điềm nhiên nói, “thì may cho anh là bà ấy đã không quật anh bằng cây gậy bà vẫn hay dùng đấy. Giờ nếu anh không phiền, đống rượu này…”

“Nyaeve al’Meara mà làm Nhà Thông Thái thì còn trẻ quá thôi, al’Thor. Nếu Hội Phụ Nữ không làm gì đó, thì Hội Đồng Làng phải làm.”

“Nhà Thông Thái là việc của anh hả Wit Congar?” giọng một người đàn bà rú lên. Wit luống cuống vì vợ gã đã tiến ra khỏi nhà. Daise Congar bự gấp hai lần Wit, một người đàn bà có khuân mặt rắn rỏi chẳng vương tí mỡ nào. Bà chống nạnh lườm gã. “Ông định xía vào chuyện của Hội Phụ Nữ đấy hử, vậy để xem ông có nuốt nổi món ông tự nấu không. Tất nhiên không nấu trong bếp của tôi. Và tự giặt lấy đồ cùng trải lấy giường. Tất nhiên đừng làm trong nhà tôi.”

“Kìa Daise,” Wit nài nỉ, “Tôi mới chỉ…”

“Thứ lỗi cho tôi, thưa bà Daise,” Tam nói. “Wit. Nguyện Sự Sáng chiếu tỏa trên hai người.” Ông thúc Bela đi tiếp, cưỡi nó vòng qua ông bạn gầy khẳng khiu. Bà Daise lúc này hẵng còn tập trung vào ông chồng, nhưng bất cứ lúc nào khác bà cũng có thể nhận ra Wit đã nói chuyện với ai.


 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 1 (phần 2)
Đây là lý do họ không nhận lời ghé lại bất cứ đâu để ăn hoặc uống chút gì đó nóng nóng. Vì khi thấy Tam, cánh hiền thê ở Emond’Field cứ chỉ trỏ y như chó săn phát hiện ra con thỏ. Chẳng có ai trong số họ là không biết người vợ tuyệt vời của ông chồng góa có một nông trại sung túc này, dù nông trại ấy ở mãi trong rừng Westwood.

Rand cũng bước vội như Tam, hình như còn vồn vã hơn. Đôi lúc khi không có Tam ở bên chàng bị dồn vào chân tường, không một lối thoát khỏi sự săm xoi. Nếu để bị ép lên một cái ghế đẩu cạnh đống lửa bếp, chàng sẽ bị buộc phải ăn bánh ngọt, bánh mật ong hay bánh kẹp thịt. Và luôn luôn đôi mắt của bà hiền thê kia cân đo đong đếm chàng chặt chẽ y như cán cân và cây thước của một tay lái buôn trong lúc ấy thì bà ta sẽ bảo thứ chàng đang ăn khó mà ngon như món ăn của người chị góa chồng của bà, hoặc của cô chị họ cả của bà. Mà Tam thì rõ ràng không còn trẻ nữa, bà ta sẽ nói thế. Ông ta yêu thương vợ như thế thì tốt – cái đấy báo trước điềm hay cho người phụ nữ tiếp theo trong đời ông – nhưng ông thương tiếc lâu vậy đủ rồi. Tam cần một người phụ nữ đảm đang. Thực tế rất đơn giản rằng, bà ta thế nào cũng nói vậy, hoặc gần như là vậy, một người đàn ông không thể làm nổi việc gì nếu thiếu một người đàn bà chăm lo và giữ ông khỏi phiền toái. Kinh khủng nhất là bà nào dừng lại một cách trầm ngâm tại điểm đó, rồi hỏi với sự ngẫu nhiên đến tỉ mỉ coi ông chính xác bao nhiêu tuổi rồi.

Giống như hầu hết những người bản địa vùng Sông Đôi, Rand có một tính nết rất ngang bướng. Những người ngoại vùng đôi lúc nói đó là đặc điểm nổi bật của người vùng Sông Đôi, rằng họ có thể dạy cho những tảng đá bài học về sự cứng đầu. Cánh hiền thê thì tốt bụng và nhìn chung là những người phụ nữ tử tế, nhưng chàng ghét bị ép vào bất cứ thứ gì, và họ làm chàng cảm thấy mình như thể đang bị những cây gậy đâm chọc. Nên chàng đi cho nhanh, và ước Tam thúc con Bella bước nhanh lên.

Con phố nhanh chóng mở đến bãi Green, một bãi đất rộng giữa làng. Bãi Green, thường có cỏ phủ dày, mùa xuân này chỉ còn thấy vài đám cỏ tươi giữa những vạt cỏ héo hon úa màu và mặt đất trơ trụi đen xì. Một vài đôi ngỗng lắc lư qua lại, căng mắt nhìn mặt đất nhưng không sao tìm nổi thứ gì đáng để mổ, và vài người cột bò sữa cho chúng gặm đám cỏ thưa thớt.

Về cực tây bãi Green, có mạch nước ngầm Winespring phun ra từ một tảng đá thấp biến thành một dòng chảy lộ thiên chưa bao giờ ngừng, đủ mạnh để quật ngã một người đàn ông và đủ ngọt ngào để thỏa mãn hàng tá lần với tên gọi của nó*. Từ dòng chảy này nhanh chóng mở ra thành con suối Winespring Water êm đềm xuôi về đông, với mấy hàng liễu trải dọc đôi bờ tới tận xưởng máy của bác thợ Thane và đi xa hơn nữa, cho tới khi nó tách ra thành mười hai con lạch tại những vùng trũng trong rừng Waterwood. Có hai cây cầu bộ hành thấp có tay vịn bắc qua con suối tại bãi Green, một trong hai cây, rộng hơn cây còn lại và đủ cứng cáp để chịu được xe ngựa. Cây cầu Wagon này là nơi đánh dấu con đường North Road, chạy xuống từ trấn Taren Ferry, qua làng Watch Hill, bắt đầu trở thành đường Old Road, dẫn vào làng Deven Ride. Những người ngoại vùng đôi lúc thấy buồn cười vì con đường đã có một cái tên từ mạn bắc lại mang một cái tên khác ở mạn nam, nhưng đó là điều từ xưa đến nay vẫn thế, tất cả dân Emond’s Field đều rõ vậy, và thế là thế đấy. Lý do đó là đủ đối với dân vùng Sông Đôi rồi.

Về phía xa bên hai cây cầu, người ta dựng lên mấy đống lớn dùng để đốt trong lễ Bel Tine, ba đống củi khổng lồ được xếp cẩn thận to như những căn nhà. Chúng phải nằm trên vùng đất nào thoáng đãng, nhưng đương nhiên không phải trên bãi Green, dù bãi đó có thưa cỏ đi chăng nữa. Tiết mục nào của lễ hội không diễn ra quanh mấy đống lửa thì sẽ diễn ra trên bãi Green.

Gần mạch nước Winespring hai chục các bà vừa du dương hát vừa lo dựng Cột Xuân. Khi đã tuốt cành rồi, một thân cây linh sam mảnh khảnh, dù đã được chôn trong hố, vươn cao tới mười bộ. Một đám thiếu nữ chưa đủ tuổi búi tóc thì ngồi duỗi chân và quan sát một cách ghanh tị, thỉnh thoảng lại hát theo mấy câu trong bài mà nhóm phụ nữ hát.

Tam vỗ vỗ con Bela như để thúc nó dồn bước, tuy nó phớt lờ điều đó, và Rand nhìn một cách tò mò những thứ mà cánh chị em đang làm. Sáng mai cánh đàn ông sẽ giả bộ ngạc nhìn khi phát hiện ra cây Cột, rồi đến trưa những thiếu nữ chưa chồng sẽ nhảy múa với nó, quẩn quanh nó với những dải ribbon dài sặc sỡ trong khi những anh chàng chưa vợ ca hát. Không ai biết khi nào hoặc tại sao mà lại có cái tập tục này – đó lại là một điều từ xưa đến nay vẫn thế nữa – nhưng nó cũng là lý do để nhảy múa, ca hát, và không ai trong vùng Sông Đôi cần biện minh gì cho điều đó cả.

Trong suốt ngày lễ Bel Tine sẽ luôn có ca hát, nhảy múa và ăn uống, và thời gian còn để dành cho chạy đua, và các cuộc thi về hầu hết mọi thứ nữa. Giải thưởng sẽ được dành cho không chỉ môn bắn cung, mà còn cho người giỏi nhất về ném dây, và đánh gậy. Sẽ có cuộc thi giải câu đố và ô chữ, kéo co, và ném xa, có phần thưởng cho người hát hay nhất, người nhảy đẹp nhất và tay chơi violin tài nhất, cho người xén lông cừu nhanh nhất, thậm chí cả người ném bi giỏi nhất và ném lao giỏi nhất.

Dịp lễ Bel Tine thường thì rơi vào lúc mùa xuân đang độ chín muồi, khi những con cừu đầu tiên ra đời và vụ mùa đầu tiên nảy mầm. Dù với cái lạnh đang treo lơ lửng, nhưng, không ai có ý định gác buổi lễ lại. Mọi người sẽ có dịp dùng chút tài nhảy múa và ca hát. Và trên hết mọi sự, nếu lời đồn đoán đáng tin, một màn trình diễn pháo hoa hoành tráng trên bãi Green đã được dự trù – tất nhiên là nếu tay bán pháo năm nào xuất hiện đúng thời điểm. Điều đó đang làm dấy lên những lời đồn rất đáng quan tâm; Đã mười năm rồi từ cái lần trình diễn cuối cùng, và điều đó vẫn còn được người ta nhắc tới.

Quán trọ Winespring nằm về cực đông của bãi Green, ngay cạnh cầu Wagon. Tầng trệt của tòa quán trọ xây bằng đá lấy dưới sông, tuy nguồn gốc là những phiến đá xưa hơn mà có người bảo đến từ dãy núi. Tầng thứ hai sạch sẽ tinh tươm – nơi Brandelwyn al’Vere, chủ quán trọ và là ngài Thị Trưởng của Emond’s Field từ hai mươi năm nay, sống với vợ và mấy đứa con gái của mình – nhô hẳn qua tầng dưới. Mái ngói đỏ, duy nhất trong làng, ửng sáng dưới ánh mặt trời yếu ớt, và có khói bốc lên từ ba trong số mười hai cái ống khói cao của quán trọ.

Mặt nam cuối quán trọ, cách xa con suối, còn đó một cái nền đá lớn hơn nhiều, có thuở từng là một phần của quán - hoặc là người ta nói vậy. Giờ có một cây sồi cỡ đại mọc giữa cái nền, với thân cây rộng tới ba mươi paces* và những cành nhánh to ngang một người đàn ông sải rộng. Vào mùa hè, Ban al’Verse bày bàn ghế dưới tán cây, cành lá râm mát, và người ta có thể thưởng thức một ly nước cùng làn gió nhè nhẹ trong khi họ chuyện trò hoặc có thể làm một ván cờ vây.

“Chúng ta tới rồi đây con trai.” Tam với lấy yên con Bela, nhưng cô nàng đã dừng lại trước quán trọ trước khi bàn tay ông chạm vào lớp da của cái yên. “Mày rành đường hơn tao rồi đấy”, ông mỉm cười.

Cuối cùng thì tiếng cọt kẹt của bánh xe cũng lặng, Bran al’Vere xuất hiện từ trong quán trọ, điệu bộ lúc nào cũng như bước quá nhanh so với một người với cái vòng eo như ông, gần như gấp hai lần bất cứ ai trong làng này. Một nụ cưới xẻ khuân mặt tròn của ông ta ra, một khuân mặt đội lên trên bằng một mái tóc muối tiêu xén ngang. Trời rét và ông chủ quán chỉ mặc độc có cái áo sơ mi, với một cái tạp dề trắng tinh quấn quanh. Một tấm huy hiệu bằng bạc lẫn lộn trong một chùm những chiếc cân đeo trước ngực ông ta.

Tấm huy hiệu, nằm trong những cái cân kích thước thật dùng để cân bạc của đám lái buôn xuống từ Baerlon để mua gỗ và thuốc hút kia, là biểu trưng của chức Thị Trưởng. Bran chỉ đeo nó khi làm ăn với quân buôn và trong dịp các lễ hội, các buổi chiêu đãi, và đám cưới. Lúc này ông lại mang nó sớm mất một ngày, nhưng đêm nay là Đêm Đông, đêm vọng lễ Bel Tine, là lúc mọi người sẽ viếng thăm nhau gần như suốt đêm, trao đổi những món quà nho nhỏ, ăn chút gì đó và đến nhà nào cũng cụng ly. Sau mùa đông này, Rand nghĩ, chắc ông ta nghĩ Đêm Đông đủ để biện minh việc khỏi đợi tới ngày mai mới đeo.

“Tam,” ngài Thị Trương thốt lên khi chạy vội về phía họ. “Sự Sáng chiếu tỏa trên tôi, cuối cùng cũng gặp anh rồi. Cả cháu nữa, Rand. Cháu vẫn khỏe chứ, con trai?”

“Khỏe ạ, thưa ngài al’Vere,” Rand đáp. “Ngài thì sao, thưa ngài?” Nhưng sự chú ý của Bran đã quay trở lại Tam.

“Tôi đang đinh ninh rằng năm nay chắc anh không chở rượu tới. Trước giờ có bao giờ anh trễ thế này đâu.”

“Mày hôm rày tôi không muốn ra khỏi trang trại Bran à,” Tam đáp. “Không, vì lũ sói khắp nơi. Và vì thời tiết nữa.”

Bran đằng hắng. “Tôi ước giá có ai đó ngoài thời tiết ra thì còn có chuyện khác để nói. Thiên hạ ai cũng than phiền về nó, và người ta tốt hơn nên tự biết lấy hơn là chờ tôi bảo cho biết. Tôi mới mất hai chục phút giải thích cho bà al’Donel rằng với lũ cò tôi đành bó tay. Tuy điều bà ta mong tôi làm là…” Ông lắc đầu.

“Một điềm gở,” một giọng nói khàn khàn tuyên bố, “không có con cò nào làm tổ trên những mái nhà vào dịp lễ Bel Tine này.” Cenn Buie, xương xẩu và đen nhẻm như một gốc cây già cỗi, tiến đến Tam và Bran và dựa vào cây gậy đi bộ cao gần bằng lão ta và cũng khẳng khiu như vậy. Lão tròn mắt gườm gườm cùng lúc nhìn cả hai người. “Sắp có những thứ tồi tệ hơn, các anh nhớ lời tôi đấy.”

“Nếu ông đã thành thầy bói rồi thì, giải thích điềm gở thử coi?” Tam hỏi cách cộc lốc. “Hay ông nghe được tiếng gió chăng, như một Nhà Thông Thái?”

