Chương 3: Lịch sử phòng trọ (phần 1)
Kết thúc đợt thực tập hai tháng, tôi ngồi trước laptop tỉ mẩn làm báo cáo. Báo cáo thực tập không có gì quá khó, chỉ là nêu những đặc điểm của nhà xuất bản, những việc tôi đã làm khi thực tập, từ đó rút ra những bài học cho bản thân. Tôi làm nó trong một buổi tối. Sáng hôm sau, tôi mang sang trường nộp cho lớp phó học tập.
Nộp báo cáo xong nghĩa là chương trình học của chúng tôi ở trường đại học đã kết thúc. Chúng tôi hoặc là lao vào ôn thi tốt nghiệp, hoặc là làm khóa luận tốt nghiệp, bên cạnh đó cũng phải ôn thi môn điều kiện. Năm nay, môn điều kiện là môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, tôi thích thi Triết hơn. Thời gian từ giờ đến khi kết thúc tất cả là một tháng.
Cái nóng tháng năm là một nỗi kinh hoàng, đặc biệt là khi tôi trở về phòng trọ. Phòng trọ của tôi nằm ở tầng bốn. Trước kia, nó là sân thượng, rồi chủ nhà xây thêm một phòng nữa để cho thuê, vì thế có một khoảng sân rộng trước căn phòng. Phòng được lợp mái tôn, dù đã đóng trần thạch cao cũng không giúp làm giảm nhiệt độ trong phòng chút nào. Xung quanh lại không có nhà khác che nên cái nắng rọi thẳng vào mấy bức tường, khiến cho nhiệt độ trong phòng luôn cao hơn bên ngoài một vài độ C. Buổi tối, dù ngoài sân gió mát đến mấy thì trong phòng cũng hầm hập như cái lò. Những ngày nóng đỉnh điểm, đến hai giờ đêm tôi vẫn chưa ngủ được vì quá nóng. Trước đây, tôi đã không thích mùa hè vì cái nóng làm tôi khó chịu, đến khi sống ở phòng trọ này hơn hai năm, tôi càng ghét mùa hè hơn.
Phòng tôi có năm người. Nguyên do từ đâu năm người chúng tôi lại ở cùng nhau là cả một câu chuyện dài, bắt đầu từ xóm trọ trước kia của cả năm.
Nhà trọ ấy khá là đặc biệt. Từ trường tôi, qua hiệu sách Nguyễn Văn Cừ, rẽ vào cái ngõ cạnh đó, đi chừng hơn chục mét là đến nhà trọ của tôi. Bên dưới, ngay ngoài đường là một quán nước lụp xụp, lụp xụp từ cái mái che, cái cột chống đến bàn ghế cho khách ngồi uống nước. Quán của ông Cát và bà Yết còn bán cả cháo, bánh mì trứng và mì tôm vào buổi sáng. Đi qua quán nước nhỏ là phòng khách. Nếu đứng ở gần bộ bàn ghế nhìn lại phía cửa ra vào, phía trên sẽ là phòng của ông Cát.
Qua phòng khách, rẽ bên phải là cầu thang số một. Cầu thang này cũng như phòng khách, ban ngày không được bật điện nên rất tối. Những khi đi học về, nhất là năm tôi phải học buổi sáng, từ bên ngoài bước vào chân cầu thang, không thể nhìn thấy gì cả bởi mắt chưa quen với bóng tối, phải bám vào tường mà leo từng bậc. Cầu thang nhỏ, chỉ đủ cho từng người một đi, hai người gặp nhau thì phải nép mình vào sát tường hoặc lan can cầu thang để tránh.
Tầng hai có bốn phòng, tầng ba có hai phòng cộng với một phòng rất lạ. Phòng này như một căn phòng bí mật, cửa vào nhỏ, chiều cao chỉ tầm hơn một mét, mỗi lần vào phải cúi người thật thấp, nhưng bên trong khá rộng so với những phòng khác. Tầng bốn có ba phòng với một phòng của con gái ông Cát. Các phòng đều chỉ rộng chừng bảy, tám mét vuông, và không có phòng nào có đủ bốn bức tường. Thường sẽ có một hoặc hai có khi là ba bức vách ngăn bằng cót hoặc tôn ở mỗi phòng, nên ngồi ở phòng này có thể nghe rõ mọi tiếng động của phòng bên cạnh. Chúng tôi phải mua giấy về dán lên những bức vách đó để cải thiện thẩm mĩ nhưng cũng không đỡ hơn là mấy.
Cửa của các phòng đều được làm từ những tấm gỗ cũ kĩ, bị mối mọt gặm nhấm nham nhở, có cái xộc xệch như sắp rơi ra đến nơi. Ổ điện, dây điện cũng đã được dùng từ lâu nên có phần lỏng lẻo, mạng nhện bám vào đen xì hết cả. Vì không có chỗ nào để chứa, chúng tôi thường phải buộc dây ngang tường để treo quần áo. Phòng đã chật, nhìn đám quần áo lùng thùng trên tường lại càng thấy bức bối, bừa bộn hơn.
