[Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)

39manhmoifinal_zpsbfas6o2u.png

(Bìa sách: TKV Kira Killer )

Ổ RẮN ĐỘC

Tác giả: Peter Lerangis
Dịch giả: Magic Purple
Hiệu đính: conruoinho
Thể loại: Thiếu nhi, phiêu lưu
Tình trạng xuất bản 2010, 190 trang
Số chương: 27
Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.

Giới thiệu về series sách

39 manh mối là một bộ tiểu thuyết phiêu lưu được nhiều tác giả nổi tiếng của dòng fantasy cùng chắp bút. Qua từng cuốn sách, chúng ta sẽ cùng hai chị em Amy Cahill và Dan Cahill đến những đất nước khác nhau truy tìm 39 manh mối để sở hữu quyền lực vĩ đại nhất từng thấy. Bạn sẽ đắm mình vào cuộc phiêu lưu hồi hộp, tìm hiểu những câu chuyện hư hư thực thực về những con người nổi tiếng có trong phả hệ nhà Cahill như Benjamin Franklin, Mozart, hay Shakespeare...

*Bộ sách còn được một số quốc gia đưa vào trò chơi trực tuyến với phần thưởng có giá trị.

Giới thiệu:
Ổ rắn độc là cuốn thứ bảy trong bộ sách 39 manh mối. Amy Cahill và Dan Cahill tìm thấy một gợi ý trong một cuốn sổ ghi chép của một đối thủ đã hy sinh vì chúng và nó dẫn đến Nam Phi. Shaka Zulu, anh hùng lịch sử của quốc gia Zulu có vẻ là chìa khóa của manh mối, nhưng Amy và Dan phải đột nhập vào căn cứ của nhà Tomas để lấy được manh mối này. Cả hai đã gần tới được với manh mối khi chúng phát hiện ra được một sự thật bí mật là cha mẹ chúng bị cảnh sát Nam Phi truy nã vì tội giết người...

*Link đọc các tập trước
Tập 1: Mê cung xương
Tập 2: Bí mật của Mozart
Tập 3: Kẻ đánh cắp gươm
Tập 4: Bước vào cõi tử
Tập 5: Vòng tròn tuyệt mật
Tập 6: Trong vùng nước thẳm
***
Mục lục
Chương 1 --- Chương 2 --- Chương 3
Chương 4 --- Chương 5 ---Chương 6
Chương 7 --- Chương 8 --- Chương 9
Chương 10 --- Chương 11 --- Chương 12
Chương 13 --- Chương 14 --- Chương 15
Chương 16 --- Chương 17 --- Chương 18
Chương 19 --- Chương 20 --- Chương 21
Chương 22 --- Chương 23 --- Chương 24
Chương 25 --- Chương 26 --- Chương 27.
Truyện đã được đăng tải hết trên thư viện, các bạn đọc tiếp ở ĐÂY nhé. :)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 13

Dan tự hỏi Shaka Zulu sẽ giải quyết chuyến đi trong một chiếc Yugo nát với hai người phụ nữ đang tranh luận về khách sạn như thế nào.

“Chị là người lo tiền bạc,” Amy nói. “Một chiếc lều là hoàn hảo. Chúng ta sẽ dùng nó mỗi ngày.”

“Chị cần một cái gương, những chiếc khăn sạch, và mấy tấm giấy nho nhỏ bọc xà phòng,” Nellie nói. “Chị sưu tập chúng. Nếu em dùng chúng ở nhà chúng nhắc nhở em về nơi em đã –”

“Cuộc tìm kiếm này không về sự thoải mái,” Amy nói. “Chị đang giống như nhà Kabra và Alistair – bị nuông chiều và om sòm. Đầu tiên nó là bí mật, và giờ nó –”

“Xin lỗi, Tiểu Thư Quản Lý Cơn Giận,” Nellie cắt ngang. “Điều gì đã xảy ra với em?”

“CHẶT ĐẦU CÁC CHỊ XUỐNG!” Dan tuyên bố.

“Nhồi nhét nó đi, Shaka,” Amy đờ đẫn nói.

Nhưng Dan lờ con bé đi. Một chiến binh dũng cảm không bao giờ dính mồi. Nó đang chiến đấu để tập trung vào tấm bưu thiếp Shaka, giờ nhàu và ướt đẫm mồ hôi sau chuyến phiêu lưu của chúng. Nó bắt đầu ở dòng cuối:

BIMRSESOSEIM GEKK #4
BGOQBG GEKK
ALPHA>1​

“Cái này trông không đúng,” nó nói.

“Rất nhiều từ châu Phi có cách phát âm ngớ ngẩn,” Amy bắt đầu giảng bài. “Giống như, em tạo một âm thanh lách cách trong khi nói nó, giống như Xhosa bộ lạc.”

Cái cách mà Amy nói từ đó, nó giống như một cú nhắp lưỡi theo sau bởi -osa.

“Đúng, nhưng những từ này có, như thể, Xs và những dấu chấm thang ở giữa và các thứ,” Dan nói. “Những cái này khác biệt. Chúng không trông giống chữ châu Phi. Chúng chỉ là trông… lạ.”

“Nếu chúng không phải là chữ châu Phi lạ, có lẽ nó là chữ Hà Lan lạ,” Nellie nói. “Họ dùng rất nhiều chữ cái nhân đôi. Dì của chị đã kết hôn với một gã tên là Vanderdoonk.”

Amy đang nhìn săm soi vào những cái tên sát nhau. “Những anh em Gekk? Chị đã nói với em rồi, họ là những tài xế limo. Đây là một thẻ doanh nhân cho một chiếc xe taxi dịch vụ.”

“Còn về những thứ ở dưới cái tên thì sao?” Dan hỏi.

“Alpha lớn hơn một,” Amy nói. “Alpha có nghĩa là ‘A’ – giống như, tốt nhất. Họ đang khoe khoang. Quảng cáo.”

Dan bắt đầu viết. Nó viết nguệch ngoạc bảng chữ cái phía trên tấm bưu thiếp. “Em đang nghĩ nó là một mật mã. ‘Alpha’ có nghĩa là ‘Alphabet.’ ‘Lớn hơn một’ thực sự là một mũi tên chỉ về bên phải. Nó có thể nghĩa là ‘thay thế mỗi ký tự với một ký tự bên phải’ – giống như B trở thành C.”

“Em thực sự nghĩ như thế à?” Nellie hỏi.

Dan bắt đầu thay thế lần lượt các chữ cái.

CJNSTFTPTFJN HFLL #4

“Như em đã nó, nó là một ý tưởng ngớ ngẩn,” Dan nói.

“Chao ôi, đợi đã,” Amy nói. “Liệu thay bởi một sự thay thế đơn giản em, giống như, thay thế mỗi phụ âm với phụ âm tiếp theo, và mỗi nguyên âm với nguyên âm tiếp theo thì sao? Giống như, B trở thành C nhưng I trở thành O?”

“Em cũng thế à?” Nellie nói.

Dan bắt đầu viết lại:

CONSTITUTION HILL #4

“Bingo!” Amy kêu lên. Con bé đọc lướt qua cuốn sách nó đã giấu trong ngăn đựng găng tay. “Constitution Hill (Đồi Hiến pháp)… nó là một vùng ở Johannesburg. Địa điểm của một nhà tù cũ. Số Bốn hẳn là một địa chỉ.”

“Johannesburg?” Nellie nói. “Chị đã nghĩ chúng ta đang đến Pretoria!”

“Đừng quên cái tên Gekk khác,” Dan nói.

Nhanh chóng, thằng bé đọc nó, dùng phương pháp của Amy.

CHURCH HILL

“‘Đồi Nhà thờ’ – hãy tìm nó!” Dan nói.

Amy lắc đầu. “Không. Không có nơi nào như thế. Chúng ta sẽ cần có một bản đồ tốt hơn. Nhưng ít nhất chúng ta có một điểm khởi đầu. Được rồi, Nellie, chúng ta phải đi lại hướng sân bay, về Johannesburg!”

“Liệu nếu Đồi Nhà thờ là thứ ở Pretoria?” Dan nói. “Ý em, chúng ta đang ở đây rồi!”

Nellie đạp phanh và lướt qua một gã ở mép đường. “Ôi, ôi, các em. Chị đang tập trung lái trong một chiếc Yugo, chạy trốn khỏi nhà Holt, xúc phạm người già, và vừa kịp thoát chết nhờ lũ dê. Chị, như thể, sẵn sàng để rơi. Chị sẽ đưa các em đến bất cứ nơi nào các em muốn, nhưng chị muốn kết thúc điều chị đã bắt đầu với Amy – và chị chọn nơi chúng ta ở, được chứ? Chị nói, khách sạn. Và chị nói, đặt chỗ ngay hoặc chúng ta ngủ trong xe.” Cô nàng với tới túi của mình. “Trong các em có ai có điện thoại di động của chị không?”

“Không,” Amy và Dan cùng nói một lượt.

Nellie nhìn xuống sàn, sau đó trong ngăn đựng găng tay. “Lạ thật. Chị đã lấy lại nó trên sân bóng đó.”

“Có lẽ nhà Holt đang đá nó vào cột gôn,” Dan nói.

“Ối, nhóc,” Nellie nói. “Không đùa đâu. Chị phải có chiếc điện thoại đó.”

“Công ty điện thoại có lưu trữ online các thứ của chị,” Dan nói, “với tất cả số của những anh bạn trai của chị –”

“Không buồn cười,” Nellie nói. “Em không hiểu đâu! Chị cần chiếc điện thoại đó!”

Dan trao cho Amy một cái nhìn. Đây không phải Nellie Bình Thường.

“Giờ thì ai có vấn đề với việc quản lý cơn giận?” Amy yên lặng nói.

Nellie hít một hơi thở sâu và để đầu cô nàng trên tay lái. “Được rồi. Xin lỗi. Chị đang mất trí. Chị có thể dùng điện thoại của em không, Amy?”

Amy đưa điện thoại của nó. Khi Nellie gọi điện, Dan lôi điện thoại của nó ra và nhanh chóng truy cập tài khoản email. Nó nhìn chằm chằm vào tin nhắn gần nhất:

Tụi ta thắng. 10-7.

ilikeike

“Này, Amy,” Dan nói, đưa màn hình cho chị nó. “Chúng ta có biết ai đó với cái tên này không?”

“Ilikeike…” Amy nhún vai. “Trông như người Hawaii.” Dan nhắn lại:

ừm, tuyệt. ai đấy?

Một giây sau đó câu trả lời đến:

Meat 100 m n of BOOM on P Kruger or tacoman go BOOM

ilikeike

“Đó là số sai,” Dan nói.

“Chờ đã,” Amy nói. “Nó không phải là người Hawaii. I like Ike là một khẩu hiệu tranh cử tổng thống từ những năm 1950!”

“Những sự kiện lịch sử làm em run lên với thích thú,” Dan nói.

“Cho Tổng thống Dwight David Eisenhower!” Amy nói.

Eisenhower.

Dan nhìn chằm chằm vào màn mình. “‘Tacoman’… nhưng chú Alistair là burrito… phải, đó sẽ là điều mà Eisenhower sẽ viết.”

“Chính xác!” Amy nói. “Và chị đang nghĩ m-e-a-t được cho là m-e-e-t. Ông ta muốn chúng ta gặp ông ta – hoặc điều gì đó xấu sẽ xảy ra cho chú Alistair.”

“Các chị, liệu đây là một cái bẫy?” Dan hỏi.

“Nếu không thì sao?” Amy đáp. “Hãy nghĩ về điều đó, Dan. Nhà Holt đã tìm thấy Alistair trên đỉnh đồi đó sau khi chúng ta rời đi. Nếu ông ấy đang làm việc với chúng, chúng sẽ giận dữ với ông ấy, bởi vì ông ấy không giao chúng ta. Nếu ông ta không làm việc với chúng, chúng sẽ chỉ điên tiết khi thấy ông ta xen vào.”

“Chúng ta không thể chỉ lờ việc này đi,” Nellie nói.

“Phải, chúng ta có thể,” Amy thốt ra. “Tại sao chúng ta phải chạy quanh một đất nước xa lạ và mạo hiểm cuộc sống của chính chúng ta? Tại sao chúng ta lại mắc nợ Alistar bất cứ điều gì chứ?”

Dan liếc nhìn chị gái nó không thoải mái. “Amy…? Em biết chị thực sự không có ý đó, phải không?”

Chị gái nó xoay đi, mặt con bé đỏ lựng. Con bé hít một hơi thở và lẩm bẩm điều gì đó mà nó hiểu có nghĩa là phải.

“Được rồi…” Dan gật đầu. “‘Một trăm m n’… đó là một trăm mét về phía bắc của – Boom là gì?” Nó tóm lấy tấm bản đồ Pretoria của Amy. Ở bên phải là bảng mẫu tự của tên những con đường. “Nó là một con đường – Đường Boom ở phía bắc thành phố, gần sở thú! Gần đường Paul Kruger.”

“Đợi đấy, các chàng trai và các cô gái,” Nellie nói, trả lại Amy điện thoại. “Gomez và các Cahill đến Boom.”

***​

Đường Boom bao quanh một cái sân lớn bên kia sở thú. Ở góc của công viên Paul Kruger, Nellie sít sao rẽ trái, lốp xe rít lên.

Một biển báo giao thông trên một giá gỗ ghi:

NGUY HIỂM: Khu vực công trình

Chỉ Nón Cứng*​

Ở phần dưới cùng, chữ viết tay nguệch ngoạc gần như không đọc được cạnh dấu hoa thị, là những chữ *và các Cahill!

“Lái qua nó,” Dan nói. “Chúng ở trước.”

Phía sau tấm biển, con đường giảm đi thành một dốc nghiêng. Đậu lại ở phía cuối là chiếc xe tải màu tím. Chú Alistair đứng bên cạnh nó ở tư thế nghiêm, cây gậy của lão trong tay và chiếc mũ trái dưa của lão gọn gàng trên đầu lão.