“Cứ cười nhạo đi,” Cenn lầm bầm, “nhưng nếu trời không đủ ấm cho mùa màng mau sinh sôi, thì sẽ có hơn một hầm dự trữ phải trống rỗng trước khi có vụ thu hoạch đấy. Mùa đông kế tiếp rồi sẽ chẳng có gì còn sống nổi ở vùng Sông Đôi này trừ bọn sói và quạ. Đấy là nếu còn có mùa đông kế tiếp. Hoặc có thể sẽ vẫn cứ là mùa đông này thôi.”

“Mấy lời đó là ý gì?” Bran gằn giọng hỏi.

Cenn trao cho họ một cái nhìn chua chát. “Ta chẳng có gì tốt đẹp để nói về Nynaeve al’Meara. Các người biết rồi đấy. Vì một lẽ, cô ta quá trẻ để - Mà thôi. Hội Phụ Nữ có vẻ phản đối Hội Đồng Làng dù là bàn về họ, tuy chuyện của chúng ta thì họ xen vào bất cứ khi nào họ muốn, mà hầu như lúc nào cũng muốn, hoặc gần như là vậy…”

“Cenn này,” Tam ngắt lời, “Thế thì có vấn đề gì không?”

“Vấn đề gì ư, al’Thor. Cứ hỏi Nhà Thông Thái khi nào mùa đông này chấm dứt đi, bà ta sẽ phủi đít đi ngay. Có thể bà ta không muốn nói ra điều bà đã nghe từ tiếng gió. Có thể điều bà nghe được là mùa đông này sẽ không qua. Có thể trời sẽ cứ là mùa đông cho tới khi Bánh Xe xoay vần và Thời Đại này chấm dứt. Vấn đề cho ông đấy.”

“Vậy có thể lũ cừu sẽ biết bay đấy,” Tam vặn lại, và Bran vung tay lên. “Xin Sự Sáng bảo vệ tôi khỏi những tên ngốc. Chúng ta đã có đủ rắc rối chưa thể…”

Ống tay áo của Rand bị kéo mạnh một cái và một giọng thì thào, chỉ cho đôi tai của chàng, cuốn chàng ra khỏi cuộc nói chuyện của những người đàn ông. “Nào Rand, trong lúc họ còn tranh cãi. Trước khi họ bắt cậu làm việc.”

Rand nhìn xuống, và bật cười. Mat Cauthon nép mình cạnh chiếc xe ngựa nên Tam, Bran và Cenn không nhìn thấy cậu, thân hình mảnh khảnh của cậu ta vặn vẹo như một con cò cố gập đôi người lại.

Đôi mắt nâu của Mat nhấp nháy tinh quái, như vẫn thế. “Dav và tớ bắt được một con lửng già cỡ bự, cứ bị kéo ra khỏi ổ là nổi sung lên. Chúng ta sẽ thả nó ra trên bãi Green và nhìn bọn con gái loạn lên.”

Nụ cười của Rand nở rộng; Đối với chàng trò này nghe kém vui hơn một hay hai năm trước, nhưng Mat thì có vẻ chẳng lớn lên tí nào. Chàng nhìn lướt cha một cái – Mấy người đó vẫn còn chụm đầu vào nhau, cả ba đua nhau nói – rồi chàng hạ giọng: “Tớ đã hứa sẽ dỡ mấy vại nước ép rồi. Nhưng gặp cậu sau cũng được.”

Mat đảo mắt nhìn lên. “Số vại này á! Chết tôi, tớ thà chơi cờ với con bé nhà tớ còn hơn. Thôi được, tớ biết có thứ hấp dẫn hơn con lửng nữa. Chúng ta có những kẻ lạ trong vùng Sông Đôi đấy. Tối hôm qua…”

Trong phút chốc Rand lặng người. “Một kẻ cưỡi trên lưng ngựa đúng không?” Chàng hỏi dò. “Một kẻ mặc áo choàng đen, trên một con ngựa đen? Và áo choàng của hắn không dao động trong gió đúng không?”

Mat nuốt tràng cười vào bụng, hạ giọng xuống khàn hơn nữa. “Cậu cũng thấy hắn ư? Tớ tưởng tớ là người duy nhất chứ. Đừng cười nhá Rand, nhưng ông ta làm tớ chết khiếp.”

“Tớ không có cười. Hắn cũng làm sợ tớ nữa. Tớ dám thề là hắn ghét tớ, hắn muốn giết tớ đấy.” Rand run run. Mãi cho đến hôm đó chàng chưa bao giờ nghĩ rằng có ai muốn giết mình, thật sự muốn giết chàng. Chuyện như vậy không đời nào xảy ra ở vùng Sông Đôi. Hoặc một trận đấu tay không, có thể thế, hoặc một trận đấu vật, chứ không có chuyện giết người.

“Ghét hay không tớ không biết Rand à, nhưng hắn ta kiểu gì thì kiểu cũng kinh lắm. Tất cả hắn làm là ngồi trên ngựa rồi nhìn tớ, ngay ngoài làng thôi, nhưng tớ chưa bao giờ sợ đến thế trong đời. Rồi thì, tớ nhìn đi chỗ khác, loáng một cái thôi – việc đấy không dễ đâu, cậu nhớ cho kỹ - rồi khi tớ nhìn lại thì hắn ta đã biến đâu mất. Máu và tro hỡi*! Ba ngày rồi, và tớ khó có thể thôi nghĩ về hắn. Tớ cứ nhìn qua vai mình suốt.” Mat cười gượng một cái nghe như tiếng rên. “Thật nực cười khi bị nỗi sợ xâm chiếm. Cậu thấy lạ không. Tớ thật sự nghĩ – chỉ trong một phút thôi, lưu ý nhé – đó có thể là Chúa Tể Bóng Tối.” Cậu ta cố rặn nụ cười khác, nhưng lần này không phát ra được âm thanh nào.


Rand hít một hơi thở sâu. Cũng như việc tự nhắc bài mình trước bất cứ bài học nào, cậu ta nói thuộc lòng, “Chúa Tể Bóng Tối và tất cả những Kẻ Bị Ruồng Bỏ phải chịu giam cầm ở ngọn núi Shayol Ghul, bên kia vùng Great Blight, từ thuở Tạo Dựng bởi chính Thượng Đế, và sẽ bị giam cầm cho tới tận cùng thời gian. Bàn tay của Thượng Đế che chở thế giới này, và Sự Sáng ngài chiếu tỏa trên tất cả chúng ta.” Cậu hít một hơi nữa rồi tiếp. “Với lại, nếu được tự do, thì tên Mục Đồng Bóng Đêm* ấy sẽ làm gì trong vùng Sông Đôi đây khi nhìn thấy đám trẻ quê mùa?”

“Tớ không biết. Nhưng tớ không biết tay kỵ sĩ đó… ác độc. Đừng cười. Tớ thề đấy. Chắc đó là Con Rồng.”

“Cậu sao lắm suy nghĩ bay bổng thế?” Rand càu nhàu. “Cậu xem ra còn kinh khủng hơn cả ông Cenn.”

“Mẹ tớ luôn nói những Kẻ Bị Ruồng Bỏ sẽ đến tìm tớ nếu tớ không lo sửa mình. Nếu tớ từng thấy ai trông giống Ishamael, hay Aginor, thì đó chính là hắn ta.”

“Mẹ của bất cứ ai cũng lấy Kẻ Bị Ruồng Bỏ ra mà hù dọa,” Rand nói cộc lốc, “nhưng nói đến mới nhớ. Tại sao không phải là Ma Khách, trong khi đó mới là thứ cậu quan tâm.” Mat trừng mắt nhìn chàng. “Tớ đã không sợ đến vậy kể từ khi… Không, tớ chưa bao giờ sợ đến thế, tớ không ngại thú nhận điều đó đâu.”

“Tớ, cả tớ nữa. Cha tớ nghĩ tớ đã nhảy vào bóng tối dưới hàng cây.” Mat gật đầu một cách ủ rũ rồi tựa người vào bánh xe. “Cha tớ thế đấy. Tớ nói với Dav, và Elam Dowtry. Trước giờ chúng luôn nhìn như thể những con chim ưng, nhưng mà chẳng bao giờ thấy gì cả. Giờ thì Elam nghĩ tớ đang cố gạt cậu ta. Dav nghĩ hắn ta xuống từ trấn Taren Ferry – một tên trôm cừu, hoặc trộm gà. Một tên trộm gà!” Cậu ta dừng lời trong một sự im lặng châm biếm.

“Toàn một lũ ngu ngốc,” cuối cùng Rand nói. “Có thể hắn ta chỉ là một tên trộm cừu.” Cậu cố phác họa nó, nhưng điều đó giống như phác họa một con sói ngồi ở chỗ con mèo trước cái lỗ chuột.”

“À, tớ không thích cái cách hắn nhìn tớ. Và cả cậu nữa, với cái kiểu coi tớ là thứ gì đó. Chúng ta nên nói cho ai đó.”

“Chúng ta đã nói rồi, Mat, cả hai chúng ta, và chúng ta không được tin. Cậu có thể tưởng tượng việc cố gắng truyền đạt cho ngài al’Vere về gã này, mà không để ông ấy nhìn thấy hắn không? Ngài sẽ gửi chúng ta đến chỗ Nynaeve xem chúng ta có bệnh không.”

Bây giờ chỉ có hai chúng ta. Ai cũng sẽ tin rằng chúng ta đã tưởng tượng ra nó.”

Rand vò đầu, không biết phải nói sao. Mat là điển hình quậy phá trong làng. Khó có ai thoát khỏi những trò tinh quái của cậu ta. Giờ tên cậu ta được xướng lên bất cứ khi nào một dây phơi bị rớt đồ xuống đất hoặc một cái đai yên ngựa bị lỏng bỏ lại bác nông dân giữa đường. Mat thậm chí còn không được quẩn quanh bất cứ đâu. Vì sự giúp đỡ của cậu ta còn tệ hại hơn là sự ở không.

Sau một thoáng Rand nói, “Ba cậu sẽ tin nếu cậu đưa tớ ra làm chứng, cả ba tớ cũng thế…” Chàng nhìn qua chiếc xe ngựa nơi Tam, Bran và Cenn vẫn đang nói chuyện, và phát hiện mình đang nhìn đúng vào đôi mắt ông. Ngài Thị Trưởng vẫn đang giáo huấn Cenn, người lúc này đang phải im lặng chịu đựng.

“A chào buổi sáng, cậu Matrim,” Tam vui vẻ nói, nhấc một thùng rượu bên hông xe lên. “Cháu đến giúp Rand dỡ mấy vại nước táo đấy phải không. Giỏi lắm con trai.”

Mat nhảy cẫng lên ngay câu đầu tiên và bắt đầu quay ngoắt đi. “Chào buổi sáng, bác al’Thor. Và ngài nữa, ngài al’Vere. Ngài Buie. Nguyện Sự Sáng chiếu tỏa trên các vị. Cha cháu sai cháu đi…”

“Không nghi ngờ gì ông đã sai cháu,” Tam nói. “Và không nghi ngờ gì, vì cháu là thằng bé luôn chạy việc cho ông ấy, cháu xong việc rồi chứ. À, Mấy đứa chuyển số vại trái cây này vào trong hầm ngài al’Vese càng nhanh, thì sẽ càng sớm được thấy người bán hàng rong.”

“Người bán hàng rong!” Mat gào lên, không còn chết cứng trên đôi chân nữa, cùng lúc đó Rand hỏi, “Khi nào ông ấy đến cha?”

Trong đời mình Rand chỉ nhớ có hai người bán hàng rong đến vùng Sông Đôi, một người thì hồi đó cậu còn bé tí nên ngồi trên vai Tam mà coi. Khi thật sự có một người như thế trong suốt dịp lễ Bel Tine, với đàn hạc và sáo cùng những câu chuyện của ông ta và mọi thứ khác… dân Emond’s Field sẽ còn kể về dịp lễ ấy tới mười năm sau, dù không có pháo hoa đi chăng nữa.

“Điên khùng,” Cenn lầm bầm, nhưng im ngay khi bắt gặp cái nhìn của Bran với tất cả sức nặng của chức Thị Trưởng chất chứa trong đó.

Tam lại dựa vào bên hông chiếc xe, dùng thùng rượu như cái gậy chống cho tay ông. “Phải, một người bán hàng rong, và đã ở đây rồi. Theo như lời ngài al’Vere, ông ta đang ngụ trong một căn phòng của quán trọ ngay lúc này.”

“Đến vào lúc đêm muộn, vậy đấy.” chủ quán trọ lắc đầu bất mãn. “Gõ vào cửa trước cho đến khi đánh thức cả nhà dạy. Nếu không phải vì Lễ Hội thì tôi đã bảo ông ta cứ ngồi trên ngựa mà vào chuồng ngủ với nó, dù có phải người bán hàng rong phải không. Ai lại đến lúc đêm tối thế chứ.”

Rand nhìn đầy hiếu kì. Không ai qua làng vào lúc đêm hôm cả, trong những ngày này, chắc chắn là không đi một mình. Bác thợ lợp mái lại lầm bầm trong họng, lần này nhỏ quá nên Rand chỉ hiểu được một vài từ. “Gã điên” và “kỳ quặc.”

“Ông ta không mặc áo choàng đen chứ ạ?” Mat hỏi bất thình lình.

Bụng của Bran xốc lên một tràng cười. “Đồ đen á! Áo choàng của ông ta giống mọi người bán hàng rong khác ta từng thấy. Vá nhiều hơn vải, và nhiều màu sắc hơn cháu có thể nghĩ ra đấy.”

Rand bật cười vang, nghe chừng rất sảng khoái. Nghĩ tay kỵ sĩ áo đen đầy hăm dọa kia là một người bán hàng rong đúng thật là một ý tưởng khôi hài, nhưng… Cậu lấy tay bịt ngay mồm lại trong bối rối.

“Ông thấy chưa Tam,” Bran nói. “Trong làng này có quá ít tiếng cười kể từ lúc mùa đông đến. Giờ ngay đến cả cái áo choàng của người bán hàng rong cũng gây ra một tràng cười. Chỉ riêng việc đó thôi cũng đáng tốn công sức mang ông ta từ Baerlon xuống đây.”

“Ông muốn nói gì thì nói,” bỗng nhiên Cenn nói. “Tôi vẫn nói đó là một việc lãng phí tiền bạc ngu ngốc. Và những trò pháo hoa các người nhất định đòi cho bằng được.”

“Vậy là có pháo hoa ư,” Matt nói, nhưng Cenn tiếp tục.

“Tay bán hàng rong đầu tiên lẽ ra nên đến đây từ một tháng trước, nhưng không có ai cả đúng không? Nếu ngày mai ông ta không đến, thì chúng ta tính sao với bọn chúng đây? Tổ chức một Lễ Hội khác đợi họ à? Đấy tất nhiên là nếu như ngài có mang họ đến.”

