[Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)

They Eye of the World
Con Mắt Thế Giới
Tác giả: Robert Jordan
Người dịch: Kim Lưu
Thể loại: tiểu thuyết kì ảo, thiếu nhi
Độ dài: 53 chương - 305.902 từ (nguyên tác)
Cảnh báo: không

The-Eye-of-the-World-Hardcover-L9780312850098.JPG

Giới thiệu tác giả:
Jame Oliver Rigney, Jr, (17/10/1948 - 16/09/2007) nổi tiếng với bút danh Robert Jordan, là tác giả người Mỹ chuyên viết thể loại Kỳ Ảo. Ông nổi tiếng nhất với bộ truyện The Wheel of Time, bao gồm 14 cuốn. Ông cũng viết tiểu thuyết lịch sử dưới bút danh tiếng địa phương Reagan O'neal, hoặc tiếng Anh là Jackson O'Reilly.

Giới thiệu tác phẩm

The Eye of the World là tập 1 trong series truyện kỳ ảo nổi tiếng The Wheel Of The Time của tác giả Robert Jordan.

Trong bộ truyện này, Thượng Đế (the Creator) tạo ra vũ trụ và Bánh Xe Thời Gian (the Wheel of Time). Bánh Xe này có bảy nan hoa, tương ứng với bảy “thời đại” (age), và xoay chuyển dưới tác động của Quyền Năng (One Power), là thứ chảy ra từ Nguồn Chân Lý (True Source). Nguồn Chân Lý được cấu thành bởi một nửa nam (saidin) và một nửa nữ (saidar). Trong số con người, những ai có thể sử dụng quyền năng này được gọi là những Dị Nhân (channeler), tổ chức nòng cốt xuyên suất bộ truyện là Aes Sedai, cũng gọi là “Tôi Tớ Mọi Người” (Servants of all)

Thượng Đế đã cầm tù kẻ chống đối mình là Satan (shaitan), thường gọi là Chúa Tế Bóng Tối (Dark One). Một sai sót của Aes Sedai đã để cho Saitan có cơ hội ảnh hưởng đến thế giới, làm ô uế phần saidin của Nguồn Chân Lý. Xuyên suốt bộ truyện là cuộc đối đấu giữa Saitan và các thế lực của hắn đối chọi với lực lượng của Sự Sáng (Light), phe thiện, dẫn đầu bởi nhân vật Rand al’Thor, được gọi là Rồng Tái Sinh (Dragon Reborn).

Trong tập 1, Con Mắt Thế Giới (The Eye of the World), nhân vật chính là Rand al’Thor, một thanh niên sống bình yên tại một ngôi làng nhỏ có tên là Emond’s Field, khám phá ra mình chính là Rồng Tái Sinh. Chính vì thân phận đó mà chàng bị các tay sai của Saitan, dưới hình dạng đáng sợ, không ngừng truy bắt. Chàng phải lên đường, cùng với những người bạn và những người trợ giúp mình, rời bỏ làng quê thanh bình bắt đầu sứ mệnh đối phó với Saitan sắp thoát ngục. Trước tiên họ đến Aes Saida tại thành phố Tar Valon trong nỗ lực đoàn kết các vương quốc con người nhằm chống lại Saitan và các thế lực của hắn.

Các bạn có thể đọc nguyên tác tại địa chỉ này: http://folk.uio.no/morters/wot/TheEyeoftheWorldv6/-TheEyeoftheWorld-.html
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 4: Người hát rong (Phần 1)

Cửa quán trọ đóng sập lại sau lưng một ông già tóc trắng, đang trừng mắt tức giận. Ông già gầy guộc này hẳn sẽ cao hơn nếu đôi vai không còng xuống, nhưng tuy già ông cũng còn nhanh nhẹn lắm. Ông ta mặc tấm áo choàng vá víu chằng chịt có hình thù và kích thước kì quặc, rung rinh trong gió, đủ sắc khoe màu. Tuy ngài Master al’Vere có nói những tấm áo vá này là mốt nhưng Rand vẫn thấy nó rách rưới quá thể.

“Người hát rong!” Egwene thầm thì đầy phấn khích.

Ông già tóc trắng hất tấm áo lên. Bên trong lộ ra một cái áo dài kì quặc khác có ống tay rộng thùng thình và những cái túi khổng lồ. Ông có bộ ria rập như tóc, và khuân mặt hốc hác như cây trụi mùa đông. Ông ta ra vẻ hống hách với Rand và những người khác bằng cách đưa cái tẩu dài được chạm khắc cầu kì lên phả ra một làn khói dày. Đôi mắt xanh lộ ra bên dưới hàng lông mày rậm rạp xoáy vào bất cứ thứ gì ông nhìn.

Rand chăm chú vào đôi mắt ấy chẳng khác mọi người. Ai nấy ở vùng Sông Đôi đều có mắt đen, đa phần cánh lái buôn cũng thế, cả cận vệ của họ, và hết thảy những người chàng từng thấy. Nhà Congars và nhà Coplins cười nhạo đôi mắt xám của chàng, cho tới ngày chàng tộng quả đấm vào mũi thằng Ewal Coplin thì mới thôi; Nhà Thông Thái đương nhiên vì thế mà nổi điên với chàng. Chàng tự hỏi liệu trên đời có chỗ nào người ta không mang mắt đen không. Có lẽ ông Lan đến từ một nơi như thế.

“Chỗ quái quỷ gì thế này!?” người hát rong cất giọng âm trầm vang hơn hẳn người thường. Dù ngoài trời nhưng thứ ấy dễ có thể khỏa lấp một căn phòng khổng lồ và vang dội vào những bức tường. “Bọn quê mùa trên đồi bảo ta có thể đến đây trước khi trời tối, nào có nói là phải đến trước buổi trưa đâu. Khi ta đến, lạnh thấu xương và cần một cái giường ấm, thì ông chủ quán trọ cau có về giờ giấc như thể ta là một tên chăn lợn chứ không phải chính Hội Đồng Làng đã van nài ta tới Lễ Hội này để biểu diễn. Lại còn không thèm nói mình chính là Thị Trưởng.” Ông già ngừng lại để thở, nhìn tất cả bằng ánh mắt giận dữ, rồi phát tác ngay. “Khi ta xuống lầu đến bên lò sưởi để hút thuốc và uống bia, thì đám người này nhìn ta cứ như thể nhìn thằng anh rể đáng ghét đến mượn tiền. Một ông nội khua môi múa mép bảo ta phải kể những chuyện gì và tránh những chuyện gì, rồi một con nhóc hét toáng lên đuổi ta ra ngoài, lại con giơ dùi cui bắt ta phải đi cho nhanh. Có ai từng thấy có người hát rong nào bị đối xử như thế chưa?”

Khuân mặt Egwene đăm chiêu, đôi mắt trợn trừng của cô kinh ngạc nhìn người hát rong với khao khát bênh vực Nynaeve.

“Xin lỗi thưa ngài Hát Rong,” Rand nói. Chàng biết mình đang toét cả miệng cười. “Đó là Nhà Thông Thái, và…”

“Con bé xinh đẹp xấc láo đó hả?” Người hát rong kêu lên. “Là Nhà Thông Thái của làng ư? Sao, ở tuổi cô ta thì lẽ ra đang bị cánh đàn ông ve vãn chứ không phải đi nói tiên tri và chữa bệnh.”

Rand nhún chân ái ngại. Chàng mong Nyvaeve không nghe thấy lời của ông ta. Ít ra, cho tới khi chàng không dính dáng gì nữa. Perrin nhăn mặt trước mấy lời của người hát rong, còn Mat thì làm bộ hót sáo, như thể cả hai đứa nó đều có cùng suy nghĩ với chàng.

“Còn đám người đó là Hội Đồng Làng,” Rand tiếp. “Tôi nghĩ là họ không định thất lễ đâu. Ngài thấy đấy, chúng tôi mới biết là có một cuộc chiến ở Ghealdan, và có người tự nhận là Rồng Tái Sinh. Một Con Rồng giả hiệu. Hội Aes Sedai đang từ Tar Valon tiến về đó. Hội Đồng đang bàn xem ở đây liệu chúng tôi có bị nguy hiểm không.”

“Tin cũ rồi, cả trấn Baerlon cũng đã biết,” người hát rong cộc cằn nói, “dù đó là nơi cuối cùng trên Trái Đất mà tin tức bay đến.” Ông ta ngừng lại, nhìn quanh dân làng, rồi tiếp. “Gần như là nơi cuối cùng.” Rồi ánh mắt rớt trên chiếc xe ngựa trước quán trọ, đứng lẻ loi, với càng xe chống trên đất. “Vậy. Hình như ta thấy có Padan Fain trong đó.” Giọng ông ta vẫn khàn khàn, nhưng tiếng vang đã mất, thay bằng vẻ chế nhạo. “Lão Fain luôn là kẻ nhanh chân loan tin xấu, tin càng xấu thì loan càng nhanh. Có một con quạ trong người ông ta đấy.”

“Ngài Fain vẫn thường đến Emond’s Fiend thưa ngài Hát Rong,” Egwene nói, dấu hiệu cho thấy cô nàng rốt cuộc đã bực lắm. “Ngài ấy luôn tươi cười, và mang đến nhiều tin vui hơn tin xấu.”

Người hát rong bỗng chốc nhìn nàng, rồi nhoẻn miệng cười. “Ra là một thiếu nữ yêu kiều. Cô nên cài nụ hồn tên tóc. Tiếc thay, ta không thể biến ra cành hồng từ không khí được, năm nay thì không, nhưng liệu cô đồng ý đứng cạnh ta trong buổi trình diễn ngày mai chứ? Đưa sáo và các dụng cụ khác khi ta cần. Ta luôn chọn những thiếu nữ xinh đẹp nhất có thể để làm phụ tá.”

Perrin cười khúc khích, và thằng Mat từ khúc khích chuyển sang vang dội. Mắt Rand chớp chớp ngạc nhiên; Egwene đang nhìn chàng, và chàng thậm chí không cười nổi. Nàng nhìn quanh rồi dõng dạc nói.

“Cám ơn thưa ngài Hát Rong. Tôi rất vui được hầu ngài.”

“Thom Merrilin,” người hát rong nói. Cả bọn nhìn. “Tên ta là Thom Merrilin, không phải ngài Hát Rong.” Ông ta thắt áo choàng quanh vai, và đột nhiên giọng ông lại một lần nữa như vang dội trong đại sảnh. “Từng là một thi sĩ trong triều đình, giờ ta đã được nâng lên địa vị đáng kính là Ngài Hát Rong, nhưng tên ta đơn gian chỉ là Thom Merrilin, và người hát rong đơn giản là danh hiệu mà ta lấy làm vinh dự.” rồi ông ra cúi người kiểu cách tới nỗi cả Mat phải vỗ tay còn Egwene thì thầm khen ngợi.

“Thưa ngài… à… ngài Merrilin,” Mat nói, không chắc chắn lắm cách xưng hô thế nào là hợp với những gì Thom Merrilin vừa nói, “Ở Ghealdan đang xảy ra chuyện gì? Ngài có biết gì về Con Rồng giả hiệu không? Hoặc về Aes Sedai?”

“Trông ta có giống tay bán hàng rong không nhóc?” người hát rong lầm bầm, gõ gõ tẩu thuốc lên lòng bàn tay. Rồi ông ta làm chiếc tẩu biến mất đâu đó vào tấm áo choàng, hoặc áo dài; Rand không chắc nó đi đâu và đi làm sao. “Ta là người hát rong chứ không phải tên buôn chuyện. Và ta chủ trương rằng sẽ không bao giờ thèm biết đến Aes Sedai. Vậy an toàn hơn nhiều.”

“Nhưng còn cuộc chiến,” Mat bắt đầu khẩn khoản, cho tới lúc bị ngài Merrilin cắt ngang.

“Về chiến tranh nhóc ạ, chỉ là những tên ngu xuẩn giết những tên ngu xuẩn khác vì những lí do ngu xuẩn. Vậy là đủ cho ai cần biết nó. Ta ở đây là vì nghệ thuật.” Bỗng nhiên ông chỉ ngón tay và Rand. “Này con trai. Cậu là đứa cao ráo. Nhưng cậu hẵng còn cao hơn nữa, ta ngờ rằng trong xứ này còn có người khác cao như cậu. Ta cá trong làng này cũng chẳng mấy ai có màu mắt đó, cậu lực lưỡng và cao như một người Aiel vậy. Tên cậu là gì?”

Rand lấy làm bối rối, không biết có phải ông ta đang cười nhạo mình không, nhưng người hát rong đã xoay sự chú ý sang Perrin. “Còn cậu thì to như loài Orier. Đến gần đây coi. Cậu gọi bằng gì?”

“Không đâu trừ khi chúng tôi không biết mình là ai nữa.” Perrin cười. “Tôi e rằng tôi và Rand chỉ là những người bình thường thôi, thưa ngài Merrilin, không phải những sinh vật hư cấu trong truyện của ngài đâu. Tôi là Perrin Aybara.”

Merrinlin giật mạnh bộ ria mép. “À, vật thì. Nhưng sinh vật hư cấu trong truyện của ta. Chúng là gì chứ? Các cậu có vẻ đi đây đó nhiều rồi đấy nhỉ.”

Rand ngậm miệng, rõ ràng lúc này bọn nó đang biến thành trò cười. Nhưng Merriling vẫn nói oang oang.

“Bọn cháu từng đến làng Watch Hill và Diven Ride rồi. Ít người trong làng từng đi xa tới vậy.” Perrin không khoác lác, ít khi nó làm vậy, nó luôn chỉ nói sự thật.”

“Bọn cháu cùng từng thấy Mire nữa,” Mat bổ sung, và nó có vẻ tự đắc. “Đó là vùng đầm lầy cách xa rừng Waterwood. Chưa hề có ai đi đến đó – nơi đầy cát lún và bãi lầy – ngoại trừ bọn cháu. Và cũng chưa hề có ai đi đến Dãy Núi Mù Sương, nhưng cháu cháu đã một lần đi rồi. Dù chỉ mới tới chân núi.”

“Xa đến thế ư?” người hát rong lầm bầm, liên tục vuốt vuốt bộ râu. Rand nghĩ ông ta đang giấu một nụ nười, và chàng thấy Perrin đang nhăn mặt.

“Lên núi là việc xui xẻo,” Mat nói, kiểu như thanh minh việc mình không đi xa hơn. “Ai cũng biết thế.”

“Chỉ dại mới làm vậy thôi Matrim Cauthon,” Egwene bực tức ngắt lời. “Chị Nynaeve nói…” Nàng im bặt, đôi má ửng hồng, và ánh mắt nàng nhìn Thom Merrilin không còn thân thiện nữa. “Ngài không nên… không nên trêu chọc…” Mặt nàng ửng đỏ, rồi im bặt. Mat chớp mắt, như thể nó vừa đoán điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

“Đúng đấy cô bé,” người hát rong tỏ vẻ hối hận. “Ta thật lòng xin lỗi. Ta ở đây để biểu diễn. Thật là, vạ miệng mất rồi.”

“Có thể chúng tôi chưa đi xa bằng ngài,” Perrin nói thẳng, “Nhưng Rand cao thì đã làm sao thưa ngài?”

“Thế này nhé nhóc. Lát nữa ta sẽ để cậu thử lôi ta dậy, nhưng cách cậu không nhấc nổi chân ta lên khỏi mặt đất đâu. Cậu không, cả anh bạn cao kều kia nữa – Rand phải không nhỉ? – hay bất kì ai khác. Giờ cậu nghĩ sao về điều đó.”