Nellie cài số một và đạp phanh xuống đồi. Theo âm thanh của tiếng động cơ rên rỉ, Alistair nhìn lên và vẫy chúng.

“Alistair đang làm việc với nhà Holt,” Amy rít lên.

“Ông ấy trông lo lắng về điều gì đó,” Dan nói.

“Cẩn thận,” Amy đáp.

Khi Nellie chậm lại, cái vẫy của Alistair trở nên khẩn trương hơn. “Ừm, các em, có chuyện gì với mũ của ông ta thế?”

Hai sợi dây kéo dài từ phía sau của chiếc mũ trái dưa của Alistair hướng vào cửa sổ tài xế của chiếc xe tải. Amy không thể nhìn thấy bất cứ ai bên trong chiếc xe, nhưng Alistair đang trông kích động bên kia đường.

Ở đó, đứng gần một cây keo to xù xì, là Eisenhower, Mary-Todd, Reagan, Madison, và Hamilton Holt, cùng với con pit bull của chúng, Arnold. Eisenhower liếc mắt chiến thắng đểu cáng, cái cổ của hắn có màu của món bò nướng tái. Trong tay hắn là một sợi dây dài màu vàng dẫn đến chiếc mũ trái dưa của Alistair. “Cùng nói chuyện nào,” hắn nói.

“Cùng đặt chỗ nào!” Dan nói.

Nellie quay xe lại.

Gương mặt của Alistair tái mét. “Không, đừng!” lão hét lên.

“Không được lùi lại – ta lặp lại, không – yêu cầu!”

Eisenhower quát tháo. “Nếu các người quý mạng người.”

“Đừng nghe ông ta!” Amy nói. “Đi, Nellie, Đi!”

“Chú-Ý!” Eisenhower giơ tay hắn lên. “Chú của tụi mày bị trói bởi phương tiện công nghệ được nghiên cứu và hoàn thiện bởi chính bản thân ta trong phòng lab cháy nổ 101 Chất nổ, Huấn luyện viên Todd Bempster, Học viện West Point[1] Khóa học Không-phải-phận-sự-của-ngươi, để hồi pin, bằng cách quá điện tử để giải thích trong các điều kiện dân sự nhưng dễ dàng để lắp đặt với sự giúp đỡ của một vài hộ gia đình có ích –”

“Tụi mày sẽ cắt đuôi à, lũ cừu non?” Mary-Todd nói.

Eisenhower giơ sợi dây lên với một nụ cười chiến thắng. “Nếu chiếc mũ rơi khỏi đầu Alistair, chiếc xe phát nổ.”

“Ông ta đang bịp bợm,” Dan nói run run.

“Ông ta không.” Amy biết Eisenhower có ý đó. Và con bé thích cái ý tưởng.

GIỜ cuối cùng ông sẽ cảm thấy điều mà cha mẹ chúng tôi đã cảm thấy, chú Alistair. Ông sẽ biết điều gì như là bị bỏ rơi, thay vì người bỏ rơi.

“MẤY ĐỨA TRONG CHIẾC YUGO – QUA ĐƯỜNG, NẾU TỤI MÀY BIẾT ĐIỀU GÌ TỐT CHO TỤI MÀY,” Eisenhower hét lên. “THEO HÀNG HAI! – ỪM, HÀNG BA!”

Amy hít một hơi thở sâu. Con bé cố gắng bám vào một suy nghĩ mạch lạc trong đầu nó, nhưng chúng đang bay lượn bên trong, nó trơn trượt và tối đen mù mịt.

Dan đặt tay nhẹ nhàng lên vai con bé. “Theo em.”

Thằng bé bước ra khỏi xe và đi xuống đồi về phía nhà Holt. Amy theo phía sau, lặng người. Ở bên kia đường, con bé có thể cảm thấy một thay đổi trên gương mặt của Reagan và Madison – thứ gì đó như thể thở phào. Amy nhận ra, sự sắp xếp này không phải là ý tưởng của chúng. Hamilton đang trông thực sự hoảng sợ.

Con bé cố gắng bắt lấy ánh nhìn của thằng bé. Nó đang chớp mắt nhanh, như thể nó đang xấu hổ hay đấu tranh lại những giọt nước mắt. Con bé cảm thấy một sự trào dâng biết ơn với nó. Vì cứu mạng con bé. Vì giúp chúng chống lại Alistair. “Ham…” con bé nói.

Eisenhower vỗ một bàn tay rắn chắc lên vai con trai hắn, gần như đánh ngã nó. “Chúng ta biết tụi mày ở đây vì manh mối Tomas.”

“Chúng tôi?” Nellie thốt ra.

Madison đảo mắt. “Ồ, điều đó thật thuyết phục.”

“Thưc sự,” Reagan lẩm bẩm, “nó đã.”

“Khi chúng ta nghe thấy tụi mày đang đến Peoria dựa vào việc chặn đài từ Indonesia,” Eisenhower nói, “chúng ta chắc chắn phải đi theo.”

“Ý ông là, Pretoria,” Nellie chỉnh lại.

“Chồng ta - ờm, chúng ta đã làm lộn xộn việc đặt máy bay,” Mary-Todd nói. “Hai lựa chọn quá gần trên bảng chọn sổ xuống. Tụi mày thấy chứ, bằng việc nhầm lẫn, chúng ta đã đúng.”

“Các người tìm thấy chúng tôi vì sự nhầm lẫn?” Amy nói. Con bé liếc nhìn Dan, nhưng nó đang chăm chú nhìn chằm chằm phía trước, như thể bị thôi miên bởi thứ gì đó.

“Tụi mày ở đây để gặp ai?” Eisenhower hỏi.

“Reagan đã tìm kiếm chút ít?” Madison nói, để kẹo gôm dưới lưỡi nó. “Nó đã tìm thấy rằng nhà Tomas có một manh mối? Có gì đó liên quan với bộ lạc Nam Phi hả?”

“Nhưng nếu nó là một manh mối nhà Tomas, các người không biết nó à?” Dan hỏi.

“Mày đứa bé hổn xược,” Eisenhower nói. “Chỉ giống như những kẻ khác. Cười nhạo chúng ta. Xem thường chúng ta. Cắt đứt chúng ta khỏi những bí mật gia đình.”

“Hột đậu ngọt ngào…” Mary-Todd nói. “Huyết áp của anh…”

Eisenhower càng giận dữ, mặt hắn ta càng đỏ. Hắn siết nắm tay quanh sợi dây. Amy nghĩ con bé có thể nghe thấy một tiếng yeep hoảng hốt từ Alistair.

“Đừng!” Nellie hét lên.

“Ai là người liên lạc của tụi mày?” Eisenhower hỏi. “Manh mối Tomas ở đâu?”

Bình tĩnh, Amy ra lệnh cho bản thân. Con bé đang run.

Nó nhìn Dan. Thằng bé dường như tê liệt, chăm chú nhìn chằm chằm phía trước.

“Mũ của chú tụi mày,” Eisenhower nói bằng một giọng căng thẳng, tính toán, “được kết nối với một sợi dây thông qua một nam châm, tạo ra một mạch nối đất. Đánh rơi chiếc mũ, mạch gãy. Chiếc xe – bang! Và vì sự tính toán tài tình, một sợi dây rời ra rơi xuống trên đầu của ngài Oh. Năm trăm vôn. Ta ghét phải nhìn thấy điều đó xảy ra trong một ngày đẹp như này, phải không?”

Đột nhiên, Dan thoát khỏi sự hôn mê của nó. “Tôi biết manh mối!” nó thốt ra.

Amy xoay lại. “Em biết?”

Em trai nó đang giật tay lại về phía chiếc xe. “Tôi – tôi cần lấy tấm bản đồ. Cho phép chứ, thưa ngài?”

Bản đồ? Amy nhìn chằm chằm nó hoàn toàn bối rối.

“Cứ cho là thế!” Eisenhower quát tháo. “Và mày biết điều gì xảy ra nếu đây là một trò bịp.”

Dan chạy đến chiếc Yugo. Nó đang đổ mồ hôi. Ngón tay nó run run. Nó mở cửa hành khác và dựa vào.

“Mrrp?”

Saladin kêu đói từ ghế sau.

“RAWRF!” Arnold nhào tới trước. Sợi xích của nó đã bay khỏi tay của Mary-Todd.

“Kh-ô-ô-ô-n-g!” Amy hét lên. “Đóng cửa lại, Dan!”

Dan bò đi để xoay lại. Nó kéo cả người mình ngồi trong chiếc xe. Khi nó đóng cửa tài xế, Arold đập mạnh đầu vào cánh cửa.

Chiếc Yugo lăn xuống đồi, về phía chiếc xe tải.

“Kéo lui phanh tay lại!” Nellie hét, chạy về phía chiếc xe.

“Cái ?” Dan nói.

“Nó đang tiến về phía chiếc xe tải!” Reagan hét. “Ngăn nó lại!”

“Không… ôi, làm ơn, không…” Alistair lẩm bẩm, gương mặt lão cau có và tái đi.

“ĐIỀU NÀY KHÔNG THEO DỰ THẢO!” Eisenhower gầm lên.

Hamilton Holt chạy hết tốc lực qua đường. Nó kéo mở cửa trước của chiếc xe tải và nhào vào bên trong, những ngón tay của nó làm việc với một mớ dây xanh lam rối tinh trên bảng đồng hồ.

Chiếc Yugo đang tăng tốc độ.

“Cái đòn bẩy ở giữa!” Nellie hét. “Kéo nó!”

Hamilton nhảy khỏi chiếc xe. Nó dựa vào Alistair, xoay lưng lại, sau đó xoay vòng.

Chiếc Yugo đang cách bốn mét rưỡi… ba…

“Ngay!” nó hét. “Dừng ngay, Dan!”

Amy nghe thấy một tiếng ồn bánh cóc kim loại. Chiếc Yugo trượt sang trái, xoay ngang trên đường.

Con bé quan sát trong sự kinh hãi khi lá chắn đuôi phải của nó đập vào chiếc xe tải.

“DAN!” nó kêu lên, chạy về phía thằng bé.

Em nó đang run rẩy. Nhìn chằm chằm vào bánh lái của chiếc xe đã dừng lại.

Nguyên vẹn.

Hamilton, Nellie, và Amy cùng kéo về một bên của chiếc Yugo. “Tôi cài đặt lại máy móc,” Hamilton nói. “Giờ nó là một thiết bị bấm giờ. Ba phút. Lấy cái này. Đi đi.”

Nó đưa cho Amy một tờ giấy được gấp lại và nhảy ra, chạy qua đường. “Di chuyển!” nó hét với gia đình mình. “Nó sắp nổ!”

Tất cả nhà Holt chạy theo hướng khác. Ngoài khóe mắt mình, Amy có thể thấy Alistair núp phía sau một cái cây. Khi nhà Holt đi được nửa đoạn đường, lão bắt đầu đi khập khiễng đi khỏi, nhanh chóng.

Amy cảm thấy một cánh tay trên vai mình. Dan đang kéo con bé vào xe.

Cửa sẽ đóng lại và Nellie lao đi khi chiếc xe tải nổ tung.

***​

Chú thích:
[1] West Point là học viện quân sự Hoa Kỳ
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 14

Amy do dự bởi âm thanh của quả bom nổ trên đường Boom. Nellie đang tăng tốc chiếc Yugo trên đoạn đường vào đường cao tốc.

“Yeee-HAHHH!” Dan hét, lấy nắm tay đập vào mui xe.

Bên trong Amy đang xung đột. “Em nghĩ điều đó vui à?” con bé thốt ra. “Tất cả chúng ta có thể bị giết – bởi vì em! Em đã nghĩ em đang làm gì hả?

“Chị không thấy cậu ta à?” Dan nói. “Hamilton – cậu ta đã nháy mắt!”

“Vậy?” Amy nói.

“Nháy mã Morse, Amy!” Dan giải thích. “Tít-tè-tít, tít, tít-tè-tít-tít, tít, tít-tè, tít-tít-tít, tít, tè-tít-tít-tít, tít-tè-tít, tít-tè, tè-tít-tè, tít! Hai từ - release brake (thả phanh)! Cậu ấy đã đưa em sự hướng dẫn.”

“Em đã hiểu điều đó?” Nellie nói.

“Đầu tiên, em, giống như, anh bạn, gì?” Dan nói. “Nhưng cậu ta cứ lặp lại cùng tin nhắn. Cậu ta muốn em tạo ra một sự sao lãng!”

“Em điên à?” Amy nhấn mạnh. “Nếu như Hamilton không thể sửa những sợi dây kịp lúc? Em đã tông chiếc xe, Dan! Em đã tông nó! Một sự sao lãng không có nghĩa là chết!”

Dan sụp xuống. Gương mặt nó tối sầm, và nó ngã xuống ghế của nó một cách nặng nề. “Chị thực sự biết cách phá hủy một ngày đẹp trời.”

Chiếc xe rơi vào im lặng khi Nellie kéo lên đường cao tốc và tiến về phía Johannesburg. “Vậy, các trại viên,” cô nàng líu lo, “nói gì nếu chúng ta ăn mừng cuộc trốn thoát của chúng ta, cuộc trốn thoát của Alistair, sự tốt bụng của Hamilton, và kỹ năng giải mã tuyệt vời của Dan bằng việc đỗ lại và tìm cho chúng ta một thiết bị GPS mới? Và có lẽ, như là, một ít thức ăn?” Cô nàng dừng lại trong khi Amy và Dan di chuyển không thoải mái. “Chị biết em sẽ nhảy lên bởi cái ý tưởng đó. Chị sẽ tìm một chỗ nghỉ.”

Khi chạy qua miền quê bằng phẳng, nứt nẻ, Amy nhìn đăm chiêu ra cửa sổ. “Em tự hỏi ông ấy giờ ở đâu – Alistair.”

“Chị đã thấy Hamilton thì thầm điều gì đó với ông ấy sau khi cậu ta sửa những sợi dây,” Nellie nói. “Hẳn đã nói ông làm như là một cái bánh ngô và trốn đi.”