“Cenn” Tam thở dài “Ông nên biết tin tưởng như một người ở trấn Taren Ferry.”

“Thế ông ta đâu? Nói tôi nghe coi, al’Thor.”

“Sao các ngài không nói cho chúng cháu?” Mat yêu cầu bằng giọng không mấy hài lòng. “Cả làng sẽ phát sốt lên vì chờ đợi cũng y như phát sốt với người bán hàng rong vậy. Hoặc cũng phải gần như thế. Các ngài sẽ thấy chỉ cần một tin đồn về pháo hoa sẽ làm người ta thành ra thế nào.”

“Ta có thể hiểu,” Bran trả lời với một cái nhìn lâu vào bác thợ lợp mái. “Và có lẽ tôi biết chắc tin đồn đó sẽ khởi sự thế nào… chẳng hạn như theo tôi nghĩ thì sẽ có ai đó than phiền giữa bàn dân thiên hạ về những khoản phí tổn trong khi đó là những thứ cần phải giữ bí mật…”

Cenn hắng giọng. “Gió buốt quá mà thân tôi thì già yếu quá rồi. Vậy nếu các ông không thì phiền thì tôi sẽ đi xem liệu bà al’Vere có thể pha cho tôi chút rượu để xua cơn lạnh này đi không, thưa ngài Thị Trưởng, ông al’Thor.” Ông ta tiến vào quán trọ trước khi dứt lời, và ngay khi cánh cửa đóng sập sau lưng ông ta, Bran buông tiếng thở dài.

“Có lúc ta nghĩ Nynaeve đã đúng về việc… Ờ, thôi cũng chẳng quan trọng. Mấy đứa chịu khó nghĩ thử nhé. Mọi người sẽ phát cuồng lên về vụ bắn pháo hoa, đúng không, dù đó chỉ là một lời đồn. Nghĩ xem họ sẽ thế nào nếu người bán hàng rong không đến đây kịp lúc, sau tất cả những háo hức của họ. Trong khi với thời tiết kiểu này, ai mà biết được khi nào ông ta sẽ đến. Cứ để yên rồi họ sẽ phấn khởi gấp trăm lần khi ông ta đến.”

“Và thất vọng gấp trăm lần nếu ông ta không đến,” Rand chậm rãi nói. “Thậm chí lễ Bel Tine cũng chẳng làm tinh thần họ khá hơn chút nào.”

“Biết suy nghĩ thế thì không uổng có cái đầu trên cổ rồi đấy,” Bran nói. “Rồi sau này thằng bé sẽ theo ông vào Hội Đồng Làng đấy Tam. Nhớ lời tôi đó. Không ai mà tôi có thể gọi tên lại nói chí lý hơn thằng bé lúc này đâu.”

“Chỗ hàng này chưa có ai dỡ cả,” Tam nghiêm giọng nói, trao thùng rượu đầu tiên cho ngài Thị Trưởng. “Tôi đang thèm ngọn lửa ấm, một tẩu thuốc, và một cốc bia của ông đây.” Ông nhấc bổng thùng rượu thứ hai lên vai. “Tôi chắc Rand sẽ biết ơn lắm nếu cậu chịu giúp đấy Matrim. Nhớ nhé, nước trái cây ở trong hầm càng sớm thì…”

Khi Tam và Bran biến mất vào trong quán trọ, Rand nhìn bạn mình. “Cậu không cần đụng tay đâu, Dav sẽ không giữ con lửng đó lâu đâu.”

“Ô, sao không chứ?” Mat đành cam chịu. “Cha cậu nói rồi đấy, nước trái cây ở trong hầm càng sớm thì…” Hai tay nhấc một thùng nước táo, cậu ta bước nhanh vào quán trọ. “Egwene chắc đang quanh đây. Xem cách cậu nhìn cô ta như nhìn một con bò bị xả thịt cũng vui chẳng kém vụ con lửng, dù là ngày nào.”

Đang đặt chiếc cung với cái bao tên ra sau thì thì Rand dừng lại. Chàng thật đang cố tống khứ Egwene ra khỏi đầu óc mình. Việc đó thật không bình thường. Nhưng cô ta chắc cũng đang đâu đó quanh quán trọ. Chàng không có nhiều cơ hội tránh né. Tất nhiên, cũng đã nhiều tuần kể từ lần cuối cậu thấy cô ta.

Bản đồ vùng Sông Đôi (Two Rivers)
map-2-rivers.gif

...
*pace: đơn vị đo chiều dài, ~ 0.76m
*Mục Đồng Bóng Đêm (Shepherd of the night): tên gọi khác của Chúa Tể Bóng Tối (Dark One)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
Mình mới đọc chương mở đầu thôi. Nghe giống Hercules bị hóa điên rồi giết vợ con nhỉ. :3
Phần phía mình nghĩ bạn nên ghi thể loại của tác phẩm chứ đừng để truyện dài.
Về chú thích mình nghĩ bạn nên đánh số cho chúng, để * chung vậy sẽ khó theo dõi cái nào là cái nào.
Bạn làm thêm mục lục vào nữa nhé, mà chương 1 tách ra như vậy thì bạn ghi chương 1 - phần 1, chương 1 - phần 2 chẳng hạn, chứ ghi tiếp như vậy khó làm mục lục. :3
Một số lỗi chính tả:
Tác giả: Robert Hordan
Bạn ghi nhầm tên tác giả nha.
Ông cũng viết tiểu thuyết lịch sử dưới bút danh tiếng địa phương Reagan O'neal, hoặc tiếng anh là Jackson O'Reilly.
Viết hoa nhé.
Một sai sót của Aes Sedai để để cho Saitan có cơ hội ảnh hưởng đến thế giới, làm ô uế phần saidin của Nguồn Chân Lý. Xuyên suất bộ truyện là cuộc đối đấu giữa Saitan và các thế lực của hắn đối chọi với lực lượng của Sự Sáng (Light) , phe thiện, dẫn đầu
bởi nhân vật Rand al’Thor, được gọi là Rồng Tái Sinh (Dragon Reborn).
rời bỏ làng quê thanh mình bắt đầu sứ mệnh đối phó với Saitan sắp thoát ngục.
Phía sau chàng không khí sôi sục, bừng sáng rồi đông đặc lại thành một người đàn ông rảo mắt nhìn quanh, miệng ông ta chúm lại với vẻ khó chịu. Không cao như Lews Therin, hắn ta mặc toàn màu đen, chừa lại sợi dây buộc trắng như tuyết trên cổ và thứ đồ bạc ở chỗ gấp xuống trên đầu đôi ủng cao đùi. Hắn ta bước đi thận trọng, chăm chú vén tấm áo choàng cho khỏi quẹt vào đám xác chết. Sàn nhà run lên do các cơn dư chấn, nhưng sự chú ý của hắn dồn cả vào cái người đang nhìn vào gương mà cười kia.
Mình thấy phía sau bạn gọi người đàn ông đó là hắn ta, vậy thì đổi chỗ gạch chân thành vậy luôn cho thống nhất. :3
“Ngươi cứu được cô ta đâý, Kẻ Giết Người Thân ạ.
Dòng mồ hôi thất thần chảy ròng xuống khuôn mặt Lews Therin qua lớp bụi cát. Chàng nhớ lại, một mớ ký ức mù mờ như mộng trong mộng, nhưng chàng biết đó là thật.
 

conruoinho

Gà ăn mày
Nhóm Chuyển ngữ
Gà về hưu
Tham gia
10/1/14
Bài viết
1.952
Gạo
13.723,7
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
Chào bạn, mình mới sửa tên chủ đề của bạn cho phù hợp rồi nhé. Hình bìa sách có vẻ hơi cũ, không biết truyện xuất bản từ hồi nào nhỉ?
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
Thanks bạn!
Đây là bìa cho tập 1 trong series 14 cuốn của tác giả Robert Jordan, xuất bản lần đầu năm 1990.
Các lần tái bản về sau người ta có dùng bìa khác hình ảnh bớt "thiếu nhi" hơn, nhưng mình chọn cái hình này. ^^
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 2: Những kẻ lạ (phần 1)
Khi Rand và Mat bê những thùng rượu đầu tiên qua sảnh lớn, Ngài al’Vere đã đổ đầy hai ly lớn loại bia nâu hảo hạng, thứ do ông tự làm, từ một cái vại gắn trên bức tường. Scratch, con mèo vàng trong quán trọ, ngồi thu mình trên cái vại, với đôi mắt lim dim và cái đuôi quấn quanh chân. Tam đứng trước bếp lửa lớn làm bằng đá dưới sông, nâng một tẩu thuốc dài nhồi đầy một loại thuốc lấy từ cái hộp bóng loáng mà chủ quán trọ luôn để trên mặt lò sưởi bằng đá. Bếp lửa trải hết một nửa chiều dài của gian đại sảnh, vuông vức với một cái cửa cao bằng vai một người đàn ông, và ngọn lửa bập bùng bên trong xua tan cái lạnh bên ngoài.

Và thời điểm giáp Lễ bận rộn thế này, Rand nghĩ rằng ngoại trừ Bran và cha chàng với con mèo ra thì chắc đại sảnh hẳn trống rỗng, nhưng có thêm bốn người nữa thuộc Hội Đồng Làng, gồm cả Cenn, đang ngồi trên những cái ghế cao lưng trước ngọn lửa, bia trong tay và làn khói thuốc xanh xám cuồn cuộn trên đầu họ. Chỉ có lần này là không có cái bàn cờ nào được dùng, và tất cả sách của Bran vẫn nằm không trên kệ đối diện với bếp lửa. Bọn họ thậm chí không nói chuyện, chỉ im lặng chăm chú vào cốc bia của mình hoặc gõ tẩu thuốc vào răng sốt ruột, trong khi chờ Tam và Bran nhập bọn với họ.

Những ngày này Hội Đồng Làng không thấy lo lắng cho lắm , ở làng Emond’s Field này thì không, và có lẽ ở làng Watch Hill hoặc Deven Ride cũng vậy. Hoặc ở cả Taren Ferry nữa, nơi mà khó ai biết được liệu dân trấn ấy có bao giờ thật sự lo nghĩ về cái gì đó không?

Trong số những người ngồi trước bếp lửa chỉ có hai người, Haral Luhhan, bác thợ rèn, và Jon Thane, bác thợ mỏ, là thoáng nhìn thấy hai đứa nhóc đi vào. Tuy nhiên ngài Luhhan nhìn chăm chú hơn. Đôi tay bác thợ rèn ta to như cặp chân của hầu hết mọi người, bao quanh bởi những cơ bắp, và ông vẫn còn đang đeo cái tạp dề bằng da dài ngoằng như thể đã phải vội vã tới thẳng buổi họp này từ lò rèn. Ông ta cau mày nhìn cả hai đứa nó, rồi lại thoải mái duỗi người quanh cái ghế, tập trung vào việc nhồi thuốc rồi rít nhanh một cái.

Tò mò, Rand bước chầm chậm, rồi kêu oái lên một tiếng khi Mat đá vào mắt cá chàng. Thằng bạn hất đầu một cách cương quyết về phía lối đi cuối tòa sảnh rồi vội vã bước tới không chút ngập ngừng. Khập khiễng, Rand cũng đi theo.

“Vậy là sao?” chàng yêu cầu ngay khi đã vào hành lang dẫn dô bếp. “Cậu suýt làm gãy…”

“Là lão Luhhan,” Mat nói, nhìn vào sảnh lớn qua đôi vai Rand. “Tớ nghĩ ông ta nghi tớ là kẻ…” Cậu ngắt lời khi bà al’Vere xông ra khỏi nhà bếp, hương bánh nóng tỏa ra phía trước.

Cái khay trên tay bà đựng mấy ổ bánh mì nướng mà nhờ nó bà nổi tiểng khắp làng Emond’s Field, cùng với mấy đĩa dấm và phó-mat. Thức ăn chợt nhắc Rand rằng chàng mới chỉ được một khúc bánh mì trước khi rời trang trại sáng nay. Dạ dày của chàng ngượng ngịu sôi lên.

Là một phụ nữ mảnh khảnh, với mái tóc hoa râm tết dày xõa qua vai, bà al’Vere mỉm cười theo kiểu các bà mẹ với cả hai đứa nó. “Món này còn trong bếp đấy, nếu hai cháu có đói, mà ta chưa thấy có đứa nào ở tuổi các cháu lại không. Mà tuổi nào thì cũng vậy, chẳng phải vấn đề. Nếu mấy đứa thích, sáng mai ta sẽ nướng bánh mật.”

Bà là một trong số những người phụ nữ có chồng trong vùng này chưa bao giờ chơi trò ghép đôi cho Tam. Với Rand tình mẫu tử của bà luôn mở rộng bằng một nụ cười ấm áp và một phần ăn nhanh bất cứ khi nào chàng ghé qua quán trọ, nhưng bà cũng làm thế với mọi thanh niên trong vùng. Nếu thỉnh thoảng bà có nhìn chàng như thế muốn làm gì hơn, ít nhất cũng là những cái nhìn, thì là vì chàng thật lòng biết ơn bà.

Không đợi cho phép bà lướt vào sảnh lớn. Ngay lập tức vang lên âm thanh cựa quật của những chiếc ghế trên sàn khi cánh đàn ông đứng lên, và ồn ào trước mùi vị của bánh mì. Bà hiển nhiên là đầu bếp số một trong làng Emond’s Field, và không một người đàn ông nào trong mấy dặm quanh đây mà không tóm lấy cơ hội được đặt chỗ dưới bàn ăn của bà.

“Bánh mật,” Mat nói, liếm môi.

“Để sau đi,” Rand quả quyết, “bằng không thì chẳng bao giờ xong việc.”

“Một ngọn đèn treo trên bậc thang xuống tầng hầm, ngay cạnh cửa vào bếp, và một cái khác tạo thành một quầng sáng nhỏ trên căn phòng tường đá dưới quán trọ, xua tan tất cả ngoại trừ một chút bóng tối trong góc xa nhất căn phòng. Những cái kệ bằng gỗ chạy dọc những bức tường và băng ngang nền nhà chất những thùng rượu và nước ép táo, cả những thùng lớn hơn chứa bia và rượu vang, một vài thùng có gắn van. Nhiều thùng rượu vang được al’Vere đích tay đánh dấu bằng phấn, ghi chú chúng được mua năm nào, tay bán hàng rong nào đã mang đến, và thành phố nào làm ra chúng, nhưng tất cả các thùng bia và rượu táo là sản phẩm hoặc của nông dân vùng Sông Đôi hoặc của chính Bran. Những tay bán hàng rong, thậm chí là tay buôn, đôi lúc mang rượu táo hoặc bia từ ngoài vào, nhưng không bao giờ ngon và giá tốt cho bằng trong vùng, với lại, chưa có ai từng uống chúng hơn một lần.

