The eye of the world - Con mắt thế giới
Chương 5: Đêm đông
Mặt trời lên lưng chừng vào giấc trưa cũng là cũng chiếc xe ngựa về tới nông trại. Đó không phải là một căn nhà lớn, cũng không rộng như những trang trại trải dài ở phía đông nơi cư ngụ của những đại gia đình hình thành qua nhiều năm sinh sống. Trong vùng Sông Đôi, thường thì là ba đến bốn thế hệ chung sống dưới một mái nhà, bao gồm cả cô gì, chú bác, anh chị em họ và cháu con. Tam và Rand có thể xem là ngoại lệ khi hai người họ sống cô độc để canh tác trong rừng Westwood.
Ở đây hầu hết các phòng đều chung một nền, một cái hình chữ nhật vừa khít không có mái hiên hay thứ gì khác. Hai phòng ngủ và một cái nhà kho trên gác vừa vặn dưới cái mái rơm đổ xuôi xuống. Nếu lớp vôi mà có bị các cơn giông mùa đông tẩy sạch khỏi những bức tường gỗ chắc chắn, thì căn nhà vẫn trong tình trạng được sửa chữa tốt, mái rơm tết chặt lại và các cánh cửa lẫn cửa chớp đóng bản lề chắc hơn.
Nhà cửa, kho thóc và chuồng cừu quây bằng đá tạo thành ba điểm của một tam giác bao quanh trang trại, nơi vài con gà đã mạo hiểm ra ngoài để bới tìm trên mặt đất giá lạnh. Một cái bãi xén lông cừu lộ thiên và một cái máng ăn bằng đá đặt bên chuồng cừu. Nằm sát những cánh đồng giữa trang trại và những hàng cây thấp thoáng kho dụng cụ vững chãi cao cao. Một vài nông dân vùng Sông Đôi có thể xoay xở dù không có lông cừu lẫn thuốc lá để bán khi cánh lái buôn đến.
Khi Rand nhìn vào cái chuồng đá, một con cừu đực có cái sừng kềnh càng nhìn ngược lại chàng, nhưng hầu hết đàn cừu mặt đen hoặc vẫn yên vị nơi chúng ở, hoặc thúc đầu vào cỏ. Bộ lông của chúng đã dày và mượt lắm, nhưng trời còn lạnh quá chưa xén được.
“Con không nghĩ tay kỵ sĩ đen đã đến đây.” Rand gọi cha, ông đang rảo bước quanh trang trại, thủ sẵn cây giáo, chăm chú dò xét mặt đất. “Nếu có ai đó quanh đây thì lũ cừu đã không chịu đứng yên như vậy.”
Tam gật đầu nhưng vẫn không dừng lại. Khi đã đi hết một vòng quanh nhà, ông làm một vòng nữa quanh kho rồi quanh chuồng cừu, vẫn ngó chừng mặt đất. Ông thậm chí còn kiểm tra cả ống khói và xưởng dụng cụ. Múc một thùng nước từ dưới giếng, ông vốc nước vào tay, ngửi ngửi, rồi lấy lưỡi nếm nếm. Bỗng ông bật ra một tràng cười, rồi uống luôn một hớp.
“Cha cho là hắn không đến đây đâu,” ông bảo Rand, chùi tay vào vạt áo. “Chuyện về đám người và lũ ngựa mà cha không thấy cũng không nghe được chỉ làm cha thêm chú ý mọi thứ.” Ông đổ nước giếng sang cái xô khác rồi bước về phía căn nhà, một tay xách cái xô còn tay kia cầm giáo. “Để ta nấu gì đó cho bữa tối. Và chừng nào còn ở đây, chúng ta cần giải quyết chút việc vặt.”
Rand nhăn nhỏ, tiếc xót Đêm Đông tại làng Emond’s Field. Nhưng Tam nói đúng. Quanh nông trại việc chẳng bao giờ hết; ngay khi việc này vừa xong thì hai ba việc khác lại đến. Chàng hơi lưỡng lự nhưng rồi cũng vơ lấy cây cung và bao tên. Nếu tay kị sĩ đen kia xuất hiện, chàng không thể đối mặt hắn chỉ với cái cán xẻng được,
Lúc đầu Bela đứng yên. Chàng đã tháo cương và cho cô nàng vào chuồng cạnh con bò của họ, chàng vắt áo choàng sang bên và lấy ít rơm khô chà xát mình mẩy con ngựa cái, rồi lấy đôi bàn chải chải lông cho nó. Leo lên một cái thang hẹp lên gác xép, chàng lôi cỏ khô xuống cho nó ăn. Chàng còn xúc cho nó mấy xẻng yến mạch, tuy là chẳng còn bao nhiêu và có thể sắp tới sẽ cạn trừ khi thời tiết mau chóng ấm lại. Con bò cái tinh sương hôm nay đã được vắt sữa rồi, chỉ được phần tư số lượng bình thường; Nó có vẻ đã cạn sữa vì mùa đông dai dẳng này.
Thức ăn có đủ cho lũ cừu trong hai ngày – giờ chúng lẽ ra phải ở ngoài đồng, nhưng chẳng có gì hứa hẹn là có cỏ cả - dẫu sao chàng đã cho chúng uống nước xong. Mấy quả trứng vương vãi cũng cần phải đi gom lại. Chỉ có ba trái. Lũ gà mái dạo này giấu mới khéo làm sao.
Chàng đang đi lấy cái cuốc ra vườn rau sau nhà thì Tam đi ra rồi ngồi trên cái ghế trước chuồng gia súc vá lại bộ yên ngựa, cây giáo để sang bên. Điều đó làm Rand thấy khá hơn về cái cung đang quăng chỗ cái áo khoác cách chỗ chàng đứng vài pace.
Chỉ có tí cỏ dại chen ngang mặt đất thế mà lại nhiều hơn bất cứ thứ gì khác. Bắp cải thì còi cọc; những hạt đậu và cây con trơ ra, khó lòng mà lớn thành củ cải được. Không phải loại nào cũng được đem ra trồng; chỉ một phần, với hi vọng rằng cơn lạnh rồi đến lúc sẽ tan để vài thứ cây còn lớn được trước khi kho lẫm trống trơn. Xới đất cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian, công việc này mới chỉ dành cho chàng vài năm trở lại đây, nhưng giờ chàng tự hỏi liệu phải làm sao nếu năm nay không thu hoạch được gì. Không một ý nghĩ lạc quan. Rồi còn phải chẻ củi nữa.