Perrin cười. “Tôi nghĩ có thể nâng ngài dậy ngay đây.” Nhưng khi nó bước đến thì Thom Merrilin lùi lại.

Một vài dân làng đã tụ tập trên Bãi Xanh từ lúc người hát rong xuất hiện ngoài quán trọ, từ cánh thanh niên thiếu nữ cho tới trẻ con len lén nhìn, với đôi mắt thao láo, từ phía sau những khán giả lớn tuổi hơn. Tất cả đều nhìn như thể họ chờ đợi những phép lạ từ người hát rong. Ông già tóc trắng nhìn lại họ - ông ta hình như đang đếm - rồi lắc đầu thở dài.

“Ta nghĩ tốt hơn nên cho các người một ví dụ nhỏ. Để các người đi đồn cho dân làng. Hả? chỉ là chút gia vị cho Lễ Hội ngày mai thôi.”

Ông ta lùi lại một bước, rồi thình lình nhảy lên không, xoay vòng rồi lộn nhào chổng mặt xuống cái nền đá cũ. Hơn thế nữa, ba quả bóng – đỏ, trắng, và đen – vẫn nhảy múa trên đôi tay khi ông tiếp đất.

Một âm thanh khe khẽ phát ra từ khán giả, nửa ngạc nhiên nửa thỏa mãn. Ngay cả Rand cũng quên đi sự bực tức. Chàng nhìn Egwene cười lớn và nhận lại được một nụ cười đáp trả, rồi cả hai nhìn người hát rong không còn ngại ngùng nữa.

“Các người muốn nghe chuyện ư?” Thom Merrilin lớn tiếng nói. “Ta có những câu chuyện, và sẽ kể cho nghe. Nhờ ta chúng sẽ sống động trước mắt các người.” Một quả bóng màu xanh không biết từ đâu đã nhập bọn, rồi một quả màu lục nữa, rồi thêm quả màu vàng. “Có chuyện kể về những cuộc chiến và những anh hùng vĩ đại, dành cho người lớn và thanh niên. Còn đối với quý bà và quý cô thì hãy nghe trọn bộ Aptarigine Cycle. Có chuyện kể về Artur Paendrag Tanreall, Artur Thần Ưng, Artur Đại Đế, là vị vua từng cai trị những miền đất trải từ Aiel Waste cho đến Đại Dương Aryth, và còn xa hơn nữa. Có những câu chuyện phi thường về những con người và vùng đất kì lạ, về Người Cây, về những chiến binh Wader và bọn Trolloc, về loài Ogier và chủng tộc Aiel, Ngàn Lẻ Một Chuyện về Anla, vị Cố Vấn Khôn Ngoan. ‘Jame Người Giết Bọn Khổng Lồ’. Còn có truyện Susa Tamed Jain Farstrider. Truyện ‘Mara và ba ông vua ngu.’”

“Hãy kể chúng tôi nghe chuyện về Lenn,’ Egwene lên tiếng. “Về cách người đã cưỡi đại bàng lửa bay lên mặt trăng. Rồi kể về nàng Salya con gái của người dạo bước giữa các vì sao.”

Rand nhìn nàng qua khóe mắt, nhưng nàng chỉ chăm chú vào người hát rong. Nàng có bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay du ngoạn đâu chứ. Thứ nàng thích luôn là truyện cười, hoặc chuyện những phụ nữ thông minh hơn người thường. Rõ ràng nàng yêu câu truyện về Lenn và Salya là để chọc tức chàng. Chắc chắn với nàng thế giới bên ngoài chỉ là hư vô. Nghe những chuyện phiêu lưu, thậm chí là mơ về chúng, là một chuyện; tin rằng chúng xảy ra quanh bạn lại là một chuyện khác.

“Những chuyện xưa,” Thom Merrilin nói, rồi đột nhiên chuyển sang tung hứng một tay. “Chuyện từ Thời Đại trước cả Thời Đại Truyền Thuyết, như có người vẫn nói. Thậm chí còn xưa hơn. Nhưng ta xin lưu ý cô bé rằng ta biết mọi truyện về những Thời Đại trước đây và sau này. Những thời đại loài người thống trị các tầng trời và các vì sao cùng những thời đại loài người còn gầm vang như thú vật. Những thời đại tuyệt diệu cùng những Thời Đại khủng khiếp. Những thời đại kết thúc trong lửa sa xuống từ trời cùng những Thời Đại tàn phai vì băng tuyết phủ ngập mặt đất biển cả. Ta biết mọi truyện, và ta sẽ kể mọi truyện. Truyện về Mosk Khổng Lồ có Thanh Đao Lửa có thể phóng đi vòng quanh thế giới, và những cuộc chiến của anh ta với Alsbet, Nữ Hoàng Muôn Loài. Truyện về Materese Đấng Chữa Lành, là Mẹ của xứ Ind Kỳ Diệu.”

Những trái bóng giờ đang cuộn vào nhau xoay tròn trên đôi tay Thom. Giọng ông ta như hát, rồi chuyển dần sang nói, như thể hiệu ứng để lôi kéo khán giả. “Ta sẽ kể về thời cánh chung của Thời Đại Truyền Thuyết, về Con Rồng, và nỗ lực của nó để mang Chúa Tể Bóng Tối đến thế giới loài người. Ta sẽ kể về Thời Gian Điên Loạn, khi hội Aes Sedai tàn sát thế giới; về Cuộc Chiến Trolloc, khi loài người giao tranh với loài Trolloc để tranh quyền thống trị mặt đất; về Cuộc Chiến Trăm Năm, khi loài người đánh loài người và những quốc gia ngày nay đều tham chiến. Ta sẽ kể về về những cuộc phiêu lưu của cả trai lẫn gái, cả giàu lẫn nghèo, vĩ đại cũng như nhỏ bé, kiêu hãnh cũng như thấp hèn. Cuộc Vây Hãm những Cột Trụ Trời. chuyện “Cô Hiền Thê Chữa Bệnh Kéo Gỗ Cho Chồng’. Chuyện về vua Darith và sự sụp đổ của dòng dõi…”
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 4: Người hát rong (Phần 2)
Lời đang tuân ra như suối thì bỗng khựng lại và việc tung hứng cũng bị ngừng. Thom chụp lấy những quả bóng trên không rồi ngừng lời. Rand không hề để ý rằng Moiraine đã ở trong đám thính giả. Gã Lan đứngsau vai cô ta, và chàng phải nhìn đi nhìn lại mới thấy gã. Thom thoáng nhìn về phía Moiraine, nhưng vẫn tập trung khuân mặt và cơ thể để làm cho những trái bóng biến mất vào trong ống tay rộng thùng thình của mình. Rồi ông cúi mình, giang rộng tà áo choàng. “Xin thứ lỗi, nhưng chắc hẳn quý cô đây không phải người vùng này?”

“Phu nhân!” Ewin thốt lên. “Phu nhân Moiraine.”

Thom chớp mắt, rồi cúi người một lần nữa, thấp hơn. “Xin lỗi quý cô lần nữa… à, thưa Phu nhân. Tôi không có ý thất lễ.”

Moiraine khẽ phất tay. “Không có gì ngài Bard. Và tên tôi đơn giản là Moiraine thôi. Ở đây tôi đương nhiên là người lạ, một du khách như ngài vậy, một thân một mình nơi đất khách. Đối với một người lạ thì thế giới chung quanh thật nguy hiểm.”

“Phu nhân Moiraine sưu tầm những câu chuyện,” Ewin chen vào. “Những chuyện sắp xảy ra trong vùng Sông Đôi. Tuy cháu không biết ở đây liệu có gì đáng viết thành truyện không.”

“Tôi tin cô cũng sẽ thích những câu chuyện của tôi… cô Moiraine.” Thom thận trọng quan sát người phụ nữ. Trông ông không hài lòng lắm khi cô ta ở đây. Bỗng nhiên Rand tự hỏi một phu nhân như cô ta liệu sẽ biểu diễn trò gì trong một thành phố như Baerlon hay Caemly. Chắc chắn không thể là thứ hay hơn một người hát rong được.”

“Tùy sở thích mỗi người thôi thưa ngài Bard,” Moiraine trả lời. “Có chuyện tôi thích, có chuyện không.”

Thom cúi người sâu hơn nữa, song song với mặt đất. “Tôi xin đảm bảo, không có chuyện nào của tôi lại không thú vị. Tất cả đều rất lôi cuốn . Và quý cô đã dành cho tôi thật nhiều vinh hạnh, khi tôi chỉ là một người hát rong; không hơn không kém.”

Moiraine trả lời cái cúi mình của ông ta bằng một cái gật đầu lịch thiệp. Trong thoáng chốc cô ta còn cao quý hơn cả cái danh hiệu phu nhân mà Ewin gọi, một người đang chấp nhận một thỉnh cầu từ thần dân của mình. Rồi cô ta quay đi, Lan theo sau, một con sói bám theo nàng thiên nga. Thom vuốt bộ ria nhìn theo họ, đôi lông mày nhăn lại, cho tới khi họ ở lưng chừng con đường đến Bãi Xanh. Ông ta không hài lòng chút nào, Rand nghĩ.

“Ông không tung hứng nữa sao?” Ewin đề nghị.

“Nuốt lửa đi,” Mat la lên. “Tôi muốn xem ông nuốt lửa lắm.”

“Đàn hạc!” một giọng nói vang lên từ trong đám đông. “Chơi đàn hạc đi!” Ai đó khác còn đòi nghe sáo.

Lúc đó cửa quán trọ bật mở và Hội Đồng Làng tuân ra, Nenaeve đứng giữa. Rand nhận thấy Padan Fain không ở cùng họ; có vẻ người hát rong muốn ở lại trong tòa sảnh ấm áp với rượu nóng trên tay.

Đang thì thầm về “một loại rượu mạnh,” Thom Merrilin đột ngột nhảy xuống nền đá cũ. Ông ta phớt lờ tiếng la hò của những người đang nhìn mình, chen vào giữa đám đông chuồn khỏi các Ủy Viên trước khi họ ra tới những bậc thềm.

“Không rõ ông là một người hát rong hay là một ông vua?” Cenn Buie gay gắt hỏi. “Một thứ hoang phí, tôi xin có ý kiến như vậy.”

Bran al’Vere hơi xoay người lại về phía người hát rong rồi lắc đầu nói. “Ông ta có thể phiền phức hơn mức cần thiết đấy.”

Nynaeve, luôn tay kéo áo choàng phủ quanh người, hít mạnh một cái. “Cứ lo lắng về người hát rong nếu ông muốn, Brandelwyn al’Vere. Ít nhất ông ấy cũng ở trong làng Emond’s Field, chứ không như Con Rồng giả hiệu kia. Nhưng chừng nào các người còn thích lo lắng, chừng đó còn thấy có lắm kẻ gây sự.”

“Nếu vui lòng bà thưa Nhà Thông Thái,” Bran gằn giọng, “xin cứ để kẻ nào thích gây sự cho tôi định đoạt. Phu nhân Moiraine và ngài Lan là khách trong quán tôi, và là những người lịch sự đáng kính. Không ai trong bọn họ gọi tôi là tên ngốc trước mặt Hội Đồng. Không ai trong số họ nói Hội Đồng là một lũ khôi hài.”

“Xem ra sự đánh giá của tôi có hơi quá,” Nynaeve vặn lại. Cô sải bước đi mà không thèm nhìn lại, bỏ mặc Bran còn đang lúng túng tìm câu trả lời.

Egwene nhìn Rand như muốn nói, nhưng rồi lại chạy theo Nhà Thông Thái. Rand thấy nhất định phải tìm cách ngăn nàng ta rời khỏi vùng Sông Đôi, nhưng cách duy nhất chàng nghĩ ra được thì lại khó mà làm, dù chàng có sẵn sàng đi nữa. Và nàng ta đã nói đi nói lại là không muốn, làm chàng cảm thấy còn tệ hơn.

“Cô gái trẻ đó cần một tấm chồng,” Cenn Buie lầm bầm, dậm dậm ngón chân. Khuân mặt ông ta ửng đỏ, rồi sẫm lại. “Cô ta thiếu sự kính trọng cần thiết. Chúng ta là Hội Đồng Làng chứ không phải bọn trẻ con chạy nhảy trong sân nhà cô ta, và…”

Ngài Thị Trưởng thở phì phò, rồi đột nhiên quay sang bác thợ lợp mái. “Im giùm đi ông Cenn! Thôi cái kiểu cư xử như một người Aiel che mạng ấy đi!” Lão già nhỏ thó tức đến cứng người. Ngài Thị Trưởng chưa bao giờ phát tác đến như vậy với lão. Bran trừng mắt. “Thứ lỗi cho tôi, nhưng hẵng còn những chuyện quan trọng hơn chuyện điên rồ này. Hay ông định chứng minh Nynaeve nói đúng?” Nói xong ông bỏ vào trong quán trọ rồi đóng rầm cửa lại.

Cả Hội Đồng trừng mắt nhìn Cenn, rồi mỗi người đi một ngả. Tất cả ngoại trừ Haral Luhhan, người cùng đi với bác thợ lợp mái cộc cằn, đang nói lảm nhảm. Bác thợ rèn là người duy nhất có thể mở mắt cho lão Cenn.

Rand đến gặp cha, có lũ bạn theo sau.

“Con chưa từng thấy ngài al’Vere giận đến vậy,” là câu đầu tiên Rand nói, khiến thằng Mat nhìn chàng không mấy vui vẻ.

“Ngài Thị Trưởng và Nhà Thông Thái hiếm khi hòa thuận,” Tam nói, “Và hôm nay họ còn ít hòa thuận hơn bình thường. Thế thôi. Ở làng nào mà chẳng vậy.”

“Thế còn Con Rồng giả thì sao?” Mat hỏi, và Perrin lầm bầm hưởng ứng. “Cả hội Aes Sedai nữa?”

Tam chậm rãi lắc đầu. “Ngài Fain biết ít hơn điều ông ta nói. Chí ít, ít hơn chúng ta mong muốn. Chuyện thắng bại của những cuộc chiến. Những thành phố chiếm đi chiếm lại. Tất cả đều diễn ra ở Ghealdan, tạ ơn Sự Sáng. Nó không lan ra, hoặc chưa lan ra theo như ngài Fain biết.”

“Cháu thích những cuộc chiến,” Mat nói, Perrin thêm vào, “Ông ta nói sao về chúng?”

“Ta thì không thích đâu Matrim,” Tam nói. “Nhưng ta chắc lúc khác ông ta sẽ vui lòng kể chúng cho cậu nghe. Điều ta thích là chúng ta sẽ không phải lo lắng về những chuyện đó ở đây, Hội Đồng đảm bảo vậy. Chúng ta thấy Aes Sedai chẳng việc gì phải ghé qua đây trên đường nam tiến. Và khi trở về, chắc họ cũng không muốn phải băng qua Rừng Âm U và bơi qua Sông Trắng đâu.”

Ý tưởng đó làm Rand và lũ bạn bật cười. Có ba lí do khiến người ta không thể vào vùng Sông Đôi nếu không đi từ phương bắc, theo con đường qua thị trấn Taren Ferry. Dãy Núi Mù Sương, về hướng tây, đương nhiên là lí do thứ nhất, và Đầm Lầy phong tỏa hướng đông. Về hướng nam là Sông Trắng, có tên như vậy là vì lòng sông toàn đá sỏi khiến nước cuộn bọt trắng xóa. Và bên kia Sông Trắng là Rừng Âm U án ngữ. Rất ít người vùng Sông Đôi từng vượt qua Sông Trắng, và số quay trở lại còn ít hơn. Ấy thế nhưng ai cũng nhất trí rằng Rừng Âm U trải dài về hướng nam một trăm dặm hoặc hơn mà không có lấy một con đường hay một ngôi làng nào, nhưng sói và gấu thì nhan nhản.