“Bây giờ,” Rand nói, khi hai đứa đang xếp thùng lên kệ, “cậu đã làm gì mà phải tránh ngài Luhhan thế?”

Mat nhún vai. “Thật tình là không có gì. Tớ bảo Adan al’Caar và mấy thằng bạn trẻ trâu của cậu ta – thằng Ewin Finngar và Dag Coplin – rằng có mấy người nông dân đã thấy bọn chó săn linh hồn, thở ra lửa, và chạy qua cánh rừng. Chúng ăn ngấu nghiến như liếm kem đặc vậy.”

“Và ngài Luhhan đã nổi điên với cậu vì chuyện này?” Rand nghi hoặc hỏi.

“Không hẳn.” Mat ngập ngừng, rồi lắc đầu. “Cậu hiểu không, tớ lấy bột trét lên hai con chó nhà lão, biến chúng thành màu trắng. Rồi tớ thả chúng gần nhà Dag. Làm sao mà tớ biết chúng lại chạy thẳng về nhà cơ chứ? Nào phải lỗi của tớ. Nếu bà Luhhan không để cửa mở thì chúng sao vào trong nhà được. Đâu phải tớ cố tình vãi bụi khắp nhà bà ấy đâu.” Nó cười ầm lên. “Tớ nghe bà ta lấy chổi rượt ông Luhhan và mấy con chó, cả ba đấy, chạy ra khỏi ngôi nhà.”

Rand vừa cười mà cũng vừa nhăn mặt. “Nếu tớ là cậu, tớ sẽ sợ bà Alsbet Luhhan hơn là sợ bác thợ rèn. Bà ấy khỏe cực, và tính nóng còn khủng khiếp hơn. Nhưng cũng chẳng sao. Nếu cậu đi nhanh thì chắc ông ấy không để ý cậu đâu.” Biểu cảm của Mat cho thấy nó không nghĩ Rand vui tính chút nào.

Tuy nhiên, khi hai đứa nó trở lại sảnh lớn thì Mat không cần vội nữa. Sáu người đàn ông đã xếp ghế ngồi quây lại với nhau trước bếp lửa. Quay lưng về phía đống lửa, Tam đang thấp giọng nói, và những người khác đang chăm chú lắng nghe, tập trung vào từng lời của ông đến nỗi nếu có một bầy cừu đi qua chắc họ cũng chẳng để ý. Rand muốn đi sát lại, để nghe xem họ đang nói cái gì, nhưng Mat lại kéo tay áo chàng và trao cho chàng một cái nhìn khổ sở. Với một tiếng thở dài chàng theo Mat ra xe ngựa.

Khi trở lại hành lang hai đứa thấy một khay bánh trên đầu cầu thang, và mùi hương ngào ngạt của bánh mật nóng lan tỏa cả lối đi. Còn có hai cái cốc, và một bình nước táo hâm nóng đang bốc khói nữa. Mặc dù đã tự nhủ phải để sau, nhưng khi khiêng nốt hai chuyến cuối cùng từ chiếc xe ngựa đến hầm chứa thì Rand nhận ra mình đang tung hứng trên tay thùng rượu và một cái bánh mật nóng hổi rồi.

Xếp thùng rượu cuối cùng vào kệ xong, chàng lau mép trong khi Mat còn đang đặt gánh nặng xuống, rồi nói, “Giờ thì phắn…”

Chân bước rầm rập trên những bậc thang, và Ewin Finngar chạy bổ xuống hầm trong vội vã, khuân mặt mụ mẫm của cậu ta bừng sáng với sự hớn hở muốn báo ngay tin tức của mình. “Có những kẻ lạ trong làng.” Cậu ta ngừng thở và nhìn Mat bằng ánh mắt gượng gạo. “Em chưa bao giờ thấy bọn chó săn linh hồn, nhưng em nghe có người đã trét bột lũ chó của ngài Luhhan. Em cũng nghe bà Luhhan biết phải tìm kẻ nào rồi.”

Sự ngăn cách tuổi tác giữa Rand và Mat với Ewin, nó mới mười bốn, thường khiến hai thằng thờ ơ với những gì cậu ta nói. Nhưng lần này chúng phải trao nhau một cái nhìn hoảng hốt, rồi cả hai đồng thanh nói.

“Trong làng ư?” Rand hỏi. “Không phải trong rừng à?”

Lời vừa dứt Mat liền tiếp, “Áo choàng hắn đen đúng không? Mày thấy mặt hắn không?”

Ewin ngập ngừng nhìn qua từng đứa, rồi nói nhanh khi Mat dậm chân dọa nạt. “Tất nhiên em thấy mặt nó. Còn áo nó màu xanh lá. Có khi xám. Nó đổi màu. Hình như cái áo tan biến vào bất cứ nơi nào hắn ta đứng. Đôi lúc anh không thấy hắn ngay cả khi anh nhìn thẳng vào hắn, trừ khi hắn di động. Còn của bà ta thì màu xanh, xanh da trời đấy, và trông lạ mắt gấp mười lần bất cứ bộ đồ dạ hội nào mà em từng thấy. Bà ta cũng đẹp gấp mười lần bất cứ ai em từng gặp. Bà ta là một phu nhân cao quý, y trong truyện vậy. Nhất định là thế.”

“Bà ta ư?” Rand nói. “Em đang nói về ai vậy?” Chàng nhìn Mat, kẻ đang đưa hai tay ôm đầu kéo sụp mắt xuống.

“Họ là những kẻ tớ định nói với cậu đấy,” Mat thì thào, “trước khi cậu bắt tớ làm…” nó ngưng bặt, tròn mắt nhìn Ewin. “Họ đến tối hôm qua,” Mat lại tiếp, “và đặt phòng trong quán trọ này. Tớ thấy họ cưỡi ngựa vào. Ngựa của họ đấy Rand à. Tớ chưa bao giờ thấy ngựa nào mà lại cao lớn béo tốt như vậy. Trông như thể chúng có thể chạy hoài chạy mãi. Tớ nghĩ hắn làm việc cho bà ta.”

“Là phụng sự,” Ewin ngắt lời. “Trong truyện người ta gọi là phụng sự.”

Mat tiếp tục như thể Ewin chưa nói gì. “Dù thế nào, hắn tuân lệnh bà ta, dù bà ta có nói gì. Chỉ là hắn không giống một kẻ được thuê. Một người lính, chắc vậy. Cách hắn đeo kiếm, là một phần của hắn, kiểu như là tay với chân vậy. So với hắn thì đám lính gác của bọn quân buôn chẳng khác gì lũ chó nhát chết. Còn bà ta. Tớ chưa bao giờ tưởng tượng ra người nào giống vậy. Bà ấy từ trong truyện của người hát rong ra. Bà ta giống… giống.” Nó ngừng lại và nhìn Ewin có vẻ chua chát “…giống một phu nhân cao quý,” nó kết thúc bằng tiếng thở dài.

“Nhưng họ là ai?” Rand hỏi. Ngoài quân buôn, mỗi năm một lần đến mua thuốc hút và lông cừu, thì những người bán hàng rong, những người ngoại vùng không bao giờ đến vùng Sông Đôi, gần như không bao giờ. Có thể họ đến trấn Taren Ferry, nhưng phía nam xa xôi này thì không. Với lại hầu hết quân buôn và cánh bán hàng rong đã đến từ nhiều năm trước, nên cũng không kể họ là người lạ được. Chỉ có người ngoại vùng. Đã hơn năm năm kể từ lần cuối cùng một kẻ lạ xuất hiện ở làng Emond’s Field, lúc đó ông ta đang cố tránh một vài rắc rối ở trấn Baerlon mà không ai ở làng này hiểu được. Ông ta không ở lại lâu.

“Bọn họ muốn gì à?” Mat kêu lên. “Tớ không quan tâm bọn họ muốn gì. Những kẻ lạ, Rand à, những kẻ lạ mà cậu chưa từng mơ tưởng tới. Nghĩ đi.”

Rand mở miệng, rồi ngậm lại ngay mà chẳng nói gì. Tay kỵ sĩ mặc đồ đen đã làm chàng sợ hãi như một con mèo bị chó rượt. Điều đó giống như một sự tình cờ tệ hại, ba kẻ lạ quanh làng vào cùng một thời điểm. Là ba kẻ nếu như tấm áo choàng đổi màu của kẻ đó không bao giờ đổi sang màu đen.

“Tên bà ấy là Moiraine,” Ewin nói sau một thoáng im lặng. “Tớ nghe hắn gọi vậy. Moiraine, hắn gọi bà ấy. Phu nhân Moiraine. Còn tên hắn là Lan. Nhà Thông Thái chắc cũng không thích phu nhân ấy đâu, nhưng tớ thì thích.”

“Sao mày nghĩ chị Nynaeve không thích bà ấy?” Rand nói.

“Sáng nay bà ấy hỏi đường Nhà Thông Thái,” Ewin nói, “và gọi chị ấy là ‘nhóc’” Rand và Mat cùng huýt sáo nhè nhẹ qua kẽ răng, còn Ewin vội giải thích nhanh tới nỗi cắn cả vào lưỡi. “Phu nhân Moiraine không biết chị ấy là Nhà Thông Thái. Phu nhân xin lỗi khi nhận ra điều đó. Thật đấy. Rồi hỏi một vài câu về thảo mộc, và về những người quanh làng Emond’s Field, với cung cách kính trọng y như các cô các bà trong làng mình vậy – có khi còn hơn. Phu nhân toàn đặt câu hỏi, về việc người dân già trẻ thế nào, rồi họ sống ở nơi đây bao lâu rồi, và… ờ, tớ không nhớ hết. Dù sao thì, chị Nynaeve trả lời như thể cắn phải trái dâu xanh vậy. Rồi, khi phu nhân Moiraine đi khỏi, chị Nynaeve nhìn theo giống như kiểu… như, ờ, không mấy thiện cảm, có thể nói như vậy.”

“Hết chưa?” Rand nói. “Mày biết tính khí của chị Nynaeve rồi đấy. Năm ngoài khi Cenn Buie gọi chị ấy là một đứa trẻ, chị đã thục cây gậy vào đầu ông ta, mà ông ấy thuộc Hội Đồng Làng, và đáng tuổi làm ông nội chị ấy đấy. Chị ta còn nổi quạu với bất cứ thứ gì, và không bao giờ để cơn giận qua nhanh.”

“Cái đấy với em thì hãi lắm,” Ewin thì thầm.

“Tớ không quan tâm chị Nynaeve đánh ai”, Mat cười ngặt nghẽo, “miễn không phải là tớ. Lễ Bel Tine đợt này sẽ là tuyệt nhất từ trước tới giờ. Một người hát rong, một phu nhân – có ai còn đòi hỏi gì hơn nữa? Ai còn cần pháo hoa nữa?”

“Một người hát rong ạ?” Ewin nói, giọng cậu ta trở nên lanh lảnh.

“Thôi nào Rand,” Mat tiếp, lơ thằng nhóc. “Xong việc ở đây rồi. Phải cho cậu thấy gã này.”

Nó tót lên cầu thang, thằng Ewin lết theo sau gọi, “Có người bán hàng rong hả anh Mat? Cái này không giống vụ mấy con cho săn ma đấy chứ? Hoặc chuyện lũ ếch?”

Rand khựng lại tắt cái đèn rồi lao theo bọn chúng.
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 2: Những kẻ lạ (phần 2)

Trong sảnh lớn Rowan Hurn và Samel Crawe đã nhập bọn vào nhóm người trước bếp lửa, vậy là toàn thể Hội Đồng Làng đã ở đó. Bran al’Vere đang nói, cái giọng chân chất thường ngày của ông hạ thấp tới nỗi chỉ còn là tiếng thì thầm lan truyền qua những cái ghế chung quanh. Ngài Thị Trưởng nhấn mạnh lời của mình bằng cách gõ gõ ngón trỏ vào lòng bàn tay, và lần lượt nhìn từng người một. Tất cả bọn họ gật đầu đồng ý với bất cứ điều gì ông nói, tuy lão Cenn có vẻ miễn cưỡng hơn những người còn lại

Cách nói của nhóm đàn ông túm tụm với nhau kia thẳng thắn chứ không màu mè. Dù họ đang nói cái gì, thì cũng là chuyện của riêng Hội Đồng Làng, chí ít là cho tới bây giờ. Họ không để ý thấy Rand đang cố nghe lỏm. Rồi miễn cưỡng chàng tránh ra xa. Vậy là có người bán hàng rong. Và những kẻ lạ đó.

Bên ngoài, con Bela và chiếc xe ngựa đã rời đi, chắc là Hu hay Tad, người trông ngựa, đánh đi. Mat và Ewin đứng cách cửa quán trọ mấy paces nhìn nhau, áo choàng tung bay trong gió.

“Tao bảo lần cuối,” Mat quát, “Tao không có đùa. Có người hát rong. Giờ thì biến. Rand, cậu làm ơn bảo thằng đầu đất này là tớ đang nói thật cho nó để tớ yên cái.”

Kéo gập tấm áo choàng lại, Rand bước lên giúp Mat, nhưng miệng chàng chết cứng khi mái tóc cuộn ngược ra sau cổ. Một lần nữa chàng đang bị theo dõi. Cảm giác này khác hẳn với tay kỵ sĩ, nhưng cả hai đều khó chịu, nhất là vụ đó vừa mới xảy ra đây.

Lướt nhìn về phía bãi Green chàng thấy điều chàng vẫn thấy trước đây – đám trẻ con nô đùa, người dân sắm sửa cho Lễ Hội, và chẳng có lấy một cái lướt nhìn nào về phía chàng. Cột Xuân vẫn đứng chơ vơ, chờ đợi. Tiếng trẻ nô đùa ngập tràn các con phố. Tất cả vẫn vậy. Ngoại trừ việc chàng đang bị theo dõi.

Rồi có thứ gì đó khiến chàng xoay quanh, hướng mắt lên. Trên rìa mái ngói ngôi quán trọ một con quạ đậu ở đó, khẽ lắc lư trong trận cuồng phong thổi đến từ dãy núi. Đầu nó nghiêng sang một bên, và một con mắt tròn, đen đang tập trung… nhìn chàng, chàng nghĩ vậy. Chàng nuốt nước bọ, rồi bất ngờ cơn giận trỗi lên, hừng hực và tức tối.

“Đồ ăn xác thối tha,” chàng lầm bầm.

“Tao mệt với cái kiểu nhìn đấy rồi nhé,” Mat càu nhàu, và Rand nhận ra thằng bạn đã bước đến bên cạnh mình và cũng đang bực mình với con quạ.

Hai hòn đá bay lên… con quạ bước dịch sang bên; hai hòn bay vèo xuống đất trở lại. Khua nhẹ đôi cánh, nó lại nghiêng đầu, chiếu đôi mắt đen xì xuống hai thằng, chẳng hề sợ hãi, làm như chưa có gì xảy ra vậy.