Có vẻ như Rand thích những năm không cần phải chẻ củi. Nhưng than phiền cũng chẳng làm lũ ngựa ấm hơn, nên chàng xách rìu lên, đặt cung tên cạnh cái thớt, và làm việc. Gỗ thông để nhóm bếp, gỗ sồi để đốt lửa. Phải một lúc lâu chàng mới thấy nóng người mà cởi áo khoác ra. Khi đống củi lớn dần lên, chàng xếp nó bên hông nhà, cạnh mấy đống đã có sẵn, hầu như choán hết cái mái hiên. Thường thì vào độ này củi đóm chẳng cần đến, nhưng năm nay thì lại cần. Chẻ rồi xếp, cứ thế, chàng đắm mình trong nhịp điệu đều đều của chiếc rìu và động tác bổ củi. Bàn tay Tam đặt lên vai chàng lôi đến chỗ ông, thoáng chốc chàng tròn mắt ngạc nhiên.
Hoàng hôn đã tắt trong khi chàng làm việc, và trời đã chuyển tối. Trăng tròn đã lên tới ngọn cây, tỏa ánh vàng nhợt nhạt và phình ra như thể sắp rớt xuống đầu họ. Gió lạnh hơn mà chàng cũng không để ý, và những vạt mây chăng ngang bầu trời đêm.
“Rửa ráy đi con, rồi sửa soạn bữa tối. Cha đã xách nước để tắm nóng trước khi ngủ rồi đấy.”
“Con nghe cái gì nóng nóng là thích rồi,” Rand nói, nhặt cái áo choàng lên cuốn quanh vai. Mồ hôi tưới đẫm áo chàng, và giờ đang bị gió lạnh, khi nãy quai búa nóng người chàng chẳng để ý tới, làm cho đông lại. Chàng ngáp mạnh, run run khi dọn dẹp những thứ còn sót lại. “Và ngủ nữa. Chắc con ngủ qua Lễ Hội luôn quá.”
“Con dám không?” Tam cười, và Rand toét miệng cười lại. Dù có không ngủ cả tuần chàng cũng chẳng thể bỏ lỡ lễ Bel Tine được. Ai có điên mới làm vậy.
Tam thắp rất nhiều nến, và lửa bập bùng trong lò sưởi lớn bằng đá, để căn phòng có một cảm giác ấm cúng. Ngoài lò sưởi ra thì cái bàn gỗ sồi rộng là đặc điểm nổi bật của căn phòng, đủ chỗ cho một tá người hoặc hơn, tuy từ khi mẹ Rand mất hiếm khi tiếp nhiều khách như vậy. Một cái cái tủ và rương, đều do Tam đóng lấy, xếp dọc tường, và mấy cái ghế tựa kê quanh bàn. Chiếc ghế nệm mà Tam gọi là ghế đọc sách đặt ngay trước ngọn lửa. Rand thì thích nằm dài trên tấm phản trước lò sưởi mà đọc hơn. Kệ sách đặt cạnh cửa xấp xỉ cũng bằng cái kệ trong quán Winespring, nhưng sách thì khó mà bằng được. Mấy người hát rong chỉ mang đến một nhúm và bày ra trước mắt tất cả những ai muốn mua.
Căn phòng tuy không quá sạch sẽ như khi có bàn tay các bà vợ – Tẩu thuốc của Tam và cuốn Những Hành Trình của Jain Farstrider quăng trên bàn, trong khi một cuốn sách bìa gỗ khác nằm trên chiếc ghế đọc sách của ông; Bộ yên cần được vá thì để ở cái ghế trước lò sưởi, còn mấy cái áo cần khâu vá thì ném trên tay ghế - tuy không quá tinh tươm, nhưng nó vẫn khá tươm tất và ngăn nắp, nhìn cũng ấm cúng và thoải mái như bếp lửa kia vậy. Nơi đây, có thể quên đi cái lạnh ngoài kia. Nơi đây không có Con Rồng giả hiệu. Không chiến tranh hay Hội Aes Sadai gì hết. Không có những kẻ mặc áo choàng đen. Mùi thơm từ nồi thịt hầm bắc trên bếp tỏa lan căn phòng, khiến Rand thấy đói cồn cào.
Rand vội vã rửa ráy mặt mũi; Ngoài chỗ rửa cạnh cửa có một cái gầu với cái chậu. Tắm nóng là thứ chàng muốn, để tẩy sạch mồ hôi xua đi cái lạnh, nhưng muốn thế thì phải đem cái ấm nước đi đun ở nhà sau trước.
Tam rút dưới đáy tủ ra cái chìa khóa dài như bàn tay của ông. Ông xoáy nó vào cái ổ khóa lớn bằng sắt trên cánh cửa. Khi thấy ánh mắt nghi vấn của Rand thì ông nói, “An toàn là trên hết. Có thể là cha hơi điên, mà cũng có thể do thời tiết làm tâm trạng cha bất an, nhưng…” Ông thở dài nắm cái chìa khóa trong tay. “Ta phải trông chừng cái cửa,” ông nói, và biến mất vào trong buồng.
Rand không thể nhớ là cánh cửa có từng bị khóa hay không. Không ai trong vùng Sông Đôi khóa cửa cả. Không cần thiết. Ít nhất là cho tới giờ.
Đằng trước, phía giường ngủ của Tam, có tiếng xoèn xoẹt, như thể thứ gì đó đang bò trên sàn nhà. Rand nhăn mặt. Trừ khi Tam bỗng nhiên quyết định chuyển chỗ đồ đạc, nếu thế thì chỉ có mỗi cái rương cũ dưới giường ông thoi. Còn thứ gì đó khác thì Rand nhớ là chưa từng có.
Chàng đong nước đầy cái ấm nhỏ bắc lên bếp pha trà, rồi dọn bàn. Chén dĩa do chính tay chàng đẽo lấy. Cửa chớp phía trước còn chưa đóng, và chàng cứ nhìn luôn ra ngoài, nhưng đêm đã sâu nên chỉ thấy được ánh trăng mờ nhạt. Tay kị sĩ đen dễ cũng ở ngoài đó, nhưng thôi mặc kệ.
Khi Tam trở lại, Rand ngạc nhiên nhìn ông. Một sợi dây đai vắt qua eo ông, treo một thanh kiếm có tạc hình hạc trên cái vỏ đen và trên chuôi. Những kẻ duy nhất Rand từng thấy đeo kiếm là đám cận vệ của cánh lái buôn. Và tất nhiên là Lan. Nhưng chuyện cha chàng có một thanh thì chàng chưa từng nghĩ tới. Ngoại trừ hình mấy con hạc, thanh kiếm trông không kém gì thanh của Lan.