Lúc mới lên học, tôi và Huyền ở tầng trên cùng, tầng bốn, tầng duy nhất nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Trước cửa phòng tôi có một cái cầu thang nữa, vô vùng ọp ẹp, để ông Cát lên cho gà ăn vào mỗi sáng. Tôi với cái Huyền ngày nào cũng bị đánh thức bởi tiếng huýt sáo và tiếng gọi gà của ông. Hai đứa tôi chỉ rúc rích cười với nhau, công nhận ông Cát tận dụng triệt để ngôi nhà. Một thời gian sau, chúng tôi chuyển xuống tầng hai cho tiện lấy nước và mọi sinh hoạt khác.
Đi qua cầu thang số một là đến phòng của Trang và Duyên. Phòng này cũng được ngăn với lối đi bằng những tấm nhôm, nhưng là phòng rộng nhất. Cạnh phòng này có một cầu thang nữa, gọi là cầu thang số hai, tôi không đánh số cho cái cầu thang lên chỗ nuôi gà. Có thể hình dung là từ phòng khách đi thẳng vào sẽ đến cầu thang này, nó chiếm một nửa lối đi, lối đi nằm giữa phòng cái Trang và cái cầu thang số hai. Cầu thang số hai dẫn lên phòng chị Nga. Phòng chị Nga nằm ngay trên phòng cái Trang, chỉ cần chị mở cửa ra là nhìn xuống được một nửa phòng bên dưới. Nếu bỏ hết những ngoại cảnh xung quanh, phòng chị Nga giống như một cái nhà sàn.
Theo lối đi ở giữa ấy sẽ đến cầu thang số ba, nằm bên phải, sát phía sau phòng cái Trang. Cầu thang này dẫn lên ba phòng trọ và phòng ngủ của bà Yết. Các phòng cũng có diện tích nhỏ nhỏ xinh xinh, chỉ đủ kê một cái giường và chừa lại một lối đi, có phòng rộng hơn một chút thì để thêm được cái tủ nho nhỏ. Có thể nói kiến trúc nhà ông Cát sau khi được ông cơi nới và tận dụng không khác gì một cái chuồng chim. Tôi vẫn nghĩ nếu có gió to bão lớn nó có thể bị thổi tung, từng bức vách sẽ ngổn ngang dưới đường.
Qua cầu thang số ba là một bể nước xây dưới lòng đất và sân để giặt giũ, rửa rau. Đây gần giống một cái giếng trời vì nhìn thẳng lên bầu trời không bị che khuất. Cạnh đó là nhà bếp của gia đình ông Cát, rồi đến hai phòng tắm và một nhà vệ sinh. Một phòng tắm chỉ đủ để cái chậu và người đứng không biết xoay sở ra sao, một phòng tắm thì rộng hơn nhưng then cửa bị hỏng. Nhà vệ sinh chỉ có cái bồn cầu cũ kĩ và rộng đủ cho một người bước vào ngồi xuống. Mỗi lần bước vào đó là tôi rợn cả người. Cửa nhà vệ sinh là một tấm nhựa, bên trên được viết chi chít chữ, toàn là những hướng dẫn sử dụng do ông Cát tự sáng tác.
Bằng vậy phòng, mỗi phòng có một đến hai người ở, từng ấy con người chung nhau một bể nước, hai phòng tắm và một nhà vệ sinh. Đôi khi nhớ lại, tôi không hiểu sao mình có thể sống chừng ấy thời gian trong điều kiện sinh hoạt chật chội, đông đúc như thế. Đi vo gạo, rửa rau cũng phải đợi, đi tắm cũng phải đợi, đi vệ sinh cũng phải đợi. Nhiều hôm tôi tung tăng bê chậu, khăn, quần áo xuống tắm thì cả hai phòng tắm đã đóng cửa, ngồi đợi thì không có chỗ ngồi, lại lủi thủi đi lên tầng bốn.
Nhà ông Cát có nuôi một con mèo vừa già vừa béo, một con mèo với bộ lông trắng tinh, chỉ có đôi mắt màu đen. Con mèo già khú ấy nằm ở bất cứ đâu nó thích, từ chân cầu thang, giữa cầu thang đến trên giường của chúng tôi. Có hôm cái Duyên lật cái chăn ra thấy con mèo nằm cuộn tròn ở đó mà giật mình. Thật là tội lỗi, không ít lần tôi đã đá con mèo không thương tiếc vì nó nằm giữa cầu thang tối om mà tôi thì không nhìn thấy gì cả. Nhiều lần tôi suýt giẫm lên người nó, may mà nó chạy kịp còn tôi thì bị một phen hú vía. Con mèo già chỉ có nằm với ngủ với đi chơi, tôi chẳng thấy nó bắt chuột bao giờ.
Có đêm, mất điện, trời mưa, tôi đang nằm thì thấy có con gì đó cắn cắn dưới chân, tôi gạt gạt hai chân vào nhau thì nó chạy lên tay, trong tích tắc tôi nhận ra đó là một con chuột, theo phản xạ, tôi vung tay thật mạnh, con chuột bay sang cái Huyền nằm bên cạnh tôi rồi văng xuống đất, kêu “chít chít”. Cái Huyền giật mình hét lên, còn tôi cũng khiếp vía nằm mãi mới ngủ tiếp được.
Phòng tôi, phòng Trang và chị Nga thỉnh thoảng lại góp gạo thổi cơm chung. Những dịp đó, đa số chúng tôi đều ăn nem rán. Nem chủ yếu là miến với giá, cà rốt, cùng lắm chỉ có một lạng thịt xay nhưng ăn vẫn ngon, thêm một rổ rau xà lách với diếp cá cùng bát nước chấm chua ngọt của cái Trang hoặc Huyền là đủ cho chúng tôi lai rai, vừa ăn vừa nói chuyện trên trời dưới đất.
Một vài ngày “chiến tranh” lại nổ ra một lần. Một bên là cái Huyền, một bên là Trang hoặc Duyên hoặc cả hai. Cái Huyền còi đã còi đến mức tên có thêm cái đuôi nhưng lại hay gây sự để đánh nhau với hai đứa kia, mà một đứa đã gấp đôi nó rồi. Chiêu thức bọn nó hay dùng nhất là lấy thịt đè người rồi cù cho cười nắc nẻ, giãy giụa cũng không thoát. Sau mỗi cuộc chiến, chăn gối, giường chiếu xộc xệch hết cả, những thứ xung quanh cũng không còn ở nguyên vị trí. Trong mỗi cuộc chiến, tôi là người xông pha trận mạc, ghi lại những hình ảnh nguy hiểm nhất, không ít lần trâu bò đánh nhau mà ruồi muỗi như tôi suýt chết.
Hôm sinh nhật chị Nga, chị đi chơi về muộn, mười giờ chúng tôi còn kéo nhau lên phòng chị để liên hoan. Đang rán xúc xích thì nghe tiếng động bên dưới. Thì ra là mấy ông cạnh phòng tôi đi chơi giờ mới về, ông Cát vừa mở cửa vừa làu bàu chửi mấy ông ấy. Bọn tôi ngồi cười sung sướng, vì mấy ông này ăn ở không tốt. Lát sau nữa, chị Đông Hà về, nhưng ông Cát vui vẻ mở cửa, không có một câu mắng mỏ nào. Ông Cát ghét con trai, quý con gái hơn, mà tính ông cũng thất thường nữa, không biết lối nào mà lần. Có một hôm, anh Chiến ở cùng tầng với tôi xuống giặt quần áo muộn, xong vào phòng Trang ngồi chơi. Trang lại về quê nên chỉ có Duyên ở phòng. Ông Cát đi qua, thấy anh Chiến ngồi trên giường còn Duyên thì ngồi ở bàn học bèn quát tháo: “Anh Chiến, anh đừng có mà lợi dụng vẻ đẹp trai của anh để quyến rũ con gái nhà lành. Đi về phòng!”
Anh Chiến ngớ ra, ấp úng thanh minh nhưng ông Cát cứ hùng hùng hổ hổ đuổi anh về. Hôm sau, bọn tôi nghe cái Duyên kể mà cười lăn lộn trên giường, gặp anh Chiến đứa nào cũng nói: “Anh Chiến, anh đừng có mà lợi dụng vẻ đẹp trai của anh nhá.” Anh Chiến không biết phải làm gì, cười cũng không được mà khóc cũng chẳng xong.
Ông Cát tắt điện định đi ngủ nhưng thấy phòng chị Nga vẫn sáng nên đứng bên dưới hỏi vọng lên: “Mấy đứa kia không về phòng ngủ à?” Cũng đến giờ giới nghiêm rồi thật. Chị Nga phải nhỏ nhẹ xin ông cho tổ chức sinh nhật, hứa là không làm ồn. Ông lẩm bẩm mấy câu rồi về phòng. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện thì thầm, cười cũng không dám cười to, cứ ôm bụng, bịt miệng cố nín tiếng nên người đứa nào cũng rung đùng đùng, cười mà nước mắt chảy tèm nhem hết cả. Liên hoan xong cũng gần mười hai giờ, bọn tôi rón rén đi về phòng, rồi mỗi đứa ôm một quyển sách vì hôm sau phải đi thi.
Khi ba phòng chúng tôi quyết định chuyển đi, vì sợ ông Cát mắng nên đứa nọ đùn đẩy đứa kia ra nói với ông. Cuối cùng, cái Trang với cái Huyền ra nộp tiền phòng, tiện thể xin phép ông luôn. Tôi, chị Nga với cái Duyên ngồi trong phòng nó mà cứ phấp phỏng lo. May sao ông Cát không mắng mỏ gì, chỉ bảo kể ra phải báo sớm cho ông biết, hôm sau lúc chúng tôi chuyển đồ ông còn tươi cười hớn hở hơn cả bọn tôi. Hóa ra là thừa dịp chúng tôi chuyển đi, ông tăng giá tiền phòng lên năm mươi nghìn mỗi phòng.