Rand hoảng sợ nhìn con chim. “Cậu có thấy con quạ nào làm vậy chưa?” Chàng hỏi thầm.

Mat lắc đầu mà mắt không rời khỏi con quạ. “Chưa từng. Cũng chưa thấy con chim nào khác làm vậy.”

“Một con quái,” giọng một phụ nữ thốt ra sau lưng chúng, tuy khó chịu nhưng nghe lại êm tai, “rõ ràng rất đáng hồ nghi.”

Với một tiếng kêu eng éc con quạ phóng mình vào không trung nhanh tới mức hai cọng lông đen vương lại trên mái nhà.

Chăm chú, Rand và Mat xoay người nhìn theo hướng bay của con chim, qua Bãi Xanh và hướng về Dãy Núi Mù Sương phủ mây, vươn lên bên kia rừng Westwood, cho tới khi nó chỉ còn là một đốm nhỏ rồi dần mất hút khỏi tầm nhìn.

Ánh mắt của Rand rớt xuống người phụ nữ vừa nói. Bà ta, cũng nhìn theo con quạ, nhưng giờ đã quay lại, và bắt gặp ánh mắt chàng. Chàng kinh ngạc. Đây chắc hẳn là phu nhân Moiraine, và bà ta đúng như lời Mat và Ewin nói, thậm chí còn hơn.

Khi nghe bảo cô ta gọi Nynaeve là nhóc, chàng mường tưởng hẳn cô ta đã già, nhưng không phải. Ít nhất, chàng không thể đoán được tuổi cô ta. Ban đầu chàng thấy cũng trẻ như Nynaeve, nhưng nhìn lâu hơn thì lại thấy cô ta lớn tuổi hơn. Có một sự già giặn trong đôi mắt đen, tròn của cô ta, một dấu hiệu của sự hiểu biết mà không phải ai cũng có khi còn trẻ. Trong khoảnh khắc chàng nghĩ đôi mắt ấy là một hồ nước sâu thẳm nuốt chửng lấy chàng. Dễ hiểu tại sao Mat và Ewin đều gọi cô ta là một phu nhân như trong truyện của người hát rong. Cô ta có một vẻ duyên dáng và thần thái chỉ huy khiến chàng cảm thấy ngượng ngịu và run chân. Cô ta cao vừa tới ngực chàng, nhưng sự vóc dáng lại rất thích hợp với chiều cao cô ta, và chàng cảm thấy lóng ngóng với chiều cao của mình.

Nhìn chung là cô ta không giống bất kì ai chàng từng gặp. Cái mũ trùm rộng của tấm áo choàng đóng khung lấy khuân mặt và mái tóc đen của cô, một mái tóc xoăn bồng bềnh để xõa. Chàng chưa bao giờ thấy một phụ nữ trưởng thành mà lại không tết tóc; mọi cô gái trong vùng Sông Đôi đều tha thiết mong đến ngày Hội Phụ Nữ nói rằng mình đã đến tuổi tết tóc. Trang phục cô ta cũng kì lạ như vậy. Tấm áo choàng bằng nhung màu thiên thanh, với những họa tiết hoa lá bằng bạc thuê dày viền quanh áo. Bộ váy lóng lánh theo nhịp bước của cô ta, có màu xanh đậm hơn áo choàng, và có sọc màu kem. Một sợi dây chuyền với những mắt xích bằng vàng đeo quanh cổ, trong khi một sợi bằng vàng khác, thanh nhã quấn quanh mái tóc, treo một viên đá nhỏ màu dương lấp lánh ngay chính giữa vầng trán. Một sợi dây lưng rộng bản dệt bằng vàng quấn quanh eo cô ta, và trên ngón giữa bàn tay trái là một chiếc nhẫn vàng có hình mãng xà cuộn mình. Chàng chắc chắn chưa bao giờ thấy một chiếc nhẫn như vậy, tuy chàng nhận ra đó là hình Mãng Xà Chúa, một biểu tượng của sự vĩnh cửu còn xưa hơn là Bánh Xe Thời Gian.

“Chào buổi sáng, bà… à không… thưa phu nhân Moiraine,” Rand nói. Mặt đỏ bừng vì ngượng ngịu.

“Chào buổi sáng, phu nhân Moiraine,” Mat lập lại cho trơn tru hơn, nhưng chẳng khá hơn là mấy.

Cô ta mỉm cười, và Rand tự hỏi liệu có thứ gì mình có thể làm vì cô ấy không, để rồi có một cái cớ được gần cô hơn. Chàng biết cô ta đang cười với cả hai đứa, nhưng lại nghĩ là cười riêng với chàng chăng. Thật cứ như câu chuyện của người hát rong đã thành sự thật. Mat toét ra một nụ cười ngu ngốc trên khuân mặt.

“Các cậu biết tên ta,” bà nói, nghe vui tươi, như thể không biết sự hiện diện của mình, dù ngắn ngủi, đã biến thành câu chuyện của năm trong làng này! “Nhưng các cậu gọi ta là Moiraine thôi, không có phu nhân. Vậy các cậu tên gì?”

Ewin nhào ra trước khi một trong hai đứa kịp lên tiếng. “Tên con là Ewin Finngar, thưa phu nhân. Chính con cho hai anh này biết tên bà; nên họ mới biết. Con nghe ông Lan nói, nhưng không phải nghe lén đâu. Trước giờ chưa từng có ai giống phu nhân ghé qua làng Emond’s Field. Có một người hát rong cũng đến làng để dự lễ Bel Tine. Và tối nay là Đêm Đông rồi. Phu nhân ghé nhà con được không? Mẹ con có nấu món bánh táo.”

“Ta phải xem đã,” cô ta đáp, đặt tay lên vai Ewin. Đôi mắt cô nhấp nháy vui tươi, tuy rằng chẳng có ý gì cả. “Ta không biết liệu có cạnh tranh được với người hát rong không Ewin à. Nhưng mấy đứa phải gọi ta là chị Moiraine thôi. Cô ta nhìn Rand và Mat khẩn khoản.

“Em là Matrim Cauthon, thưa Phu… à… thưa chị Moiraine,” Mat nói. Nó thình lình cúi người xuống một cách cứng nhắc, rồi khi đứng thẳng dậy thì mặt đã đỏ bừng.

Rand đã tự hỏi liệu có nên làm theo kiểu mấy người trong truyện không, nhưng thấy Mat đã vậy, chàng chỉ đơn giản nêu tên mình ra. Ít ra thì lần này chàng cũng không líu lưỡi lại.

Moiraine nhìn từ chàng qua Mat rồi ngược lại. Rand nghĩ nụ cười của cô ta, hơi nhếch hai bên mép, lúc này trông giống như kiểu cười của Egwene mỗi khi có bí mật gì đó. “Ta có chút việc nhỏ phải làm mỗi lần ghé qua Emond’s Field,” cô ta nói. “Chắc mấy đứa sẽ giúp ta chứ?” Cô cười lớn khi từng đứa nó tán thành. “Đây,” cô nói, và Rand ngạc nhiên khi cô ta ấn một đồng xu vào tay chàng, dùng hai ngón tay nắm chặt bàn tay ấy lại.

“Không cần đâu,” chàng bắt đầu, nhưng cô ta bỏ qua sự phản đối của chàng và trao cho Ewin một đồng xu, rồi ấn vào tay Mat y như cách đã làm với Rand.

“Tất nhiên là cần chứ,” cô ta nói. “Mấy đứa sao có thể làm không công được. Cứ xem đó là vật làm tin đi, và mang theo nó, như thế mấy đứa sẽ nhớ là đã đồng ý đến với ta khi ta cần. Vậy giờ giữa chúng ta có sự ràng buộc rồi nhé.”

“Em sẽ không quên,” Ewin thốt lên.

“Chúng ta sẽ nói chuyện sau,” cô ta nói, “và mấy đứa phải nói cho ta biết về bản thân mình đấy.”

“Thưa Phu… ý em là, chị Moiraine?” Rand hỏi vội khi cô ta quay đi. Bà dừng lại và nhìn qua vai, và chàng phải nuốt nước bọt để nói tiếp. “Sao chị lại đến làng Emond’s Field?” Biểu cảm của cô ta không thay đổi, nhưng bỗng nhiên chàng ước mình đừng hỏi, tuy chàng không biết tại sao. Nhưng rồi chàng cũng hấp tấp giải thích. “Em không có ý thất lễ. Em xin lỗi. Chỉ là trong khi tuyết vẫn chưa ngập quá sâu để đi từ trấn Baerlon xuống thì ngoài cánh lái buôn và những người bán hàng rong thì không có ai đến Emond’s Field cả. Hầu như không có ai. Tất nhiên là không có ai giống chị hết. Những người cận vệ của cánh lái buôn đôi lúc bảo nơi đây mãi mãi là cuối đường, và em nghĩ đấy hẳn là cách nghĩ của bất kì ai sống bên ngoài. Em chỉ tự hỏi vật thôi.”

“Vì Bánh Xe xoay vần,” Moiraine nói, nửa như thì thầm và đôi mắt nhìn xa xăm, “các vùng đất sẽ mang nhiều tên. Mỗi người sẽ mang nhiều tên, nhiều khuân mặt. Những khuân mặt khác nhau, nhưng luôn là cùng một người. Nhưng không ai biết được Số Kiếp mà Bánh Xe thuê dệt, hoặc ngay cả Số Kiếp của một Thời Đại. Chúng ta chỉ biết quan sát, ghi nhận và hi vọng mà thôi.”

Rand nhìn cô ta, không nói được một lời, dù là để hỏi xem ý cô nói gì. Chàng nghĩ cô ta không nói cho bọn nó nghe. Hai thằng kia cũng tặc lưỡi. Ewin còn há hốc mồm.

Moiraine lại nhìn bọn chúng, và cả ba hơi rùng mình như thức tỉnh. “Chúng ta sẽ nói chuyện sau,” cô ta nói. Không đứa nào đáp lời. “Hẹn sau nhé.” cô ta tiến về phía cầu Wagon, trông như lướt đi chứ không phải bước, tấm áo choàng của cô ta giang rộng hai bên như đôi cánh.

Khi cô ta đi rồi, một người đàn ông cao lớn mà Rand không để ý từ trước ra khỏi quán trọ theo cô ta, một tay đặt trên chuôi gươm. Trang phục của ông ta một màu xanh đậm ẩn hiện trong lá cây và bóng tối, và tấm áo choàng xoay chuyển giữa các tông màu xám, xanh lá và nâu khi nó tung bay trong gió. Đôi lúc, tấm áo choàng đó, dường như tan biến, hòa vào bất cứ thứ gì xung quanh. Tóc người đó dài, chỗ thái dương đã điểm bạc, và bị dải băng buộc đầu chải về phía sau. Khuân mặt ấy tạo thành bằng những mặt phẳng cứng nhắc và góc cạnh, phong trần nhưng lại không gợn nếp nhăn dù tóc đã phai sương. Khi người đó di chuyển, Rand thấy không khác gì một con sói.

Khi băng qua ba thiếu niên người đó quét ánh mắt nhìn chúng, đôi mắt lạnh lẽo và có màu xanh như bình minh lúc giữa đông. Người đó cứ như thể đang ước lượng bọn chúng trong tâm trí, nhưng trên khuân mặt ấy không có dấu hiệu nào cho thấy bọn chúng có kí lô nào cả. Ông ta dồn bước cho tới khi bắt kịp Moiraine, rồi chậm rãi bước bên cô ta, cúi người nói chuyện. Rand bất giác thở hắt ra một hơi dồn nén nãy giờ.

“Đó là Lan,” Ewin hạ giọng nói, như thể nó cũng nén hơi nãy giờ. “Em dám cược ông ta là một Cai Ngục.”

“Mày điên à.” Mat bật cười, nhưng là một cái cười rờn rợn. “Những Cai Ngục chỉ có trong chuyện thôi. Dù sao thì bọn họ có kiếm và áo giáo nạm vàng cùng ngọc ngà, và dành hết thời gian để đi lên phương bắc, trong vùng Great Blight, để chiến đấu với cái ác và bọn Trolloc cùng những thứ như vậy.”

“Ông ta có thể là Cai Ngục lắm chứ,” Ewin cương quyết.

“Mày có thấy vàng hay ngọc ngà gì trên áo ông ta không?” Mat quạu. “Bộ trong vùng Sông Đôi này có bọn Trolloc hả? Chỉ có cừu thôi. Tao tự hỏi có cái quái gì ở đây mà khiến người như chị ấy thích thú chứ.”

“Có thể có gì đó,” Rand chậm rãi trả lời. “Họ nói quán trọ này đã ở đây ngót một ngàn năm, có khi hơn”

“Một ngàn năm cái con khỉ.” Mat nói

“Một đồng bạc!” Ewin thốt lên. “Bà ấy cho em cả một đồng bạc này! Thử nghĩ xem khi những người bán hàng rong tới em sẽ có khối thứ để mua.”

Rand xòe tay xem đồng bạc bà ta cho mình, quá đỗi ngạc nhiên. Chàng không nhận ra đồng bạc dày cui với hình chạm nổi một người đàn bàn đứng tay giơ cao giữ một ngọn lửa này ở đâu, nhưng chàng đã từng thấy Bran al’Vere cân bạc mà đám quân buôn mang đến từ đủ các miền, và chàng biết giá trị của nó. Số bạc thế này mua được cả một con ngựa ở bất cứ đâu trong vùng Sông Đôi, mà còn dư lại một ít nữa.

Chàng nhìn Mat và thấy cùng một biểu cảm sững sờ mà chắc chắn cũng đang có trên khuân mặt mình. Hơi nghiêng bàn tay cho Mat thấy đồng bạc nhưng không để Ewin thấy, chàng nhíu mày tỏ ý dò hỏi. Mat gật đầu, và thoáng chốc cả hai nhìn nhau đầy bối rối.

“Chị ấy có việc vặt gì thế không biết?” Cuối cùng Rand hỏi.

“Tớ không biết,” Mat khẳng định, “cũng không quan tâm. Tớ cũng sẽ không tiêu nó. Dù những người bán hàng rong có đến.” Nói xong nó nhét đồng bạc vào túi áo.

Gật đầu, rồi Rand cũng làm y vậy. Chàng không chắc tại sao, nhưng biết đâu lời Mat nói có lý. Không nên tiêu đồng bạc. Khi mà nó đến từ bà ta. Chàng không nghĩ những điều có lợi khác từ đồng bạc, nhưng…

“Hai anh nghĩ em cũng nên giữ lại cho mình ư?” Nét do dự khổ sở điểm to khuân mặt Ewin.

“Không trừ khi chính mày muốn vậy,” Mat nói.

“Anh nghĩ bà ta đưa nó cho em xài đấy,” Rand nói.