“Nếu thế thì chúng ta hết chuyện rồi,” Mat nói. Giọng tỏ vẻ thất vọng.

“Không hẳn,” Tam nói. “Ngày mốt chúng ta sẽ cho người đến làng Deven Ride và Watch Hill, cả trấn Taren Ferry nữa, để thám thính, bố trí kỵ sĩ tuần tra dọc theo Sông Trắng và sông Taren. Hôm nay có lẽ sẽ thông qua, nhưng còn phải chờ ngài Thị Trưởng đồng ý đã. Khó mà bắt ai nghỉ kì lễ này để ra khỏi vùng Sông Đôi lắm.”

“Cháu tưởng chú bảo không có gì phải lo,” Perrin nói, và Tam lắc đầu.

“Ta nói là không nên, nhóc ạ, chứ không phải là không lo lắng. Ta từng thấy nhiều người chết vì cho rằng điều gì đó sẽ không xảy ra.Với lại cuộc chiến sẽ vạ lây mọi loại người. Hầu hết sẽ chỉ cố tìm chỗ an toàn, nhưng số khác sẽ tìm cách để trục lợi trong cảnh hỗn loạn. Chúng ta sẽ sẵn lòng giúp nhóm thứ nhất, và kiên quyết tống cổ nhóm thứ hai đi chỗ khác.

Bỗng Mat ngắt lời. “Bọn cháu tham gia được không? Cháu muốn thế. Bác biết là cháu cũng có thể cưỡi ngựa chẳng kém ai trong làng này.”

“Cậu có muốn sống vài tuần trong giá lạnh, tẻ nhạt và mất ngủ không?” Tam cười lớn. “Ở ngoài kia đại khái là thế đấy. Ta mong là chỉ có vậy thôi. Chúng ta sẽ nằm ngoài chuyện này ngay cả với những người tị nạn. Nhưng nếu cậu sẵn lòng thì cứ hỏi ngài al’Vere xem. Rand, đến lúc chúng ta về nông trại rồi.”

Rand chớp chớp mắt ngạc nhiên. “Con tưởng chúng ta ở lại qua Đêm Đông.”

“Cần phải về trông coi nông trại, con đi với ta.”

“Dù thế thì chúng ta cứ chậm lại vài giờ đã. Con cũng muốn tình nguyện đi tuần tra.”

“Chúng ta đi ngay,” cha chàng đáp với giọng không thể tranh cãi. Rồi ông dịu giọng lại nói, “Ngày mai khi chúng ta quay lại con sẽ tha hồ mà nói với Thị Trưởng. Tha hồ mà chơi lễ. Giờ con có năm phút, rồi gặp ta ở chuồng ngựa.”

“Cậu có định theo tớ và Rand đi tuần không?” Mat hỏi Perrin khi Tam đã rời đi. “Tớ cá là trước giờ chưa từng có dịp thế này trong vùng Sông Đôi đâu. Sao nào, khi đến sông Taren chúng ta sẽ thấy quân lính đấy, hoặc thứ gì đó ai biết được. Thậm chí là cả những người Du Cư.”

“Tớ cũng muốn,” Perrin khẽ nói, “nếu sư phụ Luhhan không cần tớ.”

“Cuộc chiến ở Ghealdan,” Rand ngắt lời, rồi cố hạ giọng xuống. “Cuộc chiến thì ở Ghealdan, còn hội Aes Sedai ở đâu có Sự Sáng mới biết, nhưng ở đây thì chẳng có gì. Cái gã mặc áo choàng đen là… mà có khi các cậu quên gã rồi cũng nên.” Những đứa khác nhìn nhau bực bội.

“Xin lỗi nhé Rand,” Mat càu nhàu.” Nhưng không phải lúc nào tớ cũng có cơ hội để làm gì đó ngoài việc vắt sữa con bò cái của bố tớ đâu.” Nó khẳng khái nói khiến cả bọn giật mình. “Lúc nào tớ cũng chỉ có vắt sữa bò, mỗi ngày.”

“Tay kỵ sĩ đen,” Rand nhắc cả bọn. “Lỡ hắn đả thương ai thì sao?”

“Có khi hắn chỉ là một kẻ tị nạn khỏi cuộc chiến,” Perrin nghi hoặc nói.

“Dù hắn là ai,” Mat nói, “Đội tuần tra sẽ tìm ra hắn.”

“Cũng có khi,” Rand nói, “Nhưng gã ta biết hô biến đấy. Họ nên biết điều đó nếu muốn tìm kiếm hắn.”

“Chúng ta sẽ nói cho ngài al’Vere khi đến xin nhập đội tuần tra,” Mat nói, “tớ sẽ cho Hội Đồng hay, và họ sẽ nói lại với đội tuần tra.”

“Hội Đồng!” Perrin ái ngại nói. “ngài Thị Trưởng mà không cười sặc sụa tớ chết liền. Sư phụ Luhhan và cha Rand thì đã nghĩ hai đứa chúng ta lú hết cả rồi.”

Rand thở dài. “Nếu phải nói, chúng ta nên nói ngay lúc này. Hôm nay ngài ấy cũng chẳng cười to hơn ngày mai đâu.”

“Có thể,” Perrin nhìn Mat nói, “Chúng ta nên cố tìm thêm ai đó đã thấy hắn. Tối nay chúng ta sẽ gặp đầy đủ dân làng.” Mat càng cau có hơn, nhưng vẫn chưa nói gì. Cả bọn đều hiểu ý của Perrin là họ nên tìm nhân chứng đáng tin hơn Mat. “Để đến ngày mai ngài ấy cũng chẳng cười lớn hơn đâu.” Perrin nói thêm khi thấy Rand lưỡng lự. “Và chúng ta sẽ nói ngay khi tìm được ai đó đi cùng chúng ta. Một nửa dân làng ở đây đều thích hợp đấy.”

Rand khẽ gật đầu. Chàng đã có thể nghe thấy tiếng cười của ngài al’Vere. Tìm thêm người cho chắc ăn. Và nếu ba đứa bọn nó đã thấy gã kia, thì chắc người khác cũng thấy. Nhất định vậy. “Vậy thì để mai. Tối nay hai cậu đi tìm người đi, rồi ngày mai chúng ta đến gặp Thị Trưởng. Sau đó…” Cả bọn nhìn chàng im lặng, không ai đặt vấn đề liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ không tìm được ai khác từng thấy gã mặc áo choàng đen. Tuy nhiên câu hỏi đó đã hiện rõ trong mắt từng đứa, và chàng thì không có câu trả lời. Chàng thở dài nặng nhọc. “Tớ đi đây, không cha tớ lại tưởng tớ rớt xuống cái hố nào rồi.”

Theo sau bởi những lời tạm biệt, chàng chạy vòng ra chuồng ngựa chỗ người ta dựng chiếc xe cao giàn.

Chuồng ngựa là một cái nhà dài, hẹp, mái nhọn, lợp rơm. Nền của những ngăn có không gian tù mù bên trong trải rơm ngập cả hai bên, chỉ chừa lại ít không không gian để mở hai cái cửa hai đầu. Ngựa của người bán hàng rong chiếm tám cái chuồng đang nhai lúa mạch tóp tép, và những con ngựa khổng lồ giống Dhurran của ngài al’Vere, vốn dùng cho những nông dân thuê khi hàng hóa quá sức lũ ngựa của họ, chiếm hơn sáu chuồng, các con khác chỉ chiếm ba chuồng. Rand nghĩ mình hoàn toàn có thể cưỡi ngựa và làm một kỵ sĩ. Cái con ngựa ô cao lớn cổ dài đang hất hất cái đầu kia chắc là của gã Lan. Còn con ngựa bạch duyên dáng có cái cổ thon thả, dù bị nhốt trong chuồng mà dáng đi vẫn cứ như khiêu vũ kia chỉ có thể là của Moiraine. Và con ngựa thứ ba hơi lạ màu nâu bụi bặm, gầy guộc cao lêu khêu và bị thiến, hoàn toàn thích hợp với Merrilin.

Tam đứng cạnh chuồng ngựa, giữ cương con Bela và thì thào nói chuyện với Hu và Tad. Khi Rand bước vào chuồng ông liền gật đầu với mấy người giữ ngựa rồi dắt Bela ra, rồi lôi Rand đi mà không nói thêm gì nữa.

Họ im lặng thắng cương con ngựa bờm xờm. Tam tỏ ra ưu tư đến nỗi Rand không dám mở miệng. Chàng thật không định thuyết phục cha tin về tay kỹ sĩ đen, khó hơn cả với ông Thị Trưởng. Để ngày mai rồi tính, khi Mat và mấy đứa khác tìm ra ai đó từng thấy gã ta. Nếu họ có tìm được.

Khi chiếc xe lăn bánh, Rand lấy cây cung và bao tên cất ở phía sau, vừa chạy cạnh chiếc xe vừa lúng túng buộc cái bao tên vào hông. Khi họ đến dãy phố cuối cùng trong làng, chàng lắp một mũi tên thủ sẵn. Chẳng có gì đế ngắm ngoài những thân cây trụi lá, nhưng chàng vẫn xiết chặt đôi vai. Tay kĩ sĩ đen có thể đang nhìn họ mà họ chẳng biết. Nếu không thủ sẵn cung tên thì có khi chẳng kịp bắn.

“Cha,” cuối cùng chàng nói, “Con không hiểu sao Hội Đồng lại phải tra hỏi Padan Fain.” Chàng cố dằng mắt ra khỏi khu rừng nhìn Tam đứng bên kia con Bela. “Con thấy, quyết định mà mọi người đưa ra chỉ đúng trước mắt. Ngài Thị Trưởng sợ mọi người ở vùng Sông Đôi nói về hội Aes Sedai và Con Rồng giả, dù họ chỉ bán tín bán nghi.”

“Dân làng rất vui vẻ Rand à, điều đó tốt nhất cho họ. Cứ xem ông Haral Luhhan đấy. Ngài Luhhan là người khỏe mạnh, và là kẻ dũng cảm, nhưng cứ thấy cảnh giết chóc là xanh như tàu lá.”

“Vậy thì đã sao? Ai cũng biết sư phụ Luhhan sợ máu, và trừ nhà Coplin và nhà Congar ra thì có ai lại để ý chuyện đó.”

“Thế này con trai ạ. Dân làng không phải lúc nào cũng nghĩ hoặc cư xử theo cách mà con tưởng. Bọn họ… chịu để mưa đá biến mùa màng thành vũng bùn, để gió cuốn phăng mọi nóc nhà trong vùng, và để lũ sói giết hết nửa số gia súc, rồi sẽ xắn tay áo lên làm lại từ đầu. Có thể họ sẽ than thở, nhưng sẽ không lãng phí khoảnh khắc nào đâu. Nhưng chỉ cần con gieo vào đầu họ suy nghĩ về hội Aes Sedai và Con Rồng giả tại Ghealdan, thì họ sẽ lập tức nghĩ rằng Ghealdan chẳng phải nơi nào xa xôi bên kia Rừng Âm U cả, và con đường thẳng từ Tar Valon đến Ghealdan họ sẽ tưởng nằm ngay cạnh chúng ta về hướng đông. Như thể hội Aes Sedai sẽ không đi con đường qua Caemlyn và Lugard mà lại băng qua vùng này! Rồi chỉ sáng ngày hôm sau thôi một nửa dân làng sẽ đoan chắc rằng cả cuộc chiến sắp sửa ụp xuống đầu họ. Muốn làm họ nghĩ lại phải mất nhiều tuần. Vì muốn lễ Bel Tine diễn ra tốt đẹp Bran thà cung cấp cho họ một ý tưởng chứ không để họ tự tưởng tượng ra.

“Họ đã thấy Hội Đồng bàn thảo vấn đề này, và lúc này họ sẽ được nghe điều bọn ta quyết định. Họ chọn bọn ta làm Hội Đồng Làng vì tin bọn ta có thể giải thích mọi điều theo cách tốt nhất cho mọi người. Họ tin quan điểm của bọn ta. Ngay cả quan điểm của lão Cenn, vốn chẳng ăn nhập gì với những người khác. Bằng mọi giá, họ phải nghe và tin rằng chẳng có gì phải lo lắng cả. Không phải họ không thể hoặc sẽ không tự rút ra kết luận ấy, nhưng bằng cách này bọn ta sẽ giữ buổi lễ khỏi tan tành, và không có ai phải mất hàng tuần lo lắng về điều gần như sẽ không xảy ra ấy. Nếu có, họa hoằn lắm… thì, đội tuần tra sẽ cảnh báo để chúng ta sẽ làm những gì có thể làm. Nhưng ta hoàn toàn không nghĩ sẽ đến nước đó đâu.”

Rand phùng má. Có vẻ như làm thành viên trong Hội Đồng phức tạp hơn chàng nghĩ. Chiếc xe ngựa rùng rình trên con đường Quarry đá sỏi.

“Có ai ngoài Perrin trông thấy tay kị sĩ lạ ấy không?” Tam hỏi.

“Có thằng Mat nữa nhưng…” Rand chớp mắt, rồi tròn mắt nhìn cha qua tấm lưng con Bela. “Cha tin con rồi ư? Vậy chúng ta phải quay lại. Con phải nói với họ.” Tam quát chàng dừng bước khi chàng định quay lại làng.

“Khoan đã nào con trai! Con không nghĩ xem sao cha phải đợi đến giờ mới hỏi sao?”

Rand miễn cưỡng đi tiếp cạnh chiếc xe, vẫn rung lên cọt kẹt sau lưng con Bela điềm tĩnh. “Sao cha lại nghĩ lại? Sao con không được nói với người khác?”

“Họ sẽ sớm biết thôi. Ít nhất thì Perrin sẽ nói. Thằng Mat thì ta không chắc. Tin tức phải được loan ra sao cho hiệu quả nhất, nhưng mặt khác không nên để bất cứ đứa trẻ nào ở độ tuổi mười sáu tại làng Emond’s Field, độ tuổi đủ chịu trách nhiệm rồi đấy, biết việc có một kẻ lạ đang lẩn trốn quanh quẩn đâu đây và kẻ ấy không phải loại người có thể mời tới chơi Lễ được. Mùa đông thế này là đã đủ lắm rồi, không cần phải dọa đám trẻ ấy thêm nữa.”

‘Lễ Hội ư?” Rand nói. “Nếu từng thấy hắn thì trong vòng mười dặm cha chẳng muốn có hắn lai vãng đâu. Có khi là một trăm dặm.”

“Chắc vậy,” Tam điềm nhiên nói. “Hắn ta có thể là một di dân lánh những rắc rối tại ghealdan, hoặc có khi là một tên trộm cho rằng thó đồ ở đây sẽ dễ hơn ở làng Baerlon hay ở trấn Taren Ferry. Dầu vậy, quanh đây chẳng mấy ai dư dả để mà trộm cắp đâu. Nếu gã đó đang cố thoát khỏi chiến tranh thì… không việc gì phải làm dân làng lo lắng. Một khi đội tuần tra lên đường, họ sẽ tìm ra hắn hoặc dọa cho hắn bỏ đi.”

“Mong là họ dọa cho hắn đi. Nhưng sao giờ cha lại tin con, còn sáng nay thì không?”