Dan lắc đầu. “Em không thể tin rằng cái thứ dở hơi đó sẽ giết ông ấy.”

Amy nhắm mắt lại. Kế hoạch quá man rợ.

Bụp. Một cái búng nhẹ lên chiếc mũ trái dưa.

Con bé đột nhiên muốn khóc.

Điều gì đó đang sôi sùng sục bên trong Amy, điều gì đó rất hỗn độn và khó hiểu mà con bé không thể định nghĩa được. “Chị… đã muốn ông ấy chết, Dan à. Chị chưa bao giờ cảm thấy điều đó trước đây. Chị bị làm sao à?”

“Này, nhóc…” Nellie dịu dàng nói.

Dan gật đầu. “Phải. Nó có thể hiểu được. Thật đấy.”

“Thật chứ?” Amy nói. “Chị không hiểu nó. Em nên trèo quanh bên trong não của chị, Dan. Nó giống như căn phòng tối bị bao quanh bởi cát lún.”

“Em hiểu ý chị là gì,” em trai nó yên tĩnh nói. “Em đôi khi cũng ghét phải ở trong não mình. Em phải thoát ra.”

“Em làm gì?” Amy nói.

Dan nhún vai. “Em đi đến những nơi khác – những ngón chân của em. Vai của em. Nhưng hầu hết ở đây.” Nó vỗ ngực mình và ngay lập tức đỏ lựng. “Em biết. Nó thật ngu ngốc.”

“Không hẳn,” Amy nói. “Chị ước chị cũng có thể làm thế.”

“Đó không phải là điều gì đó chị làm,” Dan nói. “Ý em là điều gì đó luôn xảy đến dù chị có muốn hay không. Chị chỉ cần phải, giống như, nâng những cái bóng lên và nhìn qua.”

Amy hít một hơi thở sâu. Ý tưởng nghe rất Dan. Con bé nhắm mắt và nghĩ về những ngày qua. Về Alistair và về cuộc tìm kiếm. Về Dan và về chuyến hành trình cơ thể của nó.

Nâng những cái bóng lên…

Vùng cát lún mờ đi. Sự nhẹ nhõm quét qua con bé. Và nó bắt đầu khóc. “Chị ghét bản thân mình,” nó nói. “Chị ghét điều chị đang thấy.”

“Tại sao?” Dan hỏi.

Ngừng cảm thấy nhẹ nhõm đi! Con bé khiển trách bản thân. Nhẹ nhõm là yếu đuối. Nhẹ nhõm là trắc ẩn. Trắc ẩn là tin tưởng. Không tin tưởng ai cả.

“Tại sao em có những ý tưởng ngớ ngẩn như thế, Dan!” con bé thốt ra.

Dan mỉm cười. “Chị cảm thấy vui vẻ, đúng không? Về Alistair?”

“Chị không nên!” Amy cố giữ lại những giọt nước mắt. “Chị không thể! Ông ấy luôn luôn trốn thoát được. Mẹ và cha đã không trốn thoát, nhưng ông ấy trốn được. Thật không công bằng. Ông ấy đáng ra phải chết.”

“Amy?” Dan nói.

“Chị không muốn cảm thấy vui vì chúng ta đã cứu Alistair!” Amy nói. “Bởi vì cứu ông ấy giống như phản bội lại ký ức về mẹ và cha.”

Dan gật đầu. Nó rơi vào im lặng một lúc lâu và cuối cùng sau đó nói, “Chị không thể ngưng điều đó, Amy – vui vì ông ấy còn sống. Em nghĩ mẹ và cha sẽ tự hào vì chị. Họ coi trọng cuộc sống. Nó là điều làm họ khác biệt với một số những Cahill khác. Và các Madrigal.”

Amy suy nghĩ một lát. Thằng bé đúng. Trở thành như một Madrigal là số mệnh tệ nhất có thể mà con bé có thể tưởng tượng.

Thỉnh thoảng – chỉ thỉnh thoảng – Amy muốn vòng tay ôm em trai mình. Nhưng lần cuối cùng con bé làm thế, nó đã rửa kỹ càng đôi vai của nó và viết chữ CP trên áo của nó cho chữ Cootie Protection (Chống Rận). Vì vậy con bé chỉ mỉm cười và hỏi, “Sao em biết được, Dan? Em còn rất nhỏ khi họ chết. Em có thực sự nhớ họ không?”

“Không trong đầu óc em,” Dan đáp, nhìn chằm chằm vào phong cảnh lướt qua. “Nhưng mỗi nơi khác…”

***

“Rẽ trái, ngay bây giờ…” một giọng nói êm dịu từ bảng đồng hồ của chiếc Yugo lên tiếng.

“Cảm ơn, Carlos,” Nellie đáp với một nụ cười toe. “Chị sẽ kết hôn với Carlos. Chị nói anh ấy phải làm gì, và anh ấy chỉ làm điều đó. Không phàn nàn.”

Thiết bị GPS mới của Nellie, cái mà chúng đã đặt tên là Carlos, đang dẫn chúng đi vào thành phố của Johannesburg. Ở gần đó, một cụm những tòa nhà trọc trời bằng kính và thép hướng lên thoai thoải về hướng một cấu trúc mảnh dẻ, duyên dáng như một cây gậy khổng lồ.

Mặt Amy vùi trong một cuốn sách. Con bé đang đọc lớn từ cuốn sách, một thực tế làm cho chuyến đi có vẻ dài khoảng mười lăm tiếng. “‘Đường vòng phía tây N1 là một phần của một hệ thống đường bao quanh thành phố, phần đông đúc nhất của đường xá ở Nam Phi,’” Amy thuật lại. “‘Khi bạn tiến đến Đồi Hiến pháp, chú ý tháp Hillbrow, một trong những kiến trúc cao nhất của Nam Phi, tương tự một phiên bản nhún nhường hơn của tháp Space Needle ở Seattle.’”

“Ừ - Amy?” Dan nói. “Chúng ta đang ở đây. Chúng ta đang kẹt xe. Chúng ta có thể thấy ngọn tháp.”

Amy lờ nó đi. “Hãy tìm lối ra Jan Smuts.”

“Nghe giống như một trong những bạn trai của Nellie,” Dan nói.

Nellie nghiêng tới và đánh nó. “Chị chung thủy với Carlos. Và anh ấy sẽ tìm lối ra cho chúng ta.”

“Smuts – phát âm Smoots một nhà lãnh đạo quân sự người Nam Phi và thủ tướng của Nam Phi,” Amy nói. “Ông ta ủng hộ chế độ apartheid, sự phân biệt chủng tộc. Nhưng vào năm 1948 ông được biết đến là chống lại nó nó – và thất bại cuộc bầu cử. Em có thể tin được không? Ý chị là, những người châu Phi – những người ở đây đầu tiên – bị đối xử như thế? Và em chỉ có thể trở thành tổng thống nếu em đồng ý với nó?”

“Họ có thể đã bỏ phiếu cho những kẻ xấu,” Dan nói, “Giống như chúng ta làm ở Mỹ. Ừm, thỉnh thoảng.”

“Chúng ta không quá làm sạch bong lên,” Nellie nói. “Cha chị – Pedro Gomez – đã bị đuổi khỏi thành phố này đến vùng ngoại ô? Họ ghét những người Mexico tụ tập trên đường – nhưng họ chỉ đang đợi những người nông dân đi thuê họ để làm việc hằng ngày! Bà chị? Bà ấy đã đến sống yên ổn ở phía Nam, đến khi bà ấy thấy dấu hiệu này trên một đài phun nước nói nói rằng ‘Chỉ Da Màu.’ Bà không chắc liệu bà có phải hay không. Nhưng rõ ràng ý tưởng mà bà phải nghĩ về nó thật kinh tởm. Nhóc, tại sao em nghĩ có diễu hành và phản kháng ở những năm năm mươi và sáu mươi hả?”

Dan hồi tưởng lại tất cả những bức tranh trong những cuốn sách giáo khoa và trên một triệu chương trình PBS đặc biệt từng không đánh thức được bà dì Beatrice. “Hồi đó con người ta điên dại,” nó nói.

“Điên dại là thứ gì đó em không thể tránh khỏi,” Amy nói. “Điều này đã được lên kế hoạch. Nam Phi luôn luôn phân biệt chủng tộc, ngay cả trong những ngày thuộc địa. Những người bộ lạc không thể đi vào các thành phố da trắng sau khi trời tối. Họ phải mang giấy phép, hoặc họ bị vào tù. Nhưng apartheid thậm chí không bắt đầu, một cách chính thức, đến, giống như, những năm bốn mươi. Em phải được dán nhãn da đen, da màu, da trắng, Indian. ‘Da màu’ có nghĩ là em trông nửa trắng, nửa đen. Nếu em không phải người da trắng em không thể bầu cử. Em phải sống trong những khu cách ly – giống như những vùng đất dành cho người Indian của chúng ta nhưng được gọi là Bantustan. Em có trường học, bác sĩ và các thứ riêng của mình – hoàn toàn thấp kém. Chính phủ tạo các đất nước Bantustan riêng biệt, vì vậy họ có thể kiểm soát mọi người với luật nhập cư. Em có trạm xe buýt cho người da trắng và trạm xe buýt cho người da màu. Em không thể kết hôn ngoài chủng tộc.”

Đầu Dan quay cuồng. Điều này bằng cách nào đó dường như không có thực. Nó không phù hợp với điều thằng bé đang thấy bên ngoài cửa sổ xe. Nhưng Khi Amy đang liến thoắn như thế này, con bé có những sự thật chắc chắn. Da màu?

“Làm sao chị có thể nói nếu ai đó, giống như, da màu?” Dan hỏi. “Điều đó nghĩa là gì?”

“Họ có những bài kiểm tra,” Nellie nói với một cái nhún vai. “Giống như, nhìn vào màu da của em với màu mẫu? Chị không biết. Thỉnh thoảng hai người trong cùng gia đình được gọi là hai chủng tộc khác nhau. Vì vậy họ phải chuyển đi. Nhóc, mọi người phản đối trong suốt thời gian. Cuộc nổi dậy của các sinh viên Soweto, giống như, những năm bảy mươi? Trẻ con bị cảnh sát giết. Nelson Mandela? Ông ấy bị bỏ tù gần như ba mươi năm. Ông ấy đã suýt chết.”

“Mandela giống như thủ lĩnh lớn,” Dan nói. Nó có thể tưởng tượng ra người đàn ông trên những báo cáo tin tức, tất cả nụ cười và gương mặt tử tế giống như ông chú yêu quý của bạn.

“Bây giờ ông ấy,” Amy nói. “Chính phủ đã thức tỉnh. Người nước ngoài đã dừng đầu tư vào Nam Phi. Những chống đối đang hủy hoại đất nước. Apartheid không kết thúc cho đến năm 1994.”

Dan nhìn ra cửa sổ. Nó cảm thấy ốm yếu nhưng không phải vì chiếc xe. Những quốc gia khác biệt cho những chủng tộc khác biệt… cảnh sát giết trẻ em… 1994? Nó dường như không thực.

Nó thấy những người tất cả màu da rời khỏi các tòa nhà, bỏ việc. Một vài người cúi đầu xuống, một vài người gọi điện thoại. Nếu nó không vì những ngôn ngữ xa lạ, nó đã có thể là nhà.

Khi chiếc Yugo phụt khói trên đồi, nó thấy một bộ sưu tập những tòa nhà lạ lùng và một dấu hiệu chào đón chúng đến Đồi Hiến pháp. Tòa nhà bên trái kiểu dáng đẹp và hiện đại, với một ngọn tháp kính mọc lên từ trung tâm. Một bức tường gần lối vào có dòng chữ Tòa án Hiến pháp bằng những màu sắc và ngôn ngữ khác nhau.

Nellie đỗ xe, và cô nàng cùng Amy đi thẳng đến lối vào tòa án, một cánh cửa gỗ khắc đồ sộ. Nhưng Dan đứng nhìn chằm chằm bên phải, ở một dãy những tòa nhà, bẩn thỉu và lốm đốm những mảng sơn tróc. Một tòa nhà quan sát đổ nát nằm trên một bụi dây thép gai, ở giữa hai tòa nhà lớn hơn. Nó thăng bằng một cách chông chênh, như thể một cú đẩy từ hướng nào cũng có thể làm nó đổ nhào.

“Xin lỗi, cô,” nó tình cờ nghe được một lính gác đang nói chuyện với Amy, “Shaka Zulu đã chết nhiều thập kỉ trước khi nhà tù này được xây dựng. Không có mối liên hệ nào với Shaka ở đây. Những dĩ nhiên cô cứ tự nhiên vào trong để xem bảo tàng.”

“Đi nào,” Amy nói, tóm lấy cánh tay Dan.

Dan lùi lại phía sau con bé và Nellie. “Tuyệt. Một bảo tàng cạnh một nhà tù ở sai thị trấn. Đó là một khởi đầu tốt đẹp.”

“Suỵt,” Amy nói. Chúng bước vào một phòng nghỉ trũng xuống, đầy ánh sáng với những cây cột nghiêng và những bức tường khảm đầy màu sắc. “Có một thư viện ở đây. Chị đã thấy ký hiệu.”

“Gìiii?” Dan bắn lại. “Anh ta nói nhà tù, không phải thư viện! Ôi, em quên mất. Như nhau.”

Amy rẽ trái, sau đó đi theo ký hiệu xuống một hành lang dài đến khi chúng tiến vào một căn phòng cao chót vót với một cầu thang xoắn ốc rộng thênh. “Ta có thể giúp gì cho các cháu?” một người phụ nữ với làn da nâu sáng và mái tóc muối tiêu hỏi. Bà đang đeo một chuỗi ngọc trai trắng đơn giản mà bằng cách nào đó bắt được sắc thái của đôi mắt nâu sâu thẳm của bà.