Ewin nhìn đồng bạc, rồi lắc đầu và nhét nó vào trong túi. “Em sẽ giữ nó,” nó nói đầy đau khổ.

“Vẫn còn người hát rong nữa,” Rand nói, và thằng Ewin sáng mắt ra.

"If he ever wakes up," Mat added.

"Rand," Ewin asked, "is there a gleeman?"

"You'll see," Rand answered with a laugh. It was clear Ewin would not believe until he set eyes on the gleeman. "He has to come down sooner or later."

Shouting drifted across the Wagon Bridge, and when Rand looked to see what was causing it, his laughter became wholehearted. A milling crowd of villagers, from gray-haired oldsters to toddlers barely able to walk, escorted a tall wagon toward the bridge, a huge wagon drawn by eight horses, the outside of its rounded canvas cover hung about with bundles like bunches of grapes. The peddler had come at last. Strangers and a gleeman, fireworks and a peddler. It was going to be the best Bel Tine ever.

“Nếu ông ta hẵng còn thức,” Mat bổ sung.

“Rand,” Ewin hỏi, “có người hát rong không anh?”

“Để rồi xem,” Rand cười đáp. Rõ ràng Ewin sẽ không tin chừng nào tận mắt thấy người hát rong. “Ông ta sớm muộn cũng phải đến thôi.”

Có tiếng ồn tràn qua cầu Wagon, và khi Rand nhìn xem là do đâu, chàng cười ngất ngưởng. Một đám đông dân làng, từ những ông già bạc tóc cho đến lũ trẻ chập chững biết đi, hộ tống một chiếc xe ngựa cao giàn đi về phía cầu, một chiếc xe cỡ đại tám ngựa kéo, bên ngoài tấm bạt phủ treo những bao bịch trông như những chùm nho. Người bán hàng rong cuối cùng đã đến. Những người lạ đến cùng người hát rong, pháo hoa đến cùng người bán hàng rong. Lần này nhất định sẽ là lễ Bel Tine tuyệt nhất từ trước tới giờ.
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 3: Người bán hàng rong

Những bao bị kêu loảng xoảng ồn ào khi chiếc xe của người bán hàng rong rầm rập chạy qua những thanh gỗ chắc nịch của cầu Wagon. Trong khi vẫn còn bị bao quanh bởi một đám đông dân làng và nông dân đến dự Lễ Hội, người bán hàng rong ghì cương ngựa dừng lại trước cửa quán trọ. Từ mọi ngả một số lượng khổng lồ dân chúng kéo đến vây lấy chiếc xe ngựa vĩ đại, bánh của nó cao hơn hết thảy những kẻ đang dán mắt vào người bán hàng ngồi bên trên.

Người trên xe ngựa là Padan Fain, một ông bạn xanh xao, gầy guộc với đôi tay khẳng khiu và một cái mũi khoằm khổng lồ. Fain, luôn luôn tươi cười như thể ông ta biết một chuyện tiếu lâm mà không ai khác biết, vẫn đánh xe ngựa vào làng Emond’s Field mỗi mùa xuân từ hồi mà Rand còn có thể nhớ được.

Cửa quán trọ bật mở ngay khi lũ ngựa dừng lại trong tiếng ồn ào của bộ yên cương, và Hội Đồng Làng xuất hiện, dẫn đầu bởi ngài al’Vere và Tam. Họ khoan thai tiến ra, có cả Cenn Buie, giữa sự ồn áo kích động của dân chúng vì đinh ghim, dây buộc, sách và hàng tá các thứ khác. Đám đông miễn cưỡng tách ra để họ đi lên trước, rồi nhanh chóng khép lại phía sau và không ngừng gọi người bán hàng rong. Chủ yếu, dân làng hỏi thăm tin tức.

Trong mắt của dân làng, kim khâu và trà đại loại như vậy chiếm không tới một nửa một những thứ có trên xe của người bán hàng rong. Mọi chi tiết nhỏ nhặt về thế giới bên ngoài cũng quan trọng không kém, tin về thế giới bên ngoài vùng Sông Đôi. Một số người bán hàng rong đơn giản chỉ kể những gì họ biết, kể ra tuốt luốt, một đống những chuyện linh tinh nhưng nhờ đó họ không bao giờ nhàm chán. Số khác thì tuân ra đủ các thứ, nói năng một cách thô lỗ, mất lịch sự. Tuy nhiên, Fain nói năng rất cởi mở và thường hài hước, phun nước miếng khi nói, nói hăng say gần như bì kịp với cả người hát rong. Ông thích thú trở thành tâm điểm của đám đông, nghênh ngang nhìn quanh như nhìn những con gà trống dưới cơ đang dõi mắt theo ông. Còn Rand thì cho rằng Fain sẽ không hài lòng lắm nếu biết trong làng Emond’s Field có một người hát rong.

Người bán hàng rong dành cho Hội Đồng và dân làng cùng một sự chú ý như nhau khi ông ngự trên chỗ của mình mà nhìn xuống, chú ý theo kiểu chẳng chú ý đến ai. Ông ta đại khái cứ gật đầu mà chẳng rõ với ai. Ông ta cười mà không nói, và vẫy vẫy đám đông những kẻ xem ông thân thiện một cách đặc biệt, tuy rằng sự thân thiện của ông ta vẫn luôn là một thứ xa cách kì lạ, rất nồng nhiệt nhưng lại không gần gũi.

Những yêu cầu đòi ông lên tiếng trở nên ồn ào hơn, nhưng Fain vẫn đợi, loay hoay với mấy thứ vặt vẵn quanh chỗ ngồi, chờ cho đám đông và sự phấn khởi đến đức mức độ ông muốn. Chỉ có Hội Đồng là giữ im lặng. Họ giữ phong cách thích hợp với địa vị của mình, nhưng những đám mây thuốc lá bốc ngùn ngụt trên đầu họ cho thấy họ đang phải kiềm chế thế nào.

Rand và Mat đứng ngoài rìa đám đông, cố len đến gần chiếc xe ngựa. Rand phải bỏ cuộc nửa đường, nhưng Mat thì vẫn luồn lách qua sức ép, kéo Rand phía sau mình, cho tới khi chúng đứng ngay sau Hội Đồng.

“Tớ cứ tưởng cậu sẽ ở lại ngoài nông trại suốt dịp Lễ chứ,” Perrin Aybara la lên với Rand giữa sự ồn ào. Thấp hơn Rand nửa cái đầu, học trò bác thợ mỏ có mái tóc xoăn này chắc nịch ra dáng một người đàn ông sức dài vai rộng, với đôi tay và bờ vai đủ săn chắc chẳng kém chính ngài Luhhan. Cậu ta có thể dễ dàng luồn qua đám đông, nhưng lại không muốn làm vậy. Cậu cẩn thận mở đường, nói xin lỗi với những người chỉ còn một nửa tâm trí để chú ý đến những thứ khác ngoài người bán hàng rong. Dù sao thì cậu ta cũng xin lỗi, và cố không xô đẩy ai cả khi len qua đám đông để đến chỗ Rand và Mat. “Tưởng tượng xem,” cậu nói khi cuối cùng đã tới chỗ họ. “Lễ Bel Tine với người bán hàng rong, cả hai luôn. Tớ cá là sẽ có pháo hoa nữa.”

“Cậu thì biết cái gì.” Mat cười. Perrin nhìn nó đầy ngờ vực, rồi hướng ánh mắt chất vấn vào Rand.

“Phải đấy,” Rand hét lên, rồi ra hiệu chỉ vào đám đông vĩ đại đang tranh nhau nói. “Tí nữa đi, tớ sẽ giải thích. Tớ bảo là tí nữa.”

Ngay lúc đó Padan Fain đứng lên trên xe ngựa, và cũng ngay lúc đó đám đông im lặng. Những lời cuối cùng của Rand bùng nổ trong khung cảnh yên ắng hoàn toàn, ngay lúc cánh tay của người bán hàng rong giơ lên để gây chú ý thì mồm chàng lại mở toang. Mọi người hướng mắt nhìn Rand. Người đàn ông gầy guộc trên chiếc xe ngựa, đang khiến đám đông chú ý đến những lời đầu tiên của mình, trao cho Rand một cái nhìn sắc bén và dò xét. Mặt Rand đỏ bừng, và chàng ước mình chỉ cao như thằng Ewin để khỏi trông quá nổi bật. Những thằng bạn của chàng cũng lấy làm ngại ngùng lắm. Mới năm rồi Fain lần đầu tiên để ý đến bọn chúng, xem chúng như những người đàn ông. Không phải lúc nào Fain cũng chú ý tới bọn thanh niên mua đồ ở xe ông. Rand hi vọng mình không trở thành trẻ con trở lại trong mắt người bán hàng rong.

Đằng hắng một tiếng, Fain hất tấm áo choàng. “Không, tí nữa làm gì,” người bán hàng rong tuyên bố, một lần nữa trịnh trọng giơ tay lên. “Ta sẽ nói các người ngay.” Trong khi nói ông thực hiện những điệu bộ khoa trương, quăng lời lên đám đông. “Các người đang nghĩ mình gặp rắc rối trong vùng Sông Đôi phải không? Vâng, cả thế giới này đều gặp rắc rối, từ vùng Great Blight phía nam đến Biển Giông Tố, từ Biển Aryth trời tây cho đến sa mạc Aiel Waste phương đông. Thậm chí xa hơn nữa. Còn mùa đông thì khắc nghiệt hơn bao giờ hết, đủ lạnh để làm đông máu và bóp gẫy xương đúng không? Á à! Khắp nơi mùa đông đều lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tại Dải Borderlands họ đang gọi mùa đông là mùa xuân. Nhưng mùa xuân không đến, các vị nói vậy đúng không? Lũ sói đã giết bọn cừu ư? Hay chúng còn tấn công con người nữa? Phải thế không? Xin thưa rằng. Nơi nào mùa xuân cũng đến trễ. Nơi nào cũng có sói, thèm khát bất cứ thứ thịt gì chúng có thể nhét vào răng, cừu, bò hay cả người nữa. Nhưng có những thứ còn tệ hơn cả lũ sói và mùa đông. Nhiều người chỉ mong có những vấn đề nhỏ nhặt như các vị.” Ông ta ngừng lại vẻ khiêu khích.

“Còn có gì tệ hơn việc sói giết cừu và giết người?” Lão Cenn Buie hỏi. Những người khác xì xào ủng hộ.

“Người giết người.” Người bán hàng rong đáp, bằng một giọng trang nghiêm, khiến cho tiếng xì xào kinh ngạc dậy lên khi ông nói tiếp. “Tôi muốn nói đó là chiến tranh. Có chiến tranh ở Ghealdan, chiến tranh và điên loạn. Tuyết trong rừng Dhalin bị máu người nhuộm đỏ. Lũ quạ với tiếng kêu của chúng tràn ngập không trung. Những đạo quân tiến đến Ghealdan. Các quốc gia, những dòng dõi lớn và những con người vĩ đại, sai quân đi đánh nhau.”

“Chiến tranh ư?” Ngài al’Vere há hốc mồm thốt ra từ ngữ xa lạ ấy. Không có ai trong vùng Sông Đôi từng dính líu tới một cuộc chiến. “Sao họ lại chiến tranh chứ?”

Fain bật cười, còn Rand thì thấy đáng ngại thay cho sự cách biệt của dân làng với thế giới, cả sự ngây ngô của họ. Người bán hàng rong nghiêng người về trước như thể sắp tiết lộ một bí mật cho ngài Thị Trưởng, nhưng tiếng thì thầm của ông lại vang khá xa. “Cờ hiệu của Con Rồng đã được giương lên, và người ta tụ lại vừa để chống đối, vừa để ủng hộ.”

Mọi cổ họng bắt đầu thở gấp gáp, và Rand thì rùng hết cả mình.

“Con Rồng!” ai đó rên rỉ. “Chúa Tể Bóng Tối đã được thả ra ở Ghealdan!”

“Không phải là Chúa Tể Bóng Tối,” Haral Luhhan làu bàu. “Con Rồng không phải là Chúa Tể Bóng Tối. Đây nhất định là Con Rồng giả rồi.”

“Để nghe coi ngài Fain nói gì,” ngài Thị Trưởng nói, nhưng thiên hạ không dễ gì im lặng. Chỗ nào cũng có người thốt lên, đàn ông, đàn bà la lối nói với nhau.

“Kinh khủng y như Chúa Tể Bóng Tối vậy!”

“Con Rồng giáng thế rồi hả?”

“Rồi đấy! Hắn đã từng gây ra một Thời Loạn Lạc!”

“Ông biết mấy lời tiên tri không! Khi Con Rồng tái sinh, thì cơn ác mộng kinh khủng nhất của ông thành thử lại là là giấc mơ đẹp nhất đấy!”

“Hắn chỉ là một Con Rồng giả khác mà thôi!”

“Thế thì có khác gì! Ông không nhớ Con Rồng giả gần đây nhất sao, hắn cũng phát động cả một cuộc chiến đấy. Hàng ngàn người chết phải không ông Faint nhỉ. Hắn vây hãm Illian.”

“Đây là thời điểm khốc liệt! Trong hai chục năm không ai tự nhận là Rồng Tái Sinh, nhưng chỉ trong năm năm gần đây lại có tới ba kẻ. Đúng là thời kỳ khốc liệt. Nhìn thời tiết mà xem.

Rand trao đổi ánh mắt với Mat và Perrin. Đôi mắt Mat rực lên thích thú, nhưng Perrin thì lại đượm vẻ lo âu. Rand nhớ mọi câu chuyện về những kẻ tự xưng mình là Rồng Tái Sinh, và rồi họ tự chứng minh sự giả hiệu của mình khi chết đi và tan biến mà chẳng hoàn tất lời tiên tri nào. Nhưng chẳng lẽ những tệ hại họ gây ra còn chưa đủ sao. Những quốc gia bị giày xéo bởi chiến tranh, và các thành phố lẫn thị trấn bị thiêu rụi. Xác chết lả tả như lá mùa thu, và người tị nạn chen kín các con đường như đàn cừu bị quây trong trại. Như những người bán hàng rong đã nói, cả cánh lái buôn, và không ai trong vùng Sông Đôi này có chút hoài nghi về điều đó. Thế giới sẽ đến hồi kết, ai đó nói vậy, khi Con Rồng thật sự tái sinh.

“Thôi đi!” Ngài Thị Trưởng thét lên. “Trật tự! Thôi cái trò thổi phồng trí tưởng tượng của các người đi. Hãy để ngài Fain nói với chúng ta về Con Rồng giả hiệu này.” Dân chúng dần im lặng, nhưng Cenn Buie thì lại không.

“Đây là Con Rồng giả ư?” bác thợ lợp mái cáu kỉnh hỏi.

Ngài al’Vere chớp mắt như thể ngạc nhiên lắm, rồi ngắt lời, “Đừng hỏi dại vậy ông Cenn!” Nhưng Cenn đã lại kích động đám đông.