“Thứ đó ở đâu vậy?” chàng hỏi. “Cha mua của người bán hàng rong phải không, mắc không cha?”
Tam từ từ tuốt kiếm ra; ánh lửa chập chờn trên lưỡi bóng loáng. Thứ này tuyệt không giống hạng kiếm thô kệch của đám cận vệ. Không khảm ngọc hay vàng, nhưng trông rất oai vệ. Lưỡi kiếm, sắc lẹm và trên một cạnh có khắc hình một con hạc khác. Quai kiếm ngắn, tạo hình giống một dải buộc tóc uốn qua chuôi kiếm. So với kiếm của đám cận vệ thì nó có vẻ mỏng manh; hầu hết những thanh kiếm đó có hai lưỡi, và độ dày thì đủ để đốn cả cây.
“Cái này cha có từ lâu rồi,” Tam nói, “ở cách đây rất xa. Tốn cũng khá đấy; hai đồng bạc là đủ mua một cây rồi. Mẹ con thì không chịu, nhưng bà ấy lúc nào cũng khôn ngoan hơn ta. Ta thì hẵng còn trẻ, và lúc đó thấy cũng đáng giá. Bà ấy luôn muốn ta tránh xa thứ này, mấy lần ta cũng nghĩ bà nói đúng, rằng ta nên quẳng cái này đi.”
Thanh kiếm như bừng cháy bởi ánh lửa phản chiếu. Rand đăm đăm nhìn. Chàng vẫn thường ước có một thanh. “Ném nó đi? Kiếm thế này mà bỏ hay sao?”
Tam khịt mũi. “Chăn cừu thì chẳng cần đến, vậy dùng nó làm gì đây? Cũng chẳng lấy mà cày bừa được.” Ông chăm chút nhìn thanh kiếm như thể đang tưởng tượng dùng thứ như vậy vào những việc gì. Sau cùng ông dứt ánh mắt ra. “Hoặc là ta lại có sở thích đen tối, hoặc vận số chúng ta đen đủi, bằng không thì vài ngày nữa ta sẽ vui vẻ mà nhét nó trở lại cái rương cũ.” Ông tra kiếm vào vỏ trở lại và chùi tay lên áo với khuân mặt nhăn nhó. “Nước chắc được rồi đấy. Ta sẽ dọn bát đĩa còn con hãm ấm trà nhé.”
Rand gật đầu rồi đi lấy cái ấm, nhưng chàng muốn rõ mọi việc. Sao Tam lại mua kiếm? Thật không hiểu nổi. Và Tam mua ở đâu? Xa không? Chưa từng có ai ra khỏi vùng Sông Đôi; Họa chăng là rất ít. Chàng luôn có cảm tưởng rằng cha mình đã từng đi ra ngoài – vì mẹ chàng là người ngoại vùng – nhưng còn một thanh kiếm thì…? Chàng đã sẵn sàng hỏi nhiều điều khi nào bàn dọn xong.
Nước pha trà đang sôi bạo, và chàng phải quấn vải quanh cái quai để nhấc cái ấm ra khỏi móc. Hơi nóng tức thì phả ra. Vừa khi chàng rời khỏi ngọn lửa thì có tiếng đấm mạnh ngoài cửa làm rung cả ổ khóa. Mọi suy nghĩ về thanh kiếm, và về cái ấm nước sôi trong tay chàng, bay biến sạch.
“Chắc là hàng xóm,” chàng nghi hoặc nói. “Chắc ngài Dautry muốn mượn…” Nhưng nông trại ngài Dautry, người hàng xóm gần nhất, cách đây tới một giờ đi bộ dù là giữa ban ngày, và ông Oren Dautry ấy, kẻ mặt dày chuyên đi mượn bợ, khó lòng mà ra khỏi nhà giữa lúc đêm hôm thế này.
Tam nhẹ nhàng đặt mấy cái chén lên bàn. Rồi ông từ từ đi ra, cả hai tay đã đặt lên chuôi kiếm. “Ta không nghĩ…” ông bắt đầu, và cánh cửa bật mở, cái ổ khóa vỡ thành từng mảnh văng lên sàn nhà.
Một kẻ đứng chắn ngay cửa, to hơn bất cứ ai Rand từng thấy, gã mặc áo giáp đen phủ tới đầu gối, có đinh nhọn đóng ở khủy tay, ở eo và ở vai. Một tay gã cầm thanh kiếm to như cái lưỡi hái; tay kia che trước mặt hộ vệ.
Rand thấy nhẹ nhõm đến kì quặc. Dù kẻ này là ai thì cũng không phải là tay kị sỹ đen. Rồi chàng thấy mấy cái sừng dê cong cong trên cái đầu cao tới thành cửa của gã, và ở chỗ lẽ ra là mồm và mũi thì lại là một cái mõm lông lá. Chàng nhận ra tất cả những điều ấy trong một hơi thở mạnh mà chàng thốt ra thành một tiếng kêu kinh hãi, không nghĩ ngợi gì, chàng ném luôn cái ấm nước sôi vào cái đầu nửa người nửa ngợm ấy của gã.
Sinh vật đó gầm lên, nửa như đau đớn, nửa như tiếng thú dữ, khi bị nước sôi ụp lên mặt. Cả cái ấm cũng đập trúng gã, thanh gươm của Tam lóe lên. Tiếng gầm chuyển thành tiếng ùng ục, và thân hình khổng lồ ấy đổ vật ra sau. Nhưng xác gã còn chưa chạm đất thì một kẻ khác đã xông lên. Rand vừa thoáng nhìn thấy cái đầu méo mó mọc sừng nhọn thì Tam đã lại hạ hắn, và hai cái xác kềnh càng chắn ngay cửa. Chàng nghe tiếng cha quát lớn:
“Chạy đi con, trốn vào rừng mau!” Những cái xác ngoài cửa giãy nảy lên khi những kẻ khác lôi chúng sang bên. Tam xô vai vào cái bàn khổng lồ; vừa chửi mắng vừa đẩy nó chắn đường bọn kia. “Đông quá không trụ được! Đi cổng sau! Đi mau! Cha sẽ đuổi theo!”
Ngay khi vừa quay đi Rand thấy xấu hổ vì đã nhanh nhảu như vậy. Chàng muốn ở lại giúp cha, tuy không biết bằng cách nào, nhưng nỗi sợ đã dâng tới cổ họng rồi, và chân chàng thì cứ thế mà chạy. Chàng xông ra khỏi phòng, chạy ra sau nhà, lấy hết sức bình sinh mà chạy. Tiếng đâm chém và la hét từ cửa trước bám theo chàng.