Amy tự hỏi liệu màu da của bà sẽ được xem là “đen” hay “màu” trong apartheid Nam Phi và ngay lập tức cảm thấy xấu hổ. “Chào cháu là, ừm, Amy và đ-đ-â-â-y là e-e-m t-t-r-a-i cháu, Dan và N-Nellie,” con bé nói.

“Tụi cháu đang tìm kiếm, giống như, thông tin về Shaka Zulu?” Dan nói. “Cả kem nữa. Nếu bà có nó.”

“Người Mỹ - thật hân hạnh.” Người phụ nữ mỉm cười và đưa ra một tay. “Ta là bà Winifred Thembeka, và là thủ thư ở đây. Nơi này là một nơi chủ yếu dành cho thông tin về nhân quyền. Ôi, ta e là chúng ta không có nhiều về Shaka, mặc dùng họ đang lên kế hoạch một cuộc triển lãm trong hai năm tới.”

“Hai năm?” Dan nói.

Bà Thembeka gật đầu thông cảm. “Phòng đọc chính của chúng ta ở trên tầng ba, nếu các cháu muốn dùng nó. Kem được bán trong quán cà phê.”

“Cảm ơn.” Amy lôi Dan về phía cầu thang.

Tầng ba gồm một phòng đọc thoáng khí dẫn đến những chồng sách bất tận. “Em đã nghĩ đây là trung tâm cho nhân quyền,” Dan nói, đang thoát khỏi cái nắm chặt của Amy. “Giờ sao? Chúng ta tìm từng cuốn sách về Shaka và hy vọng chúng ta tìm thấy một manh mối à?”

“Phải có lòng tin,” Amy nói, ngồi xuống một cái máy tính đầu cuối và gõ tên Shaka vào.

Nellie thở dài. “Chị hy vọng em đúng, Amy. Bởi vì Ngài Ben và Jerry Bé nhỏ ở đây có lý. Ý chị là, chị yêu em và tất cả, nhưng chị đang nghĩ rằng nếu trong trường hợp này chúng ta sẽ đi đến kết thúc là sống trong thư viện này.”

Dan ngồi xuống một thiết bị đầu cuối khác, sẵn sàng để tìm bắt đầu cuộc tìm kiếm của riêng nó. Một cuốn sách Đồi Hiến pháp hào nhoáng đặt trên bàn phím, và khi nó đẩy nó qua một bên, nó liếc nhìn tiêu đề. “Lịch sử Đáng hổ thẹn của Số Bốn.”

Lịch sử Đáng hổ thẹn. Cái đó có chút tiềm năng.

Nó bắt đầu đọc:

Để hiểu về lịch sử của những người Nam Phi, sự can đảm và công khai chống lại áp bức của họ, chúng ta bắt đầu với Khu liên hợp Nhà tù Pháo đài Cũ, cũng được biết là “Số Bốn.”

Ban đầu được gọi là Mentonville, nó mở cửa vào năm 1893 mà khi ấy được gọi là Hospital Hill. Một pháo đài được xây dựng quanh nó vài năm sau đó, sau khi những người Anh ngoại quốc (người ngoài) cố gắng để lật đổ chính phủ Boer. Đầu tiên, nhà tù chỉ giam những tù nhân da trắng. “Số Bốn” được xây dựng như một cái gọi là “Nhà tù Thổ dân” cho những người da đen. Những mật thám bị nhổ hết răng. Một số đeo chúng quanh cổ mình. Được xây dựng cho 356 tù nhân, nó nhanh chóng chứa hơn 1100. Những nhóm bạn tù thường xuyên tấn công nhau. Dội nước bồn cầu không được mở đầu đến năm 1959. Đánh đập những thợ mỏ, những nạn nhân của luật apartheid bần tiện, những người phản đối “Vượt Luật”, những sinh viên nổi loạn của 1976 Soweto tăng lên – tất cả đều bị giam ở Số Bốn, cũng như nhiều anh hùng Vận động Quốc hội, bao gồm cả Nelson và Winnie Mandela, Albertina Sisulu và Oliver R. Tambo.

Dan ngưng đọc. Đây là cách họ đối xử với người dưới chế độ apartheid. Thật là lãng phí cuộc sống con người ở Số Bốn!

Số Bốn.

Đầu óc Dan lướt nhanh tới chữ viết tay ở dưới cùng tấm thẻ của Shaka.

Bimrsesoseim Gekk #4

“Amy!” nó thốt lên. “Số Bốn – nhớ chứ? Nó được viết sau cái tên chúng ta đã giải mã? Số Bốn cũng là tên của Nhà tù Cũ!”

Amy nhào qua. “Đồi Hiến pháp, Số Bốn – là nó, Dan!”

Dan tiếp tục đọc, lần này đọc lớn:

“Nhà tù khét tiếng đã có phần chia sẻ của nó về những nhân vật lịch sử: Mahatma Gandhi, vì phản đối điều kiện của người Indian; Winston Churchill, bị giữ ở đây trong khi là một phóng viên chiến tranh trước khi bị chuyển đến nhà tù ở Pretoria. Mặc dù Churchill đã công khai viết về trận chiến Boer trong những cuốn sách của ông trong Từ London tới Ladysmith qua Pretoria Cuộc diễu hành của Ian Hamilton, một vật được giấu đi trong thư từ riêng về Số Bốn được tìm thấy ở Pretoria gần đây. Hầu hết những trang giấy đã bị đánh cắp ngay lập tức, nhưng một trong những tài liệu còn lại được trao cho bảo tàng Đồi Hiến pháp như một vật để lại từ bộ sưu tập riêng của bà Grace Cahill quá cố…’”

Dan ngưng đọc. Sự im lặng tuyệt đối của tầng ba, như thể thậm chí đường ống máy lạnh và điện máy tính đã tắt nguồn. “Grace…” nó nói.

“Dan…” Amy nói. “Đó là cái tên thứ hai? Tên anh em Gekk khác? Em có nhớ nó giải mã thành?”

Dan nhớ lại. “Church Hill…” nó nói. “Churchill!”

“Lỗi in ấn,” Nellie nói. “Nên là hai chữ H, không phải ba.”

“Churchill là một Cahill,” Amy nói. “Một Lucian.”

“Và tài liệu đã từ Pretoria – như trong “Marching to Pretoria,’” Dan nói. “Bài hát Irina đã trích dẫn? Nó chỉ ra nơi tài liệu đã ở. Nhưng Grace đã đến đó đầu tiên!”

Dan gõ tên Winston Churchill. Một danh sách tài liệu xuất hiện, một cái với một dòng văn bản xác định. Dan tìm kiếm cái viết rằng “quà của bà G. Cahill” và nhấn một nút đánh dấu truy cập.

Màn hình ngay lập tức chuyển xanh dương:

Tài sản riêng

Không được xem công khai.
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 15

Biểu hiện Cháu chỉ là một đứa trẻ dễ thương, tò mò độc quyền của Dan luôn mang lại kết quả cho nó. “Tụi cháu có thể xem tài liệu Churchill đó không?” nó hỏi bà Thembeka, với một sự ngây thơ đạt giải Oscar. “Nó sẽ là, giống như, rất tuyệt vời để chạm vào thứ gì đó mà chính Churchill đã viết.”

Nó quay sang Amy để được ủng hộ, nhưng con bé chỉ lơ mơ chú ý. Mũi của con bé đang chúi trong một cuốn sách tiểu sử của Churchill mà nó đã tìm được.

Điện thoại của bà Thembeka bắt đầu kêu bíp bíp, và bà xoay sang cầm nó lên. “Ta rất tiếc, cháu yêu, nhưng những tài sản cá nhân bị giới hạn truy cập. Xin lỗi.”

“Có cố gắng,” Nellie lẩm bẩm.

Đôi mắt Dan lang thang đến những tủ tài liệu trong văn phòng thư viện ngay phía sau bà Thembeka. Giấy tờ hẳn phải trong đó. Nó điên cuồng nhìn quanh tìm bất cứ thứ gì nó có thể dùng để giúp đỡ làm phân tâm người thủ thư. Nhưng đôi mắt nó nhìn chằm chằm vào một thẻ đồng treo ngay trên tủ tài liệu:

Thư viện Đồi Hiến pháp
Trân trọng Cảm ơn vì sự Giúp đỡ
Của Những Nhà tài trợ Hào phóng với
Chiến dịch Xóa mù chữ

***
Ruth Aluwani
Oliver Bheka
Piet Broeksma
Grace Cahill

“Amy, nhìn này!” Dan thốt ra. “Grace! Bà ấy ở khắp nơi trong chỗ này.”

Bà Thembeka liếc nhìn lên Dan. Bà lẩm bẩm điều gì đó vào điện thoại, đột ngột treo điện thoại, và bước ra khỏi phía sau bàn của mình. “Cháu biết Grace Cahill à?” bà nói. Khi bà nhìn từ Dan đến Amy đến Nellie và quay lại, đôi mắt bà mờ đi. “Ôi, trời ơi, ta phải biết chứ. Cháu trông giống bà ấy.”

“Cháu ư?” Dan nói. Nó yêu mến bà ngoại nó, nhưng bà có mái tóc bạc và những nếp nhăn.

“Đôi mắt giống nhau. Và cháu…” bà Thembeka nắm tay Amy. “Cháu hẳn là đứa cháu gái thân yêu mà bà ấy thường xuyên nói đến. Mời ngồi.” Bà chỉ về một chiếc ghế và một chiếc sofa nhỏ và đi đóng cửa văn phòng. “Ta rất tiếc khi nghe về sự ra đi của bà các cháu. Cháu biết đấy, chúng ta đã là những người bạn tốt. Làm sao cháu tìm được chỗ này? Là Robert à?”

Dan nhìn Amy. “Ừm, bọn cháu không biết Robert nào cả.”

Bà Thembeka với tay vào bên trong bàn của bà, lôi ra một chồng hình cũ, và đưa một tấm cho chúng. “Cháu thấy chứ? Cái này là, ồ, mười năm trước.”

Trong tấm hình, bà Thembeka và Grace đứng sát nhau dưới một mái cửa vào rạp hát, trên đó chỉ có thể thấy những chữ bởi Athol Fugard. Da của Grace khá rám nắng. Thực tế, màu da của bà gần như giống hệt của bà Thembeka. “Hai người trông như chị em,” Amy nói.

Bà Thembeka cười. “Có lẽ chúng ta đã từng. Trong tâm hồn chúng ta rất giống nhau.”

Dan búng nhẹ tấm hình và thấy một câu viết mờ:

Lemur vào ban ngày… Aloes vào ban đêm…
Những chuyến phiêu lưu tuyệt vời, những người bạn thân yêu!


Thằng bé đưa nó về phía Amy, nó trông như thể sắp khóc. “Lemur…” nó nói. “Đó hẳn là The Flying Lemur, máy bay riêng của Grace.”

“Chiều hôm đó chúng ta đã bay cả ngày - ồ, bà ấy yêu chiếc máy bay đó! Swaziland, Công viên Quốc gia Banhine ở Mozambique, đổ xăng…”

“‘Aloes’ là gì ạ?” Dan nói.

Bà Thembeka mỉm cười. “Một sự ám chỉ đến vở kịch chúng ta đã xem, A Lesson from Aloes (Một bài học từ cây lô hội). Cây lô hội phát triển mạnh dưới sự thiếu thốn tưởng như tồi tệ nhất – ánh nắng gay gắt, không có nước hàng tháng trời. Nó là một biểu tượng của những người Nam Phi, sống sót mặc dù chế độ apartheid. Một vài giống lô hội có thuộc tính chữa thương đáng chú ý. Grace yêu vở kịch này.”

“Sao bà biết bà ấy ạ?” Amy nói.

“Bà ấy ở trong ủy ban hội đồng thư viện phỏng vấn ta,” bà Thembeka nhẹ nhàng nói. “Họ muốn thuê một người quản lý theo mùa hơn, nhưng Grace đã khăng khăng chọn ai đó nhiệt huyết về nhân quyền. Ta đã có liên quan đến cuộc đấu tranh bởi vì trải nghiệm… của em họ ta Vuyo. Nó đã là một sinh viên ở Soweto…”

Đã.

Giọng bà Thembeka nhỏ dần, và Dan hồi tưởng lại điều Nellie đã nói về cuộc nổi loạn Soweto. Trẻ con bị cảnh sát giết. Nó phải xoay đi.

“Cháu có thể xem qua những cái này không?” Amy hỏi, nhìn chằm chằm vào đống hình.

“Dĩ nhiên, cháu yêu.” Khi Amy hăm hở cầm những tấm hình lên, bà Thembeka mở một hộc tủ khác. “Vài tháng trước, Grace đã để cho ta một tin nhắn điện thoại. Bà ấy nghe có vẻ yếu, nhưng ta không biết bà ấy đang chết dần. Bà ấy đã cảnh báo ta về tài liệu Churchill. Bà đã bảo ta cho nó vào danh sách bảng mục lục chỉ giới hạn nghiêm ngặt nó cho các học giả và con cháu trực tiếp của bà. Bằng sự nhận dạng xác thực.” Bà Thembeka nhún vai, trông hơi xấu hổ. “Đó là một lời thỉnh cầu ngớ ngẩn, điều gì mà chúng ta chưa từng làm – thành thật, ta không tưởng tượng ra bất cứ thư viện nào sẽ như vậy. Nhưng bà ấy đã khăng khăng. Bởi vì bà đã làm quá nhiều điều cho chúng ta, hội đồng chấp thuận. Vì vậy, mặc dù ta ghét phải hỏi, ta sẽ cần thấy bằng chứng…”

“Cháu nghĩ cháu có thẻ học sinh.” Dan lần mò trong túi của nó. Nó lôi ra một vỏ Mars Bar nhàu nát, sợi dây lòng thòng nào đó, một viên kẹo Starburst vị anh đào, vài mẩu nhựa trống không thể nhận dạng, và hộ chiếu Úc của cha nó. Nó hoảng loạn một lúc, đến khi nó nhận ra một khóc của thẻ học sinh của nó lòi ra từ đó.

Nó mở hộ chiếu và đặt phẳng nó. Thẻ học sinh của nó dính vào một trang bên trong. Thằng bé tách nó ra để lộ tấm hình hộ chiếu của cha nó và một cái tên giả, Roger Nudelman. “Của bà đây!” Dan nói, giơ tấm thẻ ra.

Nhưng bà Thembeka bị thu hút vào tấm hình, đôi mắt bà mở to. “Nudelman…?” bà nói. “Cháu đang làm cái quái gì với hộ chiếu của Nudelman?”

“Ồ,” Dan nói. “Đó thực sự không –”

Amy đạp mạnh vào chân nó dưới bàn. Dan sắp sửa đập manh lên đầu con bé, nhưng nó bắt được cái liếc của con bé và ngay lập tức đọc được điều gì phía sau đôi mắt nó. Bà ấy rõ ràng không biết cha, và hẳn là có một lý do tốt cho việc đó, chúng đang nói.

“Ông ấy là người… người tìm kiếm trong tháng của cháu,” Dan ứng khẩu. “Cuốn hộ chiếu đã nằm trên sàn ở sân bay.”

Dan nghĩ nó có thể thấy bà Thembeka rùng mình. “Vậy thì ta sẽ tiêu hủy nó,” bà nói. “Và nếu cháu đã tìm thấy của vợ ông ta, tiêu hủy nó luôn. Mặc dù nó có lẽ sẽ không giúp gì. Những cuốn hộ chiếu giả mạo chẳng là gì với những kẻ giết người và trộm cắp.”
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 16

Những kẻ giết người? Trộm cắp? Đây phải là một sự nhầm lẫn.

Những cái tên trên hộ chiếu dường như có vẻ hơi ngớ ngẩn đối với Amy, nhưng không quen thuộc. Có lẽ cha đã nhầm lẫn chọn tên của một tên trộm Nam Phi.

Amy liếc nhìn Dan, nhưng nó đang nhìn chằm chằm vào tấm ảnh. “Cháu – cháu không nghĩ –” nó lắp bắp.

“Thành thật, ta không thể tưởng tượng được làm sao cuốn hộ chiếu này lại nằm trên sàn sân bay,” bà Thembeka nói khi bà mở một tủ tài liệu. “Ta cho rằng, nhà Nudelman là những người Úc, nhưng họ đi khắp thế giới chè chén. Ấn Độ, Indonesia, Nam Phi…”

Ấn Độ, Indonesia, Nam Phi… Tuyến đường đi tìm Amelia Earhart của Arthur và Hope.

“Họ đã làm gì ạ?” Nellie nài nỉ.

“Không dùng những hình ảnh chi tiết,” bà Thembeka nói, “đủ để nói, những tội ác tàn bạo mà không có động cơ. Lục soát những tòa nhà và không để lại ai sống sót. Thật may mắn là không ai thấy họ nhiều năm trời. Ta cho là họ đã chết… nhưng, à, đây rồi!” Bà nhấc một tài liệu từ hồ sơ và đặt nó lên bàn. “Cháu có thể sao chép nó, nếu cháu hứa giữ nó cho mình.”

“Nhưng – còn về –” Dan bắt đầu.

Amy chặn Dan với một cái nhìn trừng trừng.

Một sự nhầm lẫn. Là vậy đấy. Rõ ràng và đơn giản.

“Cảm ơn,” Amy nói. “Bọn cháu sẽ sao chép một bản.”

***

Dan chạy khỏi tòa nhà. Nó đang run rẩy.

“Chờ đã!” Amy nói, nắm chặt một phong bì bằng giấy cây chuối sợi.

Nellie theo sát phía sau. “Nhóc, em đang run kìa,” cô nàng nói, đặt một tay lên vai Dan.

“Xin lỗi!” Dan hít một hơi thở sâu. “Chỉ là… bà ấy đã gọi họ… những kẻ giết người.”

“Bà ấy già rồi. Thị lực kém,” Nellie trấn an.

“Sao bà Thembeka không biết cha trông thế nào nếu bà ấy và Grace là bạn bè tốt chứ?” Dan hỏi.

“Như chị đã nói, già cả,” Nellie nói. “Ông bà già. Người ta không thích khoe những tấm hình của con cái lớn lên của họ. Điều đó, như là, vì cha mẹ của những đưa trẻ nhỏ.”

“Vậy… cha đã chọn dùng tên của một gã xấu xa nổi tiếng trên hộ chiếu của ông ấy ư?” Dan hỏi. “Tại sao?”

“Có lẽ ông ấy không biết Nudelman là ai,” Amy nói. “‘Toger Nudelman’ – đó là kiểu tên ngu ngốc mà cha sẽ luôn bịa ra. Nhớ Oscar Schmutz, tên pháp sư móng tay bẩn chứ?”

Dan lắc đầu buồn bã. “Không.”

Amy nhìn chằm chằm vào mắt Dan. “Em nhớ gì về họ, Dan – mẹ và cha?”

“Gần như không có gì,” Dan nói, đôi mắt nó ngấn nước.

“Dan, nghĩ đi,” Amy nói. “Em đã nói với chị em không nhớ họ trong đầu em, nhưng em nhớ mọi nơi khác. Những ký ức đó là gì?”

Dan đang thở một cách khó nhọc. “Những câu chuyện ngu ngốc. Sô cô la nóng trên bàn bếp màu trắng. Những bài hát vào buổi tối. Mùi của đồ giặt sạch sẽ. Những cánh tay lớn ôm lấy em…”

“Khi em khoảng hai tuổi,” Amy nói, “chị đã nghe thấy cha nói với mẹ, ‘anh chỉ muốn được bốn mươi ba tuổi. Vậy thì thằng bé sẽ lên tám, và nếu anh chết, ít nhất nó sẽ nhớ anh là ai.’ Chị đã không nên nghe nó, và nó làm chị sợ. Mẹ đã nói với cha rằng ông bệnh hoạn quá. Chị sẽ không bao giờ quên điều mẹ nói tiếp theo. ‘Những đứa trẻ nhớ những tâm hồn, Arthur.’ Vì thế suốt chừng một năm gì đấy chị đã cố gắng đặt em gần đôi giày của cha. Chị đã nghĩ mẹ đã nói đế giày[1]. Được rồi, chị nhận ra ý của bà ấy là gì – nhưng phải cho đến tận bây giờ chị mới thực sự hiểu được. Những điều em đã nhớ đó? Đó là ý của mẹ.”

“Những người như cha mẹ các em,” Nellie dịu dàng nói. “không thể làm những điều xấu xa như thế.”

“Irina chuyển sang có một tâm hồn tốt,” Dan nói. “Và cô ta đã có thể làm những điều rất xấu xa.”

Amy đặt tay mình lên vai Dan. “Irina đã tìm thấy sự tử tế của mình muộn màng. Mẹ và cha đã có nó rồi.”

“Đúng,” Dan nói. “Điều đó đúng. Giờ chúng ta có thể đi chưa?”

Khi nó đi về chiếc xe, nó mở bản sao bức thư của Churchill.

Amy khoác tay Nellie. Con bé hy vọng Dan có thể buông điều này xuống. Nó cũng hy vọng nó có thể.

Trong bãi đỗ xe, Dan bày bản sao bức thư lên ghế sau. “Kiểm tra cái này…” nó nói trong sự sợ hãi.

39clues_7_(08).jpg



(Bản dịch của bức thư:
Từ bàn của Winston Leonard Spencer-Churchill
11 tháng Năm 1900
M_C_ yêu quý của tôi,

Mặc dù lòng trung thành của tôi với nước Anh & sự nếm trải rối loạn cuối cùng đã kéo tôi vào cuộc xung đột Anglo-Boer, tôi khen ngợi bà vì thuyết phục rằng giờ công việc báo cáo chiến tranh của tôi bắt đầu ở đây. Sự mất mát của tôi trong cuộc bầu cử, như bà nói, là một vết sẹo được dũng cảm mang theo & chắc chắn có ý củng cố tôi, cũng như những rắc rối của đội quân của chúng ta với những Boer hùng mạnh sẽ làm vững chắc thêm cho nó. Phải, tôi đã thoát khỏi việc bị tống giam từ Trường Chuẩn của Pretoria, đến nơi người ta sẽ mang tôi đi, thật may mắn, ở H. Hill. Một người không thể nói gì cho cái hố bẩn thỉu ở Johannesburg đó, một nơi còn kinh khủng hơn rất nhiều chỗ ẩn nấp hôi thối của tôi ở hầm mỏ của Withbank, hậu trốn thoát (nơi tôi quả thật có thể khám phá ra một phát hiện, được ghi trong tài liệu này!).


Tôi gửi bà bức thư này.
Với cả trái tim của mình,
Winnie

Sợi dây không bị đứt sẽ đưa
mong muốn của bà vào bức thư, nếu bà
đi xuống liên tục, từng bước một.)


“Cái này là một sự giúp đỡ to lớn,” Dan nói một cách chán ghét.

“H. Hill,” Amy nói, lướt qua cuốn tiểu sử Churchill của nó. “Đó hẳn có nghĩa là Hospital Hill. Đó là thứ họ từng gọi Đồi Hiếp pháp hồi đó.”

“Đúng. Và Churchill ghét nó.” Nellie nhún vai. “Không có cú sốc nào lớn hơn ở đó.”

“Trong đây nói rằng Churchill bị đưa đi từ nhà tù ở đây và chuyển đến một nơi gọi là Staatsmodel, hay Trường Chuẩn, ở Pretoria,” Amy tiếp tục.

Dan gật đầu. “Nơi mà ông viết bức thư này. Nơi nó ở đó nhiều năm đến khi Grace gửi nó đến Đồi Hiến pháp.”

Amy tiếp tục đọc cuốn sách của nó. “Được rồi. Họ đã sử dụng trường học đó ở Pretoria như là một nhà tù. Churchill đã leo qua một bức tường cao ba mét và thoát đến một thị trấn mỏ được gọi là Witbank, nơi ông trốn đến khi ông có nhảy lên một chiếc xe tiếp tế. Tất cả nó ghi lại với phần văn bản trong lá thư này!”

Dan tựa lại gần. “Đoạn ở cuối là gì? ‘Sợi dây không bị đứt sẽ đưa mong muốn của bà…’?”

“Một sợi dây không bị đứt có thể có ý, như là, vĩnh viễn,” Amy nói, lướt qua danh mục cuốn sách của nó.

“Hoặc một vòng tròn,” Dan gợi ý. “Hoặc một cái hộp hoặc một tứ giác hoặc bất cứ lại hình dạng đóng nào!”

Amy liếc nhìn phía trên cùng bức thư. “Ai là M_ C_?”

“C là Cahill!” Dan thốt ra. “Có lẽ ông ấy đang viết cái này cho, giống như, bà cố của chúng ta. Chúng ta có biết tên tên riêng của bà ấy không?”

“Không,” Amy nói, bước đi tới lui. “Được rồi, hãy suy nghĩ kỹ điều này. Gã ở sân bay đã đưa cho chúng ta mật mã dẫn chúng ta đến đây. Bằng cách nào đó, ông ta có liên kết với tất cả những thứ này. Grace để lại một tài liệu bí mật ở đây cho chúng ta, một tài liệu bị trộm từ Pretoria và được viết bởi một Cahill.

Nhà Holt có lý do để tin rằng có một manh mối Tomas được giấu ở đâu đó ở Nam Phi –”

“Phải – và Churchill biết nó là cái gì!” Dan nói. “Đó là điều Grace đang cố gắng cho chúng ta thấy. Có lẽ vị chí của manh mối đã chết cùng Churchill. Hãy nhìn điều mà Winnie Già đã viết ở cuối tin nhắn.”

“Những hầm mỏ của Witbank…” Amy đọc, “‘nơi tôi quả thật có thể khám phá ra một nhận thức rõ …’ Một Cahill viết cho có thể một Cahill khác về khám phá ra một phát hiện. Nghe giống như một manh mối đối với chị.”

Amy cảm thấy hơi đau đầu. Grace đang nói chuyện với nó từ nấm mồ - bà ấy có biết manh mối ở đâu không?

Nellie trượt vào chiếc Yugo và bắt đầu gõ nhẹ thiết bị GPS mới của mình. “Carlos, thân yêu, đưa chúng tôi đến Witbank.”

***

Mất lâu hơn mong đợi để tìm ra Witbank, chủ yếu bởi vì tên chính thức của nó đã được đổi thành Emalahleni và không ai nói với Carlos. Cũng không ai nói với Carlos rằng anh ta nên là một cái máy lạnh, theo hiểu biết của Dan, điều đó thậm chí còn tồi tệ hơn.

Sau vài câu hỏi lúng túng ở trạm xăng, họ đang lái xe về khu mỏ bỏ hoang nơi Churchill đã lẩn trốn.

Amy lại đang đọc. Liên tục.

“‘… một thị trấn đã xây dựng trên nguồn cung cấp mỏ giàu có của nó, Witbank là nhà của những người có cảm tình với người Anh những người đã giấu Churchill sau cuộc trốn thoát liều lĩnh của ông từ Trường Chuẩn…’” Amy đọc.

“Điều này là trước khi ông ấy trở thành… chị biết đất, một gã mập nổi tiếng,” Dan nói.

“Thủ tướng Anh,” Amy sửa. “Trong suốt Chiến tranh Thế giới Thứ Hai.”

Nellie đỗ xe trong một bãi đậu nhỏ. Một ngôi nhà ở gần đó và phía sau nó một khung cảnh khô cằn được đánh dấu với những đống bụi bẩn. Chúng đi qua cánh cửa mở.

Bên trong tòa nhà, một người đàn ông gầy, nhăn nheo với một chiếc bút chì phía sau tai ông chơi cờ với một thiếu niên.

Khi ông ta quay lại, Amy bắt đầu cà lăm. Im lặng. Đó là một sự kỳ công chỉ Amy có thể xoay sở, và chỉ Dan có thể chú ý.

Và nó chỉ xảy ra trước những anh chàng trông giống anh bạn này. Anh ta có mái tóc màu nâu và đôi mắt màu caramel, giống như bạn của Dan Nick Santos, nó đã biến tất cả những cô nàng lớp sáu thành những kẻ ngốc ba hoa ngớ ngẩn khi nó nhìn theo họ – thực tế, ngay cả nói Xem kìa, mấy anh chàng tốt mã biến mấy cô nàng thành những kẻ ngu ngốc và sau đó cậu ta sẽ làm thế. Chỉ là lớn hơn.

“Cậu. Ta. Quyến. Rũ,” Nellie nói dưới hơi thở.

“Chị cũng vậy à?” Dan rít lên.

“Chiếu!” Ngài Quyến Rũ tuyên bố.

“Ôiii,” Amy xoay sở.

“Ừm, chúng tôi đang tìm địa điểm trốn thoát của Churchill?” Dan nói.

Người đàn ông rên rỉ và đứng lên khỏi ghế. “Nó ở phía sau. Các cháu sẽ thấy tấm biển. Cháu sẽ giúp họ chứ, Kurt? Chúng ta sẽ có trận tái đấu khi cháu trở về từ cuộc diễn tập hợp xướng ngày mai.”

Anh chàng mỉm cười – gần như là với Amy.

“Xin lỗi, trái tim của chị ấy thuộc về Ian Kabra,” Dan nói, mong chờ điều gì đó trong biểu hiện của con bé làm nó nhận ra trái tim con bé không hề thuộc về Ian ngay bây giờ.

Kurt nở một nụ cười lúng túng. “Đi lối này,” anh ta nói, phô ra chiều cao đầy đủ của mình, ít nhất phải mét chín. Amy nhìn anh ta đi nghênh ngang đến cánh cửa.

“Churchill đã lẩn trốn khỏi các Boer trong đường ống mỏ này sau vụ trốn thoát của ông ấy,” Kurt nói, “đến khi ông ấy được vận chuyển lậu trong một chiếc xe tiếp tế.”

“Ông ấy đã, giống như, để lại bất cứ tin nhắn nào ở đây không?” Dan nói. “Anh biết đấy, những lá thư viết cho ai đó bên trong mỏ? Với những điều về, ừm, vị trí và các thứ?”

Kurt cúi người gần Dan hơn. “Nghe giống như cậu em biết bí mật – rằng tất cả những câu chuyện Churchill là một lời dối trá.”

“Đúng, chính xác,” Dan nói, diễn theo và cố gắng để không trông như một thằng ngốc. “Một lời dối trá hoàn toàn. Em biết điều đó.”

“Một lời dối trá-a?” Amy rít lên.

“Churchill là một điệp viên hai mang,” Kurt thì thầm. “Đó là lý do tại sao ông ấy ở Nam Phi. Không phải làm một phóng viên. Để tìm kiếm những bí mật.”

“Một điệp viên hai mang cho những người Boer ư?” Nellie hỏi.

“Ai đó khác,” Kurt nói. “Nhóm nào đó. Ông ấy đã để lại một ký hiệu trên một tấm vải cắt nhỏ chúng tôi có ở bên trong. Hai con rắn và một thanh gươm, với một chữ L lớn. Vẫn chưa khám phá ra nó. Nhưng ông ấy đang tìm kiếm thứ gì đó. Và ông ấy đã trao đổi tin với những điệp viên của mình, trong những đường hầm. Tôi biết, bởi vì ông ấy đã để lại một tin nhắm trên tường.”

Dan liếc nhìn Amy và biết con bé đang nghĩ về cùng thứ mà nó nghĩ. L – Lucian.

“Nó nói gì?” Dan nói.

Kurt nhún vai. “Anh đã thấy nó khi anh còn là một cậu bé. Anh từng dành hàng giờ dưới đó, tập luyện ca hát nơi mà không ai có thể nghe thấy anh.” Anh ta mỉm cười với Amy. “Anh từng khá nhút nhát.”

“Bức tường này ở đâu?” Dan hỏi. “Tụi em có thể thấy nó không?”

“Em bị hen suyễn,” Amy nói. “Những hầm mỏ đầy bụi.”

“Cái hang ở Seoul cũng vậy,” Dan nói. “Em đã ổn!”

“Ừm, xem đi,” Kurt nói, chỉ về phía một cấu trúc ọp ẹp, một khu vực được rào chắn đánh dấu giới hạn. “Đã có vài việc xảy ra với hầm mỏ đó. Nhìn vào đó sai cách, và thứ gì đó bên trong sụp đổ. Họ lên kế hoạch làm sụp nó sớm thôi.”

“Vậy… chúng ta không thể vào trong à?” Dan nói.

“Chắc chắn, nếu em đang tìm kiếm đám tang miễn phí,” Kurt đáp. Anh ta nháy mắt với Dan, sau đó xoay sang Amy. “Em biết chơi cờ không?”

“M-m-ộ-t c-h-h-ú-t,” Amy lắp bắp.

Hoàn hảo. Dan không thể tin vào vận may của mình.

“Chị ấy tuyệt lắm,” Dan nói. “Chị ấy sẽ tiêu diệt anh!”

“Anh chấp nhận thách thức,” Kurt duyên dáng nói. Dan không thể tin được – Kurt thực sự thích chị nó ư?

Đỏ mặt, Amy theo Kurt vào tòa nhà. Và Dan đi từ từ ra phía sau.

Về phía hầm mỏ bỏ hoang.


Chú thích:

[1] Amy nghe nhầm soul (tâm hồn) thành sole (đế giày)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 18

Amy không thể tin điều đó.

Có điều gì đó đã xảy ra giữa nó và Kurt. Con bé thực sự không thể giải thích điều đó. Phải, chúng đã chơi cờ. Nhưng đã có nhiều hơn thế. Giống như tất cả các giác quan của nó đã đột nhiên được cắm phích.

Lần đầu tiên trong nhiều tuần, nó đã có thể nghĩ về thứ gì đó khác cuộc săn tìm.

Sau đó, chỉ như là, nó phải đi.

Chỉ có đủ thời gian cho một lời tạm biệt.

“Chúc may mắn,” Kurt đã nói với nó.

Nhưng tất cả nó cảm nhận được là sự không may của khoảnh khắc.

Và sau đó có việc hủy hoại tin nhắn Churchill của Dan.

“Sao em có thể làm thế?” nó hỏi khi Nellie đưa chúng đi khỏi mỏ Witbank… và Kurt.

Em trai nó nhìn nó hoài nghi. “Thôi nào, Amy. Chị không nghĩ rằng chỉ bởi vì em xé nó đi –”

“Chị biết, chị biết, em đã nhớ nó!” Amy nói. “Đó là Chương trình Thể dục Tâm trí Dan Cahill. Nhưng đó không phải là lý do! Sao em có thể làm trò liều lĩnh ngu ngốc không thể tin được đó trong hầm mỏ? Em có thể đã chết! Một lần nữa!”

“Em đã tìm thấy thứ mà không ai khác đã tìm được trong hàng trăm năm,” Dan nói, “vậy có lẽ chị nói, như là, cảm ơn?”

“Thằng bé cũng lừa hai người kia nghĩ rằng tờ giấy không có nghĩa gì,” Nellie nói.

“Chị cũng chỉ xấu xa như nó!” Amy phản lại.

Dan giơ một ngón tay ra. “Winston Churchill từng nói, ‘Trong thời gian chiến tranh, sự thật đáng giá đến nỗi nó phải luôn được chăm sóc bởi một đội bảo vệ những lời nói dối.’”

“Sao em biết điều đó?” Amy hỏi.

“Nó ở ngay đó, trên trang mà cuốn sách của chị mở,” Dan nói, chỉ về cuốn tiểu sử trên ghế xe. “Churchill là về tất cả những tin nhắn bị ẩn giấu đi. Ông làm việc với những nội gián. Em đã nhốt nhóc này vào đầu em rồi, chị gái.”

Trên trang trống khác mà Nellie đã đưa cho nó nó viết ra thứ mà nó đã tìm thấy trong hầm mỏ:

AM LOST,
TIRED, GONE IN,
DRIVEN NOUGHT.
WE HIT
A SHARK
- O CONFUSED LETTERS
FLEE, LOVER, FROM THESE LINES!
WLSC -29.086341/ 31.32817

“Churchill không hề điên khùng,” Dan nói. “Và ông ấy không say xỉn. Em cá tất cả những thứ này có nghĩa gì đó.”

Amy nhìn chằm chằm các từ. “‘Chúng tôi đã đánh một con cá mập’?”

“Chị sẽ mua cái kịch bản ngớ ngẩn,” Nellie nói.

“Được rồi, được rồi, nó nghe hơi lạ lùng, nhưng hãy nghĩ đi,” Dan nói. “Đó không phải là điều chị làm khi chị bị một con cá mập tấn công – đập vào mũi nó ư?”

“Churchill chỉ vừa thoát khỏi nhà tù, đúng chứ?” Nellie nói. “Vì vậy nó là biểu hiện người Anh gì đó cho chiến thắng. Giống như, ‘Hô hô, chúng ta thực sự đánh một con cá mập ở đó, phải không, ông tướng?’ Rất Kabra, em không nghĩ vậy à?”

“Dan?” Amy nói. “Nhớ mật mã chúng ta đã phải giải ở chỗ của chú Alistair, để mở cửa sập ở sân sau của ông ấy chứ? Nơi mà gợi ý thực sự là một trò chơi với các từ? Điều gì nếu cái này thực sự là hai phần – phần trên là mật mã, và phần dưới là hướng dẫn để giải mã nó?”

“Hmm…” Dan nhìn vào dòng cuối cùng của tin nhắn. “Vậy, “O những chữ cái lộn xộn’ sẽ là phần của gợi ý.”

“Phải, và ‘lộn xộn’ có thể là một mật mã cho ‘bị làm rối lên.’ Những chữ cái bị làm rối lên có nghĩa là một phép đảo chữ,” Any nói. “Và ‘flee’ (bỏ đi) – nó có cùng nghĩa với ‘leave’ trong câu đố của chú Alistair. Em phải lấy gì đó đi, như là một chữ cái hay từ…”

“Lover (Người yêu)!” Dan nói. “Là nó. Ông ấy không có ý là người yêu thực sự. Ông ấy có ý là từ l-o-v-e-r! Và ‘từ những dòng này’ – năm chữ cái, năm dòng! – đợi đã, em nghĩ em biết…”

AM LOST, - L = AMOST
TIRED, GONE IN, - O = TIRENDGNEIN
DRIVEN NOUGHT. - V = DRIENNOUGHT
WE HIT - E = WHIT
A SHARK - R = ASHAK

Dan gõ đầu. “Agggh, nó là tiếng Hà Lan.”

“Chị không nghĩ vậy,” Amy nói. “Churchill là một người Anh, không phải Boer. Vì vậy giờ chúng ta phục hồi trật tự các từ. Được rồi, từ cuối cùng thứ hai đơn giản – with.”

“Shaka!” Dan thốt ra. “Đó là từ cuối cùng! Vậy những từ cuối là with Shaka! Được rồi, em sẽ hiểu phần còn lại của nó trong hai phút. Tính giờ cho em. Tới nào.”

Nhưng Amy đang nhìn chằm chằm vào từ đầu tiên rồi. “Dan, chị nghĩ chúng ta vớ bở rồi.”

Gương mặt Dan sáng lên, cái cách nó sáng lên bất cứ khi nào siêu thị trữ kem Red Sox. Chậm chạp, nó tấn công câu đố và không dừng lại đến khi nó hoàn thành:

AMOST = TOMAS
TIREDGNEIN = INGREDIENT
DRENNOUGHT = IN THE GROUND
WHIT = WITH
ASHAK = SHAKA

“Tomas ingredient in the ground with Shaka (Thành phần Tomas ở trong đất với Shaka)!” Dan thốt lên.

“Đó là ba phút bảy giây,” Nellie nhận xét.

“Ông ấy đã biết!” Amy nói. “Churchill đã biết vị trí của manh mối Tomas!”

“Ông ấy hẳn đã tìm ra trong khi ở tù,” Dan nói. “Hoặc có lẽ có một Cahill điều hành mỏ.”

“Vậy… manh mối hẳn được chôn với xác của Shaka,” Amy nói.

Giờ chúng ta đang nói chuyện!” Dan trả lời.

“Ôi,” Nellie gọi từ ghế trước. “Chúng ta phải đào một cơ thể lên?”

“Dan?” Amy hỏi. “Shaka được chôn ở đâu?”

Dan lôi cuốn sách Shaka của nó ra và đọc lướt tới cuối. “Ừm, không ai chắc chắn một trăm phần trăm. Nhưng truyền thuyết nói là ông ấy đã bị giết ở một nơi gọi là Durban, nó ở tỉnh KwaZulu-Natal.”

“Nó ở, ừm, ở đâu?” Nellie nói.

“Đi qua tỉnh Mpumalanga,” Dan đáp.

“Cảm ơn rất nhiều.”

Nhưng Dan đang nhìn vào dòng cuối của tờ mật mã. “Một điều thôi. Những con số xổ số này thì sao?”

Amy nhìn sát chúng. “Chúng trông như tọa độ kinh độ/vĩ độ. Chúng ta có thể tìm ra nó ở đâu không?”

Dan bắt đầu nghịch vớ vẩn với GPS. “Có Carlos, sẽ di chuyển.”

***

Điện thoại reo ngay khi giáo khi Robert Bardsley đang nghe đoạn cuối của bản giao hưởng của Mahler “Resurrection”. “Ôi, Winifred thân yêu?” ông nói, lau đi một giọt nước mắt khi ông cầm ống nghe lên. “Bà đã bắt được tôi trong lúc xúc động.”

Khi ông nghe giọng nói ở đầu bên kia, những giọt nước mắt của ông ráo hoảnh. Ông tắt nhạc. “Bà đã gặp ai? Phải, tôi biết bà ấy có cháu ngoại – bao nhiêu tuổi? – thật tuyệt. Buồn làm sao việc bà ấy đã ra đi. Vậy bà đã cho chúng xem bức thư của Churchill à? Aha… phải, tôi cũng không biết tại sao phải giữ bí mật. Đúng hơn là một bài thơ tình nhạt nhẽo, nếu bà hỏi tôi. Ồ, tôi chắc chúng là những đứa trẻ xuất sắc. Pah, không phải lo lắng, việc sao lãnh để đưa chúng thông tin liên lạc của tôi ổn cả. Tại sao chúng muốn gặp một viện sĩ già nhàm chán như tôi chứ? Cảm ơn vì cuộc gọi… phải đó tiệc trà, có lẽ khi tôi ở Joburg vào tháng Bảy. Phải, chúc ngủ ngon.”

Treo điện thoại lên, giáo sư Bardsley gói lại vài đĩa CD, một cái kính thiên văn, một ống sáo chỉnh âm điệu, và một bộ kính hồng ngoại trong một túi vải và nhìn ra cửa trước. Đường phố vắng vẻ, như ông có thể thấy. Nhưng ông sẽ cần cảnh giác.

Ông cúi vào lại, gọi một số, và gặp giọng thư thoại. “Xin chào, Nsizwa, Bardsley đây. Tôi sẽ cần anh tiếp quản buổi diễn tập sáng mai, bởi vì tôi bị gọi đi cả ngày.” Ngừng lại một lúc, ông thêm vào, “Hãy nghĩ về điều đó, tôi sẽ cần nhóm. Anh sẽ sớm nghe từ tôi…”

Trên đường rời khỏi, ông cầm lên một chiếc mũ mềm trên đầu tủ quần áo của mình, và một con dao đi săn.
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 19

“Kết thúc một câu với một giới từ,” nhân viên ở bảo tàng Shaka ở Durban nói, “là điều mà tôi sẽ không tha thứ!”

“Nói gì ạ?” Dan không có tâm trạng cho điều này. Chuyến đi tối hôm trước đã mất hàng tiếng đồng hồ. Và giờ, sau vài giờ ngủ ở Durban, trung tâm của tỉnh KwaZulu-Natal, và một chuyến đi đến bảo tàng, tất cả nó hỏi là phòng tắm. Không phải là một bài học ngữ pháp.

Người hướng dẫn mỉm cười. “Cậu là những người Churchill, không à? Cậu không nhận ra câu trích dẫn của anh hùng của cậu ư? Ông ấy nổi tiếng vì nói điều đó với ai đó giống cậu. Cậu đã nói, ‘Where is the bathroom at (Phòng tắm ở?)?’ Đây là kết thúc một câu với một giới từ! Rất tệ!”

“Ừm, cháu phải đi, thưa ngài…” Dan nói.

“Cole,” người đàn ông nói. “Cửa đầu tiên bên phải cậu.”

Trên đường vào, Dan suýt nữa đụng phải một ông lão có gương mặt gần như xương xẩu. “Xin lỗi, ông.”

Cuối cùng khi nó nhẹ nhõm đi, Dan nhảy lùi ra ngoài. Ông lão, di chuyển rất chậm, thậm chí không băng qua căn phòng.

“Qua nhiều năm, thỉnh thoảng,” ông Cole đang nói với Nellie và Amy, “một vài người đã hỏi thăm về mối quan hệ giữa Churchill và Shaka Zulu. Cha tôi không thích những khách viếng thăm này lắm.” Ông chỉ về phía ông lão.

“Ừm, Churchill không thể có quan hệ với Shaka,” Amy chỉ ra. “Ông ấy sinh ra sau gần năm mươi năm Shaka chết.”

“Thật vậy,” ông Cole nói. “Chúng tôi đã nói đi nói lại điều này với các vị khách. Sau đó, một ngày, sau một chuyến viếng thăm, một trong những tài sản quý giá của chúng tôi biến mất – một cái khiên rất lớn thuộc về Shaka. Cha tôi đã trực vào lúc đó, và ông ấy đã không bao giờ tha thứ cho bản thân.”

“Tấm khiên những gã này đã lấy đi?” Dan nói, lôi tấm thẻ Shaka của nó ra khỏi túi và xoay nó về phía người đàn ông. “Nó trông giống vậy à?”

Ông Cole gật đầu. “Rất giống.”

“Và nhóm này – chúng có tình cờ, như là, đông không ạ?” Dan nỏi. “Và, như là, ồn ào và hống hách?”

Nó không nhận thấy ông lão đã gần như tới chỗ chúng. Ông ta đang cau có, và khi ông nói, giọng ông là một tiếng the thé thì thầm. “Tại sao cậu muốn biết về Churchill?” ông hỏi.

“Cha, làm ơn, đây là những đứa trẻ, không phải những kẻ trộm.” Ông Cole mỉm cười xin lỗi. “Ông cố của tôi – ông nội của cha tôi – biết Churchill.”

“Churchill là kẻ lén lút,” ông lão nói. “Bị ám ảnh với Shaka. Đó là lý do ông ta đi đến Nam Phi. Không phải để báo cáo. Không phải để chiến đấu. Để tìm ra isipho.”

Dan thận trọng liếc nhìn chị gái nó, sau đó trở lại nhìn ông lão, đôi mắt ông đang đỏ lên. “Isipho?”

là thứ gì đó Shaka đã đưa cho những người châu Âu,” ông lão nói. “Họ đã cứu mạng ông ta với thuốc của họ, và ông ta nghĩ họ có sức mạnh ma thuật. Nhưng họ cũng đang tìm kiếm thứ gì đó. Thứ gì đó Zulu có. Thứ gì đó người châu Âu đã lấy và biến đổi thành một loại thuốc. Người ta nói nó để khuếch trương sức mạnh của ông ta.”

Đôi mắt Amy đang nói chính xác điều Dan đang nghĩ. Nghe như Cahill.

“Một lo-oại thuốc?” Amy hỏi.

“Dĩ nhiên, vô lý!” ông lão đáp lại. “Nhưng họ nói Shaka có thể là một trong bọn họ - gia đình của họ. Shaka đã tin tưởng họ! Ông ấy không nên tin tưởng ai cả! Shaka nên đưa aniklwal cho Fynn.

“Cha, làm ơn, đừng để chúng ta lại bắt đầu,” ông Cole nói. Khi ông dẫn cha mình trở về lại phòng trưng bày, ông ấy trao cho Dan một cái nhún vai xin lỗi. “Cứ tự nhiên khám khá.”

***

“Nhà Tomas!” Amy nói khi Nellie lên xa lộ. “Đó là người mà ông Cole đang nói tới.”

“Những gã cơ bắp hỏi về Shaka và Churchill,” Nellie nói. “Điều đó có lý.”

“Và đánh cắp một cái khiên chỉ tình cờ có huy chương của Tomas trên nó,” Dan nhận xét, mũi nó chúi vào cuốn tiểu sử Shaka của mình.

“Nhớ điều mà ông Holt đã rên rỉ về,” Amy nói. “Các Tomas khác đang tìm manh mối, vân vân? Chị đã nghĩ ông ấy đang bị hoang tưởng, nhưng có lẽ ông ấy đúng. Có lẽ những tên trộm đến bảo tàng này là những người cuối cùng tìm thấy manh mối.”

“Fynn – được rồi, ông ta đây!” Dan nói, chỉ vào một trang trong cuốn tiểu sử Shaka. “Đây là kẻ mà ông lão đã nói đến – Henry Francis Fynn. Sau một trận chiến, ông ta đã cung cấp cho Shaka trợ giúp y tế và vũ khí. Shaka rất biết ơn ông ta cho phép những người Anh đi lại ở vương quốc Zulu. Sau đó mọi chuyện bắt đầu trở nên xấu đi. Chiều hướng tồi tệ. Vài năm sau, Fynn trỉ trích Shaka trong cuốn sách nào đó. Nói ông ấy là một con quái vật.”

Amy gật đầu. “Nước Anh đã cố gắng chiếm Nam Phi làm thuộc địa, hầu như vì kim cương.”

“Đúng!” Dan nói. “Và, dù sao, thậm chí không có những cuộc vơ vét của người châu Âu Shaka vẫn là một siêu sao. Trước ông ấy, các bộ lạc sẽ ném những cây giáo dài vào nhau và chờ đợi. Như là, hừm, mũi tên trong không trung, này, muốn ít cà phê không? Shaka nói không, Jose - ừm, có lẽ không phải Jose mà là từ Zulu tương đương – giáo ngắn tốt hơn! Sau đó chị có thể tiến thẳng tới bộ mặt xấu xí của kẻ thù và đánh! Đâm! Arrrgghh!

“Em đã cân nhắc một công việc viết lách chưa?” Nellie nói.

“Cuốn sách của em có nói một isipho là cái gì không?” Amy hỏi.

“Từ chối,” Dan nói, lắc đầu mình.

“Dan…” Amy nói. “Fynn và những người châu Âu khác… họ đã nói Shaka là người của gia đình. Đó là điều ông lão đã nói. Có lẽ sau tất cả Shaka đã là một Cahill. Không phải do dòng dõi, mà bởi thứ gì đó họ đã trao đổi. Isipho.”

***

Theo sự hướng dẫn của Carlos, Nellie lái khỏi Durban đi về hướng tây bắc -29.086341/31.32817. Những ngôi làng nhỏ rải rác miền quê, mỗi một cụm những túp lều gạch bùn vòng quanh với những mái nhà lớp tranh san sát. Trong một ngôi làng, một nhóm người dồn gia súc vào một bãi quây bằng gỗ ọp ẹp. Trong một làng khác, Dan vẫy nhau với một nhóm làm gạch từ bùn, chất chúng thành những chồng đỏ nâu hoàn hảo. Nellie phải ngoặt để tránh một nhóm phụ nữ đi qua đường, mỗi người thăng bằng với thứ trông như toàn bộ những cành cây có giá trị trên đầu họ. Và một lớp học ngoài trời của những đứa nhỏ lười biếng nhìn lên khi chiếc Yugo chạy qua, buồn tẻ như những đứa trẻ Mỹ.

“Đường không dò được,” Carlos giờ đang nói. “Rẽ phải khi có thể.”

Nellie dừng lại. Bên phải họ là một đám người dàn ra giữa những tấm chăn có quần áo, bánh mì, đồ thử công, và những hộp đồ ăn. Quanh vòng ngoài người ta hát hò và nhảy múa, trẻ con chạy chơi quanh, và những người già hơn ngồi như vua và hoàng hậu khi những người khác dồn đến giải trí và đút cho họ ăn. Hầu hết các dân làng mặc quần áo kiểu phương tây thường ngày, nhưng một số mặc những chiếc lông vũ sặc sỡ, da dê, và đeo chuỗi hạt.

“Một lễ hội đường phố,” Dan nói, “mà không có đường.”

Sawubona! Chào mừng!” một trong những người bán dạo gọi lớn, một chàng trai trẻ mặc đồ trông như da báo, hoàn toàn với một dải buộc đầu da báo. Anh ta chỉ về những tặng vật quanh mình và nói bằng một giọng nặng, nuốt chữ nghe chừng ang áng giọng Anh. “Chúng tôi có bánh mì, tượng, thức ăn! Tham gia với chúng tôi! Tôi là Mondli – Mondli, từ Zulu chỉ người đút thức ăn! Và cậu?”

“Dan,” Dan nói. “Từ Mỹ cho người ăn. Dịp gì vậy?”

“Ngày trợ cấp! Trưởng lão trong cộng đồng của chúng tôi được nhận tiền mỗi tháng. Và chúng tôi tôn trọng trưởng lão của mình. Vì vậy chúng tôi tổ chức, và họ mua!” Mondli cười một tiếng và giơ ra một chiếc váy đính hạt công phu cho Amy. “Cho quý cô trẻ?”

“Nó… là phong cách của Nellie hơn,” Amy nói.

Nhưng Nellie đang nhìn vào xa xăm. “Ừm, các em? Theo Carlos, chúng ta sẽ đến đó.”

Dan theo cái nhìn chằm chằm của cô nàng. Phía ngoài hội chợ, một cánh đồng nghiêng dốc đứng lên, rải rác với những sự hình thành đá lởm chởm. Ở trên đỉnh, một đàn linh dương sừng dài ở xa lặng lẽ gặp cỏ. Một khu rừng kéo dài xuống một bên sườn về bên trái. Nhưng Nellie đang nhìn vào một tòa nhà trắng thấp ở trên đỉnh đồi.

“Đó?” Mondli nói. “Cô chắc chứ? Tôi có thể hỏi, cô có việc gì vậy?”

“Chúng tôi… ừm, đang nghiên cứu văn hóa Zulu,” Dan nói. Amy bắn cho nó một cái nhìn ngớ ngẩn.

“À, ừm, trong trường hợp đó, hãy ở đây với chúng tôi,” Mondli nói. Anh ta chỉ về ngọn đồi và cau mày. “Những người đã xây dựng nơi này không phải là người Zulu.”

“Họ là ai?” Dan hỏi.

Mondli nhún vai. “Người da trắng, người da vàng, người da đen – một nhà máy. Họ đã nói với chúng tôi họ sẽ mang lại việc làm. Nhưng những người đến đó làm việc – họ đã thay đổi.”

“Thay đổi?” Nellie nói. “Theo cách nào?”

“Bí mật,” Mondli nói với sự ghê tởm. “Họ sẽ không bao giờ nói với chúng tôi. Rất quan trọng. Họ đã nói những người chúng tôi sẽ có lợi, nhưng chúng tôi không thấy điều đó. Một vài nam giới và phụ nữ trẻ của chúng tôi biến mất. Công ty nói rằng họ đã được dịch chuyển. Đến những chỗ bí mật.”

Một trong những trưởng lão, người đang ngồi gần trên một chiếc ghế dài bãi biển, giờ đi về phía chúng. Ông ta đi chân trần và mặc đồ trơn, rộng thùng thình. “Tokoloshe!” ông nói, một ngón tay run run chỉ lên ngọn đồi. “Tokoloshe!”

“Xin lỗi.” Mondli gật đầu lễ phép và hộ tống người đàn ông trở lại ghế của mình, nói với ông ta bằng tiếng Zulu. Khi anh ta trở lại, anh ra hiệu cho Dan và Amy đi theo xa hơn một chút. Dưới bóng của một cái cây với một mái che trông giống như ai đó đã đập bẹp nó bằng một bàn tay khổng lồ, Mondli nói, “Chúng tôi đang cố gắng đưa những người này ra khỏi cộng đồng. Tôi là một cựu sinh viên, và một nhóm của chúng tôi đang làm việc với vài người ở đó. Chúng tôi đã không thành công.” Anh ta nhìn lên đồi. “Chúng tôi có một nội gián bên trong, nhưng để đạt được bất cứ điều gì chống lại những người này, mọi người gần như cần một đội quân.”

Dan không thích lý lẽ này. Nó nhìn chằm chằm lên tòa nhà bệ vệ và nuốt khó khăn. “Nếu chúng em, ừm, quyết định đi lên đó, cách tốt nhất là gì?”

Mondli chỉ ra một đường đi lên qua sườn đá dốc đứng. “Tôi không gợi ý nó, nhưng… hãy ở trên lối đi. Dù cho cậu làm bất cứ gì, tránh những cái cây. Có bẫy đi săn.” Anh ta lùi lại, lôi ra một xấp giấy từ dưới áo choàng của mình. “Tôi là một người vẽ bản đồ để bán. Công ty tôi liên quan đến việc vẽ bản đồ vùng này. Chúng tôi chưa hoàn thiện, nhưng đây là một bản sao. Một món quà lưu niệm.”

“Cảm ơn.” Dan gật đầu. “Một câu hỏi. Ông lão đã nói gì với chúng em?”

“Ông ấy là một sangoma, một người chữa bệnh truyền thống,” Mondli nói. “Hầu hết mọi người nhìn lên ngọn đồi và thấy một công ty lớn. Ông ấy thấy thứ gì đó khác. Tokoloshe.

“Toko…?” Amy nói.

“Không có một từ trong tiếng Anh cho nó,” Mondli nói với một tiếng thở dài. “Có lẽ em tin vào một linh hồn? The tokoloshe mang linh hồn đi. Chúng đánh cắp nó, và nó không bao giờ trở lại.”
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Chương 20

CHÓ CANH GÁC
DÒNG ĐIỆN HOẠT ĐỘNG
BÁO ĐỘNG! TRÁNH XA!!!

Dan há hốc trước tấm biển trên cái cổng khóa. Phía sau nó là một lối đi bằng đá vòng qua đám cây bụi. Nó dẫn đến một tòa nhà sáu mặt không có cửa sổ, được xây dựng bằng đá cẩm thạch nhạt dường như đổi màu khi bạn đi qua. Ở một bên, một cái máy lạnh cỡ đại kêu rền rền, và ở trên cửa trước treo một tấm biển với một logo công ty: ĐIỆN TỬ UBUHLALU.

“Ừm, thật vui,” Nellie nói.

“Chị - chị nghĩ Mondli đã đúng,” Amy nói. “Chúng ta có lẽ không nên làm điều này.”

“Chúng ta sẽ vào trong như thế nào?” Nellie nói.

“Chúng ta muốn vào trong à?” Amy hỏi. “Đây có thể là một cuộc săn đuổi ngỗng hoang dã. Ý em là, Churchill đã viết những tọa độ đó hơn một trăm năm trước. Chúng ta không biết liệu Tomas thực sự ở đây. Ra sao nếu họ đã chuyển đi?”

Nellie nghi ngờ liếc nhìn tòa nhà. “Nơi này không trông giống phong cách nhà Tomas,” Nellie nói.

Dan nghĩ một lúc. Churchill đã đưa những tọa độ này cho một manh mối Tomas. Miêu tả của Mondli khiến nó nghe như những người này có thể là Tomas. Nhưng những nhóm người này cũng có thể không thân thiện. “Lẻn vào nơi này nào,” nó gợi ý, vòng tới mặt bên của tòa nhà, “và cẩn thận trong bụi rậm.”

“Tại sao?” Amy nói.

“Nơi này là Nam Phi, chị gái,” Dan đáp. “Quê hương của những con rắn hổ mang. Và không phải những con quyến rũ, như Ian.”

Nó theo tòa nhà đến phía đối diện, nơi một ngọn đồi nghiêng thoai thoải xuống dưới. Kéo dài từ phía sau của tòa nhà là một công trình kim loại xấu xí, gỉ sắt trông như phần còn lại của một nhà kho cũ. Phía trên nó đặt những tấm năng lượng mặt trời bóng màu xanh da trời. Một hàng rào cọc trắng gọn gàng bao quanh nhà kho, kéo dài từ bức tường lớn hơn của tòa nhà xuống đồi. Một người làm vườn trông mệt mỏi đang mở một cánh cửa trong nhà kho. Ông ta cau có, vẫy xua chúng đi. Sau đó biến mất vào bên trong.

“Tái chế xanh,” Amy nhận xét. “Tòa nhà cũ ở cuối, bộ thu thập năng lượng mặt trời ở trên.”

Gắn vào hàng rào là một tấm biển với một tin nhắn bằng những ngôn ngữ khác nhau. Bằng tiếng Anh nó nói KHÔNG ĐƯỢC TIẾN VÀO NGOÀI KHU VỰC NÀY/ NĂNG LƯỢNG THU THẬP.

“Được rồi, là vậy đấy,” Nellie nói. “Chị nói chúng ta trở lại dưới đồi, mua vài ổ bánh mì từ dân địa phương, nói vài câu chuyện đùa về linh dương…”

Nhưng Dan nhìn chằm chằm thứ gì đó. Một cột gỗ thẳng đứng được gắn vào tòa nhà lớn hơn, với một tấm kính chạy suốt chiều dài của nó. Một loạt những cột như vậy, giống như những cây xương rồng rải rác, đã được đặt trong vùng kính giữa cọc hàng rào và bộ thu thập năng lượng mặt trời – giống như phần còn lại của một hàng rào cũ hơn bên trong phần mới hơn. “Amy, chị có đồng tiền nào không?”

Amy lôi ra vài đồng rupiah Indonesia từ túi, đưa cho Dan. Lùi lại, nó ném chúng về phía tòa nhà cũ.

Dzzzit! Dzzzit! Dzzzit! Dzzzit!

Từng đồng xu một, chúng lóe lên và rơi xuống mặt đất, những làn khói mỏng trượt dài.

“Ô-i ch-a-o,” Nellie thở hổn hển. “Em đã làm gì vậy?”

“Nó là một con mắt điện tử vô hình,” Dan nói. “Di vượt qua nó, và chị tan xác. Người làm vườn hẳn bật tắt nó.”

“Làm người ta tan xác để bảo vệ những tấm năng lượng mặt trời à?” Amy nói.

“Đi nào, cùng trả cho những gã này một chuyến viếng thăm.” Dan bắt đầu chạy nhanh lại tới lối vào chính.

Amy bắt kịp Dan trước tấm biển cảnh báo. “‘Chó canh gác… dòng điện hoạt động.’ Ai đi trước?”

“Có lẽ có một cái chuông cửa,” Nelli nói.

“Này, điều này có thể tệ hơn,” Dan nói. “Ít nhất nó không nói…” Ngoài khóe mắt mình, nó nhận ra một chuyển động trơn tuột trong cỏ. “RẮN!”

Amy đảo mắt. “Rất buồn cười.”

“Không, Amy, nhìn kìa!”

“Ghhh… gchhh…” Từ ngữ kẹt lại trong cổ họng Amy. Con bé cảm thấy sức nặng phía trên chiếc giày của nó thậm chí trước khi nhìn xuống. Khi nó nhìn, hai chân nó đang dưới một cơ thể màu xanh đang trườn đi của một con rắn ít nhất dài mét tám. Nó trượt nhanh, đôi mắt nó mở to.

“Mamba,” Dan nói, nhớ lại nó từ lớp khoa học. Rắn là một trong những chủ đề duy nhất giữ nó tỉnh táo ở trường. “Đừng. Di. Chuyển. Miễn là đầu nó gần mặt đất, chị sẽ bình an vô sự.”

Hai tay Amy run run. Gương mặt nó trắng toát. Phần chính của cơ thể con rắn giờ đã trườn qua con bé… cái đuôi… gần biến mất…

CẠCH!

Cánh cửa toà nhà bật mở. Amy nhảy lên. Với một tiếng rít giận dữ và một cái mang trên người nó, con rắn ngẩn lên khỏi bãi cỏ. “Dan!” Amy hét lên.

Một người đàn ông lao tới chỗ chúng, đi xuống lối đi lát đá. Ông ta da đen và cao gần hai mét mốt, với một cái bụng phệ làm căng những cái nút của chiếc áo sơ mi đen của ông. Một vết sẹo tách lông mày bên trái của ông ta ra, chạy xuống má đến xương hàm của ông. Ông nhìn chằm chằm chúng với đôi mắt đỏ ngầu. Trong tay phải của ông là một cây súng trường.

Con rắn vươn dậy cao hơn, đôi mắt giờ đang cảnh giác. Khi ông ta tiến lại, nó nhào tới.

Với một chuyển động linh hoạt, người đàn ông cầm một que củi từ mặt đất bằng tay không. Con mamba kẹp chặt răng của nó xuống que củi. Bình tĩnh, người đàn ông ném que củi xuống sườn đồi, con rắn vụt đi với nó.

Ông ta nhìn chằm chằm Dan, Amy và Nellie. Cơn giận dữ trong mặt ông ta đã biến thành sự hoang mang. “Ta có thể giúp gì cho các cô cậu?”

Trên huy hiệu của ông là cái tên A. Bhekisisa.

“Th-thật tuyệt vời,” Dan nói.

Người canh gác mỉm cười. “Cảm ơn. Ta bối rối. Một còi báo động đã kêu. Đó là cháu à?”

“Có lẽ,” Dan nói. “Chúng cháu đại loại là bị lạc.”

“Chúng cháu đang… t-i-ì-m ch-h-a m-e-ẹ của chúng cháu,” Amy lắp bắp.

Dan làu bàu phản đối trong bụng.

Ông Bhekisisa cười. “Ta xin lỗi. Cây súng làm cháu lo lắng. Ta mang nó bởi vì mệnh lệnh. Chúng ta có vài dụng cụ dễ hư hỏng và rất đắt tiền ở đây. Mọi người luôn cố gắng đánh cắp. Vào đi!”

***

Amy ghét nơi này. Nó rộng lớn và sạch sẽ, với sàn nhà được đánh bóng và những bánh xe cao su trượt tới lui. Xung quanh bên ngoài là những phòng ngủ nhỏ nơi những người trông kỳ quặc đang cuộn lên cuộn xuống những bảng tính.

Ông Bhekisisa yêu cầu chúng bỏ hết đồ trong túi ra vì sự an toàn, xin lỗi mọi lúc. Ông đề nghị vứt những vỏ kẹo của Dan đi. Ông nhìn vào những ghi chú được xếp lại riêng rẽ và đồ lưu niệm. Ông nghịch vớ vẩn với iPod của Nellie. Sau đó ông mở ba lô của chúng ta.

Ví của Irina.

Amy đóng băng. Nếu ông ấy nhìn vào trong, ông ây sẽ nghi ngờ điều gì đó.

Nhưng tất cả những điều ông làm là đảo mọi thứ bên trong và đưa trả những chiếc ba lô. “Rất xin lỗi, chúng khá là hoang tưởng ở đây,” ông Bhekisisa nói. “Vậy. Cha mẹ các cháu ở đâu?”

“Chúng cháu, ừm, ban sớm,” Dan thốt lên. “Họ nên ở đây trong một giờ gì đó.”

“Vậy thì ta sẽ đưa các cháu lại tua,” ông Bhekisisa nói.

Khi ông ấy đi trước, Dan lẩm bẩm, “Những con mắt điện tử giết người, vì điều này ư?”

“Chị nghĩ chị biết sangoma nghĩa là gì,” Nellie nói. “Nơi này hẳn mang linh hồn của em đi mất. Khiếp quá.”

Amy vượt qua một bức tường được xếp bởi những thùng các-tông che đi một phần một cánh cửa được đánh dầu với một tấm biển nhỏ:

PHÓNG XẠ: CHỈ NHỮNG NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN

Đôi mắt nó dừng lại. Cánh cửa dẫn đến đâu? Con bé lên một bản đồ của căn phòng bằng tâm trí. Khu vực lưu trữ năng lượng mặt trời. Nhà kho cũ. Cánh cửa ở tại vị trí nơi của những tòa nhà bên ngoài. Con bé kiểm tra tấm biển. Phóng xạ.

Điều đó thật lạ. Năng lượng mặt trời không phải là phóng xạ.

Lại một lần nữa, năng lượng mặt trời không thường được bảo vệ bởi một hàng rào vô hình điện thế cao.

Con bé rón rén lại gần hơn. Cánh cửa có một ô nhỏ hình chữ nhật, phát sáng, gần chốt cửa. Theo linh cảm, con bé lôi ví của Irina từ ba lô của mình. Con bé lướt qua những chứng minh nhựa đén khi nó gặp tấm thẻ của Reagan Holt. Cẩn thận, con bé giơ nó lên cái ô nhỏ.

Một màn hình LED nhỏ sáng lên:

HOLT, R.

HÃY ĐẶT NGÓN TAY LÊN CẢM BIẾN
 

Magic Purple

Gà BT
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
25/7/14
Bài viết
1.259
Gạo
31.461,6
Re: [Thiếu nhi, phiêu lưu] 39 manh mối (Tập 7: Ổ rắn độc) - Full - Peter Lerangis (Magic Purple dịch)
Truyện đã được đăng tải hết trên thư viện, các bạn đọc tiếp ở ĐÂY nhé. :)
 
Bên trên