“Hắn ta không thể là Rồng Tái Sinh được! lạy Sự Sáng cứu vớt chúng ta, hắn không thế”

“Cái ông Buie điên khùng này! Ông muốn xui xẻo phỏng?”

“Ông kêu danh Chúa Tể Bóng tối luôn đi! Rồi Con Rồng sẽ bắt ông đi Cenn ạ! Cứ thử làm loạn nữa xem.”

Cenn nhìn quanh đầy thách thức, trước những ánh mắt giận dữ, rồi cao giọng. “Ta nào có nghe Fain nói rằng đây là Con Rồng giả hiệu, phải không? Mở mắt ra đi! Đâu là nơi mà lẽ ra mùa màng đã cao tới đầu gối và xanh tốt hơn? Tại sao mùa đông vẫn dai dẳng trong khi mùa xuân lẽ ra phải tới được một tháng rồi?” Có những tiếng la lối giận dữ buộc Cenn im miệng. “Tôi sẽ không im lặng! Tôi cũng không thích phải nói những lời này, nhưng tôi sẽ không chui đầu vào một xó đợi một tên ở trấn Taren Farry đến cắt cổ. Và tôi sẽ không giữ phép lịch sự với Fain đâu, lần này thì không. Nói to và rõ ràng đi ông bán hàng rong. Ông đã nghe thấy gì? Sao? Kẻ lần này là một Con Rồng giả phải không?”

Nếu Fain bị phiền toái bởi tin tức ông mang đến hoặc bởi sự hoang mang ông đã gây ra, ông sẽ không bày tỏ gì cả. Ông chỉ nhún vai và đặt ngón tay khẳng khiu lên sống mũi. “Về điều đó, thì ai mà biết được cho tới khi nó đã hoàn tất và qua đi chứ?” Ông khựng lại với một nụ cười bí hiểm, lướt ánh mắt qua đám đông như thể tưởng tượng xem họ phản ứng và thích thú thế nào. “Ta biết rằng,” ông chợt thốt lên, “rằng hắn có thể sử dụng Nguồn Quyền Năng. Những kẻ khác thì không thể, nhưng hắn có thể khu dụng. Mặt đất tẽ ra dưới chân kẻ thù hắn, và những bức tường kiên cố đổ sập khi hắn hét lên. Sét giáng xuống khi hắn gọi và đánh và nơi nào hắn chỉ. Ta nghe như thế, từ những người đáng tin.”

Một sự im lặng ngột ngạt buông xuống. Rand nhìn đám bạn. Perrin thì y như kiểu thấy những thứ mình không thích, nhưng Mat thì trông vẫn hưng phấn lắm.

Tan, nét mặt chỉ hơi nhăn lại so với mọi khi, kéo ông Thị Trưởng lại gần, nhưng trước khi nói được thì thì thằng Ewin Finngar đã la toáng lên.

“Hắn ta sẽ nổi điên và sẽ chết! Trong truyện, những người có thể khu dụng Quyền Năng đều bị điên, rồi phá sạch giết sạch. Chỉ một người phụ nữ mới thoát được. Ông đã nghe tới điều đó chưa?” Nó lấy tay che đầu cho Ngài Buie khỏi thấy.

“Thằng nhóc lắm mồm!” Cenn nhứ nắm đấm vào mặt Ewin. “Chỗ người lớn đang nói chuyện cấm có xen vào. Biến đi chỗ khác.”

“Bình tĩnh nào Cenn,” Tam càu nhàu. “Thằng bé nó tò mò thôi. Có cần phải nổi điên lên thế không.”

“Người lớn tí đi,” Bran nói thêm. “Với lại nhớ rằng ông là thành viên của Hội Đồng đấy.”

Khuân mặt nhăn nheo của Cenn sa sầm hơn theo mỗi lời Tam và ngài Thị Trưởng nói, cho tới khi đỏ mặt tía tai. “Mấy người có biết ông ta nói về hạng đàn bà nào không. Đừng có nhìn tôi kiểu đó Luhhan, cả anh nữa, Crawe. Đây là một ngôi làng văn hóa, của những người có văn hóa, và thật tồi tệ khi ông Fain ở đây nói về Con Rồng giả hiểu sử dụng Quyền Năng mà lại không có một tên đồng lõa lôi kéo hội Aes Sedai vào vụ này. Có một vài điều không nên nói tới, và ta không quan tâm liệu các người có để cho tên hát rong ngu xuẩn đó kể bất cứ chuyện gì hắn muốn hay không. Cái đấy vừa sai mà lại vừa vô văn hóa.”

“Ta chưa bao giờ thấy hay nghe hay ngửi bấy cứ cái gì không thể nói tới được,” Tam nói, nhưng Fain vẫn chưa chấm dứt.

“Hội Aes Saida đã nhập cuộc rồi,” người bán hàng rong lên tiếng. “Một nhóm bọn họ từ Tar Valon đã phi ngựa về nam. Vì hắn ta có thể sử dụng Quyền Năng, nên ngoài Ase Saida không ai có thể đánh bại hắn, như trong mọi cuộc chiến họ tham gia, hoặc xử lý hắn một khi hắn bị đánh bại. Giả như hắn có thua trận.”

Có người trong đám đông thốt lên, đến Tam và Bran cũng phải trao nhau một cái nhìn bực dọc. Đám đông dân làng túm tụm lại, một vài kẻ xiết tấm áo choàng quanh người chặt hơn, tuy thực tế gió đã giảm bớt.

“Tất nhiên, hắn sẽ bị đánh bại.” Ai đó la lên. “Cuối cùng chúng luôn bị hạ, những Con Rồng giả hiệu.”

“Hắn phải bị đánh bại có đúng không?”

“Nếu không thì sao?”

Rốt cuộc thì Tam cũng tìm được cách nói nhỏ vào tai ông Thị Trưởng, và Bran, lia lịa gật đầu và phớt lờ sự ồn ào chung quanh, chờ cho tới khi Tam nói xong mới cất cao giọng:

“Tất cả nghe đây. Im mà nghe này!” Tiếng la lại chết chìm trong sự ồn ào. “Điều này không chỉ là tin tức thuần túy từ bên ngoài. Nó phải được Hội Đồng Làng thảo luận. Ngài Fain, phiền ngài vô quán trọ ngồi chơi chúng tôi có điều muốn hỏi.”

“Lúc này thì tôi sẽ không bỏ lỡ một cốc rượu nóng đâu,” người bán hàng rong cười đáp. Ông ta nhảy xuống xe, phủi tay lên áo, sửa sang lại áo choàng. “Phiền ai đó trông hộ mấy con ngựa giùm nhé.”

“Tôi muốn nghe ông ấy nói gì!” nhiều giọng nói vang lên phản đối.

“Các ngài không được mang ông ấy đi! Vợ tôi bảo tôi đi mua đinh ghim đây này!” Đó là Wit Congarl, gã ta gập vai lại mà nhìn những kẻ nhìn mình, nhưng cũng chỉ đứng yên tại chỗ.

“Bọn tôi cũng có quyền hỏi chứ,” ai đó trong đám đông la lên.

“Tôi…” “Xin im lặng!” ngài Thị Trưởng gầm lên, ai nấy đều giật mình ngậm miệng. “Khi nào Hội Đồng hỏi chuyện xong, ngài Fain sẽ trở lại nói cho các người tất cả. Và bán đồ cho các người. Hu! Tad! Trông ngựa cho ngài Fain.”

Tam và Bran đi hai bên người bán hàng rong, số còn lại của Hội Đồng đi sau họ, rồi tất cả đi vào trong quán trọ Winespring, đóng sập cửa lại trước mặt những kẻ cố theo họ chen vào bên trong. Có tiếng giộng vào cánh cửa và giọng ngài Thị Trưởng vang lên:

“Về nhà đi!”

Dân chúng tụ tập trước quán trọ bàn tán về điều người bán hàng rong đã nói, xem thử nó nghĩa gì, và Hội Đồng liệu sẽ hỏi gì, và sao họ lại phải hỏi han kín đáo kia chứ. Vài người nhìn vào trong qua cửa sổ, vài kẻ thậm chí còn hỏi chuyện Hu và Tad, dù về chuyện này hai người họ hoàn toàn mù tịt. Hai người lái ngựa chất phác chỉ ậm ờ qua chuyện rồi tiếp tục tháo yên cương. Họ đưa ngựa của Fain đi từng con một, rồi không quay lại nữa.

Rand không đoái hoài đến đám đông. Chàng ngồi lên rìa cái nền đá cũ, kéo áo choàng quanh người, và nhìn vào trong quán trọ. Ghealdan. Tar Valon. Những cái tên hết sức xa lạ và thú vị. Chàng chỉ biết tới nhờ tin tức của người bán hàng rong và từ những mẩu chuyện mà cánh vệ sĩ của quân buôn kể. Aes Sedai và những cuộc chiến với những Con Rồng giả hiệu: đó là kiểu chuyện để kể lúc nửa đêm cạnh bếp lửa, với một cây nên hắt những bóng dáng kì lạ lên tường và gió lạnh lùa u u qua cửa chớp. Nhưng trên hết, chàng tin rằng thà là có bão tuyết và lũ sói còn hơn. Tuy nhiên, ngoài kia, ngoài vùng Sông Đôi, chắc hẳn sẽ rất khác, như cuộc sống trong truyện của người hát rong. Một cuộc phiêu lưu. Một chuyến phiêu lưu dài. Mất cả một đời.

Dân làng từ từ giải tán, nhưng tiếng xì xào và những cái lắc đầu vẫn còn dai dẳng. Wit Congar dừng lại để nhìn vào chiếc xe ngựa đã bị tháo cương như thể muốn tìm một người bán hàng rong khác trong đó. Cuối cùng chỉ còn lại mấy đứa thanh niên. Mat và Perrin đến chỗ Rand ngồi.

“Tớ không hiểu sao người hát rong lại kể chuyện này,” Mat hào hứng nói. “Không biết chúng ta có thể đi xem Con Rồng giả hiểu đó không nhỉ?”

Perrin lắc cái đầu bờm xờm. “Tớ không muốn thấy hắn đâu. Ở đâu đó thì được chứ trong vùng Sông Đôi này thì không. Như vậy chẳng phải là có chiến tranh sao.”

“Vậy cũng có nghĩa là Aes Sedai sẽ ở đây,” Rand bổ sung. “Bằng không thì chắc các cậu đã quên kẻ nào gây ra vụ Sụp Đổ? Tuy Con Rồng khơi mào, nhưng hính Aes Sedai mới thật sự là những kẻ làm thế giới Sụp Đổ.”

“Có lần tớ nghe một câu chuyện,” Mat chậm rãi nói, “từ tay lính gác của người buôn lông cừu. Anh ta nói Con Rồng sẽ tái sinh vào giờ khắc khẩn thiết nhất của loài người, và cứu rỗi tất cả chúng ta.”

“À, hắn có điên mới tin thế,” Perrin khẳng khái nói. “Còn cậu có điên mới nghe vậy.” Âm điệu không có vẻ tức giận; Nó là đứa chậm giận. Nhưng đôi lúc cũng nổi khùng vì cái tật tài lanh của Mat, nên giọng nói cũng có chút bực dọc. “ Rồi anh ta khẳng định rằng tất cả chúng ta sau đó sẽ sống lại trong Tân Thời Đại Truyền Thuyết, có đúng không.”

“Tớ có bảo là tin đâu,” Mat chống chế. “Tớ nghe vậy thôi. Chị Nynaee cũng nghe nữa, và tớ nghĩ chị ấy sẽ lột da cả tớ lẫn tay cận vệ đó. Gã ta nói – tay cận vệ ấy – rằng có nhiều người tin lắm, chỉ là khiếp không dám nói thôi, khiếp hội Aes Sedai và khiếp cả Con Cái Sự Sáng nữa. Gã ta không nói thêm gì nữa vì chị Nynaeve mắng bọn tớ. Chị ta nói với tay lái buôn, và ông ta nói đây sẽ là lần cuối cùng gã cận vệ còn được đi chung với ông.”

“Cũng tốt đấy chứ,” Perrin nói. “Con Rồng sẽ cứu chúng ta đấy? Nghe cứ như là thằng Coplin đang nói vậy.”

“Liệu chúng ta có cần điều gì đó đến mức muốn được Con Rồng cứu vớt không?” Rand trầm ngâm. “Như là xin sự giúp đỡ từ Chúa Tể Bóng Tối chẳng hạn.”

“Gã ta không có nói,” Mat khó chịu trả lời. “Và gã ta không cũng không nhắc tới bất cứ Tân Thời Đại Truyền Thuyết nào cả. Gã nói sự xuất hiện của Con Rồng sẽ xé tan thế giới này.”

“Cái đó chắc sẽ cứu chúng ta đấy,” Perrin nói cộc lốc. “Một vụ Sụp Đổ khác.”

“Bực thật đấy!” Mat càu nhàu. “Tớ chỉ nói lại những gì tay cận vệ nói thôi mà.”

Perrin lắc đầu. “Tớ chỉ mong cái hội Aes Saida với lại Con Rồng, thật giả mặc kệ, ở yên chỗ của chúng. Như thế thì họa may vùng Sông Đôi mới thoát nạn.”

“Cậu có nghĩ bọn họ là Bằng Hữu Bóng Đêm không?” Mat lầm bầm có vẻ suy tư.

“Ai?” Rand hỏi.

“Hội Aes Sedai.”

Rand liếc sang Perrin, nó nhún vai. “Những câu chuyện,” chàng nói, nhưng Mat ngắt lời ngay.

“Không phải mọi câu chuyện đều nói họ phục vụ Chúa Tể Bóng Tối đâu Rand.”

“Ôi Sự Sáng, Mat ơi là Mat,” Rand nói, “Họ đã gây ra vụ Sụp Đổ. Cậu còn muốn gì nữa?”

“Tớ đồ rằng.” Mat thở dài, nhưng lại toét miệng cười ngay sau đó. “Ông Bili Congar già nói bọn họ không hề tồn tại. Aes Sedai đấy. Bằng Hữu Bóng Đêm ư. Bọn họ chỉ có trong truyện. Ông ta nói ông ta cũng không tin có Chúa Tể Bóng Tối nốt.”

Perrin khịt mũi. “Thằng Coplin nghe từ ông Congar. Còn gì để nói kia chứ?”

“Ông Bili già nêu danh Chúa Tể Bóng Tối. Tôi cá cậu không có biết đâu.”

“Ôi Sự Sáng!” Rand thở ra một hơi.