“Ta phải tin vào mắt mình trước con trai, mà ta có trông thấy gì đâu.” Tam lắc mái đầu hoa râm. “Có vẻ chỉ có bọn trẻ các con là thấy gã này. Tuy nhiên khi ông Haral Luhhan nhắc tới việc Perrin hoa mắt thì mọi chuyện đã rõ. Đứa con cả của ông Jo Thane cũng thấy hắn, cả thằng bé nhà Samel Crawe cũng vậy. Uhm, khi mà cả bốn đứa con đều nói trông thấy một thứ có hình dạng thì… bọn ta bắt đầu nghĩ có thể hắn ở đó dù bọn ta không hề thấy. Dĩ nhiên là tất cả trừ lão Cenn. Thôi thì, vì thế mà chúng ta phải về nhà. Khi chúng ta đi rồi, kẻ lạ này có thể thôi không quấy nhiễu ở đó nữa. Nếu không phải vì Lễ Hội thì mai ta cũng không trở lại đây đâu. Nhưng chúng ta không thể tự biến mình thành tù nhân trong chính nhà mình chỉ vì có một gã lảng vảng ngoài kia được.”

“Con không biết thằng Ban với thằng Lem,” Rand nói. “Mấy đứa bạn con mai sẽ đến gặp ngài Thị Trưởng, nhưng bọn con sợ ngài ấy cũng không tin.”

“Đầu bạc chưa hẳn não đã bạc đâu con,” Tam nói cộc lốc. “Thôi căng mắt ra mà nhìn đường. Có thể chúng ta sẽ lại bắt gặp hắn xuất hiện đấy.”

Rand cũng đang rất tập trung. Chàng ngạc nhiên nhận ra mình bước nhẹ hơn. Những băn khoăn đã tan biến. Chàng vẫn còn sợ, nhưng không sợ như lúc trước nữa. Hồi sáng nay chỉ có Tam và chàng trên đường Quarry, nhưng giờ chàng có cảm giác cả dân làng cùng đi với họ. Những người khác biết và tin làm cho mọi việc trở nên khác hẳn. Chẳng có tay kị sĩ đen nào có thể làm dân làng mất đoàn kết được.
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới

Chương 5: Đêm đông

Mặt trời lên lưng chừng vào giấc trưa cũng là cũng chiếc xe ngựa về tới nông trại. Đó không phải là một căn nhà lớn, cũng không rộng như những trang trại trải dài ở phía đông nơi cư ngụ của những đại gia đình hình thành qua nhiều năm sinh sống. Trong vùng Sông Đôi, thường thì là ba đến bốn thế hệ chung sống dưới một mái nhà, bao gồm cả cô gì, chú bác, anh chị em họ và cháu con. Tam và Rand có thể xem là ngoại lệ khi hai người họ sống cô độc để canh tác trong rừng Westwood.

Ở đây hầu hết các phòng đều chung một nền, một cái hình chữ nhật vừa khít không có mái hiên hay thứ gì khác. Hai phòng ngủ và một cái nhà kho trên gác vừa vặn dưới cái mái rơm đổ xuôi xuống. Nếu lớp vôi mà có bị các cơn giông mùa đông tẩy sạch khỏi những bức tường gỗ chắc chắn, thì căn nhà vẫn trong tình trạng được sửa chữa tốt, mái rơm tết chặt lại và các cánh cửa lẫn cửa chớp đóng bản lề chắc hơn.

Nhà cửa, kho thóc và chuồng cừu quây bằng đá tạo thành ba điểm của một tam giác bao quanh trang trại, nơi vài con gà đã mạo hiểm ra ngoài để bới tìm trên mặt đất giá lạnh. Một cái bãi xén lông cừu lộ thiên và một cái máng ăn bằng đá đặt bên chuồng cừu. Nằm sát những cánh đồng giữa trang trại và những hàng cây thấp thoáng kho dụng cụ vững chãi cao cao. Một vài nông dân vùng Sông Đôi có thể xoay xở dù không có lông cừu lẫn thuốc lá để bán khi cánh lái buôn đến.

Khi Rand nhìn vào cái chuồng đá, một con cừu đực có cái sừng kềnh càng nhìn ngược lại chàng, nhưng hầu hết đàn cừu mặt đen hoặc vẫn yên vị nơi chúng ở, hoặc thúc đầu vào cỏ. Bộ lông của chúng đã dày và mượt lắm, nhưng trời còn lạnh quá chưa xén được.

“Con không nghĩ tay kỵ sĩ đen đã đến đây.” Rand gọi cha, ông đang rảo bước quanh trang trại, thủ sẵn cây giáo, chăm chú dò xét mặt đất. “Nếu có ai đó quanh đây thì lũ cừu đã không chịu đứng yên như vậy.”

Tam gật đầu nhưng vẫn không dừng lại. Khi đã đi hết một vòng quanh nhà, ông làm một vòng nữa quanh kho rồi quanh chuồng cừu, vẫn ngó chừng mặt đất. Ông thậm chí còn kiểm tra cả ống khói và xưởng dụng cụ. Múc một thùng nước từ dưới giếng, ông vốc nước vào tay, ngửi ngửi, rồi lấy lưỡi nếm nếm. Bỗng ông bật ra một tràng cười, rồi uống luôn một hớp.

“Cha cho là hắn không đến đây đâu,” ông bảo Rand, chùi tay vào vạt áo. “Chuyện về đám người và lũ ngựa mà cha không thấy cũng không nghe được chỉ làm cha thêm chú ý mọi thứ.” Ông đổ nước giếng sang cái xô khác rồi bước về phía căn nhà, một tay xách cái xô còn tay kia cầm giáo. “Để ta nấu gì đó cho bữa tối. Và chừng nào còn ở đây, chúng ta cần giải quyết chút việc vặt.”

Rand nhăn nhỏ, tiếc xót Đêm Đông tại làng Emond’s Field. Nhưng Tam nói đúng. Quanh nông trại việc chẳng bao giờ hết; ngay khi việc này vừa xong thì hai ba việc khác lại đến. Chàng hơi lưỡng lự nhưng rồi cũng vơ lấy cây cung và bao tên. Nếu tay kị sĩ đen kia xuất hiện, chàng không thể đối mặt hắn chỉ với cái cán xẻng được,

Lúc đầu Bela đứng yên. Chàng đã tháo cương và cho cô nàng vào chuồng cạnh con bò của họ, chàng vắt áo choàng sang bên và lấy ít rơm khô chà xát mình mẩy con ngựa cái, rồi lấy đôi bàn chải chải lông cho nó. Leo lên một cái thang hẹp lên gác xép, chàng lôi cỏ khô xuống cho nó ăn. Chàng còn xúc cho nó mấy xẻng yến mạch, tuy là chẳng còn bao nhiêu và có thể sắp tới sẽ cạn trừ khi thời tiết mau chóng ấm lại. Con bò cái tinh sương hôm nay đã được vắt sữa rồi, chỉ được phần tư số lượng bình thường; Nó có vẻ đã cạn sữa vì mùa đông dai dẳng này.

Thức ăn có đủ cho lũ cừu trong hai ngày – giờ chúng lẽ ra phải ở ngoài đồng, nhưng chẳng có gì hứa hẹn là có cỏ cả - dẫu sao chàng đã cho chúng uống nước xong. Mấy quả trứng vương vãi cũng cần phải đi gom lại. Chỉ có ba trái. Lũ gà mái dạo này giấu mới khéo làm sao.

Chàng đang đi lấy cái cuốc ra vườn rau sau nhà thì Tam đi ra rồi ngồi trên cái ghế trước chuồng gia súc vá lại bộ yên ngựa, cây giáo để sang bên. Điều đó làm Rand thấy khá hơn về cái cung đang quăng chỗ cái áo khoác cách chỗ chàng đứng vài pace.

Chỉ có tí cỏ dại chen ngang mặt đất thế mà lại nhiều hơn bất cứ thứ gì khác. Bắp cải thì còi cọc; những hạt đậu và cây con trơ ra, khó lòng mà lớn thành củ cải được. Không phải loại nào cũng được đem ra trồng; chỉ một phần, với hi vọng rằng cơn lạnh rồi đến lúc sẽ tan để vài thứ cây còn lớn được trước khi kho lẫm trống trơn. Xới đất cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian, công việc này mới chỉ dành cho chàng vài năm trở lại đây, nhưng giờ chàng tự hỏi liệu phải làm sao nếu năm nay không thu hoạch được gì. Không một ý nghĩ lạc quan. Rồi còn phải chẻ củi nữa.

Có vẻ như Rand thích những năm không cần phải chẻ củi. Nhưng than phiền cũng chẳng làm lũ ngựa ấm hơn, nên chàng xách rìu lên, đặt cung tên cạnh cái thớt, và làm việc. Gỗ thông để nhóm bếp, gỗ sồi để đốt lửa. Phải một lúc lâu chàng mới thấy nóng người mà cởi áo khoác ra. Khi đống củi lớn dần lên, chàng xếp nó bên hông nhà, cạnh mấy đống đã có sẵn, hầu như choán hết cái mái hiên. Thường thì vào độ này củi đóm chẳng cần đến, nhưng năm nay thì lại cần. Chẻ rồi xếp, cứ thế, chàng đắm mình trong nhịp điệu đều đều của chiếc rìu và động tác bổ củi. Bàn tay Tam đặt lên vai chàng lôi đến chỗ ông, thoáng chốc chàng tròn mắt ngạc nhiên.

Hoàng hôn đã tắt trong khi chàng làm việc, và trời đã chuyển tối. Trăng tròn đã lên tới ngọn cây, tỏa ánh vàng nhợt nhạt và phình ra như thể sắp rớt xuống đầu họ. Gió lạnh hơn mà chàng cũng không để ý, và những vạt mây chăng ngang bầu trời đêm.

“Rửa ráy đi con, rồi sửa soạn bữa tối. Cha đã xách nước để tắm nóng trước khi ngủ rồi đấy.”

“Con nghe cái gì nóng nóng là thích rồi,” Rand nói, nhặt cái áo choàng lên cuốn quanh vai. Mồ hôi tưới đẫm áo chàng, và giờ đang bị gió lạnh, khi nãy quai búa nóng người chàng chẳng để ý tới, làm cho đông lại. Chàng ngáp mạnh, run run khi dọn dẹp những thứ còn sót lại. “Và ngủ nữa. Chắc con ngủ qua Lễ Hội luôn quá.”

“Con dám không?” Tam cười, và Rand toét miệng cười lại. Dù có không ngủ cả tuần chàng cũng chẳng thể bỏ lỡ lễ Bel Tine được. Ai có điên mới làm vậy.

Tam thắp rất nhiều nến, và lửa bập bùng trong lò sưởi lớn bằng đá, để căn phòng có một cảm giác ấm cúng. Ngoài lò sưởi ra thì cái bàn gỗ sồi rộng là đặc điểm nổi bật của căn phòng, đủ chỗ cho một tá người hoặc hơn, tuy từ khi mẹ Rand mất hiếm khi tiếp nhiều khách như vậy. Một cái cái tủ và rương, đều do Tam đóng lấy, xếp dọc tường, và mấy cái ghế tựa kê quanh bàn. Chiếc ghế nệm mà Tam gọi là ghế đọc sách đặt ngay trước ngọn lửa. Rand thì thích nằm dài trên tấm phản trước lò sưởi mà đọc hơn. Kệ sách đặt cạnh cửa xấp xỉ cũng bằng cái kệ trong quán Winespring, nhưng sách thì khó mà bằng được. Mấy người hát rong chỉ mang đến một nhúm và bày ra trước mắt tất cả những ai muốn mua.

Căn phòng tuy không quá sạch sẽ như khi có bàn tay các bà vợ – Tẩu thuốc của Tam và cuốn Những Hành Trình của Jain Farstrider quăng trên bàn, trong khi một cuốn sách bìa gỗ khác nằm trên chiếc ghế đọc sách của ông; Bộ yên cần được vá thì để ở cái ghế trước lò sưởi, còn mấy cái áo cần khâu vá thì ném trên tay ghế - tuy không quá tinh tươm, nhưng nó vẫn khá tươm tất và ngăn nắp, nhìn cũng ấm cúng và thoải mái như bếp lửa kia vậy. Nơi đây, có thể quên đi cái lạnh ngoài kia. Nơi đây không có Con Rồng giả hiệu. Không chiến tranh hay Hội Aes Sadai gì hết. Không có những kẻ mặc áo choàng đen. Mùi thơm từ nồi thịt hầm bắc trên bếp tỏa lan căn phòng, khiến Rand thấy đói cồn cào.

Rand vội vã rửa ráy mặt mũi; Ngoài chỗ rửa cạnh cửa có một cái gầu với cái chậu. Tắm nóng là thứ chàng muốn, để tẩy sạch mồ hôi xua đi cái lạnh, nhưng muốn thế thì phải đem cái ấm nước đi đun ở nhà sau trước.

Tam rút dưới đáy tủ ra cái chìa khóa dài như bàn tay của ông. Ông xoáy nó vào cái ổ khóa lớn bằng sắt trên cánh cửa. Khi thấy ánh mắt nghi vấn của Rand thì ông nói, “An toàn là trên hết. Có thể là cha hơi điên, mà cũng có thể do thời tiết làm tâm trạng cha bất an, nhưng…” Ông thở dài nắm cái chìa khóa trong tay. “Ta phải trông chừng cái cửa,” ông nói, và biến mất vào trong buồng.

Rand không thể nhớ là cánh cửa có từng bị khóa hay không. Không ai trong vùng Sông Đôi khóa cửa cả. Không cần thiết. Ít nhất là cho tới giờ.

Đằng trước, phía giường ngủ của Tam, có tiếng xoèn xoẹt, như thể thứ gì đó đang bò trên sàn nhà. Rand nhăn mặt. Trừ khi Tam bỗng nhiên quyết định chuyển chỗ đồ đạc, nếu thế thì chỉ có mỗi cái rương cũ dưới giường ông thoi. Còn thứ gì đó khác thì Rand nhớ là chưa từng có.

Chàng đong nước đầy cái ấm nhỏ bắc lên bếp pha trà, rồi dọn bàn. Chén dĩa do chính tay chàng đẽo lấy. Cửa chớp phía trước còn chưa đóng, và chàng cứ nhìn luôn ra ngoài, nhưng đêm đã sâu nên chỉ thấy được ánh trăng mờ nhạt. Tay kị sĩ đen dễ cũng ở ngoài đó, nhưng thôi mặc kệ.

Khi Tam trở lại, Rand ngạc nhiên nhìn ông. Một sợi dây đai vắt qua eo ông, treo một thanh kiếm có tạc hình hạc trên cái vỏ đen và trên chuôi. Những kẻ duy nhất Rand từng thấy đeo kiếm là đám cận vệ của cánh lái buôn. Và tất nhiên là Lan. Nhưng chuyện cha chàng có một thanh thì chàng chưa từng nghĩ tới. Ngoại trừ hình mấy con hạc, thanh kiếm trông không kém gì thanh của Lan.

“Thứ đó ở đâu vậy?” chàng hỏi. “Cha mua của người bán hàng rong phải không, mắc không cha?”

Tam từ từ tuốt kiếm ra; ánh lửa chập chờn trên lưỡi bóng loáng. Thứ này tuyệt không giống hạng kiếm thô kệch của đám cận vệ. Không khảm ngọc hay vàng, nhưng trông rất oai vệ. Lưỡi kiếm, sắc lẹm và trên một cạnh có khắc hình một con hạc khác. Quai kiếm ngắn, tạo hình giống một dải buộc tóc uốn qua chuôi kiếm. So với kiếm của đám cận vệ thì nó có vẻ mỏng manh; hầu hết những thanh kiếm đó có hai lưỡi, và độ dày thì đủ để đốn cả cây.

“Cái này cha có từ lâu rồi,” Tam nói, “ở cách đây rất xa. Tốn cũng khá đấy; hai đồng bạc là đủ mua một cây rồi. Mẹ con thì không chịu, nhưng bà ấy lúc nào cũng khôn ngoan hơn ta. Ta thì hẵng còn trẻ, và lúc đó thấy cũng đáng giá. Bà ấy luôn muốn ta tránh xa thứ này, mấy lần ta cũng nghĩ bà nói đúng, rằng ta nên quẳng cái này đi.”

Thanh kiếm như bừng cháy bởi ánh lửa phản chiếu. Rand đăm đăm nhìn. Chàng vẫn thường ước có một thanh. “Ném nó đi? Kiếm thế này mà bỏ hay sao?”

Tam khịt mũi. “Chăn cừu thì chẳng cần đến, vậy dùng nó làm gì đây? Cũng chẳng lấy mà cày bừa được.” Ông chăm chút nhìn thanh kiếm như thể đang tưởng tượng dùng thứ như vậy vào những việc gì. Sau cùng ông dứt ánh mắt ra. “Hoặc là ta lại có sở thích đen tối, hoặc vận số chúng ta đen đủi, bằng không thì vài ngày nữa ta sẽ vui vẻ mà nhét nó trở lại cái rương cũ.” Ông tra kiếm vào vỏ trở lại và chùi tay lên áo với khuân mặt nhăn nhó. “Nước chắc được rồi đấy. Ta sẽ dọn bát đĩa còn con hãm ấm trà nhé.”

Rand gật đầu rồi đi lấy cái ấm, nhưng chàng muốn rõ mọi việc. Sao Tam lại mua kiếm? Thật không hiểu nổi. Và Tam mua ở đâu? Xa không? Chưa từng có ai ra khỏi vùng Sông Đôi; Họa chăng là rất ít. Chàng luôn có cảm tưởng rằng cha mình đã từng đi ra ngoài – vì mẹ chàng là người ngoại vùng – nhưng còn một thanh kiếm thì…? Chàng đã sẵn sàng hỏi nhiều điều khi nào bàn dọn xong.

Nước pha trà đang sôi bạo, và chàng phải quấn vải quanh cái quai để nhấc cái ấm ra khỏi móc. Hơi nóng tức thì phả ra. Vừa khi chàng rời khỏi ngọn lửa thì có tiếng đấm mạnh ngoài cửa làm rung cả ổ khóa. Mọi suy nghĩ về thanh kiếm, và về cái ấm nước sôi trong tay chàng, bay biến sạch.

“Chắc là hàng xóm,” chàng nghi hoặc nói. “Chắc ngài Dautry muốn mượn…” Nhưng nông trại ngài Dautry, người hàng xóm gần nhất, cách đây tới một giờ đi bộ dù là giữa ban ngày, và ông Oren Dautry ấy, kẻ mặt dày chuyên đi mượn bợ, khó lòng mà ra khỏi nhà giữa lúc đêm hôm thế này.

Tam nhẹ nhàng đặt mấy cái chén lên bàn. Rồi ông từ từ đi ra, cả hai tay đã đặt lên chuôi kiếm. “Ta không nghĩ…” ông bắt đầu, và cánh cửa bật mở, cái ổ khóa vỡ thành từng mảnh văng lên sàn nhà.

Một kẻ đứng chắn ngay cửa, to hơn bất cứ ai Rand từng thấy, gã mặc áo giáp đen phủ tới đầu gối, có đinh nhọn đóng ở khủy tay, ở eo và ở vai. Một tay gã cầm thanh kiếm to như cái lưỡi hái; tay kia che trước mặt hộ vệ.

Rand thấy nhẹ nhõm đến kì quặc. Dù kẻ này là ai thì cũng không phải là tay kị sỹ đen. Rồi chàng thấy mấy cái sừng dê cong cong trên cái đầu cao tới thành cửa của gã, và ở chỗ lẽ ra là mồm và mũi thì lại là một cái mõm lông lá. Chàng nhận ra tất cả những điều ấy trong một hơi thở mạnh mà chàng thốt ra thành một tiếng kêu kinh hãi, không nghĩ ngợi gì, chàng ném luôn cái ấm nước sôi vào cái đầu nửa người nửa ngợm ấy của gã.

Sinh vật đó gầm lên, nửa như đau đớn, nửa như tiếng thú dữ, khi bị nước sôi ụp lên mặt. Cả cái ấm cũng đập trúng gã, thanh gươm của Tam lóe lên. Tiếng gầm chuyển thành tiếng ùng ục, và thân hình khổng lồ ấy đổ vật ra sau. Nhưng xác gã còn chưa chạm đất thì một kẻ khác đã xông lên. Rand vừa thoáng nhìn thấy cái đầu méo mó mọc sừng nhọn thì Tam đã lại hạ hắn, và hai cái xác kềnh càng chắn ngay cửa. Chàng nghe tiếng cha quát lớn:

“Chạy đi con, trốn vào rừng mau!” Những cái xác ngoài cửa giãy nảy lên khi những kẻ khác lôi chúng sang bên. Tam xô vai vào cái bàn khổng lồ; vừa chửi mắng vừa đẩy nó chắn đường bọn kia. “Đông quá không trụ được! Đi cổng sau! Đi mau! Cha sẽ đuổi theo!”

Ngay khi vừa quay đi Rand thấy xấu hổ vì đã nhanh nhảu như vậy. Chàng muốn ở lại giúp cha, tuy không biết bằng cách nào, nhưng nỗi sợ đã dâng tới cổ họng rồi, và chân chàng thì cứ thế mà chạy. Chàng xông ra khỏi phòng, chạy ra sau nhà, lấy hết sức bình sinh mà chạy. Tiếng đâm chém và la hét từ cửa trước bám theo chàng.

Chàng chụp lấy thanh chắn cửa sau khi mắt vừa thấy cái ổ khóa vốn chẳng bao giờ khóa. Nhưng đêm nay Tam đã khóa mất rồi. Bỏ qua cái thanh chắn, chàng lao ra chỗ cửa sổ, đẩy cái chắn cửa lên rồi mở cửa chớp ra. Đêm đen đã thay thế hẳn ánh hoàng hôn. Trăng tròn và những đám mây lờ lững tạo thành những mảng tối đuổi bắt nhau kéo qua trang trại.

Bóng tối, chàng tử nhủ. Chỉ bóng tối. Cửa sau kêu cọt kẹt như thể có ai đó, hoặc cái gì đó, bên ngoài, đang cố đẩy nó ra. Miệng chàng khô khốc. Một cú húc đẩy văng cánh cửa khiến chàng giật thót; chàng trượt qua cửa sổ như con thỏ chui đầu xuống đất, rồi ngồi nép mình bên hông nhà. Trong phòng, tiếng đồ đạc đổ vỡ như tiếng sấm.

Chàng chổng mông mắt nhắm mắt mở nhìn vào bên trong, ngay góc cửa sổ. Trong bóng tối chàng không nhận ra gì rõ ràng, nhưng cũng nhiều hơn chàng nghĩ. Cánh cửa xiêu vẹo, và những hình thù tăm tối di chuyển một cách thận trọng trong phòng, thì thào trao đổi. Rand không hiểu chúng nói gì; một thứ ngôn ngữ thô ráp, không giống tiếng người. Rìu và giáo và những thứ có đầu nhọn loang loáng ánh trăng. Tiếng giày nện trên nền nhà, và còn có tiếng lách cách đều đặn, như tiếng bụng sôi.

Chàng chép miệng cho bớt khô. Hít vào một hơi thở sâu, chàng la toáng lên hết cỡ. “Chúng đang đến phía sau!” Những thanh kiếm loảng xoảng, sau cùng tuốt cả ra. Nhưng chàng không biết liệu chúng sẽ làm gì. “Con ở bên ngoài! Chạy đi cha ơi!” Dứt lời chàng chạy thục mạng khỏi trang trại.

Tiếng quát tháo thô lậu bằng thứ ngôn ngữ lạ kì dồn dập vọng đến từ buồng trong. Kính vỡ loảng xoảng, và có thứ gì đó rơi bịch trên mặt đất phía sau chàng. Chàng đoán một trong số chúng đã phá cửa số phi ra chứ không không mất công mở nó, nhưng chàng không ngoái lại xem mình đoán có đúng không. Như con cáo bị chó săn rượt chàng lao vào bóng râm gần nhất do mặt trăng tạo ra thay vì chạy vào rừng, rồi cúi người trườn trở về kho thóc, nơi có bóng râm tối hơn và rộng hơn. Có thứ gì đó rơi lên vai chàng, chàng phủi đi, không chắc là mình đang chiến đấu hay đang bỏ chạy, cho tới khi chàng nhận ra mình đã tóm lấy cái cuốc tay do Tam chế từ lúc nào.

Ngu xuẩn! Chàng nằm xuống một thoáng, cố ghìm hơi thở. Thằng Coplin ngu xuẩn! Cuối cùng chàng bò dọc theo mặt sau của kho thóc, lôi cái cuốc theo sau. Tuy không rõ hiệu quả nhưng vẫn tốt hơn là không làm gì. Chàng thận trọng nhìn quanh cái góc tạo bởi nông trại và căn nhà.

Không thấy bóng dáng những sinh vật lao ra ngoài để đuổi theo chàng. Chúng có thể ở bất cứ đâu. Săn đuổi chàng, chắc chắn rồi. Thậm chí là giày xéo lên chàng ngay bây giờ nữa.

Những tiếng bebe kinh hoảng tràn ngập chuồng cừu nằm bên tay trái chàng; Lũ cừu chạy tán loạn như muốn tìm đường thoát ra ngoài. Những hình thù tăm tối chập chờn bên trong cửa sổ sáng đèn của căn nhà, và tiếng binh khí va chạm túa ra ngoài bóng đêm. Bỗng nhiên từ phía cửa sổ một trận mưa kính vỡ cùng gỗ vụn túa ra khi Tam phi mình qua nó, kiếm vẫn nắm trong tay. Ông tiếp đất, nhưng thay vì bỏ chạy khỏi căn nhà thì ông lại lao trở về phía ấy, mặc kệ lũ quái vật ùa ra lối cửa sổ vỡ và cửa trước đuổi theo ông.

Rand không tin nổi vào mắt mình. Sao ông lại không chịu bỏ chạy? Rồi chàng hiểu ra. Tam đã nghe thấy tiếng kêu của chàng ban nãy phía bên hông nhà. “Cha!” Chàng la toáng lên. “Con ở đây!”

Đang dở bước chân Tam liền quay lại, nhưng không chạy về phía Rand mà theo một hướng cách xa chàng. “Chạy đi! Con trai!” Ông thét lên, vung thanh kiếm như thể có ai đó chắn trước mặt. “Trốn đi!” Một tá những hình thù to lớn rượt theo ông, nhưng tiếng la hét, hò reo chát chúa và thô kệch tỏa ra khắp không gian.

Rand lùi vào bóng tối sau kho thóc. Đứng từ phía căn nhà sẽ không thấy chàng ở đó, trong trường còn có ai đó núp bên trong. Ít ra thì giờ chàng tạm an toàn. Nhưng Tam, người đang cố dụ bọn kia đi xa khỏi chàng, thì không. Bàn tay chàng xiết lại trên cán cuốc, và phải nghiến răng lại để không bật ra một tràng cười bất ngờ. Một cái cán cuốc. Đối phó với đám súc vật đó bằng một cái cán cuốc thì có khác nào chơi đánh gậy với Perrin. Nhưng chàng không thể để Tam đối mặt với những kẻ đang lăm lăm bám theo ông.

“Nếu mình di chuyển nhẹ nhàng như con thỏ,” chàng tự nhủ, “chúng sẽ không nghe, không thấy mình.” Những tiếng la kì quái vang vọng trong bóng tối, chàng cố nuốt nước bọt. “Nghe như một đàn sói đói.” Chàng lặng lẽ lê khỏi kho thóc, hướng về khu rừng, xiết cán cuốc chặt tới nỗi đau cả tay.

Thoạt tiên, khi được cây cối bao bọc, chàng lấy làm thoải mái. Chúng giúp chàng trốn khỏi lũ súc vật không rõ lai lịch đã tấn công trang trại kia. Tuy nhiên, khi chàng lẩn đi giữa rừng, ánh trăng đã đổi khác, khiến bóng đêm trong rừng như thể cũng đang chuyển chỗ. Cây cối hiện ra một cách tai hại; cành lá cứ quấn lấy chàng. Nhưng liệu chúng chỉ là cành lá và cây cối thôi ư? Chàng có thể nghe được những tiếng cười đe dọa u u trọng cổ họng chúng trong khi rình đón chàng. Những tiếng la ó của những kẻ đuổi theo Tam tan dần trong đêm; nhưng trong sự im lặng thay thế ấy chàng vẫn cứ run lên mỗi khi gió chà xát những cành cây với nhau. Càng lúc chàng càng cúi người thấp hơn, di chuyển chậm hơn. Chàng không dám thở mạnh vì sợ nghe thấy nỗi sợ của mình.

Bỗng một bàn tay từ phía sau bịt miệng chàng lại, và một thanh sắt đặt chỗ cổ tay chàng. Chàng kinh hãi ngoặc tay ra sau mong tóm được kẻ tấn công.

“Đừng có bẻ cổ cha chứ con trai,” giọng Tam khàn khàn vang lên. Chàng thở phào nhẹ nhõm, toàn thân nhão ra như cháo. Tam thả người xuống cạnh chàng, ngả về một bên hông.

“Ta phải làm thế dù biết rằng con đã lớn ra nhiều mấy năm gần đây,” Tam nhẹ nhàng nói. Đôi mắt ông chớp chớp rọi vào bóng tối. “Nhưng cần phải đảm bảo là con sẽ không la lên. Một vài tên Trolloc nghe tốt như chó, có khi tốt hơn.”

“Nhưng bọn Trolloc chỉ là…” Rand bỏ lửng. Không phải chỉ có trong truyện, đêm nay thì không phải. Những thứ đó có thể là bọn Trolloc hoặc là chính Chúa Tể Bóng Tối như chàng biết. “Cha có chắc là?” chàng thì thào. “Ý con… tức là bọn Trolloc.”

“Ta chắc chắn. Tuy không rõ sao chúng lại đến vùng Sông Đôi này… ta chưa từng thấy một tên nào cho tới đêm nay, nhưng ta đã có nói với những người từng thấy chúng, nên ta cũng có biết đôi chút. Chắc cũng đủ để giữ mạng chúng ta. Nghe cho kỹ này. Bọn Trolloc nhìn trong đêm tốt hơn con người, nhưng ánh mặt trời làm lóa chúng, ít nhất là độ một lúc. Đó có thể là cách thoát thân duy nhất cho chúng ta. Một vài tên có thể lùng theo mùi hoặc tiếng động, nhưng ai cũng bảo chúng rất lười biếng. Nếu chúng ta trốn được lâu, chúng sẽ bỏ cuộc.”

Điều đó khiến Rand phần nào yên tâm hơn. “Trong truyện nói chúng ghét con người, và phụng sự Chúa Tể Bóng Tối.”

“Nếu có thứ gì đó thuộc về băng đảng của Mục Đồng Bóng Đêm, thì đó chính là bọn Trolloc này đây. Chúng lấy giết chóc làm vui, như người ta vẫn bảo. Nhưng ta chỉ biết đến đấy thôi, còn điều nữa là chỉ có thể tin chúng khi chúng sợ con, và cái đấy thì còn lâu.”

Rand rùng mình. Chàng đời nào lại nghĩ sẽ gặp một tên Trolloc nhát gan. “Cha có cho rằng chúng vẫn đang truy lùng chúng ta không?”

“Có thể có mà cũng có thể không. Bọn chúng không khôn gì lắm. Một khi chui được vào rừng rồi thì cha sẽ làm mấy cái dấu dụ chúng đi về phía dãy núi.” Tam mò mò bên hông rồi đưa tay lên sát mặt. “Thứ tệ nhất chúng gây ra đây.”

“Cha bị thương.”

“Nhỏ mồm chứ. Trầy xước tí thôi, với lại giờ cũng không phải lúc lo tới chuyện đó. Ít ra thì trời có vẻ đang trở ấm.” Ông thở dài rồi ngả người ra sau. “Ngủ đêm ngoài này chắc cũng không đến nỗi nào.”

Trong đầu mình thì Rand vừa vui vẻ nghĩ về áo sống của mình. Cây cối tuy cản gió nhưng chúng vẫn giật từng cơn lướt qua như lưỡi dao lạnh giá. Chàng ngập ngừng chạm vào khuân mặt Tam, và nhăn mặt lại. “Cha nóng như lửa. Con phải đưa cha đến chỗ chị Nynaeve.”

“Không sao đâu con.”

“Chúng ta không thể chần chừ thêm một khắc nào nữa. Trời đêm đường ghập ghềnh lắm.” Chàng khua chân và cố lôi cha dậy. Một tiếng rên khô khốc bật ra từ kẽ răng của Tam làm Rand vội vã ngồi xuống.

“Để ta nghỉ một tí đã, ta thấy mệt.”

Rand đấm đấm vào đùi. Nếu như ở trong ngôi nhà ấm cúng, có lửa và chăn mền, có nước và trà, chàng sẽ sẵn lòng chờ đến rạng đông rồi thắng con Bela đưa cha vào làng. Nhưng giờ đây không có lửa, không chăn mền, không xe, không ngựa. Nhưng những thứ ấy vẫn còn kia trong căn nhà. Nếu chàng không thể đưa Tam về, thì ít nhất vẫn có thể đi lấy chúng đến cho ông. Nếu bọn Trollocs đã bỏ đi. Sớm muộn gì chúng cũng phải đi thôi.

Chàng nhìn vào cái cán cuốc, rồi thả nó xuống. Thay vào đó chàng với lấy thanh kiếm của Tam. Lưỡi kiếm ẩn hiện trong ánh trăng nhợt nhạt. Chuôi kiếm dài làm chàng thấy hơi ngượng tay; trọng lượng và kích cỡ cũng khá lạ lẫm. Chàng chém vào không khí vài phát rồi dừng lại thở dài. Chém gió thì có gì khó đâu. Nếu gặp bọn Trolloc hẳn chàng sẽ chạy mất dép thôi, bằng không thì cũng chết đứng chờ cho những thanh gươm quái đản của chúng… Thôi! Nghĩ vớ vẩn quá!

Đang chuẩn bị đứng dây thì Tam chụp lấy tay chàng. “Con định đi đâu?”

“Chúng ta cần xe,” chàng nói khẽ. “Ít chăn mền nữa.” Chàng hơi run sợ khi kéo tay cha ra sao mà dễ dàng quá. “Cha nghỉ đi, con sẽ về liền.”

“Cẩn thận,” Tam thở ra một hơi.

Trong ánh trăng chàng không nhìn thấy mặt Tam, nhưng có thể cảm nhận được ánh mắt ông. “Vâng ạ.” Mình sẽ cẩn thận như một con chuột tìm đường vào rương, chàng nghĩ.

Chàng lẳng lặng lướt vào bóng tối. Chàng cứ nghĩ về những lần chơi trốn tìm với đám bạn trong rừng hồi còn bé, lén lén lút lút tìm nhau, cố không phát ra tiếng động rồi chụp lên vai một đứa nào đấy. Nhưng kiểu gì thì kiểu đêm nay dứt khoát không phải như vậy.

Bò từ cây này sang cây khác, chàng cố nghĩ kế, nhưng đến lúc ra tới bìa rừng thì đã lập rồi lại bỏ tới mười phương án. Mọi thứ đều trông cả vào việc lũ Trollocs còn đó không. Nếu chúng bỏ đi rồi, thì chàng chỉ cần vào nhà lấy những thứ cần thiết. Còn như chúng vẫn ở đó… trong trường hợp này thì chỉ có nước quay lại với Tam thôi. Chàng không thích ý nghĩ đó, nhưng nếu chàng bị giết thì nguy cho Tam lắm.

Chàng rọi mắt vào mấy khu nhà của nông trại. Kho thóc và chuồng cừu chỉ là những hình thù tăm tối dưới ánh trăng. Tuy nhiên có ánh sáng lọt ra ngoài khung cửa sổ về tỏa ra từ cửa trước. Chắc là nến mà cha thắp, mà có khi là bọn Trolloc đang phục trong đó.

Chàng nhảy dựng lên khi nghe một con cú đêm kêu lên khô khốc, rồi lách vội vào một thân cây, run lên bần bật, không còn biết mình đang ở đâu nữa. Cùi gằm xuống, chàng trườn đi, lóng ngóng thủ kiếm phía trước. Chàng cứ để cái cằm dính đất vậy suốt quãng đường quay lại chuồng cừu.

Nép mình vào bức tường đá, chàng nghe ngóng. Màn đêm tịnh không tiếng động. Cẩn thận chàng nhón chân vừa đủ nhìn qua bức tường. Trong nông trại không có động tĩnh gì. Cũng không có bóng đen nào chắn ngang ánh sáng hắt ra từ cửa sổ lẫn lối cửa ra vào. Con Bela và chiếc xe, hay chăn mền và những thứ khác mới là cần nhất. Chính ánh sáng đã giúp chàng quyết định. Kho thóc tối om. Trong đó dễ có thứ gì đang núp lắm, khó mà biết được cho đến khi quá trễ. Còn trong nhà thì ít nhất cũng có thể biết liệu có gì.

Đang lúc cúi xuống thì chàng chợt khựng lại. Yên tĩnh quá. Lũ cừu có lẽ đã yên trở lại và đi ngủ cả, tuy không hẳn vật, có vài con vẫn hay thức dậy lúc nửa đêm, vừa đi lăng xăng vừa kêu be be. Chàng dễ dàng nhận ra nhưng cái bóng đen đen của lũ cừu in trên mặt đất. Một cái ở ngay dưới chân chàng.

Cố không phát ra tiếng động, chàng lê mình theo bức tường cho tới khi có thể với tay tới một thứ mờ nhạt. Nhón tay chàng chạm vào bộ lông cừu xoăn tít, thấy ướt ướt; lũ cừu không không di chuyển. Lúc kéo tay về hơi thở chàng đổ dồn, thanh kiếm gần như rớt xuống ngay ngoài chuồng cừu. Chúng giết cho vui. Chàng chùi chùi cái thứ ướt ướt trên tay vào đất.

Chàng tự nhủ rằng không có gì thay đổi cả. Bọn Trolloc đã xong việc của chúng và biến rồi. Lặp lại điều đó trong đầu, chàng bò qua sân, cúi người thật thấp, nhưng vẫn cố quan sát tứ phía. Chàng chưa bao giờ nghĩ có lúc mình lại muốn biến thành một con trùng.

Đến trước nhà chàng lại nép vào tường, ngay dưới cái cửa sổ đã bể tan, và nghe ngóng. Tiếng máu chảy dội trong tai chàng to chưa từng thấy. Chậm rãi chàng nhón lên nhìn vào trong.
Cái ấm nước nằm chổng ngược trên đống tro bếp. Gỗ vụn vương vãi khắp nhà; không có lấy một thứ đồ nào còn nguyên vẹn. Ngay cả cái bàn kê trong góc, hai chân bị chặt văng. Ngăn kéo bị lôi hết ra mà đập vỡ; tất cả tủ chén và tủ kệ mở toang, nhiều cánh cửa sứt bản lề. Những thứ bên trong vỡ nát vương vãi, và tất cả bị phủ lên một thứ bụi trắng. Bột mì và muối, chứa trong nhưng bao tải giờ đã rách bươm vãi ra tung tóe trước bếp lửa. Bốn cái thây co quắp nằm trong đống đồ đạc ngổn ngang ấy. Bọn Trolloc.

Rand nhận ra một tên nhờ cái sừng dê trên đầu hắn. Những tên khác trông cũng hao hao vậy, chỉ có khuân mặt giống người của chúng là thấy có khác nhau đôi chút, thậm chí còn méo mó biến dạng bởi mõm thú, sừng, lông lá các kiểu. Tay chúng, gần như tay người, càng làm chúng ghê tởm hơn. Hai tên đeo ủng; mấy tên khác chân móng guốc. Chàng nhìn mà không chớp lấy một cái cho tới khi mắt đỏ lên. Không tên Trolloc nào còn cử động. Chúng hẳn chết cả rồi. Còn Tam thì đang đợi.

Rand phi qua cửa trước vào nhà, chững lại vì mùi hôi thối. Một cái chuồng ngựa mấy tháng liền không được dọn phân là thứ duy nhất mà chàng nghĩ phù hợp với chỗ này. Những vết bẩn loang lổ những bức tường. Cố gắng thở ra đằng miệng, chàng nhón bước qua sàn nhà bừa bộn. Trong tủ chén có một cái bị nước.

Một tiếng động sột soạt phía sau khiến chàng chết ngất, người bủn rủn như muốn đổ xuống cái bàn chổng trơ. Chàng rúm người lại, tiếng rên khe khẽ vọng ra từ phía sau hai hàm răng đang va lạp cạp vào nhau mà chàng không tài nào kìm lại được.

Một tên Trolloc đang bò dậy. Cái mõm sói của hắn trồi ra phía dưới đôi mắt sâu hoắm. Một cặp mắt phẳng lì, vô cảm, và rất giống mắt người. Đôi tai lông lá, nhọn hoắt giật giật liên hồi. Hắn lê bộ móng guốc qua xác đồng bọn. Bộ áo giáp cùng loại với những tên khác của hắn va loẹt xoẹt vào cái quần da, và bên hông hắn lủng lẳng mấy thanh kiếm bầu khổng lồ.

Hắn lầm bầm gì đấy trong cuống họng rồi nói, “Tất cả đã bỏ đi hết. Narg ở lại. Vì Narg khôn.” Lời lẽ hắn lùng bùng khó hiểu, thốt ra từ một cái miệng hoàn toàn không thích hợp để nói tiếng người. Hắn nói có vẻ nhẹ nhàng, chàng nghĩ, nhưng vẫn không thể rời mắt khỏi cái hàm rằng bẩn thỉu, dài ngoằng, nhọn hoắt và lóng lánh mỗi khi hắn mở mồm ra kia. “Narg biết thế nào cũng có đứa mò về. Narg chờ. Ngươi không cần kiếm. Bỏ kiếm xuống.”

Nhờ tên Trolloc nhắc Rand mới sực nhận ra là mình đang khua thanh kiếm trước mặt hắn bằng cả hai tay, mũi chỉ vào con quái vật đồ sộ ấy. Hắn cao hơn chàng cả một cái đầu, với bộ ngực và đôi tay săn chắc như ngài Luhhan.

“Narg không biết đau.” Hắn tiến một bước, khua tay. “Ngươi bỏ kiếm xuống.” Bộ lông đen trên mu bàn tay hắn dày như lông thú.

“Lui lại,” Rand nói, ước là giọng mình rắn rỏi hơn. “Sao ngươi làm điều này, tại sao?”

“Vlya daer roghda!” Tiếng gầm gừ bỗng biến thành một nụ cười khoe hết cả hàm răng. “Bỏ kiếm xuống. Narg sẽ không làm đau. Myrddraal muốn nói với ngươi.” Một tia biểu cảm xoẹt qua gương mặt nhăn nhúm đó. Sợ hãi. “Những kẻ khác đã về, ngươi phải gặp Myrddaal.” Hắn bước thêm bước nữa, một bàn tay đặt lên chuôi kiếm. “Ngươi bỏ kiếm xuống.”

Rand liếm môi. Myrddaal! Thứ kinh khủng nhất trong những câu chuyện lại đang đi lại trong đêm nay sao. Nếu một Ma Khách đến đây, thì bọn Trolloc chỉ là cóc nhái, phải lo mà né ra bên. Nhưng nếu tên Trolloc rút thanh kiếm vĩ đại kia ra thì chàng sẽ hết đường thoát. Chàng cố vén môi thành một nụ cười. “Được được.” Xiết chặt thanh kiếm, chàng thu tay về. “Ta sẽ nói chuyện.”

Nụ cười mặt sói kia biến thành một tiếng gầm gừ, và tên Trolloc đột nhiên xông vào chàng. Rand không tưởng tượng nổi sao hắn có thể nhanh tới vậy. Chàng bất chấp vung thanh kiếm lên. Cái thây quái vật kia lao tới hất chàng vào tường. Chàng ná thở, chém loạn lên khi cả hai đổ nhào xuống sàn, tên Trolloc đè lên trên. Chàng giãy bần bật dưới cái sức nặng đang đè trên người, cố tránh đôi tay đang muốn chịt cổ mình và hàm răng nhe ra kia.

Bỗng tên Trolloc giãy lên một cái rồi nằm thẳng cẳng. Bị bầm dập, ngẹt thở dưới sức nặng, trong một thoáng Rand nằm đơ ra như không biết gì nữa. Nhưng chàng cũng nhanh chóng tỉnh ra, loáy hoáy chui khỏi cái thây. Và cái thây đúng là chết rồi. Thanh kiếm vấy máu của Tam xuyên qua giữa lưng tên Trolloc. Loáy hoáy thế nào mà rốt cục chàng cũng đâm được. Máu cũng nhuộm đỏ tay Rand, và tạo ra một cái vệt lớn đen xì trên áo chàng. Bụng chàng nhão ra, chàng khó nhọc nuốt nước bọt để cố giữ bình tĩnh, người cứ run lên trong cơn sợ hãi, nhưng lần này không đến nỗi chết cứng cả người.

Những kẻ khác đã trở về, tên Trolloc nói thế. Những tên Trolloc khác sẽ trở lại trang trại. Có cả một Myrddraal, một Ma Khách. Những câu chuyện kể rằng bọn Ma Khách cao tới hai mươi hai feet, mắt rực lửa, và cưỡi trên những cái bóng trông như ngựa. Khi một Ma Khách quay đi, nó biến mất, và không bức tường nào có thể ngăn chúng được. Chàng phải làm điều đã tính trước, rồi chuồn cho nhanh.

Chàng nghiến răng lật cái thây tên Trolloc lại để lấy thanh kiếm – tí nữa thì bỏ chạy khi thấy mắt gã mở trừng trừng nhìn mình. Phải mất một lúc chàng mới nhận ra là đôi mắt ấy đã chết rồi.

Chàng lau tay vào một miếng giẻ - mới sáng nay còn là mảnh áo của Tam – và giật manh thanh kiếm ra. Chùi kiếm xong, chàng miễn cưỡng giục tấm giẻ đi. Giờ không phải lúc gọn gàng, chàng nghĩ và tí nữa thì bật cười lớn. Chàng không tưởng tượng nổi liệu có thể lau sạch căn nhà này để sống tiếp nữa không. Cái mùi hôi thối dường đã ngấm vào từng thớ gỗ rồi. Nhưng không có thời giờ mà nghĩ tới chuyện đó. Không phải lúc gọn gàng. Cũng có thể không phải lúc cho bất cứ gì khác.

Chàng chắc là mình đã quên một số thứ cần thiết, nhưng Tam đang đợi, và bọn Trollloc đang đến. Chàng gom mấy thứ đã nghĩ tới trong lúc chạy trốn. Mấy tấm chăn trong phòng ngủ trên gác, vải sạch để băng vết thương cho Tam. Lấy áo mặc và áo choàng. Một túi nước chàng mang theo lúc chăn bầy cừu vào chuồng. Chàng không biết lúc nào mới có thời giờ thay đồ, nhưng chàng muốn thay cái tấm áo vấy máu này ngay khi có thể. Mấy cái túi nhỏ làm bằng vỏ cây liễu và thuốc men thì lại nằm trong cái đống đen đen hỗn độn mà chàng không dám mó tới kia.

Cái ấm nước Tam đặt bên bếp kì diệu thay lại chẳng việc gì. Chàng lấy nó đổ nước đầy cái bị, rửa vội cái tay, rồi vội vã nhìn quanh xem còn quên gì không. Chàng thấy cây cung nằm giữa những mảnh vụn, gãy đôi ngay ở giữa. Chàng rùng mình khi làm rớt mất món đồ. Những thứ gom được vật là đủ rồi, chàng quyết định. Rồi chàng nhanh chóng chất hết chúng ra ngoài cửa.

Thứ cuối cùng trước khi chuồn, chàng vơ một cái đèn dầu từ trong mớ lộn xộn trước cửa. Vẫn còn dầu. Nhóm đèn lên bằng nến, chàng đóng chụp đèn lại – phần để cản gió, phần khỏi chói mắt – rồi tay đèn tay kiếm vội vã đi ra ngoài. Chàng không chắc liệu có tìm thấy trong kho thóc không. Chuồng cừu thì chẳng mấy hi vọng. Nhưng chàng cần chiếc xe ngựa để đưa Tam đến làng Emond’s Field, và chiếc xe ngựa thì lại cần con Bela. Hoàn cảnh lúc này khiến chàng chỉ còn ít hi vọng.

Cửa kho thóc mở toang, một cánh đang bị gió thổi kêu cọt kẹt. Thoạt nhìn thì bên trong trông vẫn bình thường. Rồi mắt chàng rơi trên cái chuồng ngựa rỗng tuếch, cửa chuồng đã văng bản lề. Con Bela và cả con bò cái đã đi mất. Chàng chạy ùa ra sau kho. Chiếc xe nằm bên hông nhà, mấy cái bánh xe đã gãy hết nửa số căm. Cái càng xe chỉ còn là một cái gậy dài độ một foot.

Sự tuyệt vọng đã lường trước tràn ngập người chàng. Chàng không biết làm sao mang nổi Tam đi đến tận làng dù cho ông có chịu nổi đi chăng nữa. Sự đau đớn có thể sẽ giết Tam còn nhanh hơn cơn sốt. Tuy nhiên, vẫn còn một cơ may. Chàng đã sống ở đây từ nhỏ cơ mà. Khi chàng toan bỏ đi thì thấy cái rùa cũ nằm trên sàn nhà đầy rơm. Bất giác chàng mỉm cười

Vội vã chàng đặt cả đèn và kiếm xuống nền nhà, rồi chỉ tích tắc sau là đã đánh vật với chiếc xe, thúc vào lưng để dựng đứng nó lên, nghe thêm mấy tiếng tạch tạch của lan hoa bị gãy, rồi nhón vai lật ngược nó lại. Cái tay cầm vẫn còn ngon lành. Nhặt lấy thanh kiếm chàng thúc cho lớp bụi rơi xuống, rất đỗi ngạc nhiên khi những mảnh gỗ cứ theo mỗi nhát chém mà bay đi, y như thế chàng đang dùng một cây rìu tốt vậy.

Chàng thả cái càng xe xuống, ngạc nhiên nhìn lưỡi kiếm. Ngay cả cây rìu bén nhất cũng khó mà chặt đứt khúc gỗ cứng ngắc đã có tuổi này , thế mà thanh kiếm lại bén đến vậy. Chàng lấy ngón cái sờ vào sống kiếm rồi vội vàng đưa lên miệng. Lưỡi vẫn còn bén lắm.

Nhưng chàng không có thời gian mà ngạc nhiên. Thổi tắt ngọn đèn – để tránh thiêu trụi cái kho thóc – chàng kéo chiếc xe chạy về chỗ khi nãy để đồ đạc ở căn nhà.

Tất cả đồ đạc tạo thành một hành trang kì quặc, không nặng lắm, nhưng khó mà giữ cho cân được, cái xe đẩy cứ xóc lên rồi xoay ngang xoay ngửa khi chàng đẩy qua cánh đồng mới xới đất. Khi đã trở lại rừng rồi tình hình còn tệ hơn, đồ đạc vướng vào cây kéo chàng dừng lại. Nếu mà kéo lê đi thì chắc dễ hơn, nhưng như thế sẽ hằn rõ dấu vết phía sau. Chàng cố tình đợi cho đến lúc thích hợp đề làm điều đó.

Tam vẫn ở chỗ cũ, vẻ như đang ngủ. Chàng mong chỉ là ngủ thôi. Bỗng nhiên sợ hãi, chàng buông cái đồng hành lý xuống rồi đặt tay lên mặt cha. Tam vẫn còn thở, nhưng sốt cao lắm.

Cái chạm đánh thức Tam, nhưng ông mê man. “Là con phải không?” Ông buông tiếng thở. “Tự lo cho mình đi. Những ngày tươi đẹp qua rồi. Những con ác mộng.” khẽ thì thào thế rồi ông lại im lặng.

“Cha đừnglo,” Rand nói. Chàng khoác áo lên người Tam để tránh gió. “Con sẽ đưa cha đến chỗ chị Nynaeve thật nhanh.” Khi chàng lại loay hoay xem Tam đã ổn thỏa chưa, khi đó chàng mới cởi tấm áo dính máu của mình ra, cố làm thật nhanh cho khỏi lạnh, rồi mặc cái áo sạch lên người. Quẳng cái áo bẩn đi làm chàng cảm thấy như vừa mới tắm xong. “Vào tới làng là chúng ta sẽ an toàn, Nhà Thông Thái sẽ xử lý hết. Cha hiểu không. Mọi thứ sẽ ổn.

Suy nghĩ đó bừng lên khi chàng khoác tấm áo vào và bó vết thương của Tam. Họ sẽ an toàn khi vào tới làng, và Nynaeve sẽ chữa cho Tam. Việc của chàng là phải đến được đó.
 

conruoinho

Gà ăn mày
Nhóm Chuyển ngữ
Gà về hưu
Tham gia
10/1/14
Bài viết
1.952
Gạo
13.723,7
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
Vừa qua trích dẫn trong truyện của bạn được chọn trong Game, nhóm Thiết kế của Gác tặng bạn luukim hình trích dẫn làm kỷ niệm nhé.

Con mắt thế giới.png
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
872,0
Re: [Kỳ ảo, thiếu nhi] Con Mắt Thế Giới - translating - Robert Jordan (Kim Lưu dịch)
The eye of the world - Con mắt thế giới
Chương 6: Trong rừng Westwood

Dưới ánh trăng Rand thật cũng không rõ mình đang làm gì, chỉ thấy vết thương của Tam dường như chỉ là một vết rách nhỏ trên sườn, dài khoảng lòng bàn tay. Chàng lắc đầu nghi hoặc, vì từng thấy cha bị thương nặng hơn thế mà vẫn làm việc tốt cho tới khi đi cần phải rửa ráy. Chàng hấp tấp xem xét Tam từ đầu tới chân xem vết thương nào nặng tới nỗi làm ông phát sốt, nhưng cũng chỉ thấy có vết cắt đó thôi.

Nhỏ là thế nhưng vết cắt nghiêm trọng lắm; bỏng rát khi chạm vào chung quanh, thậm chí chỗ đó còn nóng hơn cả cơn sốt vốn đã làm Rand phải nghiến răng nghiến lợi của Tam. Sốt cao thế dễ chết người, hoặc để lại di chứng. Chàng lấy nước trong bầu nhúng ướt tấm vải rồi đắp lên trán Tam.

Dù chàng đã cố nhẹ nhàng chùi rửa và băng bó vết cắt trên sườn cha, thế mà Tam vẫn rên hừ hừ. Cây cối trơ trọi tối tăm vây quanh hai người, rung lên trong gió đầy đe dọa. Chắc chắn lũ Trolloc khi tìm không thấy Tam và chàng, lại thấy trang trại trống rỗng, sẽ bỏ về. Chàng cố nhủ lòng tin như vậy, nhưng cứ nhìn căn nhà đổ nát vô hồn kia thì khó mà còn chỗ cho niềm tin đó. Chúng sẽ từ bỏ những kẻ hoặc những thứ có thể tìm ra, tin như vậy thật nguy hiểm, không đời nào có chuyện ấy.

Trollocs. Ôi Sự Sáng, bọn Trolloc! Những sinh vật trong truyện của người hát rong đêm nay đã đạp cửa nhà người ta. Và còn có một Ma Khách. Xin Sự Sáng chiếu tỏa trên tôi, một Ma Khách ư!

Chàng chợt nhận ra đôi tay vô cảm còn đang nắm chặt tấm vải băng. Nghĩ tới việc mình chết cứng như thỏ thấy bóng diều hâu mà chàng thấy khinh bỉ. Lắc đầu một cái đầy tức tối chàng cuốn nốt cái băng quanh ngực Tam.

Dù biết mình phải làm gì, thậm chí là đang làm rồi, chàng cũng vẫn không hết sợ. Khi bọn Trolloc quay lại nhất định chúng sẽ lùng trong khu rừng quanh nhà tìm dấu vết những kẻ tẩu thoát. Cái xác chàng đã giết kia sẽ tiết lộ chúng biết chàng chỉ ở quanh đây. Ai biết được một Ma Khách sẽ làm gì, hoặc có thể làm gì chứ? Trên hết, lưu ý của cha về khả năng nghe ngóng của Trolloc cứ văng vẳng bên tai chàng như thể Tam mới nói tức thì. Nghĩ tới đó chàng thấy sao mà muốn đặt tay lên miệng Tam, để bịt đi tiếng rên rỉ. Một vài tên giỏi đánh hơi. Thế mình phải làm gì? Vô vọng, sao lại đi phí thời giờ lo những thứ không giải quyết được.

“Cha cố giữ im lặng,” chàng nói nhỏ vào tai cha. “Bọn Trolloc sẽ còn quay lại.”

Tam rên rỉ nói. “Em còn đẹp lắm Kari! Vẫn đẹp như thiếu nữ.”

Rand nhăn mặt. Mẹ chàng đã mất được 15 năm, thế mà Tam đang tim bà vẫn còn sống, thể đủ biết ông sốt nặng hơn chàng tưởng. Làm sao cho ông im được đây, lúc này im lặng chính là sự sống?

“Mẹ muốn cha giữ im lặng,” Rand thì thầm. Chàng khựng lại cho thông giọng. Mẹ có đôi tay mượt mà, chàng nhớ rõ thế. “Kari muốn cha im lặng. Đây, cha uống đi.”

Tam uống lấy uống để, nhưng chỉ được vài ngụm lại quay ra nói nói lảm nhảm, nhưng nhỏ quá Rand nghe không rõ. Chàng cũng mong ông nói nhỏ thế bọn Trolloc cũng sẽ không nghe được.

Chàng vội vã thu nhặt những thứ cần thiết. Ba cái chăn chàng trải ra giữa hai cái càng xe tạm thời làm thành một cái ổ. Chàng chỉ có thể kéo một đầu, còn đầu kia để kéo lê trên đất, nhưng đành chịu. Chàng lấy dao cắt một mảnh vải dài trên cái tấm chăn cuối cùng, rồi buộc hai đầu tấm vải vào hai cái càng xe.

Cố nhẹ nhàng hết sức, chàng nhấc Tam đặt vào cái ổ, mặt nhăn lại theo mỗi tiếng rên của ông. Cha chàng vốn là ngươi bất khuất. Không gì hại được ông; không gì ngăn được ông, thậm chí còn không làm ông chậm lại được. Nhưng tình trạng ông bây giờ làm cho chút can đảm Rand góp nhặt được bay biến đi hết. Nhưng chàng phải cố, cố mà đi, nhất định phải đi.

Khi Tam rốt cuộc đã nằm trong ổ rồi, Rand ngập ngừng, rồi lấy cái bao gươm trên hông cha, đeo lên người mình, có cảm giác hơi ngượng vì trông kì kì. Đai lưng với cái vỏ và thanh kiếm cộng lại nặng khoảng vài pound, thế mà sao khi tra gươm vào vỏ nó nặng trình trịch như kéo cả chàng xuống.

Chàng cáu kỉnh tự mắng mỏ mình, giờ nào phải lúc cũng chẳng phải nơi mà làm trò trẻ con, chỉ là một con dao to thôi mà. Đã bao lần chàng mơ được đeo gươm đi phiêu bạt chứ? Chàng đã giết được một tên Trolloc thì những tên kia cũng có khó gì. Thế nhưng chàng cũng hiểu rõ chuyện mới xảy ra trong nông trại chỉ là ăn may thôi. Và giấc mơ phiêu bạt làm gì có chuyện răng va lạp cạp thế này, cũng chẳng chạy chối chết trong đêm, còn cha thì như ngọn đèn sắp tắt.

Chàng cuốn vội tấm chăn cuối cùng cho Tam, đặt bầu nước cùng các thứ đồ khác cạnh cha. Chàng quỳ xuống giữa hai càng xe, thở mạnh một cái rồi luồn tấm vải qua đầu, đeo nó trên vai. Chàng nâng hai cái càng lên, cân chỉnh cho ngay ngắn, cũng không đến nỗi nặng lắm, rồi cố bước nhịp nhàng tiến về phía làng Emond’s Field, phía sau kéo theo một vệt dài ngoằng.

Chàng quyết định đi theo đường Quarry để về làng. Nguy hiểm rõ ràng rất lớn nhưng nếu chàng cố vượt rừng mà đi thì có thể sẽ bị lạc, khi đó khó mà cứu được Tam.

Trong bóng tối chàng đi lên con lộ Quarry lúc nào chẳng hay, đến khi nhận ra thì cổ họng ngẹn ứ. Chàng hấp tấp xoay chiếc xe rồi kéo vào một lùm cây ngồi thở, cho tim thôi đập dồn. Rồi không đợi hết mệt, chàng lại nhằm hướng đông đi về làng Emond’s Field.

Lùng đường giữa những hàng cây khó hơn nhiều so với đưa Tam đi bằng đường lớn, nhất là trong đêm thế này, nhưng giờ có điên mới ra đường lớn. Nếu chàng có mong ước gì thì đó là đến làng mà không phải chạm trán bất kì tên Trolloc nào nữa; thậm chí là đừng nhìn thấy chúng. Chàng đồ rằng bọn Trolloc đang đuổi theo, và sớm muộn cũng sẽ nhận ra hai người đang đi về làng. Đó là nơi hẳn phải đến, và con lộ Quarry hẳn là đường đi. Trên thực tế, chàng áp sát con lộ hơn mong muốn. Đêm tối và bóng cây dường như che khuất bất cứ ai di chuyển trong nó.

Ánh trăng chiếu qua những tán cây xơ xác càng làm quáng mắt khiến chàng tưởng rằng đã thấy gì đó dưới chân. Gốc cây chừng làm chàng vấp té mỗi bước đi, những bụi mận xôi già cấu vào chân chàng, và những ổ gà lồi lõm bất chợt trên mặt đất làm chàng xém té khi đặt chân vào chỗ mà chàng tưởng là mặt đất nhưng té ra lại là cái lỗ, hoặc loạng choạng khi ngón chân đang lúc bước đi lại vấp vào ụ đất. Tiếng thì thầm của Tam biến thành tiếng tiếng rên rỉ sắc lạnh khi chiếc xe vấp vào gốc cây hay tảng đá xóc nẩy lên.

Sự nghi hoặc làm chàng nhìn vào bóng tối đến long cả mắt ra, cố nghe ngóng như thể trước giờ không được nghe. Tiếng cây lá xào xạc, hay tiếng cành lá sột soạt đều làm chàng đứng tim, tai căng ra, thở không ra hơi vì sợ để lọt mất động tĩnh nài, sợ nghe thấy gì đó nguy hiểm. Chỉ khi đã chắc là tiếng gió rồi chàng mới đi tiếp.

Dần dà tay chân chàng mỏi nhừ, gió đêm đang thổi tung áo sống càng làm chàng mỏi mệt hơn. Sức nặng của cái xe đẩy, lúc đầu thấy nhẹ nhàng, giờ chỉ chực kéo chàng xuống mặt đất. Như pha lảo đảo không chỉ còn vì vấp chân nữa. Cố gắng giữ vững chiếc xe sao cho khỏi té vắt kiệt sức lực chàng. Chàng đã thức dậy trước bình minh để sửa soạn đồ đạc, và với chuyến đi đến làng Emond’s Field chàng đã mất trọn một ngày. Vào bất kì một đêm bình thường nào thì giờ chàng đã thảnh thơi bên lò sưởi, đọc sách của Tam rồi đi ngủ. Cơn lạnh cắt da ngấm vào xương tủy, và cái dạ dày luôn nhắc rằng chàng chưa ăn gì ngoại trừ mấy cái bánh của bà al’Vere.

Chàng làu bàu, bực mình vì không mang theo đồ ăn. Mất thêm vài phút thì có hề gì đâu chứ. Vài phút để tìm bánh mì với bơ. Lũ Trolloc chắc cũng chẳng trở lại trong vài phút ấy. Không thì bánh mì thôi cũng được. Tất nhiên khi tới quán trọ, bà al’Vere sẽ dọn sẵn một bữa nóng hổi trước mặt chàng. Có lẽ là một “đĩa thịt cừu hầm bốc khói”. Và bà sẽ nướng vài ổ bánh. Lại còn trà nóng tha hồ mà uống nữa.

“Chúng tràn qua Bức Tường Rồng như thác lũ,” bỗng nhiên Tam nói, bằng một giọng giận dữ đay nghiến “và tưới mặt đất bằng máu. Bao nhiêu người đã chết vì tội lội của Laman?”

Rand kinh ngạc. Mệt mỏi chàng hạ cái càng xe xuống đất thở một tí. Tấm vải hằn lên vai chàng một vết bầm. Tháo những nút thắt ra, chàng quỳ xuống cạnh Tam. Lần tìm cái túi nước, chàng nhìn chòng chọc vào những hàng cây, trong ánh trăng lờ mờ cố để ý trên dưới con lộ, cách chàng không đến hai mươi pace. Không có gì di chuyển ngoại trừ bóng tối. Và ngoài bóng tối ra cũng không có gì.

“Không có bóng dáng tên Trolloc nào đâu cha. Ít ra là bây giờ. Đến làng Emond’s Field sẽ an toàn thôi. Cha uống ít nước đi.”

Tam gạt bị nước sang bên bằng cánh tay có lẽ đã vận hết sức lực còn sót lại. Ông túm lấy cổ áo Rand, kéo chàng gần tới nỗi có thể nghe thấy hơi do cơn sốt phả vào cằm. “Họ gọi chúng là quân man rợ, bao nhiêu thành phố đã bị thiêu hủy, trước khi họ đối diện với sự thật? Trước khi các vương quốc hiệp lại cự chúng?” Ông buông Rand ra, và giọng nói vẫn buồn rười rượi. “Cánh đồng tại Marath ngập tràn xác chết, chỉ có tiếng quạ kêu réo và tiếng quân đi dồn dập. Những tòa tháp chọc trời ở Cairhien rực cháy trong đêm như những ngọn đuốc. Khắp các nẻo đường dẫn đến Thành Ánh Sáng chúng thiêu hủy chém giết trước khi bị đẩy lui. Khắp các nẻo đường đến…”

Rand đặt tay lên miệng cha mình. Lại có động tĩnh, tiếng bước chân huỵch huỵch, văng vẳng trong đám cây cối, cứ mờ rồi lại rõ theo tiếng gió. Chàng nhăn mặt, chậm rãi quay đầu cố nghe xem âm thanh từ hướng nào đến. Mắt chàng thấy có cái gì đó chớp lên, trong khoảnh khắc chàng sấp mình trên Tam. Chàng giật mình khi cảm thấy chuôi kiếm xiết chặt trong tay, nhưng đầu óc thì vẫn tập trung vào con lộ Quarry như thể đó là thứ duy nhất tồn tại trên đời này.

Những bóng đen đong đưa ở phía đông dần hiện ra thành một con ngựa và một kỵ sĩ, theo sau bởi những hình thù cao lớn, đồ sộ chạy nước kiệu bám theo, một đàn thú. Ánh trăng nhợt nhạt lấp lánh trên những lưỡi rìu và ngọn giáo. Rand không mảy may cho rằng đó là dân làng đến giúp. Chàng biết những kẻ đó là ai. Chàng có thể cảm nhận được chúng, như thể có đá sỏi lạo xạo trong xương tủy, thậm chí trước khi chúng tới đủ gần để ánh trăng soi tỏ cái áo trùm đầu của tay kị sĩ, một tấm áo bất động trước gió. Tất cả những hình thù đó hiện ra đen tối trong đêm, và tiếng vó ngựa của hắn cũng chẳng khác gì những con ngựa khác, nhưng Rand lại nhận ra con ngựa ấy.

Phía sau tên kị sị đen là những thân hình kinh khủng với sừng, mõm thú và mũi khoằm, bọn Trolloc dàn thành hai hàng, nhịp bước, tiếng giày bót và móng guốc nện xuống mặt đất đều đặn như một. Rand đếm được hai mươi tên khi chúng đi qua. Chàng tự hỏi liệu có người nào thấy cả một đàn Trolloc thế này, hay thậm chí chỉ một tên, mà còn dám quay lưng bỏ chạy không.

Hàng ngũ đó chạy lon ton ấy biến mất về phía tây, tiếng nhịp bước tan vào bóng tối, nhưng Rand vẫn còn đứng chết trân, toàn thân cứng đờ ngoại trừ hơi thở. Có cái gì đó bảo chàng chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn rằng chúng đã đi xa, rồi chàng mới dám cử động. Cuối cùng chàng hít một hơi dài, duỗi thẳng người ra.

Lần này con ngựa ấy không phát ra tiếng động nào. Trong sự im lặng kì quái đó tay kị sỹ đen quay lại, con ngựa bóng đêm của hắn lững thững từng bước chậm rãi bước trở lại trên con đường. Gió thốc mạnh hơn, xào xạc qua những tàn cây; tà áo của tay kị sĩ vẫn bất động. Con ngựa hễ khựng lại là tên kị sĩ đen có cái đầu trùm mũ dáo dác nhìn vào trong rừng, tìm kiếm. Cuối cùng con ngựa dừng lại ngay trước mặt Rand, cái khoảng không tăm tối bên trong chiếc mũ trùm dõi thẳng vào chỗ chàng đang nằm sấp trên cha mình.

Bàn tay Rand xiết chặt đốc kiếm. Cái nhìn ấy không khác gì cái nhìn sáng nọ, chất chừa đầy thù ghét, khiến chàng rùng mình dù không trông thấy mặt gã. Cứ như thể cái tên trùm tấm áo ấy căm ghét tất cả mọi người, mọi thứ có sự sống. Gió lạnh, nhưng mồ hôi vẫn chảy ròng trên mặt Rand.

Rồi con ngựa bước đi, không phát ra tiếng động, cho tới khi Rand chỉ còn thấy một cái bóng mờ nhạt trong đêm phía xa trên con đường. Đó có thể là bất cứ thứ gì, nhưng chàng vẫn không rời mắt khỏi thứ đó, chỉ sợ nếu để mất thì lần sau trông thấy nó thì nó đã ở ngay trước mặt.

Đột nhiên cái bóng quay phắt lại, im lặng phóng lướt qua chàng. Tay kị sĩ nhìn chằm chằm về phía trước khi phóng ngựa về phía tây trong đêm tối, về hướng Dãy Núi Mù Sương. Về hướng trang trại.

Rand cúi thấp người, hít sâu một hơi, lấy tay áo quẹt mồ hôi lạnh khỏi mặt. Chàng không còn quan tâm chút nào tại sao bọn Trolloc lại đến. Thà rằng đừng bao giờ biết còn hơn, cứ xem như mọi thứ chấm dứt rồi đi.

Chàng rùng mình lấy lại tỉnh táo, vội vã xem cha thế nào. Tam vẫn còn rên rỉ, nhưng yếu lắm Rand không nghe ra gì cả. Chàng thử cho ông uống nước, nhưng lại trào ra cằm. Tam ho lên vì chết sặc, rồi lại rên rỉ như chẳng có gì xảy ra.

Rand thấm thêm nước vào tấm vải trên trán Tam, đặt bị nước trở lại cái ổ, rồi lại chui vào giữa hai cái càng, gồng mình cõng cha đi.

Chàng khởi hành như thể vừa thức dậy sau giấc ngủ ngon, nhưng chút sức lực đó không duy trì được lâu. Lúc đầu nỗi sợ hãi còn lấn át sự mệt mỏi, giờ thì sợ hãi vẫn còn nhưng chẳng lấn át được gì nữa.

Chàng hình dung ra làng Emond’Field trong đầu mình, những cửa chớp mở toang và nhà nhà sáng đèn vui Đêm Đông, dân chúng lớn tiếng chào hỏi nhau khi ghé thăm các nhà, tiếng vĩ cầm văng vẳng đường phố tấu những bài như “Nàng Folly của chàng Jaem” và “Heron tung cánh bay.” Ông Haral Luhhan – như thường lệ - hẳn sẽ ngất ngưởng bởi rượu brandy rồi ca bài “Chàng là gió em là cát” bằng thứ giọng như bò rống, cho tới khi bị vợ bịt miệng lại mới thôi. Còn ông Cenn Buie nhất định sẽ chứng minh rằng mình vẫn còn khiêu vũ tốt chán như ngày nào, và thằng Mat thì sẽ bày ra những trò phá phách vốn chẳng bao giờ xảy ra theo như dự tính. Chàng gần như mỉm cười khi nghĩ ngợi thế.

Cứ một chập thì Tam lại lên tiếng

“Loài cây Avendesora. Người ta nói nó không sinh hạt, nhưng chúng mang về Cairhien một mảnh cắt, một cây non, làm cống phẩm dâng cho Đức Vua.” Tuy giọng ông nghe giận dữ, nhưng lè nhè Rand không hiểu được. Nếu ai có nghe thấy gì thì cũng chỉ là những tiếng soàn soạt kéo lê trên mặt đất. Rand cứ đi tiếp, lơ đi không nghe. “Bọn chúng đời nào lại xây dựng hòa bình. Không đời nào, thế mà bày đặt mang đến một cây non, làm như biểu trưng cho hòa bình. Cái cây đã ngót trăm tuổi. Một trăm năm hòa bình với những kẻ không chung sống hòa bình với người lạ. Sao hắn lại chặt hạ cái cây? Tại sao? Máu là giá phải trả cho cây Avendoraldera đó. Giá máu cho sự kiêu ngạo của tên Laman.” Rồi ông lại rơi vào im lặng.

Rand mệt mỏi thắc mắc không biết cha đang nói mớ cái gì. Avendesora. Cây Sự Sống được cho là mang đầy phép màu nhiệm, nhưng chưa hề nghe trong truyện nào có nhắc tới một cây con của nó, cũng như chẳng có“chúng” nào cả. Chỉ có một cây thôi, và nó thuộc về Người Da Xanh.

Chàng thấy thật vớ vẫn khi nghĩ viễn vông về Người Da Xanh và Cây Sự Sống, chúng rõ là chỉ có trong truyện thôi. Bọn Trolloc mới thật là vấn đề sáng nay. Có thể tất cả mọi câu chuyện đều thật như những tin tức mà cánh bán hàng rong và bọn thương buôn mang đến, gồm luôn chuyện của người hát rong và hết thảy những chuyện kể đêm khuya bên bếp lửa. Sắp tới có khi chằng gặp Người Da Xanh thật, hoặc một người Ogier khổng lồ, hoặc là người Aielman hoang dã cũng nên.

Tam lại nói, chàng nhận ra, thỉnh thoảng chỉ là những tiếng rên rỉ, có khi lại nghe rõ mồn một. Cứ chốc chốc ông lại dừng để lấy hơi rồi lại nói tiếp ấy thế mà Rand tưởng như ông cứ nói luôn không nghỉ. “… chiến trường luôn hừng hực dù giữa tuyết rơi, mồ hôi, máu đều tỏa hơi nóng. Chỉ có cái chết là lạnh giá. Sườn núi… nơi duy nhất không chất đầy xác chết. Phải tránh xa cái mùi ấy… cảnh tượng ấy… tiếng trẻ con kêu gào. Có khi mẹ chúng chiến đấu bên cạnh những người đàn ông, nhưng họ sinh ra chúng làm gì, ta không… sinh con ra trong cô độc, trước khi bà ấy chết do vết thương… cuốn lấy đứa trẻ trong áo choàng, nhưng con gió… cuốn tấm áo đi… đứa bé, tái xanh vì lạnh. Chắc nó chết… tiếng khóc lóc. Tiếng khóc trong tuyết rơi. Ta sao có thể bỏ rơi đứa bé… vợ chồng ta không có con… luôn biết rằng em muốn có con lắm. Ta biết em sẽ đón nhận nó bằng cả tấm lòng, Kari. Phải, em yêu ơi! Rand là một cái tên hay đấy.”

Chân Rand đột nhiên chùng xuống. Tam nấc lên một cái, và hai sợi dây đeo xiết lên vai Rand, nhưng chàng chẳng còn để ý tới nữa. Dù có tên Trolloc nhảy xổ tới trước mặt có lẽ chàng cũng chỉ nhìn nó chằm chằm mà thôi. Chàng ngoái nhìn Tam qua vai, ông lại chìm vào trong những tiếng rên vô nghĩa. Nói mớ ư, chàng đâm ra hồ đồ. Những cơn sốt luôn làm người ta gặp ác mộng, và đây là một đêm ác mộng mà chẳng cần đến cơn sốt.

“Cha là cha của con,” chàng nói lớn, với tay ra sau chạm vào Tam, “và con là…” Cơn sốt thật tồi tệ, quá sức tồi tệ.

Chàng bực bội giộng bước chân. Tam đang lải nhải cái gì đó, nhưng Rand không muốn nghe thêm nữa. Xốc cái sức nặng phía sau lên một cái, chàng cố tập trung vào bước chân, hòng tới Emond’s Field cho an toàn. Nhưng chàng không thể ngăn những tiếng vọng cứ vang dội trong đầu óc mình. Ông ấy là cha của mình. Rõ là ông chỉ nói mớ thôi. Ông ấy là cha mình. Ôi Sự Sáng, con là ai đây?
 
Bên trên