Chàng chụp lấy thanh chắn cửa sau khi mắt vừa thấy cái ổ khóa vốn chẳng bao giờ khóa. Nhưng đêm nay Tam đã khóa mất rồi. Bỏ qua cái thanh chắn, chàng lao ra chỗ cửa sổ, đẩy cái chắn cửa lên rồi mở cửa chớp ra. Đêm đen đã thay thế hẳn ánh hoàng hôn. Trăng tròn và những đám mây lờ lững tạo thành những mảng tối đuổi bắt nhau kéo qua trang trại.
Bóng tối, chàng tử nhủ. Chỉ bóng tối. Cửa sau kêu cọt kẹt như thể có ai đó, hoặc cái gì đó, bên ngoài, đang cố đẩy nó ra. Miệng chàng khô khốc. Một cú húc đẩy văng cánh cửa khiến chàng giật thót; chàng trượt qua cửa sổ như con thỏ chui đầu xuống đất, rồi ngồi nép mình bên hông nhà. Trong phòng, tiếng đồ đạc đổ vỡ như tiếng sấm.
Chàng chổng mông mắt nhắm mắt mở nhìn vào bên trong, ngay góc cửa sổ. Trong bóng tối chàng không nhận ra gì rõ ràng, nhưng cũng nhiều hơn chàng nghĩ. Cánh cửa xiêu vẹo, và những hình thù tăm tối di chuyển một cách thận trọng trong phòng, thì thào trao đổi. Rand không hiểu chúng nói gì; một thứ ngôn ngữ thô ráp, không giống tiếng người. Rìu và giáo và những thứ có đầu nhọn loang loáng ánh trăng. Tiếng giày nện trên nền nhà, và còn có tiếng lách cách đều đặn, như tiếng bụng sôi.
Chàng chép miệng cho bớt khô. Hít vào một hơi thở sâu, chàng la toáng lên hết cỡ. “Chúng đang đến phía sau!” Những thanh kiếm loảng xoảng, sau cùng tuốt cả ra. Nhưng chàng không biết liệu chúng sẽ làm gì. “Con ở bên ngoài! Chạy đi cha ơi!” Dứt lời chàng chạy thục mạng khỏi trang trại.
Tiếng quát tháo thô lậu bằng thứ ngôn ngữ lạ kì dồn dập vọng đến từ buồng trong. Kính vỡ loảng xoảng, và có thứ gì đó rơi bịch trên mặt đất phía sau chàng. Chàng đoán một trong số chúng đã phá cửa số phi ra chứ không không mất công mở nó, nhưng chàng không ngoái lại xem mình đoán có đúng không. Như con cáo bị chó săn rượt chàng lao vào bóng râm gần nhất do mặt trăng tạo ra thay vì chạy vào rừng, rồi cúi người trườn trở về kho thóc, nơi có bóng râm tối hơn và rộng hơn. Có thứ gì đó rơi lên vai chàng, chàng phủi đi, không chắc là mình đang chiến đấu hay đang bỏ chạy, cho tới khi chàng nhận ra mình đã tóm lấy cái cuốc tay do Tam chế từ lúc nào.
Ngu xuẩn! Chàng nằm xuống một thoáng, cố ghìm hơi thở. Thằng Coplin ngu xuẩn! Cuối cùng chàng bò dọc theo mặt sau của kho thóc, lôi cái cuốc theo sau. Tuy không rõ hiệu quả nhưng vẫn tốt hơn là không làm gì. Chàng thận trọng nhìn quanh cái góc tạo bởi nông trại và căn nhà.
Không thấy bóng dáng những sinh vật lao ra ngoài để đuổi theo chàng. Chúng có thể ở bất cứ đâu. Săn đuổi chàng, chắc chắn rồi. Thậm chí là giày xéo lên chàng ngay bây giờ nữa.
Những tiếng bebe kinh hoảng tràn ngập chuồng cừu nằm bên tay trái chàng; Lũ cừu chạy tán loạn như muốn tìm đường thoát ra ngoài. Những hình thù tăm tối chập chờn bên trong cửa sổ sáng đèn của căn nhà, và tiếng binh khí va chạm túa ra ngoài bóng đêm. Bỗng nhiên từ phía cửa sổ một trận mưa kính vỡ cùng gỗ vụn túa ra khi Tam phi mình qua nó, kiếm vẫn nắm trong tay. Ông tiếp đất, nhưng thay vì bỏ chạy khỏi căn nhà thì ông lại lao trở về phía ấy, mặc kệ lũ quái vật ùa ra lối cửa sổ vỡ và cửa trước đuổi theo ông.
Rand không tin nổi vào mắt mình. Sao ông lại không chịu bỏ chạy? Rồi chàng hiểu ra. Tam đã nghe thấy tiếng kêu của chàng ban nãy phía bên hông nhà. “Cha!” Chàng la toáng lên. “Con ở đây!”
Đang dở bước chân Tam liền quay lại, nhưng không chạy về phía Rand mà theo một hướng cách xa chàng. “Chạy đi! Con trai!” Ông thét lên, vung thanh kiếm như thể có ai đó chắn trước mặt. “Trốn đi!” Một tá những hình thù to lớn rượt theo ông, nhưng tiếng la hét, hò reo chát chúa và thô kệch tỏa ra khắp không gian.
Rand lùi vào bóng tối sau kho thóc. Đứng từ phía căn nhà sẽ không thấy chàng ở đó, trong trường còn có ai đó núp bên trong. Ít ra thì giờ chàng tạm an toàn. Nhưng Tam, người đang cố dụ bọn kia đi xa khỏi chàng, thì không. Bàn tay chàng xiết lại trên cán cuốc, và phải nghiến răng lại để không bật ra một tràng cười bất ngờ. Một cái cán cuốc. Đối phó với đám súc vật đó bằng một cái cán cuốc thì có khác nào chơi đánh gậy với Perrin. Nhưng chàng không thể để Tam đối mặt với những kẻ đang lăm lăm bám theo ông.
“Nếu mình di chuyển nhẹ nhàng như con thỏ,” chàng tự nhủ, “chúng sẽ không nghe, không thấy mình.” Những tiếng la kì quái vang vọng trong bóng tối, chàng cố nuốt nước bọt. “Nghe như một đàn sói đói.” Chàng lặng lẽ lê khỏi kho thóc, hướng về khu rừng, xiết cán cuốc chặt tới nỗi đau cả tay.
Thoạt tiên, khi được cây cối bao bọc, chàng lấy làm thoải mái. Chúng giúp chàng trốn khỏi lũ súc vật không rõ lai lịch đã tấn công trang trại kia. Tuy nhiên, khi chàng lẩn đi giữa rừng, ánh trăng đã đổi khác, khiến bóng đêm trong rừng như thể cũng đang chuyển chỗ. Cây cối hiện ra một cách tai hại; cành lá cứ quấn lấy chàng. Nhưng liệu chúng chỉ là cành lá và cây cối thôi ư? Chàng có thể nghe được những tiếng cười đe dọa u u trọng cổ họng chúng trong khi rình đón chàng. Những tiếng la ó của những kẻ đuổi theo Tam tan dần trong đêm; nhưng trong sự im lặng thay thế ấy chàng vẫn cứ run lên mỗi khi gió chà xát những cành cây với nhau. Càng lúc chàng càng cúi người thấp hơn, di chuyển chậm hơn. Chàng không dám thở mạnh vì sợ nghe thấy nỗi sợ của mình.
Bỗng một bàn tay từ phía sau bịt miệng chàng lại, và một thanh sắt đặt chỗ cổ tay chàng. Chàng kinh hãi ngoặc tay ra sau mong tóm được kẻ tấn công.
“Đừng có bẻ cổ cha chứ con trai,” giọng Tam khàn khàn vang lên. Chàng thở phào nhẹ nhõm, toàn thân nhão ra như cháo. Tam thả người xuống cạnh chàng, ngả về một bên hông.
“Ta phải làm thế dù biết rằng con đã lớn ra nhiều mấy năm gần đây,” Tam nhẹ nhàng nói. Đôi mắt ông chớp chớp rọi vào bóng tối. “Nhưng cần phải đảm bảo là con sẽ không la lên. Một vài tên Trolloc nghe tốt như chó, có khi tốt hơn.”
“Nhưng bọn Trolloc chỉ là…” Rand bỏ lửng. Không phải chỉ có trong truyện, đêm nay thì không phải. Những thứ đó có thể là bọn Trolloc hoặc là chính Chúa Tể Bóng Tối như chàng biết. “Cha có chắc là?” chàng thì thào. “Ý con… tức là bọn Trolloc.”
“Ta chắc chắn. Tuy không rõ sao chúng lại đến vùng Sông Đôi này… ta chưa từng thấy một tên nào cho tới đêm nay, nhưng ta đã có nói với những người từng thấy chúng, nên ta cũng có biết đôi chút. Chắc cũng đủ để giữ mạng chúng ta. Nghe cho kỹ này. Bọn Trolloc nhìn trong đêm tốt hơn con người, nhưng ánh mặt trời làm lóa chúng, ít nhất là độ một lúc. Đó có thể là cách thoát thân duy nhất cho chúng ta. Một vài tên có thể lùng theo mùi hoặc tiếng động, nhưng ai cũng bảo chúng rất lười biếng. Nếu chúng ta trốn được lâu, chúng sẽ bỏ cuộc.”
Điều đó khiến Rand phần nào yên tâm hơn. “Trong truyện nói chúng ghét con người, và phụng sự Chúa Tể Bóng Tối.”
“Nếu có thứ gì đó thuộc về băng đảng của Mục Đồng Bóng Đêm, thì đó chính là bọn Trolloc này đây. Chúng lấy giết chóc làm vui, như người ta vẫn bảo. Nhưng ta chỉ biết đến đấy thôi, còn điều nữa là chỉ có thể tin chúng khi chúng sợ con, và cái đấy thì còn lâu.”
Rand rùng mình. Chàng đời nào lại nghĩ sẽ gặp một tên Trolloc nhát gan. “Cha có cho rằng chúng vẫn đang truy lùng chúng ta không?”
“Có thể có mà cũng có thể không. Bọn chúng không khôn gì lắm. Một khi chui được vào rừng rồi thì cha sẽ làm mấy cái dấu dụ chúng đi về phía dãy núi.” Tam mò mò bên hông rồi đưa tay lên sát mặt. “Thứ tệ nhất chúng gây ra đây.”
“Cha bị thương.”
“Nhỏ mồm chứ. Trầy xước tí thôi, với lại giờ cũng không phải lúc lo tới chuyện đó. Ít ra thì trời có vẻ đang trở ấm.” Ông thở dài rồi ngả người ra sau. “Ngủ đêm ngoài này chắc cũng không đến nỗi nào.”
Trong đầu mình thì Rand vừa vui vẻ nghĩ về áo sống của mình. Cây cối tuy cản gió nhưng chúng vẫn giật từng cơn lướt qua như lưỡi dao lạnh giá. Chàng ngập ngừng chạm vào khuân mặt Tam, và nhăn mặt lại. “Cha nóng như lửa. Con phải đưa cha đến chỗ chị Nynaeve.”
“Không sao đâu con.”
“Chúng ta không thể chần chừ thêm một khắc nào nữa. Trời đêm đường ghập ghềnh lắm.” Chàng khua chân và cố lôi cha dậy. Một tiếng rên khô khốc bật ra từ kẽ răng của Tam làm Rand vội vã ngồi xuống.
“Để ta nghỉ một tí đã, ta thấy mệt.”
Rand đấm đấm vào đùi. Nếu như ở trong ngôi nhà ấm cúng, có lửa và chăn mền, có nước và trà, chàng sẽ sẵn lòng chờ đến rạng đông rồi thắng con Bela đưa cha vào làng. Nhưng giờ đây không có lửa, không chăn mền, không xe, không ngựa. Nhưng những thứ ấy vẫn còn kia trong căn nhà. Nếu chàng không thể đưa Tam về, thì ít nhất vẫn có thể đi lấy chúng đến cho ông. Nếu bọn Trollocs đã bỏ đi. Sớm muộn gì chúng cũng phải đi thôi.
Chàng nhìn vào cái cán cuốc, rồi thả nó xuống. Thay vào đó chàng với lấy thanh kiếm của Tam. Lưỡi kiếm ẩn hiện trong ánh trăng nhợt nhạt. Chuôi kiếm dài làm chàng thấy hơi ngượng tay; trọng lượng và kích cỡ cũng khá lạ lẫm. Chàng chém vào không khí vài phát rồi dừng lại thở dài. Chém gió thì có gì khó đâu. Nếu gặp bọn Trolloc hẳn chàng sẽ chạy mất dép thôi, bằng không thì cũng chết đứng chờ cho những thanh gươm quái đản của chúng… Thôi! Nghĩ vớ vẩn quá!
Đang chuẩn bị đứng dây thì Tam chụp lấy tay chàng. “Con định đi đâu?”
“Chúng ta cần xe,” chàng nói khẽ. “Ít chăn mền nữa.” Chàng hơi run sợ khi kéo tay cha ra sao mà dễ dàng quá. “Cha nghỉ đi, con sẽ về liền.”
“Cẩn thận,” Tam thở ra một hơi.
Trong ánh trăng chàng không nhìn thấy mặt Tam, nhưng có thể cảm nhận được ánh mắt ông. “Vâng ạ.” Mình sẽ cẩn thận như một con chuột tìm đường vào rương, chàng nghĩ.
Chàng lẳng lặng lướt vào bóng tối. Chàng cứ nghĩ về những lần chơi trốn tìm với đám bạn trong rừng hồi còn bé, lén lén lút lút tìm nhau, cố không phát ra tiếng động rồi chụp lên vai một đứa nào đấy. Nhưng kiểu gì thì kiểu đêm nay dứt khoát không phải như vậy.
Bò từ cây này sang cây khác, chàng cố nghĩ kế, nhưng đến lúc ra tới bìa rừng thì đã lập rồi lại bỏ tới mười phương án. Mọi thứ đều trông cả vào việc lũ Trollocs còn đó không. Nếu chúng bỏ đi rồi, thì chàng chỉ cần vào nhà lấy những thứ cần thiết. Còn như chúng vẫn ở đó… trong trường hợp này thì chỉ có nước quay lại với Tam thôi. Chàng không thích ý nghĩ đó, nhưng nếu chàng bị giết thì nguy cho Tam lắm.
Chàng rọi mắt vào mấy khu nhà của nông trại. Kho thóc và chuồng cừu chỉ là những hình thù tăm tối dưới ánh trăng. Tuy nhiên có ánh sáng lọt ra ngoài khung cửa sổ về tỏa ra từ cửa trước. Chắc là nến mà cha thắp, mà có khi là bọn Trolloc đang phục trong đó.
Chàng nhảy dựng lên khi nghe một con cú đêm kêu lên khô khốc, rồi lách vội vào một thân cây, run lên bần bật, không còn biết mình đang ở đâu nữa. Cùi gằm xuống, chàng trườn đi, lóng ngóng thủ kiếm phía trước. Chàng cứ để cái cằm dính đất vậy suốt quãng đường quay lại chuồng cừu.
Nép mình vào bức tường đá, chàng nghe ngóng. Màn đêm tịnh không tiếng động. Cẩn thận chàng nhón chân vừa đủ nhìn qua bức tường. Trong nông trại không có động tĩnh gì. Cũng không có bóng đen nào chắn ngang ánh sáng hắt ra từ cửa sổ lẫn lối cửa ra vào. Con Bela và chiếc xe, hay chăn mền và những thứ khác mới là cần nhất. Chính ánh sáng đã giúp chàng quyết định. Kho thóc tối om. Trong đó dễ có thứ gì đang núp lắm, khó mà biết được cho đến khi quá trễ. Còn trong nhà thì ít nhất cũng có thể biết liệu có gì.
Đang lúc cúi xuống thì chàng chợt khựng lại. Yên tĩnh quá. Lũ cừu có lẽ đã yên trở lại và đi ngủ cả, tuy không hẳn vật, có vài con vẫn hay thức dậy lúc nửa đêm, vừa đi lăng xăng vừa kêu be be. Chàng dễ dàng nhận ra nhưng cái bóng đen đen của lũ cừu in trên mặt đất. Một cái ở ngay dưới chân chàng.
Cố không phát ra tiếng động, chàng lê mình theo bức tường cho tới khi có thể với tay tới một thứ mờ nhạt. Nhón tay chàng chạm vào bộ lông cừu xoăn tít, thấy ướt ướt; lũ cừu không không di chuyển. Lúc kéo tay về hơi thở chàng đổ dồn, thanh kiếm gần như rớt xuống ngay ngoài chuồng cừu. Chúng giết cho vui. Chàng chùi chùi cái thứ ướt ướt trên tay vào đất.
Chàng tự nhủ rằng không có gì thay đổi cả. Bọn Trolloc đã xong việc của chúng và biến rồi. Lặp lại điều đó trong đầu, chàng bò qua sân, cúi người thật thấp, nhưng vẫn cố quan sát tứ phía. Chàng chưa bao giờ nghĩ có lúc mình lại muốn biến thành một con trùng.
Đến trước nhà chàng lại nép vào tường, ngay dưới cái cửa sổ đã bể tan, và nghe ngóng. Tiếng máu chảy dội trong tai chàng to chưa từng thấy. Chậm rãi chàng nhón lên nhìn vào trong.
Cái ấm nước nằm chổng ngược trên đống tro bếp. Gỗ vụn vương vãi khắp nhà; không có lấy một thứ đồ nào còn nguyên vẹn. Ngay cả cái bàn kê trong góc, hai chân bị chặt văng. Ngăn kéo bị lôi hết ra mà đập vỡ; tất cả tủ chén và tủ kệ mở toang, nhiều cánh cửa sứt bản lề. Những thứ bên trong vỡ nát vương vãi, và tất cả bị phủ lên một thứ bụi trắng. Bột mì và muối, chứa trong nhưng bao tải giờ đã rách bươm vãi ra tung tóe trước bếp lửa. Bốn cái thây co quắp nằm trong đống đồ đạc ngổn ngang ấy. Bọn Trolloc.
Rand nhận ra một tên nhờ cái sừng dê trên đầu hắn. Những tên khác trông cũng hao hao vậy, chỉ có khuân mặt giống người của chúng là thấy có khác nhau đôi chút, thậm chí còn méo mó biến dạng bởi mõm thú, sừng, lông lá các kiểu. Tay chúng, gần như tay người, càng làm chúng ghê tởm hơn. Hai tên đeo ủng; mấy tên khác chân móng guốc. Chàng nhìn mà không chớp lấy một cái cho tới khi mắt đỏ lên. Không tên Trolloc nào còn cử động. Chúng hẳn chết cả rồi. Còn Tam thì đang đợi.
Rand phi qua cửa trước vào nhà, chững lại vì mùi hôi thối. Một cái chuồng ngựa mấy tháng liền không được dọn phân là thứ duy nhất mà chàng nghĩ phù hợp với chỗ này. Những vết bẩn loang lổ những bức tường. Cố gắng thở ra đằng miệng, chàng nhón bước qua sàn nhà bừa bộn. Trong tủ chén có một cái bị nước.
Một tiếng động sột soạt phía sau khiến chàng chết ngất, người bủn rủn như muốn đổ xuống cái bàn chổng trơ. Chàng rúm người lại, tiếng rên khe khẽ vọng ra từ phía sau hai hàm răng đang va lạp cạp vào nhau mà chàng không tài nào kìm lại được.
Một tên Trolloc đang bò dậy. Cái mõm sói của hắn trồi ra phía dưới đôi mắt sâu hoắm. Một cặp mắt phẳng lì, vô cảm, và rất giống mắt người. Đôi tai lông lá, nhọn hoắt giật giật liên hồi. Hắn lê bộ móng guốc qua xác đồng bọn. Bộ áo giáp cùng loại với những tên khác của hắn va loẹt xoẹt vào cái quần da, và bên hông hắn lủng lẳng mấy thanh kiếm bầu khổng lồ.
Hắn lầm bầm gì đấy trong cuống họng rồi nói, “Tất cả đã bỏ đi hết. Narg ở lại. Vì Narg khôn.” Lời lẽ hắn lùng bùng khó hiểu, thốt ra từ một cái miệng hoàn toàn không thích hợp để nói tiếng người. Hắn nói có vẻ nhẹ nhàng, chàng nghĩ, nhưng vẫn không thể rời mắt khỏi cái hàm rằng bẩn thỉu, dài ngoằng, nhọn hoắt và lóng lánh mỗi khi hắn mở mồm ra kia. “Narg biết thế nào cũng có đứa mò về. Narg chờ. Ngươi không cần kiếm. Bỏ kiếm xuống.”
Nhờ tên Trolloc nhắc Rand mới sực nhận ra là mình đang khua thanh kiếm trước mặt hắn bằng cả hai tay, mũi chỉ vào con quái vật đồ sộ ấy. Hắn cao hơn chàng cả một cái đầu, với bộ ngực và đôi tay săn chắc như ngài Luhhan.
“Narg không biết đau.” Hắn tiến một bước, khua tay. “Ngươi bỏ kiếm xuống.” Bộ lông đen trên mu bàn tay hắn dày như lông thú.
“Lui lại,” Rand nói, ước là giọng mình rắn rỏi hơn. “Sao ngươi làm điều này, tại sao?”
“Vlya daer roghda!” Tiếng gầm gừ bỗng biến thành một nụ cười khoe hết cả hàm răng. “Bỏ kiếm xuống. Narg sẽ không làm đau. Myrddraal muốn nói với ngươi.” Một tia biểu cảm xoẹt qua gương mặt nhăn nhúm đó. Sợ hãi. “Những kẻ khác đã về, ngươi phải gặp Myrddaal.” Hắn bước thêm bước nữa, một bàn tay đặt lên chuôi kiếm. “Ngươi bỏ kiếm xuống.”
Rand liếm môi. Myrddaal! Thứ kinh khủng nhất trong những câu chuyện lại đang đi lại trong đêm nay sao. Nếu một Ma Khách đến đây, thì bọn Trolloc chỉ là cóc nhái, phải lo mà né ra bên. Nhưng nếu tên Trolloc rút thanh kiếm vĩ đại kia ra thì chàng sẽ hết đường thoát. Chàng cố vén môi thành một nụ cười. “Được được.” Xiết chặt thanh kiếm, chàng thu tay về. “Ta sẽ nói chuyện.”
Nụ cười mặt sói kia biến thành một tiếng gầm gừ, và tên Trolloc đột nhiên xông vào chàng. Rand không tưởng tượng nổi sao hắn có thể nhanh tới vậy. Chàng bất chấp vung thanh kiếm lên. Cái thây quái vật kia lao tới hất chàng vào tường. Chàng ná thở, chém loạn lên khi cả hai đổ nhào xuống sàn, tên Trolloc đè lên trên. Chàng giãy bần bật dưới cái sức nặng đang đè trên người, cố tránh đôi tay đang muốn chịt cổ mình và hàm răng nhe ra kia.
Bỗng tên Trolloc giãy lên một cái rồi nằm thẳng cẳng. Bị bầm dập, ngẹt thở dưới sức nặng, trong một thoáng Rand nằm đơ ra như không biết gì nữa. Nhưng chàng cũng nhanh chóng tỉnh ra, loáy hoáy chui khỏi cái thây. Và cái thây đúng là chết rồi. Thanh kiếm vấy máu của Tam xuyên qua giữa lưng tên Trolloc. Loáy hoáy thế nào mà rốt cục chàng cũng đâm được. Máu cũng nhuộm đỏ tay Rand, và tạo ra một cái vệt lớn đen xì trên áo chàng. Bụng chàng nhão ra, chàng khó nhọc nuốt nước bọt để cố giữ bình tĩnh, người cứ run lên trong cơn sợ hãi, nhưng lần này không đến nỗi chết cứng cả người.
Những kẻ khác đã trở về, tên Trolloc nói thế. Những tên Trolloc khác sẽ trở lại trang trại. Có cả một Myrddraal, một Ma Khách. Những câu chuyện kể rằng bọn Ma Khách cao tới hai mươi hai feet, mắt rực lửa, và cưỡi trên những cái bóng trông như ngựa. Khi một Ma Khách quay đi, nó biến mất, và không bức tường nào có thể ngăn chúng được. Chàng phải làm điều đã tính trước, rồi chuồn cho nhanh.
Chàng nghiến răng lật cái thây tên Trolloc lại để lấy thanh kiếm – tí nữa thì bỏ chạy khi thấy mắt gã mở trừng trừng nhìn mình. Phải mất một lúc chàng mới nhận ra là đôi mắt ấy đã chết rồi.
Chàng lau tay vào một miếng giẻ - mới sáng nay còn là mảnh áo của Tam – và giật manh thanh kiếm ra. Chùi kiếm xong, chàng miễn cưỡng giục tấm giẻ đi. Giờ không phải lúc gọn gàng, chàng nghĩ và tí nữa thì bật cười lớn. Chàng không tưởng tượng nổi liệu có thể lau sạch căn nhà này để sống tiếp nữa không. Cái mùi hôi thối dường đã ngấm vào từng thớ gỗ rồi. Nhưng không có thời giờ mà nghĩ tới chuyện đó. Không phải lúc gọn gàng. Cũng có thể không phải lúc cho bất cứ gì khác.
Chàng chắc là mình đã quên một số thứ cần thiết, nhưng Tam đang đợi, và bọn Trollloc đang đến. Chàng gom mấy thứ đã nghĩ tới trong lúc chạy trốn. Mấy tấm chăn trong phòng ngủ trên gác, vải sạch để băng vết thương cho Tam. Lấy áo mặc và áo choàng. Một túi nước chàng mang theo lúc chăn bầy cừu vào chuồng. Chàng không biết lúc nào mới có thời giờ thay đồ, nhưng chàng muốn thay cái tấm áo vấy máu này ngay khi có thể. Mấy cái túi nhỏ làm bằng vỏ cây liễu và thuốc men thì lại nằm trong cái đống đen đen hỗn độn mà chàng không dám mó tới kia.
Cái ấm nước Tam đặt bên bếp kì diệu thay lại chẳng việc gì. Chàng lấy nó đổ nước đầy cái bị, rửa vội cái tay, rồi vội vã nhìn quanh xem còn quên gì không. Chàng thấy cây cung nằm giữa những mảnh vụn, gãy đôi ngay ở giữa. Chàng rùng mình khi làm rớt mất món đồ. Những thứ gom được vật là đủ rồi, chàng quyết định. Rồi chàng nhanh chóng chất hết chúng ra ngoài cửa.
Thứ cuối cùng trước khi chuồn, chàng vơ một cái đèn dầu từ trong mớ lộn xộn trước cửa. Vẫn còn dầu. Nhóm đèn lên bằng nến, chàng đóng chụp đèn lại – phần để cản gió, phần khỏi chói mắt – rồi tay đèn tay kiếm vội vã đi ra ngoài. Chàng không chắc liệu có tìm thấy trong kho thóc không. Chuồng cừu thì chẳng mấy hi vọng. Nhưng chàng cần chiếc xe ngựa để đưa Tam đến làng Emond’s Field, và chiếc xe ngựa thì lại cần con Bela. Hoàn cảnh lúc này khiến chàng chỉ còn ít hi vọng.
Cửa kho thóc mở toang, một cánh đang bị gió thổi kêu cọt kẹt. Thoạt nhìn thì bên trong trông vẫn bình thường. Rồi mắt chàng rơi trên cái chuồng ngựa rỗng tuếch, cửa chuồng đã văng bản lề. Con Bela và cả con bò cái đã đi mất. Chàng chạy ùa ra sau kho. Chiếc xe nằm bên hông nhà, mấy cái bánh xe đã gãy hết nửa số căm. Cái càng xe chỉ còn là một cái gậy dài độ một foot.
Sự tuyệt vọng đã lường trước tràn ngập người chàng. Chàng không biết làm sao mang nổi Tam đi đến tận làng dù cho ông có chịu nổi đi chăng nữa. Sự đau đớn có thể sẽ giết Tam còn nhanh hơn cơn sốt. Tuy nhiên, vẫn còn một cơ may. Chàng đã sống ở đây từ nhỏ cơ mà. Khi chàng toan bỏ đi thì thấy cái rùa cũ nằm trên sàn nhà đầy rơm. Bất giác chàng mỉm cười
Vội vã chàng đặt cả đèn và kiếm xuống nền nhà, rồi chỉ tích tắc sau là đã đánh vật với chiếc xe, thúc vào lưng để dựng đứng nó lên, nghe thêm mấy tiếng tạch tạch của lan hoa bị gãy, rồi nhón vai lật ngược nó lại. Cái tay cầm vẫn còn ngon lành. Nhặt lấy thanh kiếm chàng thúc cho lớp bụi rơi xuống, rất đỗi ngạc nhiên khi những mảnh gỗ cứ theo mỗi nhát chém mà bay đi, y như thế chàng đang dùng một cây rìu tốt vậy.
Chàng thả cái càng xe xuống, ngạc nhiên nhìn lưỡi kiếm. Ngay cả cây rìu bén nhất cũng khó mà chặt đứt khúc gỗ cứng ngắc đã có tuổi này , thế mà thanh kiếm lại bén đến vậy. Chàng lấy ngón cái sờ vào sống kiếm rồi vội vàng đưa lên miệng. Lưỡi vẫn còn bén lắm.
Nhưng chàng không có thời gian mà ngạc nhiên. Thổi tắt ngọn đèn – để tránh thiêu trụi cái kho thóc – chàng kéo chiếc xe chạy về chỗ khi nãy để đồ đạc ở căn nhà.
Tất cả đồ đạc tạo thành một hành trang kì quặc, không nặng lắm, nhưng khó mà giữ cho cân được, cái xe đẩy cứ xóc lên rồi xoay ngang xoay ngửa khi chàng đẩy qua cánh đồng mới xới đất. Khi đã trở lại rừng rồi tình hình còn tệ hơn, đồ đạc vướng vào cây kéo chàng dừng lại. Nếu mà kéo lê đi thì chắc dễ hơn, nhưng như thế sẽ hằn rõ dấu vết phía sau. Chàng cố tình đợi cho đến lúc thích hợp đề làm điều đó.
Tam vẫn ở chỗ cũ, vẻ như đang ngủ. Chàng mong chỉ là ngủ thôi. Bỗng nhiên sợ hãi, chàng buông cái đồng hành lý xuống rồi đặt tay lên mặt cha. Tam vẫn còn thở, nhưng sốt cao lắm.
Cái chạm đánh thức Tam, nhưng ông mê man. “Là con phải không?” Ông buông tiếng thở. “Tự lo cho mình đi. Những ngày tươi đẹp qua rồi. Những con ác mộng.” khẽ thì thào thế rồi ông lại im lặng.
“Cha đừnglo,” Rand nói. Chàng khoác áo lên người Tam để tránh gió. “Con sẽ đưa cha đến chỗ chị Nynaeve thật nhanh.” Khi chàng lại loay hoay xem Tam đã ổn thỏa chưa, khi đó chàng mới cởi tấm áo dính máu của mình ra, cố làm thật nhanh cho khỏi lạnh, rồi mặc cái áo sạch lên người. Quẳng cái áo bẩn đi làm chàng cảm thấy như vừa mới tắm xong. “Vào tới làng là chúng ta sẽ an toàn, Nhà Thông Thái sẽ xử lý hết. Cha hiểu không. Mọi thứ sẽ ổn.
Suy nghĩ đó bừng lên khi chàng khoác tấm áo vào và bó vết thương của Tam. Họ sẽ an toàn khi vào tới làng, và Nynaeve sẽ chữa cho Tam. Việc của chàng là phải đến được đó.