Mat cười toét cả miệng. “Đó là mùa xuân cuối cùng, ngay trước khi con sâu bướm bay vào những cánh đồng vô chủ. Ngay trước khi mọi người trong nhà mình nằm xuống vì cơn sốt mắt vàng. Tớ đã nghe ông ta nói vậy. Ông ta nói ông ta không tin, nhưng bất cứ khi nào tớ bảo ông thử xưng danh Chúa Tể Bóng Tôi ra xem thì ông ta lại đuổi tớ đi.”

“Cậu nghĩ sao mà đi làm vậy hả Matrim Cauthon?” Nynaeve al’Meara bước đến chỗ bọn chúng đang túm tụm, mái tóc tết đen tuyền xõa qua vai cô như xù lên vì tức giận. Rand chết trân. Tuy mảnh mai và chỉ cao hơn vai Mat một chút, nhưng vào lúc đó Nhà Thông Thái dường như cao hơn hết cả bọn, và không phải bàn cãi là cô trẻ và đẹp.

“Lúc đó ta hoài nghi về Bili Congar, nhưng ta nghĩ cậu ít ra phải ý thức hơn để không lôi chuyện đó ra mà cười nhạo ông ta chứ. Cậu sắp lấy vợ đến nơi rồi đấy Matrim Cauthon, nhưng ta thấy cậu vẫn chưa có rời cái tạp dề của mẹ ra được đâu. Thế nào rồi cậu cũng nêu danh Chúa Tế Bóng Tối ra cho mà xem.”

“Không đâu Nhà Thông Thái,” Mat phản đối, trông như thế muốn chui xuống đất lắm rồi. “Là ông Bil già – Ý con là ngài Congar, không phải con! Thề có máu và tro, con…”

“Ăn nói cho cẩn thận Matrim!”

Rand đứng thẳng người hơn, tuy là ánh mắt của cô không chiếu thẳng vào mình. Perrin cũng lúng túng tương tự. Lát sau một trong số chúng thế nào cũng than vãn về việc bị một cô gái chẳng lớn hơn mình bao nhiêu quở trách – ai đó luôn làm gì đó sau mỗi lần bị Nynaeve mắng, khi cô đi xa rồi – nhưng khoảng cách tuổi tác dường như luôn được gia tăng mỗi khi đối diện với cô. Nhất là khi cô nổi giận. Cây gậy trong tay cô một đầu phình lên một đầu thon lại, và cô có thể giáng cho bất kì ao đó một cú nếu nghĩ rằng họ đã hành động ngu ngốc – vào đầu, tay hoặc chân – bất kể tuổi tác hay địa vị của họ.

Nhà Thông Thái khiến Rand chăm chú tới nỗi thoạt tiên không để ý rằng cô không đi một mình. Khi chàng nhận ra nhầm lẫn đó, chàng toan chuồn khỏi đây bất kể sau đó Nynaeve có nói hay làm gì.

Egwene đứng sau Nhà Thông Thái vài pace, chăm chú quan sát. Cao cỡ Nynaeve, và cũng tức giận y như vậy, lúc đó cô nàng như thể phản chiếu lại thái độ của Nynaeve, cả đôi tay chống nạnh và cái miệng ngậm chặt bực tức.

Nếu có chút công bằng nào, chàng nghĩ người lớn hơn hơn cô ta hai tuổi cũng nên có chút lợi thế, nhưng khó mà được thế. Ngay cả trong những lúc thuận tiện nhất chàng cũng chưa bao giờ khéo miệng khi nói chuyện với gái làng, không như Perrin, nhưng bất cứ khi nào Egwene nhìn chàng kiểu chăm chú như vậy, với đôi mắt trừng lên như muốn văng ra ngoài, như thể cô ta dồn nén hết sự chú ý lên người chàng, thì chàng gần như không thốt lên được một lời nào cho đúng đắn. Có lẽ Nynaeve nói xong là chàng phải chuồn ngay. Nhưng chàng biết không làm vậy được, dù chẳng hiểu tại sao.

“Nếu cậu đã chăm chú như một con cừu dở hơi như vậy, Rand al’Thor,” Nynaeve nói, “thì chắc cậu có thể nói cho ta biết tại sao cậu lại nói về thứ mà ngay cả khi ba cậu có là con bò đi chăng nữa thì cũng phải biết là chớ nói động đến.”

Rand rùng mình và giật ánh mắt ra khỏi Egwene; cô ấy buông ra một nụ cười gây lúng tung khi Nhà Thông Thái mở màn. Giọng của Nynaeve chua chát, nhưng cô cũng nhoẻn một nụ cười trên khuân mặt, có lẽ do thằng Mat cười lớn quá. Nụ cười của Nhà Thông Thái biến mất, và ánh mắt của cô khiến tràng cười của thằng Mat méo mó.

“Sao nào Rand?” Nynaeve nói.

Trong khóe mắt mình chàng thấy Egwne vẫn còn đang cười. Bộ cô ta thấy vui lắm hay sao? “Nói ra không được tự nhiên cho lắm thưa Nhà Thông Thái,” chàng lắp bắp. “Người bán hàng rong – ông Padan Fain … à … ngài Fain – mang tới tin tức về Con Rồng giả hiệu ở Ghealdan, và một cuộc chiến, hội Aes Sedai nữa. Hội Đồng nghĩ chuyện này hệ trọng nên cần bàn kĩ với ngài ấy. Chúng tôi còn gì khác để nói đâu cơ chứ?”

Nynaeve lắc đầu. “Vậy đó là lí do sao chiếc xe ngựa của ông ta lại để không. Ta nghe dân làng đổ xô tới đây để xem nó, nhưng ta không thể rời khỏi bà Ayellin cho tới khi bà ta dứt cơn sốt. Hội Đồng đang hỏi chuyện người bán hàng rong về những chuyện xảy ra tại Ghealdan phải không? Cứ theo như ta biết, thì họ sẽ chỉ toàn hỏi vớ vẩn chẳng có lấy một câu nào ra hồn. Ta sẽ giúp Hội Phụ Nữ hiểu ra chuyện gì đó hữu dụng hơn.” Quàng tấm áo choàng qua vai cô ta biến mất vào trong quán trọ.

Egwene không đi theo Nhà Thông Thái. Khi cửa quán trọ đóng lại sau lưng Nynaeve, cô thiếu nữ đến đứng trước mặt Rand. Vẻ nhăn nhó đã biến mất khỏi khuân mặt cô, nhưng cái nhìn chăm chú của cô khiến chàng không thoải mái lắm. Chàng nhìn mấy thằng bạn, nhưng chúng đã chuồn mất, khi bỏ đi còn toét miệng cười chàng.

“Anh không nên để Mat lôi mình vào những chuyện điên khùng này Rand à,” Egwene nói, vẻ nghiêm trọng y như Nhà Thông Thái, rồi bỗng nhiên cười khúc khích. “Tôi chưa từng thấy anh như vậy kể từ cái lần ông Cenn Buie bắt gặp anh và Mat trên cây táo nhà ông ta lúc anh mười tuổi.”

Chàng kiễng chân lên tìm lũ bạn. Chúng đứng cách đó không xa lắm, Mat làm điệu bộ rất hào hứng khi chàng nói.

“Ngày mai cô khiêu vũ với tôi chứ?” Đấy không phải là điều chàng định nói. Chàng muốn khiêu vũ với cô, nhưng đồng thời chàng không muốn cái cảm giác không thoải mái chắc chắn sẽ có khi chàng bên cạnh cô. Đó là cảm giác chàng sẽ thấy ngay sau đó.

Khóe miệng cô nhoẻn một nụ cười. “Buổi chiều nhé,” nàng nói. “Buổi sáng tôi bận mất rồi.”

Từ xa vọng đến tiếng kêu của Perrin. “Người hát rong!”

Egwene quay về phía chúng, nhưng Rand nắm lấy tay cô. “Bận hả? Sao vậy?” Dù trời lạnh nhưng nàng vẫn kéo cái mũ trùm của tấm áo choàng xuống và khi không còn bị trùm nữa thì mái tóc nàng xõa xuống hai bên vai. Lần cuối cùng chàng nhìn thấy cô, mái tóc cô hẵng còn buông xõa xuống dưới vai, có mấy sợi ruy băng nhỏ cột nó lại cho khỏi che mặt, giờ mái tóc ấy đã được tết thành búi rồi.

Chàng nhìn mái tóc búi ấy như thể đó là một con rắn, rồi trộm nhìn sang Cột Xuân, đứng chơ vơ trên Bãi Xanh, sẵn sàng cho ngày mai. Vào buổi sáng các chị em ở độ tuổi lấy chồng sẽ khiêu vũ bên Cột. Chàng khó nhọc nuốt nước bọt. Bằng cách nào đó, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng nàng sẽ đến tuổi lập gia đình cùng lúc với mình.

“Không phải cứ ai đủ tuổi lập gia đình,” chàng lầm bầm, “thì họ sẽ làm thế. Không lấy vợ ngay lập tức.”

“Tất nhiên không. Có khi mãi mãi, tùy thôi.”

Rand nháy mắt: “Mãi mãi ư?”

“Những Nhà Thông Thái không bao giờ lập gia đình. Nynaeve bảo tôi thế. Chị ấy nói tôi có năng khiếu, rằng tôi có thể nghe được tiếng gió. Nynaeve nói không phải Nhà Thông Thái nào cũng làm được, dù họ nói là có đi chăng nữa.”

“Nhà Thông Thái!” chàng thốt lên mà không thấy tia sáng ánh lên trong mắt cô. “Nynaeve sẽ là Nhà Thông Thái ở đây ít nhất năm mươi năm nữa. Có khi hơn. Chẳng lẽ cô định dành hết đời để học nghề sao?”

“Còn có những làng khác nữa,” cô bực mình nói. “Nynaeve nói dân làng ở trấn Taren phương bắc luôn chọn một Nhà Thông Thái từ nơi xa. Họ nghĩ như vậy thì người đó sẽ không yêu một trai làng nào đấy.”

Chàng tiu ngỉu ngay lập tức. “Bên ngoài vùng Sông Đôi ư? Tôi sẽ không còn được thấy cô nữa.”

“Anh không thích vậy ư? Anh có bao giờ cho thấy là anh quan tâm người ta đâu.”

“Đâu có ai lại rời khỏi vùng Sông Đôi này,” chàng nói tiếp. “Có thể ai đó ra khỏi trấn Taren Ferry, nhưng họ cũng lạ lùng lắm. Khó mà giống người ở Sông Đôi được.”

Egwene buông một tiếng thở dài trầm trọng hơn. “Thì, tôi cũng lạ lùng vậy đó. Có khi tôi muốn đến chỗ nào giống trong truyện. Anh có bao giờ nghĩ thế không?”

“Tất nhiên là có rồi. Thỉnh thoảng cũng mơ tới, nhưng tôi biết sự khác nhau giữa mơ với thật.”

“Còn tôi thì không ư?” Cô cáu kính, và toan quay lưng khỏi chàng.

“Ý tôi không phải vậy. Tôi đang nói về tôi mà. Kìa Egwene?”

Cô cuộn áo choàng quanh người thành một bức tường ngăn cách chàng, và cương quyết bỏ đi. Chàng vò đầu đầy bối rối. Giải thích sao đây? Đây không phải lần đầu nàng ta rút ra từ lời chàng những điều chàng không hề định nói. Trong tâm trạng của cô nàng bây giờ, nếu cư xử sai lầm là to chuyện ngay, và chàng chắc chắn là gần như bất cứ thứ gì nói ra lúc này cũng sẽ là một sai lầm.

“Moiraine cũng đưa cho Perrin một đồng bạc,” Mat nói. “Như chúng ta vậy.” Nó ngừng một lát trước khi tiếp, “Và ca ta đã thấy tay kị sĩ đấy.”

“Ở đây?” Rand hỏi. “Khi nào? Có ai khác thấy hắn không? Cậu có nói với ai không?”

Perrin chầm chậm giơ hai bàn tay rộng của mình lên. “Hỏi từng câu thôi. Tớ thấy hắn ngoài rìa làng, đang quan sát lò rèn, mới lúc chập tối hôm qua. Tớ run hết cả người, do hắn. Tớ bảo sư phụ Luhhan, rồi khi ông quay ra thì không thấy ai nữa. Ông bảo tớ hoa mắt. Nhưng ông cũng thủ sẵn cái búa tạ bên người trong khi hai chúng tôi thổi lửa và sửa soạn dụng cụ. Ông chưa bao giờ làm thế trước đây.”

“Vậy ông ta tin cậu,” Rand nói, nhưng Perrin thì nhún vai.

“Tớ không biết. Tớ hỏi ông ấy thủ búa làm gì khi cho rằng tớ chỉ hoa mắt, và ông bảo bọn sói dễ cũng dám vào làng lắm. Chắc ông ấy nghĩ đó là thứ tớ thấy, nhưng ông nên biết tớ có thể phân biệt giữa một con sói với một người trên lưng ngựa chứ, dù trời có chập choạng đi nữa. Tớ biết tớ thấy gì, và không ai có thể lay chuyển điều đó được.

“Tớ tin cậu,” Rand nói. “Nhớ là tớ cũng đã thấy hắn.” Perrin ậm ờ hài lòng, như thể nó cũng không chắc cho lắm.

“Các cậu đang nói cái gì vậy?” Bỗng nhiên Egwene hỏi.

Rand chợt ước giá như mình kín tiếng hơn. Chàng đã làm vậy nếu như biết nàng ta đang nghe ngóng. Mat và Perrin, cười toét ra như mấy thằng khùng, rồi đua nhau nói cho nàng ta nghe về những cuộc chạm chán với tay kị sĩ mặc áo choàng đen, nhưng Rand thì im lặng. Chàng biết chắc nàng ta sẽ nói gì khi bọn nó kể xong.

“Nynaeve đã đúng,” Egwene nhìn lên trời nói khi hai thằng kia đã ngừng lời. “Mấy người vẫn chứng nào tật ấy. Nhữn1ẻ cưỡi ngựa, các cậu biết đấy, đâu nhất thiết sẽ là quái vậy như trong truyện của người hát rong.” Rand gật đầu, đúng như những gì chàng nghĩ. Cô nàng quay sang chàng. “Còn anh thì lại đi lan truyền mấy chuyện này. Đôi lúc anh thật là ngớ ngẩn đấy Rand al’Thor. Mùa đông này còn chưa đủ đáng sợ hay sao mà các cậu lại còn đi dọa bọn trẻ nữa.”

Nét mặt Rand chua chát. “Tôi có lan truyền cái gì đâu Egwene. Nhưng tôi thấy gì thì nói đấy, và cái này không phải là bác nông dân nào đó ra ngoài tìm bò đi lạc đâu.”

Egwene hít một hơi thở sâu rồi mở miệng ra, nhưng dù nàng đang định nói gì thì chúng cũng tan biến ngay vì cánh cửa quán trọ đã bật mở và một người đàn ông với mái tóc tráng bù xù vội vã lao ra ngoài như thể bị rượt.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên