Dã Sử Cố niên hoa - Cập nhật - Phương Uyên

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 9: THUỞ TRỜI ĐẤT NỔI CƠN GIÓ BỤI[1]

- Phong, cháu đừng ngồi nhìn cái bếp nữa, đi tắm đi, lúc nào chín bác sẽ mang ra rồi mời luôn cậu cả và cô đến dùng.

- Không được, cháu lấy món này để xin lỗi chị, cháu phải tự tay làm từ đầu đến cuối.

Tôi đón lấy đĩa bánh đậu xanh từ tay bác Dương, bốc một mẩu bỏ vào mồm cho đỡ đói, mắt vẫn chăm chăm nhìn những vụn trấu đang cháy âm ỉ phát ra âm thanh tí tách. Nghe nói món rươi vần niêu đất này phải nấu gần nửa ngày mới đúng hương vị trứ danh của vùng Tứ Kỳ, tôi đã đợi từ sáng đến giữa chiều, chắc cũng sắp ăn được rồi.

- Bác Dương đúng là đầu bếp tài hoa, theo lão già đến Hồng Lộ mới một năm mà cả món đặc sản cầu kỳ này cũng biết nấu. May nhờ có bác bày cho, nếu không cháu cũng chẳng biết làm thế nào. – Tôi nịnh bợ.

- “Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”[2]. Mùa rươi năm ngoái, cậu cả đã nhờ bác đi xem dân địa phương nấu món này, vì biết có người sẽ háu ăn. – Bác Dương lấy que củi gạt gạt bụi tro phía ngoài, để lộ lớp trấu đỏ hồng bọc quanh niêu đất.

- Thảo nào sáng nay…! – Tôi thảng thốt reo lên, nhớ lại lúc vừa đi ra khỏi cửa, anh Thân – phu xe của lão – đã gọi tôi đến đưa cho một túi rươi to ụ còn đang giãy giụa. – Hôm nay đúng là ngày hai mươi tháng chín…

- Từ nhỏ cháu vẫn sợ mấy con vật trơn láng, chắc cậu cả nghĩ vậy nên mới nhờ cậu Thân đi tìm giúp cháu đấy.

- Cháu cũng nghĩ thế ạ, nhưng mà… - Tôi ngập ngừng, cảm thấy hơi xấu hổ. – Mấy tháng qua đi khắp nơi cháu đã ăn hết mọi thứ rồi, cả lươn, cả rắn… bọn chúng đều ngon lắm bác à!

Có điều, sao lão đoán được tôi đã biết về món ăn này nên sẽ chạy ra khỏi nhà vào đúng sáng nay?!

- Mỗi ngày có vô số người ra vào Dưỡng Chân Trang, tin tức nhạy bén là chuyện đương nhiên, tin về thức ăn ngon lại càng là sở trường của em... – Lão từ đâu trở về, ung dung vào bếp, không thèm nhìn tôi lấy một lần mà bước thẳng đến nhấc niêu đất ra khỏi đống tro. – Chà, thơm thật!

- Đây là món em làm cho chị. – Tôi ngăn không cho lão giở nắp niêu dù bụng cũng sôi cồn cào vì mùi rươi, mùi lá gừng và vỏ quýt thơm lừng. – Em đã báo hại chị ấy lo lắng bấy lâu nay, em phải có gì bù đắp.

Lão nhướn mày nhìn tôi một lúc, sau đó quay sang bác Dương nói với giọng buồn buồn:

- Đành vậy, bác Dương giúp cháu chuẩn bị ít đậu phụ và tương. Cũng tại cháu tu hành mà phá giới nên phải chịu, vừa cất công phái người đi tìm rươi to nhất ngon nhất mang về, vừa phiền bác học cách nấu từ năm ngoái, cuối cùng vẫn không được ăn ngon.

Tôi nghe lão kể khổ mà bật cười. Không biết lão đã rút cây quạt ra từ bao giờ, gõ lên trán tôi đau điếng. Tôi đưa tay xoa xoa trán xong lại nhìn lão cười nhăn nhở.

- Đi tắm rồi vào ăn cơm. – Lão vứt lại cho tôi một câu rồi bước về phía thư phòng.


***


- Không ngờ cô Phong nhà chúng ta không chỉ kiếm thuật chẳng thua kém chàng trai nào mà vào bếp cũng khiến bao nhiêu cô gái phải hổ thẹn thế này. – Chị tôi từ lúc thử miếng đầu tiên cứ xuýt xoa khen mãi.

- Chị ăn nhiều vào. – Tôi vừa nói vừa gắp thêm một đũa to vào bát chị. – Dạo này chị gầy quá, cũng tại em hư.

Lão ngồi ở đầu bàn, điềm nhiên gắp từng miếng rươi lên ngắm nghía rồi thong thả đưa lên miệng, có vẻ rất tập trung thưởng thức hương vị món ăn. Tôi nhìn mãi cũng không thấy lão nói được một câu dễ nghe, bèn lên tiếng châm chọc:

- Tuệ Trung tiên sinh, món ăn dân dã này chắc không so được với cơm đậu phụ nước tương của đầu bếp phủ Tiết độ sứ.

Lão cười cười, vẫn không dừng đũa:

- Trong những việc liên quan đến ẩm thực, ta chưa bao giờ nghi ngờ năng lực của em.

Tôi cũng không biết câu này là khen ngợi hay đả kích.

- Sau này quân đội chúng ta không sợ đói rồi. – Chị tôi ngắm nghía mẩu bánh lòng[3].

- Bếp quân đội không có nếp cái hoa vàng, không có lạc vừng thượng hạng, Phong không bỏ cơm đã là may.... – Lão nhấp một ngụm trà.

Tôi không chú tâm đến ý châm chọc trong lời nói của lão mà trở nên lo lắng:

- Lần này chị đến không phải vì muốn dẫn em về sao…?!

Chị tôi đặt cốc trà đang uống dở xuống, nhìn tôi rồi lại quay sang nhìn lão:

- Lúc ở nhà có mỗi mình em chị đã không giữ được, huống chi là đến đây…

Hóa ra, tin tức của tên thương nhân suýt bị Quang Khải đánh ở quán rượu không phải là vô căn cứ.

- Chị ra ngoài có việc, trên đường gặp được người hay đến Dưỡng Chân Trang nghe giảng, ông ta có người thân sống trên đất Tống nên được tin sứ giả Mông Cổ đang trên đường đến Đại Việt rồi. Chị không biết triều đình đã nhận được tin hay chưa, vẫn nghĩ nên nói với vương gia.

- Ngay sau khi nàng đến đây ta đã cho người đến Thăng Long báo tin rồi. Quân Mông Cổ sau khi tiêu diệt Đại Lý sẽ đánh Nam Tống. Có thể chúng sẽ hỏi mượn đường Đại Việt để tấn công từ phía nam, nhân tiện tìm thời cơ chiếm cả Đại Việt. Dù không phải như thế, sau khi chúng đánh bại Nam Tống sao lại bỏ qua cho mảnh đất nhỏ bé nằm sát cạnh bên như chúng ta. Triều đình không phải chưa từng nghĩ đến việc này, chỉ là không ngờ bọn chúng lại thôn tính Đại Lý nhanh như thế…

- Vương gia, tin tức về sứ giả của địch không đến từ chiến trường mà lại do ngài báo, những kẻ họ Trần đó sẽ không nghi ngờ gì chứ?! – Giọng nói của chị bỗng có chút ngờ vực, tôi biết chị vốn không thích những người ở Tức Mặc.

- Ta cũng họ Trần. – Lão già cười nhẹ, lại nâng cốc trà đưa lên miệng. – Thật ra tình cảm của hai chi Tức Mặc và Vạn Kiếp không đến mức như nàng nghĩ, huống hồ đây là chính sự, dù có bao nhiêu hiềm khích cũng phải lấy lợi ích của muôn dân làm trọng, nàng không cần lo việc đó.

Tôi nhìn lão rất lâu, rất lâu, không nói gì cả. Lão uống xong cốc trà thì quay sang nhìn tôi:

- Sao vậy, sợ ta phải ra trận sao?!

Tôi lắc lắc đầu, nói chậm từng chữ một:

- Nếu tiên sinh ra trận, người nên sợ hãi là bọn Mông Cổ. Em chỉ sợ tiên sinh không cho em cùng chiến đấu. Nhưng nếu thực sự không giúp được gì, em sẽ ngoan ngoãn ở nhà không làm vướng bận, tiên sinh đừng lo lắng…

Lão rướn người đến xoa xoa đầu tôi, cười thật hiền:

- Chưa chắc chiến tranh với Mông Cổ đã xảy ra, hơn nữa, em đừng nghĩ ta tài giỏi đến vậy, triều đình còn rất nhiều vị đại thần có tài thao lược. Ta là quan văn, ta có chiến trường của riêng mình.

Tôi nhìn lão, thầm nghĩ người chẳng bao giờ sống đúng với vai trò của mình cả, chẳng có người tu hành nào lại trái tính dở hơi như thế, chẳng có vị quan văn nào lại vung gươm bạt đao giết hổ nhẹ nhàng như thế…

- Sau khi xong việc ở đây chị sẽ về lại Yên Bang. Chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống.

Chị không bắt tôi về cùng chắc vì biết tôi không muốn xa lão trong lúc này. Ngộ nhỡ chiến tranh có xảy ra biết đâu chúng tôi sẽ không còn cơ hội gặp lại nữa.

Sau bữa cơm tối, chúng tôi ai về phòng nấy. Ngày thường nếu ăn no tôi sẽ buồn ngủ rất nhanh nhưng hôm nay tôi nằm mãi mà vẫn không ngủ được, bèn đến thư phòng tìm cây sáo ngọc để thổi một bài tiễn chị. Tôi tìm trên kệ lẫn trong ngăn tủ vẫn không thấy, đành ôm cây đàn thập lục [4]của lão ra sân. Khi tôi đến gốc mộc lan, lão cũng vừa đến, trên tay là cây sáo của tôi. Cả hai cười nhẹ rồi ngồi xuống chiếc bàn con kê cạnh bên, không hẹn mà cùng tấu khúc Cao sơn lưu thủy[5]. Khúc nhạc này thường chỉ được tấu bằng đàn, nhưng lão đã nghĩ ra cách thổi sáo để hòa tấu với tôi. Tiếng nhạc lúc trầm lúc bổng, khi nhặt khi khoan, gợi nhớ về những ngày ở Vạn Kiếp, chúng tôi gồm cả chị và Hưng Đạo vương thong dong ruổi ngựa trên đồi, bên suối. Hưng Đạo vương chắc cũng sắp đến Hồng Lộ gặp lão, nhưng lần này hẳn là anh em họ không thể vô tư uống rượu trò chuyện như trước được.

Tiếng nhạc đã dứt từ lâu, chúng tôi vẫn ngồi yên lặng. Cuối cùng tôi lên tiếng:

- Ngày mốt em sẽ theo chị về Yên Bang.

Lão im lặng đợi tôi nói tiếp.

- Tiên sinh từng nói sở trường của quân Mông Cổ là tốc chiến tốc thắng nên chúng sẽ không mang theo nhiều hành lý. Em muốn quay về chỉnh đốn quân đội của tiên sinh và nhờ mọi người chuẩn bị lương thực, biến nó thành thế mạnh của quân ta. Em biết chị đã quen quán xuyến những việc này, nhưng dù sao em mới chính là truyền nhân do chính tay tiên sinh dạy dỗ, có những việc em sẽ làm tốt hơn chị. Nếu như sóng yên gió lặng… em lại có rất nhiều thứ để ăn rồi! – Tôi cố ra vẻ nhăn nhở sau một hồi nói những điều khá nặng nề.

Một cơn gió thổi qua làm mấy sợi tóc mai bay lòa xòa trước mặt tôi, lão đưa tay giúp tôi vén ra sau vành tai, vẫn im lặng như chờ đợi tôi giải đáp điều lão đang thắc mắc.

- Em đã nói dù chiến trường của tiên sinh là gì em cũng sẽ đồng hành. Tuy là khó khăn lắm em mới đến được Hồng Lộ… nhưng em về Yên Bang sẽ làm được nhiều việc hữu dụng giúp tiên sinh hơn là ở lại nơi này. – Tôi ngập ngừng một chút rồi lại rất quả quyết. – Tiên sinh cho phép em về cùng chị nhé.

Tôi thấy trong nụ cười của lão có chút xúc động, dường như là vui mừng, lại dường như không nỡ. Lão đưa cây sáo lại cho tôi rồi đưa tay vỗ nhè nhẹ lên tóc:

- Ta đã bảo, giao cho em những việc liên quan đến ăn uống ta rất yên lòng.


***


Chị tôi tuy rất mạnh mẽ nhưng dù sao trên danh nghĩa cũng là chính thất của một vương gia, không tiện cưỡi ngựa đi khắp nơi nên chúng tôi về Yên Bang bằng xe ngựa. Buổi sáng ngày lên đường, lão già tiễn bọn tôi ra tận cổng thị trấn, lại đứng dặn dò hồi lâu.

- Làm việc gì cũng nên cẩn thận, phải giữ an toàn cho bản thân mình trước, hiểu không? – Lão đã nói câu này lần thứ ba trong ngày.

Tôi gật gật đầu, cười toe toét. Chị tôi đứng ở phía xa cũng gật nhẹ đầu cười mỉm.

- Cũng may tiên sinh bắt em chép phạt kinh Phật rất nhiều và những người kính trọng tiên sinh đa số đều biết em, em có thể nhờ họ đóng góp lương thực và kinh phí cho quân đội nếu cần. Ấy… tiên sinh đừng chau mày, em không lợi dụng Phật giáo vì lợi ích cá nhân đâu! – Tôi vội phân bua.

Lão nheo nheo mắt:

- Thật không? Sao ta lại nghe nói em mượn danh nghĩa Thiền sư Tiêu Dao để thoát ra khỏi ngục?!

- Cái đó… là bất đắc dĩ, em sẽ cẩn trọng hơn... – Tôi ngập ngừng. – Lần trước em vừa đi vừa ăn nên mới mất gần một tháng. Giờ em đi cùng chị, chắc chưa đến hai mươi ngày đã về đến Yên Bang. Hơn nữa… ít nhiều em cũng học được chút y thuật của người, em có thể tự lo cho mình và giúp người khác được mà.

Lão phì cười, nói rất dịu dàng:

- Xuất phát đi, kẻo lại không kịp đến nơi nghỉ chân trước khi trời tối.

Tôi cứ nhìn lão, lại không biết nói gì, liền chui vào xe lấy ra cây sáo ngọc dúi vào tay lão:

- Em cho tiên sinh mượn thổi cho đỡ buồn chán, người nhất định phải mang trả nó lại cho em không trầy xước đấy.

Lão hơi chần chừ, nhìn tôi:

- Em lấy gì tự vệ?!

- Tuệ Trung tiên sinh! – Tôi bật cười. – Ngài đừng nói với em ngài là người tu hành nên không phạm sát giới, đánh giặc cũng dùng cành tre ngọn trúc không làm chúng mất mạng nhé. Em biết ngài chẳng phải một nhà sư mẫu mực đâu!

Có tiếng lão cười khe khẽ, tôi cũng cười nhưng nghe mắt mình cay cay, vội quay đi:

- Em phải đi rồi, chị đang đợi.

Chân vừa dợn bước, tôi nghe lão gọi tên mình:

- Phong, đợi đã.

Tôi vừa xoay người lại, lão đã kéo tôi vào ôm trong lòng, không buông lơi, không quá chặt, vừa đủ dễ chịu và ấm áp.

- Sau khi chúng ta thắng trận này, ta sẽ về Dưỡng Chân Trang nghỉ ngơi một thời gian.

Tôi gật gật đầu, vòng tay ôm lấy lão, một giọt nước mắt rơi xuống thấm trên vai áo màu lam thanh nhã. Chúng tôi cứ đứng như thế một lúc.

- Chị, chúng ta đi nào!

Tôi vén rèm cửa xe ngựa nhìn ra vẫy vẫy tay cười chào lão rồi không nhìn lại nữa, cùng chị băng băng tiến về phía trước, biết rằng có ánh mắt vẫn dõi theo đến khi xe chúng tôi đi xa khuất. Tuy tôi không ở cạnh lão trong những ngày sắp đến nhưng chúng tôi vẫn đang kề vai sát cánh trên chiến trường của riêng mình và nhất định sẽ sớm gặp lại nhau thôi.


[1] Câu đầu tiên trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, bản Nôm của Đoàn Thị Điểm, ý chỉ chiến tranh.

[2] Thành ngữ chỉ mùa rươi ở Hải Dương (dưới thời Trần có tên là Hồng Lộ).

[3] Bánh lòng Kinh Môn: đặc sản của Hải Dương được làm từ nếp cái hoa vàng, lạc, vừng, thịt ba chỉ…

[4] Tên gọi khác của đàn tranh, loại có 16 dây.

[5] Cao Sơn lưu thủy là khúc nhạc cổ của Trung Hoa có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc (năm 771 đến 476 TCN) gắn với điển tích về tình tri kỷ giữa Bá Nha và Tử Kỳ. Theo sách Lã thị xuân thu: "Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy" (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm , khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy).
 

bupbecaumua

gà luộc
Nhóm Biên tập
Tham gia
9/12/13
Bài viết
3.401
Gạo
6.529,0
Chị đắp chiếu hơi bị lâu rồi đấy nhá. Đợi mãi mới gặp cô Phong, lão già.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 10: CHIỀN VẮNG AM THANH[1]

- Trời vẫn còn sáng, chúng ta cứ cố đi thêm chút nữa biết đâu sẽ thấy nhà dân, đi mà, anh Thân...!

- Cô Phong ơi, tôi đã nghe lời cô không dừng sớm lúc còn ở trong thị trấn, nhưng chúng ta đã đi từ giờ Thân đến đầu giờ Dậu[2] vẫn chỉ có đồi núi hoang vu thế này, bây giờ quay lại tìm nơi nghỉ hãy còn kịp.

- Không được, em không muốn ngày mai phải lặp lại quãng đường này, em muốn về Yên Bang càng sớm càng tốt. – Tôi vừa cố thuyết phục người phu xe thân tín của lão già, vừa nhìn ra cửa cố tìm thấy nơi nào có người, nhưng ngoài cây cối chỉ có vài chú chim đang bay về tổ, trời càng lúc càng lạnh dần và sương bắt đầu rơi.

- Cậu Cả bảo tôi theo cô và mợ về chính là vì muốn đảm bảo hai người được an toàn, nếu cậu ấy biết tôi chiều ý cô để lạc trong núi giữa đêm thế này sẽ mắng tôi chết mất...

- Em ngủ trong rừng cũng được. – Tôi nhìn sang chị, chợt nhớ lần này tôi không phải đang một mình phiêu bạt. – Ý chị thế nào?

Chị tôi nãy giờ vẫn đang nhắm mắt lim dim ở góc xe, mỉm cười nói rất dịu dàng:

- Chúng ta đi thêm một lúc, nếu vẫn không tìm thấy chỗ trọ thì tìm một nơi khô ráo đốt lửa cho qua đêm nay vậy.

Anh Thân nghe chị tôi nói thế thì không phản đối gì nữa, cứ theo đường mòn mà đánh xe đi. Được một quãng, tôi bỗng thấy trước mặt có những vệt sáng lấp lánh phản chiếu ánh hoàng hôn. Đến gần hơn chút nữa, hóa ra đó là một hồ nước trong vắt rộng mênh mông, bao quanh bởi những dãy núi chập chùng ẩn hiện màu tím thẫm và một vùng bình nguyên xanh rì. Tôi nhìn ra rẻo đất phía xa xa, một làn khói mỏng manh vấn vít tỏa lên cao, quyến luyến với ánh chiều tà.

- Khói bếp kìa, chúng ta có chỗ nghỉ rồi! – Tôi reo lên mừng rỡ.

Khi xe ngựa đến nơi, thì ra đó không phải nhà dân mà là một cái am[3] nhỏ được đặt rất khéo cạnh hồ. Hàng rào dựng bằng ống tre, xếp đều chằn chặn, buộc lại bằng dây thừng trăm mối giống hệt nhau. Tôi bước vào sân, một bác tiều phu già đang đun nước, lửa reo tí tách, ấm sực.

- Cô tìm ai? – Bác ngẩng đầu, ôn tồn hỏi.

- Bọn cháu bị lỡ đường định tìm nơi nghỉ, sáng mai sẽ đi sớm. Không biết bác có thể cho bọn cháu ở lại đây không ạ?! – Tôi lễ phép thưa.

Bác tiều phu nhìn tôi một lúc, chống gối đứng lên, nhấc ấm nước mới đun từ tốn châm vào bình trà bằng gốm men xanh đặt trên kệ bếp.

- Bác cũng chỉ là người đốn củi ở gần đây ghé vào thắp hương cho Đức Phật, cháu đợi tí nữa Cụ về thì báo lại một tiếng, am này đã lâu không đón khách phương xa, chắc là Cụ sẽ vui lắm đấy.

- Cụ ấy là người đã dựng am này ạ? – Tôi tò mò, đưa mắt nhìn mái ngói âm dương đã rêu phong lợp đều tăm tắp, những viên gạch tường vừa khít không một khe hở, cửa trước cửa sau nằm thẳng một đường.

- Đúng vậy, Cụ đi hái thuốc cũng sắp về rồi. Cháu và người nhà cứ vào nghỉ ngơi dùng nước, nhưng đừng tùy tiện di chuyển đồ đạc trong am, Cụ không vừa ý đâu. – Bác vừa nói vừa mang khay trà đặt lên bàn thờ.

- Cháu biết rồi, cảm ơn bác ạ!

Bác tiều phu này tuổi trạc ngũ tuần [4] mà vẫn luôn nhắc về cụ nào đấy với vẻ đầy nể trọng như thế, lại thêm cách bố trí mọi thứ đối xứng, chỉn chu đến bức bối của am nhỏ này, hẳn đó là một cụ già quắc thước gần đất xa trời, đầu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc nhẵn bóng, miệng luôn làu bàu “cổ nhân có dạy…”. Tôi len lén thở dài nghĩ xem đêm nay sẽ khó ăn khó ngủ thế nào đây, nhưng nghĩ lại thì vẫn tốt hơn qua đêm với lũ thú rừng, tôi liền thấy vui vẻ, ra xe mời chị vào trong.

Bác tiều phu sau khi dâng trà thắp hương thì từ giã chúng tôi để ra về. Bác bảo đây là Na Ngạn[5] của Lộ Lạng Giang, hồ kia gọi là hồ Cấm Sơn, cách không xa có một ngôi làng nhỏ chừng mười hộ dân sinh sống. Cụ nửa năm trước đến đây đã giúp họ dựng am nhỏ này để mọi người vừa có chỗ thờ phụng, vừa có nơi dừng chân khi muốn đến hồ ngoạn cảnh.

Tôi ngồi nghỉ ngơi một lúc, vừa ra ngoài rửa mặt thì đã nghe tiếng vọng từ cửa trước:

- Ai đã di chuyển cái đôn này của Cụ?! – Tiếng nói trầm thấp, nhưng nghe thế nào cũng không giống một ông già.

Tôi vội chạy ra xem thì nhìn thấy một chàng trai toàn thân mặc trang phục đen, tuy giản dị nhưng không một nếp nhăn, đang quan sát chiếc bàn đá đặt hướng ra hồ.

- Lúc nãy ta thấy mấy viên sỏi trắng được xếp thành hình gì đó nên mới nhấc đôn lên xem cho rõ, nhưng ta đã đặt về chỗ cũ…

Hắn quay lại nhìn tôi, giọng nói vẫn đều đều nhưng gương mặt cực kỳ nghiêm trọng:

- Không đúng vị trí ban đầu, cô đặt chệch sang phải một nhánh cỏ rồi.

Tôi há hốc mồm, không tin vào những gì tai mình vừa nghe thấy. Tên thanh niên này nhìn sao cũng chỉ trên hai mươi một chút mà lại khó tính còn hơn cả lão già nhà tôi?! Mà khoan, lúc nãy hắn nói, “ai đã di chuyển cái-đôn-này-của-cụ”…

- Cụ họ Trần, còn cô tên gì? Cô đến viếng am hay thưởng cảnh hồ?!

Tôi chết lặng nửa người, hóa ra “Cụ” là tên của hắn…!


***


Nếu không kể đến cái sự kỹ tính già nua còn hơn cả cái tên thì Trần Cụ là một gia chủ rất hiếu khách và nấu ăn ngon đến nuốt cả lưỡi. Hắn ra hồ bắt mấy con cá tầm mang về, nửa nướng với củ riềng, nửa nấu măng chua làm tôi ăn no căng bụng. Chị tôi vốn giữ lễ với người mới quen mà vẫn không khước từ được mấy món ăn của hắn. Anh Thân cũng tiếc rẻ vì sớm mai còn phải đánh xe nên không dám uống thật nhiều món rượu nếp cái hoa vàng do hắn tự tay ngâm, hắn liền tặng anh một bình lớn mang về. Tôi thấy tiếc cho chị Hạnh, phải chi chị không ở lại Hồng Lộ thêm vài hôm để thăm người thân mà đi cùng chúng tôi thì đã được thưởng thức món cá tươi ngon bậc nhất nhưng chỉ sống ở vùng nước lạnh này.

Cơm no rượu say, hắn bố trí cho chúng tôi hai gian phòng nhỏ để nghỉ ngơi. Phòng tôi và chị rất sạch sẽ gọn gàng, cả hai ngọn đèn dầu cũng được đặt đối nhau cân xứng hai bên góc. Tôi để chị đi nghỉ trước còn mình bước ra sân tìm hắn.

Hắn ngồi bên chiếc bàn đá mà tôi đã kê lại chiếc đôn lúc chiều, tay đang gỡ mấy sợi tơ của cây đàn thập lục, cắt bớt một đoạn ở đầu dây rồi buộc lại. Tôi lên tiếng hỏi:

- Làm việc gì ngươi cũng phải kỳ công như vậy sao?!

- Nếu khúc đàn chưa hết mà dây đứt thì làm thế nào? – Hắn đáp, mắt vẫn chăm chú vào mấy sợi dây đàn.

Tôi đưa tay kéo khay trà đặt cạnh hắn, rót hai tách rồi thong thả ngồi xuống.

- Ngươi gặp Tuệ Trung tiên sinh lúc nào, ở đâu?!

Lần này, hắn hơi ngạc nhiên, bỏ dở việc đang làm.

- Sao cô lại biết Cụ là đệ tử của thầy?!

Tôi không biết lão già đã nhận hắn làm đệ tử, chỉ phỏng đoán mà hỏi thôi.

- Ở chốn rừng núi hoang vu này, người đã dựng được một am thờ Phật lại không ngại nướng cá uống rượu, nếu không phải từng được lão ấy chỉ dạy thì có thể là ai chứ?! – Tôi hớp một ngụm trà. – Hơn nữa, món cá tầm nướng riềng của ngươi có vị cơm mẻ thơm dịu, đây là bí quyết rất ít người từng nghe qua.

- Cụ chỉ bỏ có một chút mà cô cũng nhận ra?! – Hắn sửng sốt.

Tôi cười nhạt, trong lòng thầm nghĩ ta đây chính là sư tỷ của ngươi, cái ngươi biết ta cũng biết, cái ta biết chưa chắc ngươi đã biết. Nếu không phải vì ngươi không chỉ có cái tên Cụ, tính tình già cỗi mà còn có gương mặt không hề giống một cậu trai bằng tuổi ta, ta đã sớm gọi ngươi là sư đệ rồi.

- Ngươi từng nghe lão nhắc đến người tên Phong chưa? – Tôi hỏi.

- Trần Nhã Phong?! Cô chính là cô Nhã Phong sao?! – Hắn nói như reo, từ cụ già bỗng hóa thành đứa trẻ. – Lúc Cụ ở phủ Tiết độ sứ, sư phụ vẫn nhắc cô suốt. Thầy nói cô là truyền nhân giống thầy nhất, lại hay nhắc mọi người trong phủ có gặp món gì ngon cũng phải báo lại để sau này có dịp thầy cho cô ăn thử. Đúng là cô Nhã Phong nên lưỡi mới tinh như thế…

Tôi nghe hắn nói mà trong lòng sung sướng râm ran, ngoài mặt vẫn ra vẻ thờ ơ mân mê tách trà:

- Lão còn nói gì nữa không?!

- Sư phụ bảo… tuy cô là người thông minh nhất trong số những người thầy từng dạy bảo, nhưng tính hơi tùy hứng, ngông cuồng, nhiều lúc làm thầy phải đau đầu. Trước khi Cụ bái sư, thầy bắt Cụ phải hứa rằng dù thế nào cũng không được giống cô…

Không phải lão đã nói tôi giống lão nhất sao? Thì ra lão cũng biết bản thân phiền toái và gàn dở thế nào. Chẳng trách, sống gần nửa đời người lại nhận một tên đệ tử khuôn vàng thước ngọc đến đáng sợ như Trần Cụ, chắc muốn để lại cho hậu thế một truyền nhân nghiêm túc chỉn chu.

- Ngươi gặp lão bao giờ? – Tôi đẩy tách trà về phía hắn.

- Gần hai năm trước, sư phụ trên đường đến Hồng Lộ nhậm chức có đi ngang qua huyện Tiên Hoa, lúc đó Cụ đang bị quan binh vây đánh, thầy đã cứu Cụ mang về.

Tiên Hoa chính là nơi tôi đã ngồi tù cùng Quang Khải. Có vẻ như lão không có duyên với huyện này, người thân nào của lão cũng gặp nạn ở nơi đó cả.

- Ngươi làm gì mà bị người ta vây đánh?

- Cụ đi kiện tri huyện Tiên Hoa. – Hắn nhấp ngụm trà rồi nói tiếp. – Cô Nhã Phong cũng biết nước ta có lệ mười lăm năm mới xét duyệt quan lại, mười năm mới xét thăng cấp một lần, chức quan nào khuyết thì lấy quan khác tạm giữ, đợi đúng hạn xét duyệt mới bổ nhiệm lại[6]. – Tôi gật gật đầu, hắn nói tiếp. – Tri huyện Tiên Hoa lúc ấy chỉ là tên sư gia của quan tri huyện quá cố, hắn chỉ tạm thay chức một năm nên ra sức vơ vét, sưu cao thuế nặng, còn bắt cả người già đi làm ruộng. Cụ đi ngang thấy chuyện bất bình liền đến cửa quan đòi kiện. – Ánh mắt Trần Cụ khi nhắc đến những việc này vẫn còn vẻ tức giận.

Chắc nhờ chuyện này mà bây giờ tri huyện đã là một vị quan biết điều hiểu chuyện, yêu thương dân chúng, Trần Cụ xem như đã làm được một việc tốt.

- Ngươi là người ở đâu?! – Tôi nói sang chuyện khác.

- Cụ quê ở Cứu Liên. Nhưng Cụ đã thề không đặt chân lên đất Cứu Liên lần nào nữa.

- Sao lại như vậy? – Tôi tò mò.

- Họ nói mẹ Cụ không chồng mà chửa, nói Cụ là đứa không cha. – Giọng hắn chùng xuống.

- Vậy… nếu sau này ngươi làm quan, được bổ nhiệm về đất ấy thì ngươi định thế nào, có dám chống lệnh vua không?! – Tôi cố pha trò.

- Thì Cụ ngồi kiệu, đi võng hoặc kêu gia nhân cõng, suốt ngày sẽ ngồi ở trên ghế, trên giường. Cụ vẫn giữ lời thề không bao giờ đặt bàn chân của Cụ lên đất ấy. – Hắn nói cực kỳ nghiêm túc, tôi suýt sặc trà, phải giả vờ ho khùng khục.

Cụ đã chỉnh xong dây đàn, bắt đầu gảy. Tôi nghe hắn tấu Ngư tiều vấn đáp mà tha thiết nhớ cây sáo ngọc của mình, không biết giờ lão già đang thổi khúc gì. Tiếng đàn của hắn khiến tôi không thể ngồi yên, bèn lấy hai tách trà còn lại trên khay, chập vào nhau gõ nhịp. Khúc nhạc này vang lên giữa chốn non xanh nước biếc thật không gì hợp hơn. Đàn đã lặng tiếng từ lâu mà tai tôi vẫn như nghe rõ những lời đối thoại ung dung khẳng khái của hai người, mắt nhìn mông lung vào bóng núi đen thẳm phía xa xa.

Một lúc sau, hắn cất tiếng hỏi, vẻ như có gì ấm ức:

- Cô Nhã Phong biết dùng tách uống trà chơi nhạc, sư phụ chưa dạy Cụ món này sao thầy lại bảo Cụ đã học hết mọi thứ rồi, nên ra ngoài tự mình trải nghiệm vài năm?!

Lão vắng nhà chưa được hai năm, trong đó có nửa năm tôi đã ở Hồng Lộ, sao lại có thể dạy hết mọi thứ cho Trần Cụ được?! Tôi nghĩ một lúc rồi hỏi lại hắn:

- Trước lúc đó ngươi có nghe lão đánh đàn không?

- Có! Sư phụ dạy Cụ khúc Phượng cầu hoàng, thường ngày thầy vẫn đàn rất hay nhưng không hiểu sao hôm ấy lại đánh lạc đi một nhịp, Cụ liền nhắc nhở...

Tôi cố hết mức mới không phá lên cười. Lão vẫn hay biến tấu những nhạc khúc cổ tùy theo tâm trạng của mình, thường ngày không thích nhất là ai bình phẩm chuyện này. Nhưng trớ trêu là, tiên sinh, không phải người nhận dạy cho Trần Cụ vì muốn có một đệ tử không tùy hứng, làm việc gì cũng thật chuẩn xác hay sao?! Thảo nào suốt thời gian tôi ở phủ Tiết độ sứ chưa bao giờ nhìn thấy hắn, cũng chưa bao giờ nghe lão nhắc tên.

- Cô Nhã Phong, cô hiểu sư phụ nhất, cô nói xem có phải Cụ lỡ lời làm thầy giận nên thầy muốn đuổi Cụ đi không?!

Thì ra hắn không ngốc như tôi nghĩ, chẳng qua chỉ là nghiêm túc và thật thà quá mà thôi. Tôi thấy hắn buồn rầu rất tội, liền tìm lời an ủi:

- Ngươi đừng lo, chuyện cũng qua lâu rồi, lão không phải là người để bụng mấy chuyện vặt vãnh ấy đâu.

- Cô nói thật chứ? – Hắn nhìn tôi, đôi mắt sáng rực, chân thành.

- Đương nhiên! – Tôi cũng mỉm cười, không thể thật lòng hơn.


***


Sáng hôm sau, chúng tôi lên đường lúc mặt trời vừa ló dạng. Nếu không vì chuyện quân Mông Cổ có lẽ tôi đã ở lại vài ngày để ngắm hết vẻ đẹp của hồ Cấm Sơn qua từng thời điểm trong ngày. Một lúc nào đó tôi nhất định sẽ đưa lão đến đây, cùng uống rượu ăn cá tầm, cùng đánh đàn thổi sáo.

- Đây là thanh kiếm Cụ được bác thợ rèn ở làng bên đặc biệt đúc cho. Cụ vốn muốn mang về tặng sư phụ, nhưng nghĩ lại, tặng cho cô Nhã Phong làm vật phòng thân trên đường chắc làm đẹp lòng thầy hơn cả.

Thanh kiếm vừa khéo rất thuận tay tôi và được chế tác vô cùng trang nhã, trên vỏ kiếm còn có một chữ “Tuệ”, chắc do Trần Cụ nhờ khắc lên tặng lão.

- Cảm ơn ngươi. Sau khi bọn ta đi khỏi, ngươi cũng nên tìm dịp đến Hồng Lộ gặp tiên sinh hoặc ít nhất biên một phong thư để lão biết tung tích của ngươi. Tài hoa của tiên sinh còn vô kể, ngươi nên cố gắng học thêm. Đừng lo, ngươi đã về đến cửa sẽ không bị lão đuổi đi đâu!

Tuy trong lòng không thật vui vì tôi vẫn muốn mình là người duy nhất được lão truyền dạy mọi thứ, nhưng lúc này tôi rất mong thêm người có năng lực lại đủ thân tín ở bên cạnh lão. Tình hình quân Mông Cổ tôi không tiện nói ra, chỉ có thể tìm cách thuyết phục Trần Cụ về cạnh lão sớm ngày nào hay ngày ấy.

- Cụ biết rồi! Cụ sẽ đến xin thầy tha lỗi, cô Nhã phong cứ yên tâm.

Chị tôi cũng đến chào hắn và cảm ơn mấy tiếng, anh Thân thì cười suốt vì được bình rượu ngon. Tất cả chúng tôi lên xe ngựa hướng về phía đường mòn. Xa xa, ánh bình minh đang rực rỡ xuyên qua những tàn cây…


[1] Chữ trong bài Cư trần lạc đạo của Trúc Lâm Đại Sĩ, tức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Đây được xem là sáng tác tiếng Nôm đầu tiên của Việt Nam.

“Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao; chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hý.”

[2] Giờ Thân: từ 3 giờ đến 5 giờ chiều. Giờ Dậu: từ 5 giờ đến 7 giờ tối.

[3] Am: Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Nội...) cũng có khi là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng - Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. (Theo website Ban Tôn giáo Chính phủ:

http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/255/0/8939/Phan_biet_Den_Mieu_Nghe_Dien_Phu_Quan_Am)

[4] Ngũ tuần: Năm mươi tuổi.

[5] Hiện là huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

[6] Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: “Cứ 15 năm 1 lần xét duyệt, 10 năm thăng tước 1 cấp, 15 năm thăng chức 1 bậc. Chức quan nào khuyết thì chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt thì bổ chức ấy”.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 11: KHÁC MÁU TANH LÒNG

Sau khi tạm biệt Trần Cụ, chúng tôi mất thêm gần một ngày loanh quanh trong núi. Tôi vừa ốm dậy đã đi xa, thêm vùng rừng núi ẩm thấp, khí hậu thất thường nên người cứ không tỉnh táo.

- Mợ cả, cô Phong, hôm nay chúng ta nghỉ sớm nhé, vừa đến thị trấn dưới núi tôi sẽ tìm chỗ trọ! – Người phu xe lo lắng cho sức khỏe của tôi.

- Em vẫn ổn mà anh Thân! – Tôi gắng cất giọng líu lo. – Trời vẫn còn sớm, em nhớ mấy món chay ở Dưỡng Chân Trang lắm rồi!

Có tiếng cười khe khẽ vọng lại, xe đi nhanh hơn một chút. Tôi vén mành tre nhìn ra phía trước, ánh nắng chiếu nghiêng nghiêng làm tôi phải nheo mắt, qua con dốc này thôi là đã đến đồng bằng. Về nhà sớm hơn một ngày, chúng tôi sẽ có thêm một ngày để thu xếp. Tôi vẫn chưa biết nên dùng lý do gì để kêu gọi dân chúng ở Yên Bang tập trung quân đội và lương thực. Cuộc chiến với Mông Cổ chưa chắc đã nổ ra, tôi không thể làm lòng dân xáo động trước khi tin tức từ tiền tuyến đưa về. Có cách nào danh chính ngôn thuận, không làm mọi người lo sợ mà vẫn có được sự chuẩn bị tốt nhất không? Nếu tiên sinh là tôi, lão sẽ làm gì?!

Đang mải suy nghĩ, tôi không để ý xe ngựa đã đi chệch khỏi đường mòn. Chị tôi dường như cũng nhận ra sự lạ, khẽ hỏi:

- Anh Thân, sao vậy?!

- Cô hãy vào trong xe, tôi nghĩ chúng ta gặp cướp rồi! – Anh thấp giọng trả lời.

Quỷ tha ma bắt! Đúng là hồng nhan họa thủy, chỉ tại nhan sắc tôi hơn người nên mới xảy ra cớ sự này!

Tôi với lấy thanh kiếm mà Trần Cụ đã tặng, ngồi nép sau mành cửa. Chị tôi cũng đã sẵn sàng để đánh trả bất cứ lúc nào. Đường dốc lởm chởm khiến xe ngựa không di chuyển được nhanh nhưng cũng từ từ rời xa phía đường mòn mà bọn chúng đang mai phục. Tôi liếc ra phía ngoài mành, những bóng đen trên ngọn cây dần khuất khỏi tầm nhìn.

- Qua khỏi phiến đá phía trước chúng ta nhảy xuống, đừng để chúng biết ta đã bỏ xe. – Vẫn giọng nói trầm trầm bình tĩnh của người phu xe thân tín, cũng là cận vệ trung thành mà lão già đã nhường cho tôi.

- Được. – Tôi và chị đáp, lúc này bỗng nhiên tôi không thấy buồn khi chị Hạnh bị hụt món cá tầm thơm ngon nữa.

Trước mặt chúng tôi là một phiến đá lớn được mưa rừng gọt đẽo thành một hình thù kỳ dị, tạo với vách núi một hốc tối khá rộng, vừa đủ để ba chúng tôi ẩn nấp đợi bọn cướp bỏ đi. Chỉ còn vài bước, khi chúng tôi chuẩn bị nhảy khỏi xe thì con ngựa bỗng giẫm phải vật gì đó dưới đất, lồng lên, hất cả người và xe ngã nhào. Tôi lăn mấy vòng trên mặt đất, tay cố nắm chặt thanh kiếm không buông, tới khi vừa định thần đã thấy mấy bóng đen ập đến.

- Anh Thân, coi chừng rương châu báu…! – Tôi giả vờ hét lên để hướng sự chú ý của chúng đến chiếc xe đang vướng lại giữa hai thân cây lớn. Không có tên cướp nào lao về phía ấy, xem ra chúng thật sự đến đây vì nhan sắc của tôi rồi. Chết tiệt, bọn bây không biết ông đây là một trang hảo hán đầu đội trời chân đạp đất sao?!

Bọn chúng có tổng cộng mười người. Từ nãy đến giờ anh Thân và chị đã giết được bốn, hiện mỗi người đang quần thảo vói một tên, có đến bốn tên đánh về phía tôi khiến tôi né tránh đến mệt đừ người. Tôi đánh nhau với bọn cướp hồi lâu mà kiếm vẫn chưa rút ra khỏi vỏ. Cũng may, vì không muốn phạm sát giới nên tôi học món tránh né này rất thành thạo, chỉ nhân lúc bọn chúng không để ý dùng thân kiếm đánh vào mạn sườn, vào gáy, vậy mà bọn này cứ như mình đồng da sắt, gục rồi lại đứng lên đánh tiếp, nếu như không giết chúng, e rằng…

- Phong, rút kiếm ra! – Chị tôi hét lớn.

- Cô Phong, giết bọn chúng để tự vệ, Phật sẽ không trách cô đâu! – Anh Thân dường như cũng đã thấm mệt, giọng nói không còn bình tĩnh. Tôi biết anh rất muốn đến giúp tôi nhưng tên đang đấu với anh không phải hạng tầm thường.

Giết bọn chúng, tôi không sợ Phật trách phạt, chỉ là…

Bốn tên cướp vẫn không ngừng vung đao chém tới, hóa ra bọn chúng không cần nhan sắc, thứ bọn chúng muốn lấy là mạng của tôi. Tôi cứ lùi mãi, lưng tựa vào vách núi, xoay người liên tục, những nhát đao liên tục chém xuống sát bên, cả người tôi đều xây xát, rát buốt tận xương.

- Chết! – Một tên cướp hét to, nhảy lên cao đồng thời giáng mạnh đao từ trên xuống, trông hắn cứ như đao phủ đang thi hành án tử…

Nguy rồi! Tôi tuốt kiếm ra muộn quá!

Có tiếng mũi tên xé gió, vụt qua tàn cây, cắm phập vào hai tên cướp trong đó có tên đang định chém tôi. Tiếng vó ngựa từ sau vọng đến.

- Cô Nhã Phong, mau lên ngựa!

Eo tôi bị người ta từ sau kéo mạnh, nhấc bổng lên. Khi tôi đã ngồi vững, tôi thấy hai tên cướp còn lại xông về phía chị, vai áo chị dường như thấm đỏ. Tôi giục ngựa chạy về phía ấy, sau lưng tôi Trần Cụ lại giương nỏ, hai mũi tên cắm phập vào ngực bọn cướp. Anh Thân cũng vừa xử lý xong tên đầu đàn. Đúng lúc ấy, tên duy nhất còn lại vung đao muốn giết chị, nhưng ngựa của Trần Cụ và kiếm của tôi đã nhanh hơn, máu tên cướp tung tóe khắp nơi.

Tạ ơn Trời Phật, sóng gió đã qua rồi.

- Phong, em có sao không, có bị thương ở đâu không?! – Chị đưa tay lên vai trái bịt chặt vết thương đang rỉ máu, miệng vẫn không ngừng lo lắng cho tôi.

Hơi thở đều đặn đã trở về. Tôi khẽ lắc đầu, xuống ngựa, bước đến cỗ xe đang ngã chỏng chơ, tìm một lúc mới thấy chiếc khăn tay trong túi hành lý để lau sạch vết máu trên thanh kiếm mà không để ý bộ y phục trắng của mình đã loang lổ, lấm lem. Tôi cứ lau mãi, thân kiếm sáng bóng vẫn như còn ánh đỏ nhờ nhờ.

Ngày trước, có lần tôi hỏi lão già tại sao vẫn dẫn quân dẹp loạn, lão bảo tu hành không có nghĩa là không phạm sát giới, mà phải vung gươm đúng nơi, đúng lúc để bảo vệ những người mình cần bảo vệ. Lúc từ giã lão, tôi cũng đã để lại cây sáo ngọc của mình, quyết tâm từ nay vì mọi người mà chiến đấu bằng mũi tên ngọn giáo. Tôi không sợ Phật Tổ trách phạt tôi, chỉ là, tôi không ngờ được lần đầu tay tôi nhuốm máu tươi lại không phải máu của giặc Mông, mà là máu của người có cùng tiếng nói với mình…


***


Trong lúc tôi xử lý vết thương cho chị và anh Thân, Trần Cụ giúp chúng tôi dựng lại cỗ xe gãy đổ và buộc vào con ngựa của hắn. Con ngựa theo chúng tôi từ Hồng Lộ giẫm trúng bẫy thú, chân đã bị thương nặng không đi tiếp được, tôi băng bó rồi giao nó lại cho tên sư đệ tính tình quái gở kia.

- Ta quên mất ngươi là người chu đáo thế nào, sao lại tin ngươi dễ dàng để mặc bọn ta tự mình xuống núi chứ. Lần này cũng may là có ngươi đến kịp. – Tôi cười cười cảm ơn hắn.

- Cụ tin cô Nhã Phong có bản lĩnh, vùng này cũng chưa từng xảy ra cướp bóc nhưng Cụ vẫn muốn đảm bảo mọi người được an toàn. – Hắn vừa nói vừa giúp tôi lau sạch bùn đất đang bám trên đôi chân rướm máu, vẻ rất chăm chú như đang nâng niu một món đồ gốm đắt tiền ở Bát Tràng. Cũng may tôi đã mang theo hộp thuốc của lão già để dự phòng bất trắc.

Tôi suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng quyết định nói với Trần Cụ chuyện quân Mông Cổ, bảo hắn ngay lập tức đến Hồng Lộ gặp lão già, không được bám theo chúng tôi nữa.

- Cụ đưa mọi người an toàn về Dưỡng Chân Trang rồi sẽ đi tìm sư phụ, cô Nhã Phong đừng lo lắng quá, thầy rất tài giỏi, sẽ không xảy ra chuyện gì đâu! – Hắn vẫn không chịu nghe lời.

- Ta là sư tỷ của ngươi, cũng là em vợ của Hưng Ninh vương Trần Tung, đây là lệnh. – Tôi nói gằn từng tiếng một.

- Phong! – Chị tôi ngỡ ngàng, cả anh Thân lẫn Trần Cụ đều sửng sốt.

- Bọn ta ở hậu phương có thể gặp bao nhiêu nguy hiểm chứ. Hồng Lộ là biên giới phía nam của Thăng Long, không biết áp lực lớn đến nhường nào, nếu tiên sinh xảy ra chuyện gì bất trắc… - Tôi vội gạt đi suy nghĩ ấy. – Ta đã được chứng kiến tài bắn nỏ bách phát bách trúng của ngươi. Nếu Cụ thực sự ngưỡng mộ, kính trọng ta thì mau chóng đến cạnh người. – Tôi nhìn hắn bằng ánh mắt không thể chân thành hơn được.

- Cụ đã hiểu. Đưa mọi người đến thị trấn rồi Cụ sẽ đi ngay.


***


Hôm ấy, chúng tôi nghỉ ở một quán trọ nhỏ. Bữa tối có thịt rừng nướng và cơm lam nhưng tôi ăn chẳng thấy ngon, có lẽ vì cơn sốt nhẹ và những vết thương lúc đánh nhau làm người cứ lâng lâng, ngầy ngật.

- Em lo lắng cho vương gia như vậy mà vẫn kiên quyết về Dưỡng Chân Trang, quả nhiên là không tin tưởng chị. – Chị tôi nói khẽ lúc anh Thân đã rời bàn ăn, trong quán chỉ còn lác đác vài vị khách.

- Chị cả, chẳng lẽ chị cũng bị sốt sao?! – Tôi đẩy cốc trà gừng còn bốc khói ra trước, rướn người đưa tay sờ trán chị.

- Phu xe Nguyễn Văn Thân theo chúng ta không chỉ để làm vệ sĩ mà còn để đảm bảo chị không làm bậy, đúng không? – Chị vẫn giữ giọng nói không cảm xúc, nghiêng đầu tránh tay tôi.

Không sai. Tôi kiên quyết cùng chị về Yên Bang bởi không dám tin chị sẽ vì họ Trần mà tận lực chuẩn bị cho kháng chiến. Dù cho chị thật tâm vì đất nước mà chống giặc, có gì đảm bảo chị sẽ không nhân lúc loạn lạc tiếp cận hoàng tộc để thanh toán việc riêng?! Trong mắt tôi, chị vẫn luôn xa cách đến mức tôi không hiểu được, khiến tôi một phần kính ba phần sợ. Tôi biết lão già để chị quán xuyến việc nhà nhưng vẫn luôn âm thầm cử người theo dõi chứ không hoàn toàn dựa vào thư chị gửi hàng tháng. Không ít lần tôi tự hỏi, nguyên nhân lão cưới chị làm chính thất có phải vì muốn công khai giữ chị ở Yên Bang để tiện bề giám sát hay không. Thân phận chị là gì mà lão phải nhọc công đến thế?!

- Tiên sinh từng dạy em, đã dùng người sẽ không nghi, đã nghi sẽ không dùng. Việc chị không ưa gì những người ở Thăng Long, em và tiên sinh đều biết rõ. – Tôi trở nên nghiêm túc, lựa lời thật cẩn thận. – Nhưng, những năm qua ai cũng thấy chị chăm lo cho người dân ở thái ấp thế nào. Một vị chủ nhân như thế sẽ không vì chuyện riêng mà làm ảnh hưởng đại cuộc, khiến nhân dân khốn khổ.

So với việc cứ nghi ngờ hỏi đi hỏi lại, thể hiện lòng tin tuyệt đối và kỳ vọng cao đôi khi có tác dụng khuyến khích người khác làm việc tốt cho mình hiệu quả không ngờ. Đây là điều tôi đã học được sau nhiều lần thấy lão già cảm hóa thành công những kẻ ban đầu không tuân phục.

- Nguyên nhân em kiên quyết phải trở về, là vì… - Tôi liếc nhanh những vị khách đang ngồi trong quán, càng thấp giọng hơn. – Em còn phải thuyết phục Vũ Thành vương kề vai sát cánh với chúng ta.

Ngoài Hưng Đạo vương là anh em khác mẹ, Quang Khải và hoàng thái tử Trần Hoảng cùng vài hoàng tử công chúa đang sống ở Thăng Long là em khác cha, lão già nhà tôi còn hai người em ruột – một là Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang, đứa con từ lúc còn trong bụng mẹ đã phải gọi chú là cha, người còn lại là Vũ Thành vương Trần Doãn. Do nhiều khác biệt về tính tình và quan điểm, Vũ Thành vương không thân thiết với người anh em nào ở Vạn Kiếp hay Tức Mặc. Từ lúc hoàng hậu Thuận Thiên qua đời quyền lực của ông ta càng suy yếu, mùa thu năm ngoái không biết nghĩ thế nào đã chạy sang đất Tống, cuối cùng bị một vị Thổ quan ở Tư Minh bắt lại giao cho triều đình. Nhờ phước ông ta, bao nhiêu công sức Hưng Đạo vương và lão già nhà tôi xây dựng lòng tin với Tức Mặc bỗng dưng đổ sông đổ bể, người ta lại lời ra tiếng vào rằng chi Vạn Kiếp vẫn ghi nhớ thù xưa.

- Hóa ra là vậy… - Gương mặt chị tôi giãn ra đôi chút.

- Cũng tại em cứ muốn lập công mới khoe với mọi người, không ngờ khiến chị suy nghĩ nhiều như vậy. – Tôi nở nụ cười cợt nhả. – Sao anh Thân đi cho ngựa ăn lâu vậy nhỉ, không biết lúc chiều anh ấy bị thương có nặng không, để em xuống xem giúp anh ấy. – Tôi khoác thêm áo choàng rồi đứng dậy.

- Đừng ở ngoài lâu, gió lạnh. – Chị dặn với theo.

Chuồng ngựa ở sân sau quán trọ, cách dãy nhà chính một khoảng sân. Tôi kéo áo choàng trùm kín tóc để tránh gió, che miệng ho vài tiếng, thấy mắt hoa lên cả. Đúng là thần y cũng không tự chữa được bệnh cho mình, chỉ một cơn cảm xoàng cũng khiến tôi khổ sở thế này. Vết thương ở lòng bàn chân báo hại tôi lò dò mãi mới đến được gần chuồng ngựa, tôi lên tiếng gọi:

- Anh Thân, anh có ở đây không?!

Không có tiếng trả lời, tôi bèn đến chỗ con ngựa hôm nay đã cứu mạng tôi, thêm ít cỏ cho nó rồi thu dọn định quay vào. Chẳng ngờ vừa đứng lên, tôi bị choáng, thấy trước mắt bỗng dưng tối sầm lại, ngã nhào xuống đất.

Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh, tôi nghe văng vẳng giọng một người nam, không phải cái giọng nói trầm trầm đáng ghét của lão già, cũng không phải cái giọng ngang phè phè của Trần Cụ:

- Cô gì ơi, cô gì ơi, cô bị làm sao vậy?!

Tôi bị hắn lay gọi mãi một lúc, sau đó bế bổng lên, đưa đi đâu chẳng rõ. Tôi cố cựa mình, nhấc đôi mi đang nặng như đeo chì, đập vào mắt tôi là gương mặt lo lắng của chị và anh Thân, còn có... Một bàn tay ấn chén thuốc đắng ngắt vào miệng ép tôi uống hết, hình như tôi đã hất cả vào người hắn. Đồ vô lễ, to gan! Lão già dỗ ta uống thuốc bao giờ cũng rất dịu dàng…

- Phong, ngoan nào! – Chị đỡ tôi vào lòng, kiên nhẫn dỗ dành. – Uống thuốc cho mau khỏi, chị đưa em quay lại gặp tiên sinh nhé.

- Không được… - Tôi hoảng hốt, cố giữ chút tỉnh táo sau cùng nắm chặt tay áo chị, nhắc đi nhắc lại nơi mình muốn đến. – Em phải về Yên Bang, em còn nhiều việc phải làm…!
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 12: LỄ BẠC TÂM THÀNH

“Trộm nghĩ rằng:
Cây cao bóng mát
Quả tốt hương bay
Công tài bồi xưa những ai gây
Của quí hóa nay con cháu hưởng
Ơn Trời Đất Phật Tiên, Chư vị Tôn thần
Sau nhờ ơn Tổ tiên gây dựng, kể công tân khổ biết là bao
Đến nay con cháu dồi dào, hưởng miếng trân cam
Nay nhân mùa gặt hái
Gánh nếp tẻ đầu mùa
Nghĩ đến ơn xưa
Cày bừa vun xới,
Sửa nồi cơm mới
Kính cẩn dâng lên
Thường tiên nếm trước
Mong nhờ Tổ phước
Hòa cốc phong đăng
Thóc lúa thêm tăng
Hoa màu tươi mới
Làm ăn tiến tới
Con cháu được nhờ
Lễ tuy đơn sơ
Tỏ lòng thành kính”

Vừa dứt lời, cậu nhóc cung kính lạy trước bàn thờ lớn đặt giữa sân, lại lầm rầm khấn nguyện điều chi rồi bước lùi ra khỏi chiếu. Ngay lập tức dáng vẻ ngây thơ của một đứa trẻ mới lên chín lại quay về:

- Phong, lễ Cơm Mới[1] năm nay em đã thuộc làu bài khấn rồi, chị thấy giỏi không? – Thằng bé toe toét cười khoe hàm răng sún. – Em dùng tiền công chăn trâu để mua mâm hoa quả này cầu phúc cho thầy u ở nhà đấy!

- Ngoan lắm! Đợi mấy hôm nữa chị xong việc lại dạy em viết chữ. – Tôi vui vẻ xoa mái tóc xơ xác của nó đến rối bù lên.

- Thật không? – Đôi mắt thằng nhỏ liền sáng rỡ. – Nửa năm nay Phong không có ở nhà, bọn em buồn lắm, buồn đến không học nổi luôn… - Mấy chữ cuối ngân thật dài, thật ngọt, nó định dụi vào lòng tôi làm nũng.

- Lại kiếm cớ lười học chứ gì! – Tôi nhanh nhẹn né người sang một bên, đưa tay cốc đầu nó một cái rõ đau.

- Oan quá! – Nó gào như khóc. – Cô Thiên Hương nghiêm lắm, ngày nào cũng dạo một vòng xem bọn em có đến học đủ không, sao em dám trốn!

Chị tôi quả nhiên không làm bọn tôi thất vọng. Lũ trẻ nhà nghèo này được lão già đích thân xin phép cha mẹ chúng cho đến Dưỡng Chân Trang học mỗi ngày, trước do lão dạy, sau đó đến tôi dạy, khi tôi rời khỏi thì chị đã nhờ người đến dạy. Tuy danh phận chị là chính thất của Hưng Ninh vương, nhưng phần vì những người hầu trong nhà biết ý, phần khác mọi người ở Dưỡng Chân Trang vẫn quen gọi lão là thầy Tuệ Trung, nên cuối cùng chỉ có anh Thân – phu xe của lão – gọi chị một tiếng “mợ cả” vì thường xuyên tiếp xúc với người ngoài. Thiên Hương… cái tên này thật hay biết bao nhiêu! Chị có thừa nhan sắc, luôn lễ độ dịu dàng, khi cần vung kiếm lại là một cao thủ, đúng là chỉ có lão già nhà tôi... Tôi là nữ mà nhìn chị đi đi lại lại đón tiếp mọi người đến cúng dường, sắp xếp bày trí mọi việc đâu ra đấy, luôn tay luôn chân mà cử chỉ vẫn khoan thai còn không rời mắt được.

À, mà tôi cũng không chắc mình là nữ nữa!

Mấy ngày trước, tôi đã được đưa về Yên Bang, cơn sốt và vết thương trên người cũng gần bình phục hẳn. Việc tôi lo nghĩ lấy cớ gì bảo mọi người chuẩn bị quân đội và lương thực bỗng trở nên thừa thãi vì từ Hồng Lộ gửi tin về, quan gia đã ra lệnh các tướng hội quân, do Hưng Đạo vương làm tiết chế.[2] Vừa hay đến rằm tháng mười, chúng tôi chẳng cần mất nhiều công sức truyền tin vì bá tánh từ khắp nơi đã tập trung đến cúng dường.

- Em ra chơi với mọi người đi, đợi cúng xong sẽ có rất nhiều thức ăn ngon đấy, tha hồ no nhé! – Tôi lại xoa đầu thằng nhóc thêm chập nữa rồi đi về phía Phật đường.

Dưỡng Chân Trang có thể coi là một thiền viện, chỉ là không có trụ trì, không có thứ bậc, sư sãi và dân chúng các vùng lân cận đều có thể đến bất cứ lúc nào, được tiếp đãi trọng hậu món chay món mặn và được đọc sách, đọc kinh bao lâu tùy thích. Trang viện có ba Phật đường lớn và hai dãy nhà dài cho khách thập phương trú lại, khu chúng tôi ở nằm hơi khuất, cách sân chính một hành lang nhỏ ngang hồ. Người phục vụ trong trang và những người chép kinh Phật được lão thuê về tuy rất tha thiết được làm công quả nhưng lão nhất quyết không đồng ý, ai không nhận tiền hàng tháng thì không được làm việc nữa. Lão bảo rằng họ muốn tích công đức thì cứ tận tâm làm tốt công việc của mình, rảnh rỗi thì giúp đỡ mọi người, còn muốn phục vụ lâu dài và nhiệt huyết thì vẫn phải đảm bảo cơm ăn áo mặc cho gia đình trước đã. Dù rằng chỉ mình tôi bất kể chép kinh Phật đến mỏi cả tay cũng chẳng nhận được thêm tí tiền tiêu vặt nào, tôi vẫn rất tán thành cách nghĩ này.

Phật đường chính nằm ở vị trí cao nhất, trước sân có lư hương lớn bằng đồng luôn nghi ngút khói nhang. Mộc lan chỉ được trồng trong khu ở của chúng tôi, còn sân lớn trồng toàn cây đại, lúc nào cũng mát rượi và thơm ngát. Tôi bước lên thềm nhìn vào trong, mọi người đang đọc sáu thời sám hối[3], tôi cứ thế đứng bên ngoài cửa điện lắng tai nghe.

“Đây là nghiệp sát
Bạo ngược lộng hành
Không phát lòng từ
Bốn loài một thể
Vì không biết rõ
Giết hại mặc tình
Hoặc là giết lầm
Hoặc là cố ý
Hoặc tự mình giết
Hoặc bảo người làm…”

Từng lời sám hối cứ vang vang làm tâm trí tôi trôi dạt đâu đâu chẳng rõ. Cho đến khi mọi người đã tụng xong, lục tục kéo nhau ra sân trước, tôi mới giật mình ngẩng đầu lên, một vị hòa thượng đang nhìn tôi với nụ cười rất hiền từ.

- Sư ông! – Tôi chắp tay vái chào. Vị này là thiền sư Tiêu Dao, sư phụ của lão già, cũng là người đầu tiên hướng dẫn cho tôi về Phật pháp lúc tôi được gửi đến Phúc Đường.

- Huệ Tâm, con khỏe hẳn chưa? – Nghe sư ông hỏi tôi bỗng dưng muốn khóc, nhớ lại những ngày mình còn thơ bé, nhà cháy, mẹ mất, lúc ấy còn chưa thân với lão già, chính sư ông đã chăm sóc tôi từng chút một. Pháp danh này cũng chính người đặt cho tôi, nhưng bấy lâu nay ai cũng bảo tôi chỉ giỏi chép kinh chứ chẳng tu hành gì được nên không ai gọi nó, dần dần tôi cũng quên đi.

- Con ổn rồi ạ. Không ngờ sư ông lại đến đây giúp bọn con… - Cơn xúc động qua, nỗi áy náy lại trỗi dậy trong lòng. Quả thật tôi đã từng nghĩ đến việc lợi dụng uy tín của Dưỡng Chân Trang mà chiêu binh mãi mã nếu đến bước đường cùng.

- Các con vì đất nước mà dốc sức, ta chỉ đến xem có thể giúp được gì không. Sao lúc nãy con không vào trong điện? – Thì ra dáng vẻ tần ngần của tôi không qua mắt được sư ông.

- Con… - Tôi không biết nên đáp thế nào, hồi lâu mới thấp giọng thưa. – Con đã giết người. Dù hắn là cướp, nhưng hắn cũng là người dân Đại Việt. – Tôi nhìn xuống bàn tay mình đang mở ra rồi nắm chặt. – Con cứ nghĩ đôi tay này chỉ nhuốm máu giặc Thát thôi. Con không còn là con bé Huệ Tâm ở Phúc Đường của sư ông ngày đó nữa rồi… - Tôi bỗng dưng thấy giận bản thân mình, chỉ giết một tên cướp đã khiến tôi lòng dạ rối bời như thế, làm sao đòi chống giặc?!

Sư ông vẫn nhìn tôi, không nói gì chỉ giữ mãi nụ cười hiền hậu.

- Một lúc nào đó con sẽ hiểu, khi con từng bế một đứa trẻ trên tay, sau này dù nó bao nhiêu niên kỷ, tính tình có thay đổi thế nào, trong mắt con nó vẫn sẽ là một sinh linh bé bỏng ngây thơ. Huống hồ… - Sư ông vỗ nhẹ lên đầu tôi. – Huệ Tâm của sư ông dằn vặt như thế này nghĩa là Phật vẫn ở tại lòng con.

Có cơn gió nhẹ thoảng qua, tảng đá trong lòng tôi bỗng hóa thành chiếc lông ngỗng bay đi đâu mất. Nếu có mặt ở đây hẳn là lão già cũng sẽ nói y như thế, không cầu kỳ, không cao siêu, cũng không cần tôi giác ngộ. Tôi mỉm cười, cúi mặt, nước mắt chảy thành dòng.

- Đúng rồi, sư ông có nhớ tri huyện Tiên Hoa không? Năm ngoái sư ông đến giảng pháp, ngài ấy nhớ và nhắc mãi. Tiên sinh nhà con còn nhận thêm một đệ tử ở Tiên Hoa đấy, tên hắn là Trần Cụ. Cũng may hắn không ở Dưỡng Chân Trang, nếu không con sợ rằng cả nhang cũng phải cắm ngay hàng thẳng lối, mấy đứa trẻ chép kinh mà sổ đậm một nét chắc không được ăn cơm… - Tôi liến thoắng không ngừng.

“Tên đó mà xuất gia, hắn nhất định lấy pháp danh là Thích Đối Xứng”, những lời vô lễ này đương nhiên tôi chỉ giữ trong lòng.


***


- Cậu Nam, rương thuốc này tôi mang vào kho nhé?

- Anh để phía bên kia, ta phải phân ra từng loại đã.

Tôi đứng sau tàng liễu, quan sát Nguyễn Nam ghi chép số thuốc và lương thực do mọi người quyên góp. Kẻ đã phát hiện ra tôi ngất xỉu ở quán trọ gần Cấm Sơn hóa ra là một tên thầy thuốc. Chị tôi đã lôi kéo hắn về Yên Bang phụ giúp việc thu gom thảo dược. Nhìn dáng vẻ chăm chú và ân cần của tên thanh niên mới ngoài hai mươi tuổi, tôi không thể không tán thưởng mắt nhìn người của chị.

- Bác gì ơi! – Nguyễn Nam vừa đi đến cuối hàng người vừa tươi cười hỏi. – Bác đến tặng thuốc phải không, sao từ nãy giờ cứ đứng mãi không vào?!

- Dạ, tôi… - Người đàn ông tay lấm chân bùn giật mình khi bị gọi đến, rụt rè đưa bó thuốc được gói bằng tấm vải sờn. – Tôi chỉ có một ít này thôi, mong ngài nhận giúp.

- Thất diệp nhất chi hoa[4]! – Nguyễn Nam nhìn thứ củ sần sùi gói trong bọc vải. – Đây là cây thuốc hiếm mọc sâu trong núi, sao bác biết mà hái được?

Nét mặt người đàn ông liền trở nên rạng rỡ:

- Năm ngoái bà nhà tôi bị rắn độc cắn tưởng đâu toi mạng, may nhờ thầy Tuệ Trung tìm thứ này về trị mới qua khỏi. Tôi vừa nghèo vừa ít học, biết đất nước có giặc cũng không giúp được gì…

Nguyễn Nam chăm chú lắng nghe, một tay hắn nắm chặt cây thuốc quý, tay kia đặt lên bờ vai gân guốc của người đàn ông thô lậu.

- Từng này thuốc là bao nhiêu người khỏi chết… Bác đi hái thuốc chỗ núi non hiểm trở, có bị thương ở đâu không? – Giọng nói hắn đầy sự chân thành.

Mãi đến khi mọi người đã ra về cả, tôi mới bước đến khen hắn một câu:

- Ngươi làm thầy thuốc hay buôn hàng mứt mà miệng ngọt như đường vậy?

Hắn cười nhẹ, vứt cho tôi quả quýt.

- Nếu tôi không biết cách dỗ bệnh nhân, bây giờ em đâu có sức đứng đây mà châm chọc.

Ai châm chọc ai chứ? Tôi mặc kệ những lời hắn nói, ung dung lột vỏ quýt, vừa ăn vừa đi lòng vòng quan sát số lương thảo nhận được hôm nay.

- Hôm nay em cứ đi đi lại lại, cẩn thận kẻo vết thương ở lòng bàn chân vừa kéo da non lại nứt ra, vừa ngứa vừa rát, tối không ngủ được lại càu nhàu chỉ khổ tôi thôi. – Hắn chăm chú nhìn mấy loại cây cỏ trong chiếc rương to được một nhà rất giàu ở làng bên mang đến biếu.

- Tại y thuật của ngươi thấp kém, nếu có tiên sinh ở đây thì ta đã khỏi lâu rồi. – Tôi kéo tay hắn nhét đống vỏ quýt mới lột vào rồi đi thẳng.

- Nhã Phong! – Hắn gọi giật ngược làm chân tôi sững lại. – Thuốc tôi để ở phòng em, ăn cơm xong nhớ uống. Tôi biết bây giờ tôi không thể so được với Hưng Ninh vương, nhưng sẽ có ngày…

Những lời cuối cùng của hắn như tiếng thầm thì, tôi bỏ xuống bếp tìm đồ ăn nên không nghe rõ nữa.


***


Đến giữa chiều thì mọi người ai ở gần đã về nhà nấy, ai ở xa cũng được sắp xếp chỗ nghỉ ngơi, trang viện trở lại tĩnh lặng như ngày thường. Tôi không có việc gì phải làm nên ra hành lang bắc ngang hồ ngồi hóng gió, vừa nghĩ ngợi vừa cắn hạt dưa. Giờ đã là chớm đông, chẳng có búp sen nào nở. Lũ cá lâu ngày không gặp tôi nên có vẻ lạ lẫm, ngơ ngác trốn dưới đám lá không dám trồi lên. Cũng phải, nửa năm qua tôi đã khác đi nhiều, tóc dài ra, gương mặt cũng thêm mấy phần anh khí. Chợt nhớ đến sử sách thường miêu tả vẻ đẹp trầm ngư lạc nhạn[5] của các mỹ nhân, tôi dáo dác nhìn lên trời xem thử có con chim nào vừa rớt xuống hay không.

“Tiên sinh, em chưa nhận được lì xì.”

Thời gian trôi qua nhanh thật, cũng hồ sen này, mới đó mà đã mười năm. Tết Đoan Ngọ năm nay, lão đền bù cho tôi một phong bao rất to rất nặng, tôi lại dành tiền ấy đến Trung Thu đi mua đèn lồng treo đầy trong phủ, báo hại có lần một vị quan đến tìm lão vừa đến cửa đã bước ra vì ngỡ đi nhầm. Phủ Tiết độ sứ không có nhiều sen, mộc lan cũng không to đẹp như ở Dưỡng Chân Trang, càng không có ai biết ướp trà hoa vừa ý lão, thời gian qua chắc lão phải đích thân làm. Tên Trần Cụ đó chắc chắn chỉ mới học nghề làm cá vì họ Trần vốn là ngư dân, hắn không thể nào học được tuyệt kỹ ướp trà mà tôi phải làm đi làm lại bao nhiêu năm mới thành thạo được. Sắp đến nếu Hồng Lộ trở thành tiền tuyến, lão có ướp đủ trà sen để uống chưa?!

Thật ra trong lòng tôi vẫn ít nhiều ấm ức việc lão nhận Trần Cụ làm đồ đệ. Tôi nghĩ thế nào cũng không tưởng tượng ra cảnh lão già trái tính của tôi và tên Thích Đối Xứng đó khi ở cùng một chỗ sẽ ra sao. Có khi buổi học cuối cùng là như thế này:

- Sư phụ, con nhớ hôm trước thầy dạy mới vào trận phải xuất con tốt bên phải trước, sao hôm nay thầy lại đánh con bên trái?

- Trần Cụ, con uống thử đi, trà ta mới pha không có độc đâu!

À, nghĩ như thế thì tội cho lão quá, một vị thiền sư đức cao vọng trọng như lão nhất định phải từ bi, dù rành độc dược đến mấy cũng không dùng, biết đâu tình cảnh lại thế này:

- Sư phụ vẫn khỏe chứ ạ? Thường ngày gà chỉ gáy một tiếng thầy đã thức, hôm nay nó đã đập cánh ba lần chuẩn bị gáy tiếng thứ hai.

Ngay chiều hôm ấy:

- Cụ, đừng luyện thư pháp nữa, vào ăn cháo gà với thầy nào!

Xem ra trong số nam giới họ Trần mà tôi quen, Quang Khải là kẻ bình thường nhất. Nhắc đến Quang Khải mới nhớ, không biết giờ hắn thế nào rồi…


[1] Rằm tháng mười hàng năm, còn gọi là tết Hạ Nguyên.

[2] “Tháng 9, xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Quốc Tuấn.” (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản Kỷ, Nhà Trần).

[3] Lục thì sám hối khoa nghi: vua Trần Thái Tông đã soạn sáu nghi sám hối riêng biệt cho sáu thời trong một ngày đêm (khuya, sáng, trưa, chiều, đầu hôm, nửa đêm); mỗi thời, sám hối tội lỗi của một trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), có nghi thức đầy đủ từ lúc dâng hương cho đến khi hồi hướng (Cư sĩ Hạnh Cơ Nguyễn Hữu Lợi, 2000).

[4] Cây 7 lá 1 hoa, thuộc họ hành tỏi, có công dụng trị rắn cắn, sốt cao, co giật, các loại mụn độc sưng thủng.

[5] Chim sa cá lặn.
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 13: TUYẾT BAN MAI LÂU DÀI CHI ĐÓ[1]

Dưỡng Chân Trang ngày thường nếu không có lũ trẻ là một nơi tương đối buồn chán, tôi tự tìm niềm vui cho mình mãi cũng thành quen, những trò nghịch phá mọi người càng lúc càng phong phú. Ví dụ như bây giờ, mùa đông, không gì vui hơn trò câu cá.

- Anh Nam, bên phải của anh, dưới đám lá ấy!

- Lá nào? – Nguyễn Nam nhìn sang phải.

- Lá sen.

Thân hình cao lớn bỗng như hóa đá, hắn hỏi lại tương đối dịu dàng:

- Nhã Phong, theo như tôi biết thì trong hồ sen không thể có lá tre được!

- Cái lá sen hình tròn ấy!

Hắn khẽ thở dài rồi lội nước đi về góc hồ bên phải, lật mấy phiến lá to đùng lên cũng không tìm được mảnh vỏ hạt dưa nào.

- Tôi không thấy! – Hắn kêu to.

- Giời ạ! Cái lá sen hình tròn màu xanh lục kia kìa!

Tôi biết “con cá” dưới hồ đang phát hỏa trong lòng còn ngoài da thì lạnh cóng. Ai bảo hắn đột ngột đến sau lưng trong lúc tôi đang mải làm thơ, báo hại tôi giật mình hất cả đống vỏ hạt dưa xuống hồ. Tôi giả vờ mếu máo sợ làm chết cá lão già sẽ phạt, toan xắn quần lội xuống vớt thì tên thầy thuốc kia đã nhanh chóng lao xuống trước, bảo chân tôi mới lành không thể ngâm nước được. Đã nửa canh giờ trôi qua, tôi nhìn hắn lội bì bõm vớt cho kỳ sạch mà phải cố nén để khỏi bật cười, khổ không sao tả xiết.

- Thấy rồi! – Nguyễn Nam lật một phiến lá lớn, bên dưới là cả cụm vỏ bị mắc lại, hắn toan đưa tay vớt.

Tõm! Viên đá trên tay tôi rơi đúng vào giữa, đám hạt dưa lại tản ra bốn phía.

- Xin lỗi, tôi trượt tay! – Tôi đứng trên thành hồ bên này nói vọng sang.

Nếu tôi là con cá dưới hồ kia, có lẽ tôi sẽ phóng lên bờ nhai luôn người đang câu cá.

Ngồi mãi ngoài trời cũng thấy lạnh, tôi chưa biết tìm cớ nào để vào trong thì gia nhân đến báo:

- Cô Phong, có ông phủ Kiệm ở làng Keo mang lễ vật sang, cô ra nhận giúp!

Quả nhiên ở hiền sẽ gặp lành, tôi hăm hở đi ngay.

Trước đây tôi có hỏi lão già, do sinh ở làng Keo nên thân mẫu ông bá phủ đặt tên là Kiệm hay do nhờ có ông Kiệm mà làng ấy mới đổi tên Keo, lão chỉ cười không đáp. Người bên làng ấy mỗi lần sang đây lễ Phật đều sẵn tiện than vãn một hồi, nào là ông ta trả công cho nhân đinh thì ít ỏi, bán lại ruộng cho người khác thì tận mười quan một diện[2], gấp đôi giá của triều đình, quanh năm không bao giờ thấy làm phước hay giúp đỡ một ai, cả bữa cơm chính mình ăn cũng cực kỳ kham khổ, người thân bị ốm cũng ngại chi tiền cho thầy thuốc, chỉ lấy việc mở rương đếm châu báu mỗi ngày làm lạc thú. Một kẻ như thế, hôm nay lại mang đến đây bốn đôi bò, hai xe gạo và một rương vàng làm ai nấy đổ mồ hôi lạnh. Tôi không giấu được tò mò bèn lẻn vào căn phòng nhỏ phía sau bàn thờ Phật nghe xem ông ta đang khấn vái những gì.

- Nam mô a di đà Phật! Xưa nay Kiệm con không cho ai được một đồng, nay lại chi rất nhiều của cải cho quân đội, lòng xót dạ đau. Mong Phật chứng cho tấm lòng con mà phù hộ con bình yên qua khỏi nạn này, xóm làng xung quanh có cháy rụi thì cái thân con vẫn ấm êm, bạc vàng không sứt mẻ, kho thóc nguyên lành, sau chiến tranh sẽ tăng được giá, một vốn bốn lời.

Tí nữa tôi đã bật cười sằng sặc. Nhớ lại trước đây, tôi cũng không ít lần nghe được những lời cầu khẩn đầy toan tính hơn thua, nào là so bì lễ vật, nào tranh phần buôn may bán đắt. Hóa ra cũng có khi lúc quỳ dưới chân Phật là lúc lòng người sân si hơn cả.



Đợi ông ta khấn vái xong, tôi đĩnh đạc ra tiễn khách:

- Ông bá thật có lòng, con thay mặt thầy Tuệ Trung cảm ơn ông ạ!

- Không có gì! Không có gì! Chỉ là chút lòng thành… Nhưng mà, đúng là Phật ở Dưỡng Chân Trang linh lắm phải không? – Ông ta có vẻ vẫn chưa yên tâm.

- Con nghe mọi người đến đây khấn vái đều được như ý cả. Có điều…

- Làm sao? Có vấn đề gì? – Ông ta sốt ruột.

- Có điều mọi người đến đây đều là Phật tử quen mặt cả, ông bá mới đến có một lần, con sợ hôm nay đông người quá, Phật không nhớ nổi…

Ông ta ngẩn ra một lát rồi tặc lưỡi:

- Vậy, vài hôm nữa ta lại đến cho chắc nhỉ?

Tôi cười giả lả:

- Vâng, tốt nhất là ông đến thêm ba bốn lần nữa cho vững dạ!

Bóng ông bá đã khuất xa tầm mắt, tôi nghe tiếng vỗ tay lộp bộp sau lưng:

- Em buôn thần bán thánh như thế không sợ Hưng Ninh vương trách phạt sao? – Nguyễn Nam đã thay quần áo chỉnh tề tự lúc nào.

- Anh thì biết cái gì, nếu lão ở đây chắc chắn sẽ làm như thế! – Tôi nhếch mép cười, đưa tay dắt một đôi bò rồi ra hiệu cho mọi người mang số lễ vật vào trong. – Đi với Phật mới mặc cà sa, còn đi với cái lão bần tiện này, quấn lá chuối cũng xa xỉ quá rồi.

Nguyễn Nam cũng đưa tay dắt một đôi bò, sải bước đến cạnh tôi:

- Đã khinh ông ta như thế, em còn nhận lễ vật làm gì?

- Có phải anh ngâm nước lâu quá nên phát sốt rồi không, ông ta giàu trên xương máu người dân, đây lại là lúc cần tiền, cần lương thực, tôi chưa lừa ông ta mang cả gia tài đến đã là từ bi đức độ đủ xây chín bậc phù đồ[3]!

Không biết tên thầy thuốc kia nghĩ gì mà bật cười khùng khục, lát sau lấy đâu ra một búp sen nho nhỏ phớt hồng đưa cho tôi:

- Tặng em này.

Tôi chưa kịp phản ứng đã bị hắn ụp cái lá sen màu vàng nhạt lên đầu:

- Tôi tìm mãi mới được một cái lá sen không tròn lắm, không phải màu lục đấy.


***


Thần Phật sống ở Dưỡng Chân Trang quả nhiên linh hiển, tôi vừa nghịch ngu ban chiều thì quả báo đến liền tức khắc. Ngâm nước nửa ngày trời, Nguyễn Nam lăn ra ốm, chị cả bắt tôi chăm sóc hắn. Cái tên này rõ ràng là bày trò, chỉ hắt hơi vài tiếng, người âm ấm mà hắn đã nằm bẹp dí, than thở miệng đắng cổ rát, vòi ăn cháo do tôi nấu. Khốn nỗi, lão già có ăn cháo bao giờ, tôi không biết nấu nên đánh vật trong bếp đến khi trời tối.

- Ngươi còn sống không? Dậy ăn cháo này! – Tôi lay tên thầy thuốc đang say ngủ.

- Em không dịu dàng với người ốm được sao? Ban chiều còn gọi tôi là “anh” nghe ngọt lắm cơ mà? – Hắn làu bàu.

- Muốn dụ ngươi xuống nước nên mới gọi thế. Đồ háo sắc, thấy gái đẹp là tít mắt! – Tôi dúi bát cháo vào tay hắn.

- Thì cũng tại người ta xinh nên giờ tôi mới khổ sở như vầy! – Hắn nhìn chăm chăm vào bát cháo hành, đưa muôi lên miệng thổi. – Chà, ngon quá! Tôi cứ tưởng em không biết nấu ăn…?!

Tôi nằm dài ra bàn, che miệng ngáp:

- Trên đời này chỉ có việc Trần Nhã Phong ta không muốn làm, không có việc ta không làm được.

Nguyễn Nam không đáp lại, chỉ cặm cụi ăn, ăn được vài miếng lại xuýt xoa:

- Ngon thật đấy! – Rồi bỗng như nhớ ra điều gì, hắn bỗng ngậm ngùi. – Hồi u tôi còn sống, ngày nào tôi cũng được ăn ngon thế này…

Tôi giương đôi mắt đang long lanh nước vì buồn ngủ nhìn hắn hồi lâu rồi nói rất ngọt ngào:

- Để u ngồi đợi mày ăn lâu là bất hiếu lắm đấy con giai ạ!

Kẻ đang ốm kia dường như mắc nghẹn. Tôi mang bát thuốc đến đưa cho hắn rồi mang khay và bát cháo ra ngoài, mặc kệ hắn có uống thuốc ngoan ngoãn hay không.

Tôi rửa xong cái bát mà Nguyễn Nam đã dùng thì liền thổi lửa đun nóng lại phần cháo còn trên bếp, múc một bát to để lên khay rồi mang ra sân, nhìn qua lại không thấy ai mới vào điện Phật chính, bước đến bàn thờ đặt giữa điện, giở tấm nhiễu che bức tường phía sau tượng Phật ra, đẩy nhẹ bức vách rồi nhanh chóng chui vào phía trong mật thất. Cầm lấy cây đuốc đặt ở góc tường, tôi đi xuống một đoạn cầu thang hẹp, đến một phòng giam nơi có người đã ở rất lâu. Người đó ngồi xoay mặt vào trong, tóc xõa dài, bộ áo vương gia xưa kia đã bạc màu, biết có người đến cũng không quay lại.

- Nghe Hưng Ninh vương nói lúc nhỏ ngài rất thích ăn cháo trứng, tôi mang đến một ít, ngài ăn cho nóng.

Bờ vai người kia khẽ động, hắn cười lạnh:

- Nếu anh trai ta nghĩ đến tình thân đã không giam ta ở nơi này, càng không theo hầu tên vua đó!

Tôi đến khổ với tên Trần Doãn cứng đầu này, lần nào tôi đến hắn cũng chỉ nói được mấy câu.

- Có tù nhân nào sung sướng như ngài không? Cơm bưng nước rót, kẻ hầu người hạ. Chỉ sợ sắp tới giặc Thát tràn sang, chẳng ai còn tâm trí mà nhớ đến cái phòng giam này, ngài có chết rục cũng không ai biết! – Tôi hăm dọa. – Ngài muốn sống thì mau hối cãi, hợp tác với anh và em trai ngài chống giặc kìa.

Vũ Thành vương nghe đến đây thì hơi xoay mặt lại để lộ sống mũi cao thẳng tắp, giọng nói vẫn trầm trầm:

- Giặc Thát tràn qua? Rất tốt! Cứ để bọn chúng giẫm đạp lẫn nhau mà chết cả đi!

Quỷ tha ma bắt cái tên vương gia vừa ngu vừa hèn! Tôi đưa chân toan đạp đổ bát cháo cho kẻ kia đói lả để không còn sức già mồm, song lại nghĩ dẫu gì hắn cũng là đứa em ruột thịt mà lão già từng thương yêu, tôi đành đạp lên song cửa nhà giam rồi hậm hực bỏ đi.


***


Mấy hôm sau, lão già cho phu dịch chạy trạm mang thư khẩn báo về, tôi nhận thư liền đi tìm chị. Khi tôi mở cửa phòng, chị đang đốt dở thứ gì đó trong chậu đồng, thấy tôi thì cuống cuồng dập lửa rồi giấu mảnh giấy chưa cháy vào dưới gối. Chị tròn mắt nhìn tôi một lúc, vẻ lúng túng hiện rõ trên gương mặt, tôi tìm chuyện nói tránh đi:

- Có thư của tiên sinh, em mang vào chị em mình cùng đọc.

Chị tôi khẽ thở phào rồi chỉ vào đĩa bánh đặt trên bàn. Tôi bốc một cái bỏ vào mồm, thong thả giở thư, lão già bảo bọn tôi phải nhanh chóng mang số quân lương góp được chia thành những phần nhỏ đưa đến các trạm gần Thăng Long, gửi nhờ vào các chùa ở đó. Gửi kèm thư của lão còn có một bức thư của Trần Cụ ghi rõ cách chế tạo và sử dụng nỏ. Tôi chợt thấy nhẹ nhõm, hắn đã đến bên cạnh lão rồi.

Việc chế tạo và huấn luyện cho quân lính cách sử dụng nỏ nhanh chóng được tiến hành. Tôi từng nghe lão kể rằng cách đây rất lâu, có ông vua tên Thục Phán đã được rùa thần ban móng để làm nỏ Liên Châu mà tiêu diệt giặc. Lâu dần, cung tên trở nên phổ biến hơn, tôi đoán là do dễ sử dụng hơn, nên tôi không còn thấy mấy người dùng nỏ nữa cho đến khi gặp Trần Cụ. Trong thư hắn bảo ở gần Yên Bang có một người hắn từng nhận làm thầy, nếu tôi mời được người này về giúp thì có thể hoàn thành một số lượng lớn vũ khí trong thời gian rất ngắn. Chỉ có điều, người này tính tình quái lạ, ít ai trò chuyện được quá ba câu. Tôi nghe thế càng tò mò hơn, không cần biết có giúp được gì cho quân đội hay không cũng muốn gặp thử một lần.

Sáng hôm sau, tôi hăm hở nhắm hướng núi Thiên Thai mà đi, mất hai ngày cũng đến được ngôi chùa trên đỉnh núi. Chùa rộng trăm gian, nghe nói trước đây là hành cung của họ Lý, sau này khi họ Trần trị vì thì bị bỏ phế chẳng ai lui tới nữa. Xung quanh chùa có một vườn cây, vào mùa xuân sẽ hồng rực những chùm hoa đào lớn. Tôi vào chính điện thắp một nén nhang rồi bước ra sân dạo, đi đến cuối vườn mới thấy một người đang loay hoay đẽo đá. Ông ta tuổi quá lục tuần, tóc đã bạc trắng, lưng còng, lại mất một chân, gương mặt khắc khổ có phần đáng sợ.

Ông ta biết có người đến cũng không thèm quay lại, cứ chăm chú vào công việc. Tôi ngồi xổm xuống cạnh bên nhìn ông ta khắc. Cái đầu rồng dần hiện ra sau mỗi nhát dao, bàn tay điêu luyện khác hẳn lúc lão già chật vật mãi mới đẽo được cây sáo ngọc cho tôi. Cho đến khi ông ta đưa thành phẩm lên ngắm nghía, tôi mới giơ tay chỉ vào một điểm trên bức tượng:

- Đẹp quá, nhưng cái vảy này hơi nhỏ hơn những cái khác rồi ông ạ!

Cuối cùng ông ta cũng chịu nhìn tôi một cái, đoạn lại nhìn chỗ vảy rồng tôi vừa chỉ, đưa dao sửa lại. Tôi ngồi thêm một lúc thì đói bụng, đứng dậy co duỗi chân một hồi rồi nhìn về phía sau chùa, hỏi ông ta:

- Ông để thịt ở chỗ nào, cháu nấu cơm ông cháu mình cùng ăn nhé!

Ông ta sững người một lúc rồi đặt bức tượng xuống, chống gậy đứng lên, tôi chạy đến đỡ, ông ta không đẩy ra mà cùng tôi bước thấp bước cao đi về phía bếp.

Đến khi đã ăn xong bữa cơm có thịt kho, canh rau ngon lành của tôi, ông ta mới lên tiếng hỏi:

- Nhóc con, tên gì?

Tôi đặt bát canh uống dở xuống bàn, lễ phép thưa:

- Câu này ông hỏi cháu nên không được tính là câu thứ ba đâu, cháu tên Phong ạ!

Rõ ràng trong thư tên Thích Đối Xứng đã nói không ai có thể trò chuyện được với ông già này quá ba câu nên tôi mới cố im lặng đến giờ đấy chứ!

Không ngờ ông lão có gương mặt khó đăm đăm ấy bật cười, hất hàm về phía tôi bảo:

- Xuống núi đi, mặt trời sắp lặn.

Tôi hốt hoảng đứng dậy:

- Cháu đã nói câu lúc nãy không tính mà, câu này cũng không tính, cháu mới nói hai câu sao đã bị ông đuổi đi rồi?! – Mắt tôi hoe hoe đỏ vì tức.

- Nhóc con! – Ông lão phì cười. – Khóc to lên. Để xem một đứa được cả Trần Tung và Trần Cụ tín nhiệm mà cho biết nơi ở của ta có thể mít ướt thế nào.







[1] “Tuyết ban mai lâu dài chi đó,
Thân người đời nào có bao lâu,
Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu,
Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây.”
(Sám thảo lư)

[2] Diện: Mẫu, theo cách gọi dưới thời Trần.

[3] Ca dao:

“Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người”
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 14: THIẾU THỜI

Có vẻ như mấy lão già tài năng hơn người đều rất quái gở, thích ra vẻ thần thần bí bí và làm khó người khác. Tôi nhìn ông lão trước mặt, thu lại mấy giọt lệ vừa định nhỏ, thở dài rồi đứng lên chào:

- Vậy cháu về đây ạ, ông nhớ giữ ấm, trời sắp trở lạnh rồi.

Ông ta không có vẻ gì như muốn cản, chỉ nhướn đôi mày:

- Bỏ cuộc sớm thế?

Tôi lễ phép thưa:

- Trần Cụ bảo cháu ông từng dạy hắn. Tiên sinh cũng bảo trước đây hai người có giao tình. Nếu ông đã biết thân phận của cháu mà vẫn đuổi cháu về thì hẳn là ông có lý do riêng. Chế tạo vũ khí cho quân đội là chuyện sống còn, cháu không thể giao cho một người không nguyện ý làm được ạ. Cháu xin lỗi vì đã quấy rầy ông!

Tôi cúi chào, quay người bước ra khỏi bếp.

- Lão biết nhóc bao giờ? – Bước chân tôi liền sững lại. – Cháu còn chưa nói cháu là gì của Trần Tung?!

Tôi lập tức xoay lại phía ông lão, cố giấu vẻ vui mừng:

- Thưa, tiên sinh là anh rể, cũng là thầy của cháu.

Gương mặt khắc khổ lại giãn ra với nụ cười sảng khoái:

- Thằng ranh này cũng tìm được truyền nhân rồi đấy!

Tôi há hốc mồm vì lần đầu nghe có người gọi lão già khó tính đức cao vọng trọng kia là “thằng ranh”. Không nén được tò mò, tôi hỏi:

- Ông với tiên sinh nhà cháu thân lắm ạ?

Ông lão hất hàm về phía bên kia chiếc bàn, tôi nhanh nhảu ngồi xuống, chăm chú lắng nghe.

Ngày xửa ngày xưa, có một chàng vương gia trạc tuổi tôi đã một mình đến ngôi chùa trăm gian trên núi Thiên Thai để xem có thể khôi phục việc hương khói ở đây không. Chàng lên được giữa đường thì ngựa giẫm trúng bẫy khuỵu xuống, liền đó mấy mũi tên vun vút lao ra. Chàng nhanh nhẹn tránh né, còn đuổi theo tóm được kẻ đang giương nỏ. Thủ phạm là một người đàn ông trung niên chỉ còn một chân, trong lúc cố bỏ chạy thì vấp ngã lăn xuống đồi, người xây xước cả. Vị vương gia lấy túi thuốc mang theo giúp ông ta cầm máu, còn đưa ông về ngôi nhà nhỏ trong rừng. Suốt dọc đường đi, ông ta không ngừng mắng mỏ:

- Bỏ tao ra! Mày ăn mặc đẹp đẽ như thế chắc chắn là tôn thất họ Trần! Tao cấm bọn bây lên núi làm bẩn nơi thờ phụng thiêng liêng!

Chàng trai trẻ chẳng nói chẳng rằng, đợi đến khi dìu ông ta về đến nơi rồi, lại rót cho ông ta tách trà, chàng mới từ tốn bảo:

- Tôi tên Tung, thầy tôi là Trần Liễu, u tôi là Lý Ngọc Oanh, kể ra tôi cũng là một nửa người họ Lý, biết đâu còn có họ hàng với ông cũng không chừng!

Người kia sửng sốt. Chàng trai trẻ thản nhiên bước đến chái bếp, nhìn quanh quất chỉ thấy một chĩnh gạo đã vơi và mấy bó rau rừng. Chàng lại tự tiện cầm chiếc nỏ ông ta vừa đặt xuống mà bước ra ngoài.

- Ranh con! Ngươi định làm gì?

- Đi săn hổ về ăn tối! – Chàng nói rồi vụt chạy đi.

Mãi lâu sau, chàng trai quay lại, không có hổ mà chỉ có vài con chim bị trúng tên.

- Đây là nơi chay tịnh tu hành, ngươi đừng đem máu vào đây! – Người đàn ông trung niên hơi gay gắt.

- Chay tịnh mà vẫn cầm nỏ định giết người, xem ra tôi với ông không những cùng họ mà còn tu cùng chùa nữa. – Chàng cười cười, thản nhiên vặt lông mấy con chim vừa săn được.

- Ngươi không được vô lễ! – Ông thực sự tức giận.

- Thế nào là Phật, thế nào là ma? – Chàng trai nhìn ông bằng đôi mắt thấu suốt, nói chậm rãi từng lời. – Một ngày tụng mấy thời kinh để bù lại những thù hận chất chồng có thể đắc đạo không? Việc ông muốn giết tôi, với người trọng họ Lý là thiên kinh địa nghĩa, với thầy u quyến thuộc của tôi lại là tội ác không thể thứ tha. Sự việc vốn chỉ như thế, và chỉ xảy ra trong khoảnh khắc chứ đâu kéo dài như niềm vui nỗi buồn của người đời. Tốt hay xấu, thiện hay ác đều do cách nhìn nhận của mỗi người, mà cách nhìn ấy lại là gì nếu không phải là những yêu ghét đã bám rễ rất sâu trong lòng họ?! Ông có giết được một trăm kẻ muốn lên núi thì họ Trần vẫn cứ trị vì, dân chúng vẫn cứ an cư lạc nghiệp, chỉ có ông đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn quẩn quanh mối hận của hai gia tộc. Giang sơn là của bách tính vạn dân, nào phải của một nhà một họ, nếu họ Trần vô năng, lòng dân tự sẽ có phán quyết, ông chỉ cần ngồi uống trà đợi xem là được.

Người đàn ông thừ người suy nghĩ rất lâu, mãi sau mới nhếch mép cười:

- Kẻ hai họ như ngươi nói gì mà chẳng thuận.

- Có thể. Hoặc họ Lý không nhận, họ Trần không ưa, cũng là một cách nhìn. – Chàng trai bắt đầu đánh lửa.

Lại im lặng mất một hồi, người trung niên hỏi người trẻ tuổi:

- Ngọc Oanh… mấy năm qua nàng ấy có hạnh phúc không?!

Bàn tay đương trở xâu chim trên lửa hồng bỗng như hóa đá.

- Ông chú của tôi là một người tình nghĩa, tôi đã thôi lo lắng cho bà ấy lâu rồi. – Chàng đáp, mắt vẫn chăm chú vào khoảng không trước mặt.

Đến khi lũ chim đã được nướng chín vàng, chàng mời người nọ một xâu, cố ý đưa qua đưa lại trước mũi ông ta mấy lần, mặc kệ cái bụng đang sôi, ông ta kiên quyết lắc đầu không nhận. Chàng trai ngắm nghía phần thức ăn ngon lành, tặc lưỡi tiếc rẻ:

- Ông đi đứng không tiện lại ở nơi rừng thiêng nước độc, chỉ ăn chay làm sao đủ sức. Món ngon mà tôi ăn một mình cũng mất vui... – Như chợt nhớ ra điều gì, chàng đứng phắt dậy. – Tôi quên mất trong hành lý có mấy tai nấm ngon lắm, nướng lên ăn ngọt như thịt gà ấy, để tôi lấy cho ông.

Mắt người trung niên bỗng vụt sáng, chàng trai quay lại bắt gặp ngay tia nhìn ấy, nụ cười nhoẻn nhanh chóng trở thành một tràng cười sảng khoái:

- Tôi đùa đấy, không ăn chay thì mang nấm theo làm gì!

Người đàn ông kia đưa tay với lấy cây nỏ treo trên vách.

- Ấy, ông đừng nóng! – Chàng trai trẻ xua tay. – Tôi chỉ muốn cho ông biết lòng ông không tịnh. Miệng chỉ nuốt rau rừng nhưng trong lòng thèm thịt cá, cố kiềm chế khổ sở về lâu về dài sẽ sinh oán giận, tuyệt nhiên chỉ mang thêm tội chứ chẳng thành chính quả đâu! – Rồi chàng cất giọng ngâm nga:

“Khiết thảo dữ khiết nhục,
Chủng sinh các sở thực.
Xuân lai bách thảo sinh,
Hà xứ kiến tội phúc?

Trì giới kiêm nhẫn nhục,
Chiêu tội bất chiêu phúc.
Dục tri vô tội phúc,
Phi trì giới nhẫn nhục.

Như nhân thượng thụ thì,
An trung tự cầu nguy.
Như nhân bất thượng thụ,
Phong nguyệt hà sở vi?”[1]


(Có nghĩa là:

“Ăn thịt và ăn cỏ,
Chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó.
Như mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi,
Có chỗ nào nhìn thấy tội hay phúc đâu?

Trì giới và nhẫn nhục,
Chỉ chuốc tội chứ không chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Thì đừng trì giới, nhẫn nhục.

Như khi người trèo lên cây,
Là đang trong bình an lại tự tìm lấy nguy hiểm.
Nếu người ta không trèo cây,
Thì gió lay, trăng dọi, có làm gì được.”)


Chừng thấy người nọ đã xuôi xuôi, chàng lại xuống nước:

- Ông ăn một ít đi cho vết thương chóng lành, sáng mai tôi cùng ông lên núi.

Hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, hai người đã khởi hành lên chùa. Chốn này xưa kia là hành cung, vốn có đường đi thuận tiện nhưng sau nhiều năm bị bỏ hoang, hoặc cây cỏ mọc lên, hoặc đá lở lấp đường, có những đoạn chàng phải cõng ông mới qua được. Người đàn ông nọ rất ngạc nhiên vì chàng trai trông không khác gì một thư sinh lại dẻo dai mạnh khỏe hơn người. Lúc chàng xắn tay áo làm lộ ra hình xăm chạy dọc từ bả vai trái nổi bật trên làn da trắng trẻo, ông cứ thấy sự đời tréo ngoe kỳ lạ thế nào.

Khi lên đến được ngôi chùa cũ, nhìn dáng vẻ ngẩn ngơ luyến tiếc vàng son của người tuổi đã xế chiều, chàng trai trẻ thở hắt ra một hơi rồi bảo:

- Nơi này hoang vu hiểm trở, chùa cũng cũ nát rồi, không thích hợp làm hành cung cho lắm. Tôi sẽ báo lại triều đình chọn nơi khác vậy.

Đoạn, chàng quay sang phía người đang ngơ ngác:

- Ông muốn ở lại đây bây giờ hay đợi tôi cho người dọn sạch đường đi rồi mới trở lên?

Gương mặt người đàn ông cơ hồ xúc động.

Lúc chàng trai trẻ từ biệt ông để xuống núi, ông hỏi đùa:

- Dù lý lẽ thế nào, ngươi là kẻ tu hành mà cứ ăn thịt uống rượu thì bao giờ thành Phật được?

Chàng đáp lại một câu mà ông còn nhớ mãi:

- Tôi không cần thành Phật. Phật cũng chẳng muốn thành tôi.

Sau này, phần vì nhiều việc liên tục xảy ra, phần vì không tiện để người xung quanh chú ý, vị vương gia ấy chưa có lần nào trở lại ngôi chùa trên núi nữa.

Đến giờ thì tôi hiểu tại sao lão già nhà tôi nhất định phải viết chen vào lá thư của Trần Cụ một câu “quen biết”. Một lần gặp mặt này của lão còn đáng giá hơn bao năm tên Thích Đối Xứng kia tầm sư học đạo. Lão không nói gì thêm hẳn vì muốn tôn trọng ông cụ Lý Đảm, để ông ta tự mình lựa chọn có tiết lộ thân phận hay không.

Thật không ngờ, trước khi gặp tôi, lão già từng là một thanh niên sôi nổi và lém lỉnh hơn cả Hưng Đạo vương lúc trẻ lẫn Quang Khải bây giờ. Nuôi dạy một đứa trẻ quả thật có thể khiến đàn ông lão hóa rất nhanh.

Ông cụ kể xong, hai bên ngồi nhìn nhau một lúc, tôi lại đứng dậy chào:

- Cảm ơn ông đã kể cháu nghe chuyện lúc xưa của tiên sinh. Cháu xin phép về ạ. Sau này cháu sẽ cùng tiên sinh đến thăm ông.

Ông cụ đi cùng tôi ra cửa.

- Trần Tung cho cháu biết việc có quen lão, hẳn cũng muốn lão xuống núi một chuyến. Nhóc con cứ vậy ra về không sợ bị hắn trách phạt sao?

- Lúc nãy cháu nghĩ ông nhất định có lý do riêng. Sau khi nghe chuyện rồi, cháu lại càng phải tôn trọng ý nguyện của ông hơn cả. Tuy rằng nếu được ông giúp thì chẳng gì bằng, nhưng không đẩy người khác vào thế khó xử là đạo lý mà tiên sinh dạy cháu, ngài ấy sẽ không phạt cháu đâu, ông đừng lo ạ.

Ông lão mỉm cười hiền hậu.

- Mười mấy năm qua ở nơi này ta vẫn luôn ngẫm nghĩ những gì hắn nói. Ta cứ đợi rồi lại đợi, xem thử họ Trần nhà hắn đến khi nào mới bị dân chúng lật đổ, nhưng cuối cùng chỉ gặp được một đứa trẻ ngoan ngoãn biết điều… - Ông thở dài. – Xem ra hắn không sai.

Tôi mím môi, đợi ông nói tiếp.

- Nếu một kẻ trẻ tuổi như hắn còn thông suốt được, kẻ đầu bạc như ta cũng nên sáng mắt rồi. Vả lại, ta còn nợ hắn một ân tình…

Tôi mừng vui khôn tả, nói như reo:

- Ông đồng ý giúp bọn cháu hở ông? Thế thì tốt quá…!

Đoạn, tôi nhớ ra một việc.

– Vậy… ông có thể đợi mấy hôm nữa được không, cháu còn vài thứ phải giải quyết ở nhà, vừa xong cháu sẽ cho người đón ông ngay ạ.

Ông cụ vẫn giữ nụ cười hiền:

- Trời tối rồi, cháu cứ nghỉ lại đây cho an toàn.

- Ông đừng lo ạ, cháu biết võ mà! Tiết kiệm được ngày nào thì tốt ngày ấy, cháu phải nhanh lên mới kịp!

Ông tiễn tôi ra cổng, trước khi tôi đi còn nhận xét:

- Nhóc con và tên ranh kia quả thật giống nhau.

- Câu này là khen hay chê ạ? – Tôi tròn mắt hỏi.


***


Phủ An phủ sứ ở Hồng Lộ đã vắng người, Dưỡng Chân Trang vào ngày thường lại càng yên tĩnh. Mỗi người trong trang viện đều có tập võ nên cũng chẳng cần mấy lính canh. Có thể nói, ban đêm trộm muốn lấy gì cũng dễ dàng. Lạ thay, mười mấy năm qua chưa có tên nào bén mảng. Hoặc chúng nể sợ uy danh của ngài Tuệ Trung, hoặc vốn dĩ ngoài tượng Phật, mấy quyển kinh và ít hương đèn ra, nơi này chẳng có gì đáng lấy.

Thế mà, chắc dạo này trang viện đang tích trữ nhiều của cải nên có vài tên nổi lòng tham. Bốn năm bóng đen không biết được ai giúp mà lẻn vào từ cửa sau, chạy đến điện Phật chính. Bọn chúng chui hẳn xuống dưới bệ thờ, lật bức nhiễu lên mà loay hoay mãi không tìm thấy nơi nào có cơ quan để mở cửa mật thất. Năm tên chia nhau lục lọi khắp điện, hết xoay lư hương lại nhấc bình hoa. Một lúc lâu, có một kẻ nóng nảy giơ chân đạp vào bức vách sau tấm nhiễu, cửa cứ thế mở ra, không có khóa.

Cả bọn lẻn vào trong, không quên cẩn thận che đậy mọi thứ như lúc đầu. Chúng mò mẫm trong đoạn hành lang vừa hẹp vừa tối một hồi thì đến được nơi muốn đến. Một tên hướng phía phòng giam, khe khẽ gọi:

- Vương gia, bọn thuộc hạ đến rồi!

Vũ Thành vương ngồi sau song gỗ kia vẫn không quay đầu lại. Bọn trộm khốn khổ lại loay hoay tìm cách mở khóa, không dám gây tiếng động lớn nên chẳng thể vung đao chém. Hẳn bọn chúng cũng có nghề, ổ khóa vừa to vừa nặng cuối cùng bật mở.

- Cậu Nam tinh mắt thật, uổng công tôi mang đuốc đến định soi cho cậu. – Trần Thiên Hương – nữ chủ nhân của trang viện từ đâu bước vào, dịu dàng cười nói.

Bọn chúng bị bất ngờ nhưng vẫn phản ứng rất nhanh, ba tên lập tức xông đến tấn công thiếu phụ, dồn nàng vào một góc để mở đường thoát thân. Nguyễn Nam lập tức tung cửa phòng giam, chạy đến nắm tay người trong đó kéo đi:

- Vương gia xin thứ lỗi!

Tức thì, người kia vung chân đạp mạnh làm hắn mất đà, khi đứng vững đã thấy một thanh gươm kề ngay cổ. Hắn kinh hoảng thét:

- Ngươi không phải Vũ Thành vương!!!


[1] Trích bài Trì giới kiêm nhẫn nhục của Tuệ Trung Thượng sĩ (Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 15: HẬU PHƯƠNG

- Mấy hôm trước chúng ta vừa đi cùng nhau cả một quãng đường xa, không ngờ cậu Nam quên tôi nhanh như vậy. – “Vũ Thành vương” một tay hất lọn tóc lòa xòa trước mặt, tay còn lại vẫn lăm lăm thanh kiếm.

- Nguyễn Văn Thân! – “Con cá” vừa mắc câu hét lớn.

Nhân lúc bọn lâu la mất tập trung vì lo cho tên thủ lĩnh, nữ chủ trên danh nghĩa của Dưỡng Chân Trang đã chiếm thế thượng phong. Nàng vung kiếm tặng cho mỗi tên một nhát chém trên cánh tay buộc bọn chúng buông vũ khí. Nguyễn Nam thừa dịp anh phu xe nhìn sang phía mợ cả mà gạt chân rồi bỏ chạy về phía đường hầm. Hắn không ngờ được nóc đường hầm còn cách trần mật thất một khoảng. Từ khoảng trống ấy, một bóng dáng pha lẫn nét thướt tha xinh đẹp tuyệt trần của thiếu nữ và sự oai dũng anh tuấn của thiếu niên nhẹ nhàng nhào lộn một vòng đẹp mắt trước khi đáp xuống giương kiếm chặn ngang đường thoát của tên cướp ngục.

- Nhã Phong…! – Hắn thảng thốt kêu lên.

Thừa thãi! Một nhân vật xuất chúng như thế ở chốn thanh tịnh hẻo lánh này còn có thể là ai?

Tôi đưa tay phủi bớt mạng nhện bám trên bộ áo lam, cố nén đau vì cú nhảy làm động vết thương ở lòng bàn chân, tự nhủ lần sau không thể hiện bằng cách này nữa. Mấy năm qua không có ai chui vào đường hầm chơi trốn tìm càng không có ai leo lên tận nóc, giờ bụi bám nhện giăng đầy. Cũng may khí độ của tôi đã lấn áp vẻ nhếch nhác chứ không thì mất hết cả oai phong.

- Bất ngờ? Ngươi tưởng giờ này ta vẫn còn ngắm trăng trên núi Thiên Thai chứ gì?

Con ngựa của Trần Cụ đổi cho bọn tôi không ngờ lại là ngựa quý, lúc đi mất hai ngày mà khi về phi nước đại chỉ mất một ngày một đêm đã đến nơi. Không biết thường ngày nó có bị tên đó bắt chạy đủ một vạn tám nghìn bước mới được ăn hai mươi chín nhánh cỏ không?

- Từ đầu đã là cái bẫy…? – Nguyễn Nam nghiến răng.

- Đừng ra vẻ như mình là nạn nhân thế. – Tôi nhếch mép cười, đưa tay xoa xoa cổ. – Ông đây cũng mất không ít máu vì bọn sát thủ trong rừng đấy. Tiếc cho ngươi là Trần Cụ xuất hiện không đúng lúc báo hại ngươi không diễn được vở anh hùng cứu mỹ nhân, đành phải đổi sang tuồng lương y như từ mẫu.

Hắn thoáng kinh ngạc nhưng ngay lập tức lấy lại vẻ thâm trầm, cơ hồ hiểu ra mọi sự:

- Vậy chuyện ba tháng trước… - Hắn chỉ tay về phía chị tôi. – Cô ta hậu tạ gã chăn trâu một rương vàng vì kịp mang tử tô[1] đến cũng là giả?

Tôi đảo mắt, gật gật đầu tỏ vẻ tán thưởng.

- Các người bảo trong phủ có tôn thất ăn cá biển nên ngộ độc, sau đó lại cho gia nhân gấp rút chuẩn bị thanh bì[2]… - Mắt hắn nheo nheo lại. – Đây đều là kế để dụ bọn ta xuất hiện?

Thật ra kế hoạch này ban đầu tôi không biết. Mấy tháng trước, chị tôi đã khua chiêng gióng trống thưởng cho một anh trai nghèo một khoản tiền rất lớn khiến xóm dưới làng trên đều bàn tán, sau đó lại phơi thanh bì khắp cả trang viện. Tử tô và thanh bì đều là thành phần trong bài thuốc trị chứng háo suyễn[3] từ lúc mới sinh của Vũ Thành vương. Những việc này vừa có thể gây sự chú ý đối với những kẻ hầu cận đang ráo riết tìm kiếm tung tích chủ nhân, vừa không gây bất kỳ sự nghi ngờ nào cho những người không biết chuyện. Đúng là chỉ có lão già nhà tôi mới nghĩ ra phương thức dụ rắn ra khỏi hang quái đản này. Hẳn là lão vẫn luôn theo dõi hành tung bọn thuộc hạ của em trai lão để đề phòng chúng làm càng. Nếu không phải vì quân Thát sắp tấn công, hai chi Vạn Kiếp và Tức Mặc nhất định phải đồng tâm hiệp lực, chắc lão cũng không cần tìm cách ép bọn chúng hành động làm gì.

- Thế nào? – Tôi cười cười, hất hàm hỏi hắn. – Giờ thì ông thầy lang đã biết thuốc không chỉ dùng để cứu người hoặc hại người, mà còn có thể bắt người nữa phải không?

- Không ngờ Hưng Ninh vương cũng được xem là một vị cao tăng lại dùng mưu ma chước quỷ. – Nguyễn Nam nhếch mép mỉa mai.

Tôi thở dài đánh thượt:

- Hôm trước ta vừa nói với ngươi, đi với Phật mới cần mặc cà sa, chưa gì ngươi đã quên... – Đoạn, khóe môi vẽ lên một nụ cười hàm tiếu say đắm lòng người. – Hơn nữa, ngươi đừng ra vẻ thất vọng như thế. Nếu ngươi thực sự đánh giá cao tiên sinh nhà ta, ngươi đã sớm nhận ra đây là cái bẫy rồi. Vũ Thành vương từ nhỏ có chứng háo suyễn, một người anh có lý nào để em trai mình ở trong cái nơi tối tăm ẩm thấp thế này? Nói đi cũng phải nói lại, cũng nhờ ngươi cho rằng tiên sinh vô tình vô nghĩa nên mới vội vội vàng vàng chạy đến cứu người, giúp bọn ta giải quyết sớm một mối lo.

- Thật ra lúc đầu bọn ta không đoán được lũ cướp trong rừng là người của ngươi đâu. – Anh Thân lên tiếng. – Nhưng ai bảo bọn chúng cứ tập trung tấn công người võ nghệ yếu nhất cả bọn mà mãi không giết được…

Tôi liền tặng cho anh phu xe thân tín của lão già một cái nhìn sắc như dao.

- Tiếc thay, đó lại là người thông minh nhất nên các người mới xôi hỏng bỏng không. – Anh ta liền chữa cháy.

- Thế nào, ta diễn vai bệnh nhân có hợp không, anh thầy thuốc? – Tôi ghé sát mặt hắn, lại nở nụ cười nghiêng nước nghiêng thành. – Đố ngươi tìm khắp các giáo phường có cô đào hát nào tài sắc vẹn toàn như thế…

Quai hàm Nguyễn Nam cứng lại, nhanh như cắt, hắn ta vung kiếm, tôi vội nhảy lùi về sau, chị tôi và anh Thân lập tức lao đến tấn công. Tôi đưa tay lên môi, hướng về phía đường hầm huýt sáo một tiếng, nhóm vệ binh mười người đã giáo mác ập vào bao vây bọn chúng.

Chị tôi vẫn lăm lăm thanh kiếm chĩa ngay mạn sườn Nguyễn Nam, đe dọa một cách rất nhẹ nhàng:

- Đầu hàng đi, ngươi không thoát được đâu!

Hắn đảo mắt một vòng tính kế mở đường tháo chạy.

- Bên ngoài đều là quân sĩ. Mấy hôm nay họ luyện tập chăm chỉ mà chưa có cơ hội chém người bằng xương bằng thịt, ngươi chạy ra đó chắc họ vui mừng lắm.

Nói rồi, tôi vỗ tay hai tiếng, bên ngoài điện vang dậy tiếng “có” và âm thanh gươm rút khỏi bao. Gương mặt Nguyễn Nam rất khó coi, cuối cùng hắn gằn từng tiếng một:

- Giỏi thì giết ta cho chóng. Ta không muốn ở đây làm trò đùa cho cô nữa.

Tôi nhìn hắn hồi lâu, rất muốn cho hắn biết lão già nhà tôi vốn từ bi, hắn là người dân Đại Việt, dù dùng cực hình thế nào nếu không phải việc chẳng đặng đừng sẽ không cho hắn chết. Song cảm thấy dù nói sao hắn cũng chẳng thèm tin, tôi đành hỏi:

- Thuộc hạ dưới trướng Vũ Thành vương tiên sinh đều ít nhiều quen biết. Ngươi không phải. Tại sao lại liều mạng cứu ông ta?

Đôi mắt đang nheo nheo của hắn giãn ra một chút.

- Trước vô tình gặp vương lúc vương đang phát cơn háo suyễn, ta chỉ tiện tay cứu người, không ngờ vương mời về phủ thết đãi như thượng khách, còn không tiếc lời khen ngợi tán thưởng với người ngoài. Nay vương gặp nạn, sao ta có thể làm ngơ được?

- “Gặp nạn”. – Tôi cười khẩy. – “Sĩ vị tri kỷ giả tử, nữ vị duyệt kỷ giả dung”[4].Năm xưa ở nước Tần có một người tên là Trí Bá Dao đem quân đánh Triệu Tương Tử, không ngờ bị họ Triệu liên kết với họ Hàn và họ Ngụy đánh cho đại bại. Dự Nhượng chỉ là một khách khanh, nhớ ân tình Trí Bá Dao từng trọng đãi mình mà thay tên đổi họ, tự biến mình thành một tên hành khất, bị vợ nhận ra vì tiếng nói lại nuốt than nóng cho giọng đổi khác để tìm cách hành thích Triệu Tương Tử báo thù. Họ Triệu vốn căm thù Trí Bá Dao đến mức chặt đầu hắn làm bình đựng rượu cũng có thể trọng Dự Nhượng là kẻ trung thành mà năm lần bảy lượt tha mạng sống. Ngươi không mưu hại bọn ta mà chỉ muốn cứu người, huống hồ người ngươi muốn cứu lại là em trai ruột thịt của tiên sinh, bọn ta có lý do gì để giết?

- Hừ. – Nguyễn Nam cười lạnh. – Các người tốn công sức bày nhiều trò như thế chỉ để chứng tỏ Hưng Ninh vương rất nhân hậu chắc?

- Ồ! Lần này ngươi đoán đúng rồi! – Tôi reo lên tán thưởng.

Chị tôi và anh phu xe đứng sau lưng hắn cố nén cười, tôi nói tiếp:

- Ta thấy ngươi còn đáng nể hơn ông Dự Nhượng kia, vì chủ ngươi thờ thực chất lại là một kẻ chẳng ra sao, đang yên đang lành tự dưng chạy sang đất Tống, chưa bị giết đã là may!

- Cô đừng vô lễ. Chắc chắn ngài ấy cho rằng kẻ thù của kẻ thù là bạn! – Hắn cố biện minh.

Tôi bật cười:

- Ở đâu ra cái chân lý kẻ thù của kẻ thù là bạn? Ta chỉ biết kẻ thù của kẻ thù nhất định sẽ lợi dụng ngươi để đối phó với kẻ thù thôi!

Sau đó, tôi khẽ thở dài:

- Đó là chưa kể, ở đây vốn chẳng có kẻ thù nào. Vạn Kiếp và Tức Mặc tuy không gắn bó nhưng làm gì có ai bạc đãi ông ta? Trong lúc tiên sinh nhà bọn ta và Hưng Đạo vương cố gắng gây dựng lòng tin với những người trong hoàng cung thì ông ta một tay phá sạch. – Tôi nhìn Nguyễn Nam bằng đôi mắt buồn buồn. – Ngươi không cảm thấy lần này bị bọn ta bắt được là rất may mắn sao? Nếu ngươi xông vào nhà giam ở Thăng Long, không những không cứu được người mà còn ăn hại cả chi Vạn Kiếp, anh em nhà tiên sinh mà thất sủng thêm, đời này đừng hòng Vũ Thành vương của ngươi được xá tội.

Đôi mắt của Nguyễn Nam giãn ra chút nữa.

- Cô Phong, chúng ta nên xử lý hắn thế nào đây? – Anh Thân lại cất lời, lần này có vẻ thận trọng hơn.

- Giờ ai nấy đều bận rộn, em cũng chả rỗi hơi mà cử người đi canh giữ hắn. – Đoạn, tôi giơ hai ngón tay lên trước mặt Nguyễn Nam. – Ta cho ngươi hai lựa chọn. Hoặc ngươi bỏ cuộc và đi thật xa đừng bao giờ để ta thấy mặt, nên nhớ, khi Triệu Tương Tử biết Dự Nhượng không bao giờ bỏ mộng báo thù đã phải nhẫn tâm giết đi để trừ hậu họa. Cách thứ hai… - Tôi nhìn hắn chân thành. – Theo bọn ta chống giặc, cố mà lập đại công rồi xin ân xá cho chủ của ngươi hoặc xin vào nhà giam hầu trà cho ông ta.

Đôi mắt Nguyễn Nam mở to, trống rỗng.

- Ngươi ở lại nơi này suy nghĩ, sáng mai cho ta biết.

Hắn nhìn tôi rất lâu rồi thấp giọng hỏi:

- Nhã Phong, rốt cuộc đâu mới là bộ mặt thật của cô?

Tôi cười khục:

- Ta có nhiều bộ mặt thật lắm, ngươi đang hỏi bộ nào?

Mặc kệ hắn có tức giận hay không, tôi nháy mắt với anh Thân và chị, ba người cùng nhau rời khỏi, chỉ để vệ binh ở lại canh giữ mấy tên kia. Khi đến trước đường hầm, tôi hơi ngoảnh lại, nói khẽ:

- Ngươi luôn miệng hỏi ta ngươi có điểm gì không sánh được với tiên sinh. Ta cho ngươi biết, nếu ngài ấy tìm thấy một búp sen nở giữa trời đông nhất định sẽ cẩn thận chăm sóc đến khi nó nở thành hoa rồi gọi ta đến xem, không bao giờ cắt ngang ngọn như ngươi.

“Còn đợi đến khi gương sen chín sẽ tách hạt mang đến cho ta ăn nữa”, tôi giữ những lời này lại trong lòng rồi bước ra ngoài.


***


- Phong, chị thấy bọn em giả tiếng quân sĩ có giống không? – Thằng bé nhe hàm răng sún cười toe toét.

- Giỏi lắm, mai chị sên mứt cho bọn em ăn nhé! – Tôi xoa đầu, ra hiệu lũ trẻ mau về nhà ngủ.

Nhìn bọn trẻ tung tăng chạy đi, tôi nói một mình:

- Đã bảo giải quyết việc nhà thì có ai giữa đêm kéo quân đội bao vây Phật điện cho cả làng chú ý, ngươi đừng nghĩ mình ngu rồi tưởng ai cũng ngốc như mình chứ!

Bỗng đâu sau lưng vang lên tiếng nói:

- Bọn trẻ chỉ hô một tiếng mà có mứt ăn, tôi đóng giả tù nhân đói khát nửa tháng trời chắc được thưởng to lắm cô Phong nhỉ?

Tôi nén cười xoay lại bảo anh Thân:

- Đáng ra em làm cho anh cả nồi thịt đông to ú ụ cơ. – Tôi vòng tay diễn tả. – Nhưng ban nãy có ai bảo kiếm thuật em thấp kém, em buồn quá quên mất cách nấu thịt đông rồi!

Chị tôi ra sau, cười khúc khích:

- Tôi còn một xấp the đẹp lắm, mai tôi gửi anh Thân mang về tặng chị nhà!

- Không cần đâu, mợ cả, tôi chỉ đùa thôi! – Anh phu xe vội xua tay.

- Cần chứ! Từ khi về Yên Bang anh đã ghé nhà lúc nào đâu. Em mà là chị Thân, em mua quả mít về ăn sạch rồi lấy vỏ cho anh quỳ. – Tôi hù dọa.

- Tuân lệnh tiểu thư! – Anh ấy pha trò.

Chúng tôi mỗi người đi một hướng, tôi không về phòng ngủ mà đến thư phòng của lão già. Nửa năm qua không có tôi ở đây, người trong phủ lại không có ai dám bén mảng vào, báo hại hôm tôi về vừa khỏi ốm đã phải bò ra quét dọn. Hầu hết kinh Phật đã mang sang Phật điện, mấy quyển sách lão hay đọc cũng được mang đi Hồng Lộ, nơi này chỉ còn mấy bức vẽ của cả tôi và lão, một vài quyển sách cổ và một bát tô đựng nước có đóa mộc lan tôi để vào trước khi lên đường đến núi Thiên Thai. Tôi lấy cây chổi lông quét bụi trên mặt bàn rồi mang giấy bút ra viết thư cho lão báo tình hình, sáng mai nhờ anh Thân cho người chuyển đi sớm. Viết xong thì gà cũng vừa gáy sáng, tôi gục cả nửa người trên mặt bàn, ngáp ra nước mắt nhớ lại lần cuối cùng gặp mặt, khi ấy lão ôm tôi trong lòng rất dịu dàng, từ tốn bảo:

- Việc của Doãn ta đã sắp xếp được một nửa rồi, nửa còn lại trông cậy vào em. Nhớ, quan trọng nhất vẫn là an toàn của bản thân. – Tôi gật gật đầu, lão tiếp. – Sau khi chúng ta thắng trận này, ta sẽ về Dưỡng Chân Trang nghỉ ngơi một thời gian.

Tiên sinh à, người bảo người có chiến trường của riêng mình thì em bảo chiến trường của người là gì em cũng sẽ đi theo. Người muốn làm hậu phương vững chãi của Thăng Long thì để em lập một hậu phương tuyệt đối yên tâm cho người vậy.

- Trận này em thắng rồi, có phải rất lợi hại không? – Tôi đưa tay đẩy nhẹ đóa hoa héo rũ trong bát nước.

Mãi chẳng có tiếng trả lời, tôi thở dài, vùi mặt vào khủy tay, nói khẽ:

- Thật ra lúc đó em cũng sợ lắm, nhỡ thất bại thì biết tính thế nào…?


[1] Tử tô: tên dùng trong Đông y của lá tía tô.

[2] Thanh bì: vỏ quýt còn xanh phơi khô, dùng làm thuốc.

[3] Háo suyễn: tên trong Đông y của chứng hen suyễn.

[4] “Sĩ vị tri kỷ giả tử, nữ vị duyệt kỷ giả dung”: Kẻ sĩ vì người thưởng thức mình mà chết, nữ tử vì người mình thích mà trang điểm (Trích Chiến quốc sách).
 

nhp_uyen

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
3/11/14
Bài viết
420
Gạo
429,0
CHƯƠNG 16: VẠN NIÊN LÀ VẠN NIÊN NÀO[1]

“Tiên sinh,
Việc nhà đã lắng, việc nước tạm yên.
Danh sư quý danh sư nên rời chùa,
Cố nhân trọng cố nhân đành xuống núi.
Cơn gió nhẹ vì ngọn núi cao mà hóa cuồng phong
Chốn Dưỡng Chân thanh dã, sen nở mùa đông, ngày ngày ngóng đợi tin hồng
Xin người bảo trọng.”

Tôi đọc đi đọc lại thư mình viết tối qua, không khỏi tự cảm phục bản thân sau một ngày vất vả vẫn có thể viết được những dòng vừa thần thần bí bí vừa chi tiết không sót mục nào lại chứa chan tình cảm. Mãi lâu sau tôi mới gấp lại đưa cho anh Thân, đây là lá thư đầu tiên tôi gửi trực tiếp cho lão già mà không phải đi kèm thư của chị. Tôi nhìn theo cho đến khi bóng anh khuất sau dãy hành lang. Nếu có thể, tôi thật muốn gửi tôi đến Hồng Lộ cho rồi, có cơn gió nhỏ nào không muốn cả đời quẩn quanh trong lòng núi?

Ý nghĩ thơ mộng ấy bắt nguồn từ một buổi chiều nhàn rỗi, tôi ngủ trưa dậy đi tìm lão già, tìm mãi đến tận đầu làng, thấy lão đang điềm nhiên ngồi tựa gốc cây đa cạnh ruộng lúa, lim dim mắt. Nghe tiếng chân tôi đến gần, lão đưa ngón tay lên môi ra hiệu cho tôi im lặng. Tôi nhìn dáo dác, xung quanh chẳng có ai, lại nghĩ lão làm gì cũng có lý do nên bèn ngồi xuống cạnh bên, nhìn về hướng lão đang nhìn, nhìn mãi cũng chỉ thấy trời xanh, mây trắng, lúa vàng, và dãy núi ẩn hiện xa xa.

- Sao tiên sinh không nghỉ trong nhà mà chạy ra đây? – Tôi che miệng ngáp.

- Ta đang thiền, không phải ngủ.

Khi ấy tôi còn rất bé, trố mắt lên nhìn lão:

- Sao mà thiền được, người đâu có ngồi kiết già, ở đây cũng không có bồ đoàn…

Chưa nói hết câu, tôi đã bị lão bế bổng lên đặt vào lòng, tay vỗ nhẹ lên đầu bảo ngồi yên. Tôi thở dài, nhìn ra phía ruộng. Những cơn gió dìu dịu lay nhẹ bông lúa chín, cả cánh đồng khẽ uốn lượn như một dòng sông gợn sóng lăn tăn chảy về phía núi. Bất chợt một ý nghĩ nảy ra trong đầu, tôi xoay người lại đối diện lão:

- Tên của tiên sinh trên là chữ núi, dưới là chữ cao, vậy nên người đặt tên em là gió phải không? Tuy chúng ta không phải lúc nào cũng có thể cảm nhận được trên da nhưng không lúc nào là không có gió. Dẫu gió có nghịch ngợm hay dữ dội thế nào vẫn bị núi chặn lại, vẫn không thể chạy sang phía bên kia mà không len lỏi vào lòng núi?

Đến giờ nghĩ lại tôi cũng không biết cô bé Nhã Phong chưa đầy mười tuổi ấy làm sao nghĩ được những lời hoa mỹ như vậy. Mắt lão vẫn nhắm hờ, chỉ có khóe môi khẽ nhếch:

- Ta gặp em vào một ngày hè…

Tôi vội vã gật đầu, chớp chớp mắt đợi chờ, lòng đầy háo hức.

- … năm đó trời hơi nóng.


***


“Chiến trường” của tôi không bận rộn như tôi từng mong đợi. Hoặc là, tôi đã quá háo hức với việc trở về sắp xếp mọi việc, háo hức với kế hoạch dụ Nguyễn Nam sa bẫy, háo hức tìm gặp cụ ông Lý Đảm… để rồi khi tất cả những mục tiêu ấy đã gần như hoàn thành cả, tôi lại thấy một sự trống vắng trong lòng. Ban đầu tôi còn tưởng mình đói bụng, chạy xuống bếp nấu một bát bún cá thật to. Ăn no rồi lại tưởng mình chông chênh vì thiếu ngủ, lăn ra đánh một giấc đến chiều. Lúc tỉnh dậy, cảm giác bồn chồn khó chịu kia vẫn chưa tan biến.

Tôi nghĩ mãi mới chợt hiểu ra, cuộc sống của tôi trước đến giờ đều là cố gắng hoàn thành từng việc từng việc một. Khi lão già còn ở cạnh, lão thường ra kỳ hạn cho tôi học được một món nào đấy, hết thư pháp lại đến đánh cờ, hết thất huyền cầm lại sang tướng số, chẳng bao giờ rỗi rãi. Khi lão đi rồi, ngoài những “nhiệm vụ” lão bắt tôi thực hiện trong thư gửi về hàng tháng, tôi còn bận nghiên cứu đường đi và phong tục các nơi cho chuyến phiêu lưu đến Hồng Lộ của mình. Khoảng thời gian duy nhất thảnh thơi biếng nhác là nửa năm qua bên lão. Bây giờ, cảm giác không biết nên làm gì tiếp theo thực sự khiến tôi thấy bất an.

Tôi thả bộ lững thững về phía đầu làng. Cổng làng trầm mặc khuất sau bụi tre già, hai chữ “Vạn Niên” đã không còn rõ nét mà đôi câu đối khắc trên hai thân cột cũng đã rêu phong:

“Mộc xuất thiên chi do hữu bản
Thủy lưu vạn phái tổ tòng nguyên”

(Cây sinh ngàn nhánh do từ gốc
Nước chảy muôn nơi bởi có nguồn)

Tôi nheo nheo mắt nhìn tên làng một lúc, đưa tay định chạm lên chữ “vạn” trên cột thì nghe tiếng kêu lớn:

- Bỏ tay ra!

Quay người lại nhìn, hóa ra ông trưởng làng đang vung gậy dọa bọn trẻ con định hái trộm quýt nhà ông. Thấy ông nhìn sang phía mình, tôi vội cúi gập người chào. Ông đi rồi tôi bất giác phì cười, nhớ lại chuyện mười năm trước, lão già dẫn tôi đi dự lễ thành hoàng. Trong lúc lão đang đánh cờ tướng với một cụ già và mọi người đang chăm chú theo dõi trò đấu vật, tôi chạy đến hỏi già làng:

- Ông ơi, sao làng này lại gọi là Vạn Niên ạ?

Già làng xoa đầu tôi hiền hậu:

- Làng ta có tên đó vì đã được nghìn năm tuổi rồi đấy cháu!

Tôi gãi gãi đầu, đi đến chỗ lão già nhà tôi, đưa tay kéo nhẹ chòm râu của ông cụ ngồi đối diện rồi nhanh chóng trốn vào vòng tay lão. Tôi ôm chặt cổ lão, nói khẽ:

- Tiên sinh ơi, ông trưởng làng là yêu quái đấy, mau chạy thôi!

Lão vuốt tóc tôi một hồi rồi hỏi:

- Ai bảo em thế?

Tôi ngoái nhìn ông cụ kia lần nữa, lo lắng bảo:

- Già làng bảo em làng này thành lập từ nghìn năm trước. Lúc nãy làm lễ mọi người lại tạ ơn trưởng làng xưa đã khai hoang vỡ đất. Vậy chẳng phải ông ấy đã một nghìn tuổi rồi sao, chỉ có yêu quái mới sống lâu đến thế!

Tôi không biết có phải vì mối hận ấy không mà lần nào tôi gặp trưởng làng cũng đều bị ông ấy la mắng, khi thì vì trộm trái cây, khi thì vì hái hoa. Ông còn đến mách lão già báo hại tôi chép kinh đến rụng cả tay. Chỉ riêng lúc ông đến tìm lão đánh cờ hoặc hỏi về Phật pháp tôi mới được yên thân.


Tôi trèo lên cây đa năm xưa lão hay ngồi, đưa mắt nhìn cảnh vật. “Thanh bình” và “nhàm chán” đôi khi chỉ cách nhau một gang tay. Thời điểm này mỗi năm, mọi người đã bắt đầu chuẩn bị ăn Tết. Nào làm cỏ, nào quét tước, nào đắp lại đường đê. Đối với những người nông dân suốt đời chân bám ruộng đồng, Tết có lẽ là dịp rộn ràng nhất, đáng mong đợi nhất, bởi nó làm đổi khác cái nhịp sống thường ngày của họ, khiến cho họ có một cái gì để mong chờ, để nôn nao. Tôi từng hỏi lão già, từ ba mươi đến mồng một sang năm thì cũng là một ngày, có cái gì đã giữ lại những đau buồn năm cũ? Lão bảo đó là niềm tin, là hy vọng, là một thứ có vẻ ngây ngô nhưng lại cực kỳ quý giá mà ai lỡ đánh mất rồi, cuộc sống sẽ ảm đạm vô cùng. Tôi nghĩ chính vì thế mà thời khắc giao thừa mới thiêng liêng. Năm nay, ước ao được bình yên đón năm mới có lẽ càng thiết tha hơn cả.

Tôi nhìn ra phía xa xa, bên ngoài cánh cổng này có bao nhiêu điều mà những người như ông trưởng làng của tôi cả đời không biết đến, cũng chẳng để tâm. Lão già từng dặn tôi chỉ được kể chuyện với bọn trẻ con để khích lệ chúng đi đó đi đây mở mang tầm mắt. Còn với những người già hoặc đã yên bề gia thất, cuộc sống của họ vốn bình yên, hạnh phúc, đủ đầy, những kẻ thích rong ruổi có tư cách gì mà đến bảo cho họ biết họ đã bất hạnh thế nào vì cả đời chỉ quẩn quanh lũy tre, giếng nước?

Cánh cổng làng như có một phép màu, phong giữ những điều thân thương như máu thịt, dù qua bao nhiêu tháng năm cũng không dời đổi. Như cánh đồng này, như ngọn núi kia, như đàn trâu nhẩn nha trong bóng hoàng hôn, như đôi trai gái tìm nơi vắng vẻ để tình tự mà sợ thầy u nhìn thấy.

Rất tiếc, họ có đề phòng thế nào cũng không ngờ trên cây có một cao thủ thân pháp phi phàm, càng không ngờ một Phật tử đắc đạo như tôi lại có hứng thú với chuyện bọn trẻ yêu đương nhắng nhít. Tôi ngồi chống cằm, vểnh tai nghe:

- Rồi khi nào cậu định sang nhà em thưa chuyện? – Thiếu nữ rụt rè ướm hỏi chàng thư sinh đang ngồi tựa vai nàng.

- Tôi hứa với nàng đợi ra giêng, nhưng giờ đất nước đang cần, tôi phải sẵn sàng ra trận bất cứ lúc nào, chắc hẹn nàng đợi tôi thêm chốc nữa.

“Hò ơ…
Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẵn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu…"[2]

Đôi trai gái trợn mắt nhìn lên, tôi thản nhiên nhe răng cười nhìn xuống, chớp chớp mắt đầy vô tội, phẩy phẩy tay:

- Em hát vu vơ chứ không nghe gì cả, hai bác tiếp tục đi, đừng ngại!

Cô gái vừa thẹn, vừa dỗi, nhìn sang chàng trai một lúc rồi giậm chân một cái, bỏ đi. Chàng thư sinh vội vã đuổi theo sau, í ới gọi tên nàng.

Tôi đợi họ đi khỏi mới dám ôm bụng cười. Đây không phải lần đầu tiên tôi khiến các anh trai làng chết đứng. Tết năm ngoái, tôi buồn vì vắng lão nên bày trò xem quẻ ở Dưỡng Chân Trang, chủ yếu muốn nói mấy câu tốt lành để ai nấy đều vui vẻ. Không ngờ có một chàng công tử con quan nọ đến đút lót cho tôi vài đồng bạc, dặn kỹ lát sau phải nói với cô con gái ông đồ rằng chàng và cô hợp tuổi hợp duyên, nhất định sẽ thành đôi lứa. Tôi vốn tốt bụng, vội vã nhận lời, nói y những gì chàng trai căn dặn:

- Lúc nãy cậu hai nhà ông huyện có mang bạc đến nhờ tôi bảo chị rằng hai người chính là duyên trời định, nhất định sẽ nên đôi!

Tôi nghe nói sau đó cô gái lấy một anh học trò của thầy mình.

Từ nhỏ đến lớn tôi chẳng biết thế nào là yêu đương, cũng không muốn tìm hiểu làm gì. Tôi chỉ biết tình thương của lão già dành cho tôi luôn được bộc lộ bằng những hành động rất cụ thể, không để tôi lạnh, sợ tôi đói, không bao giờ cho phép tôi gặp nguy hiểm thích chọc tôi cười. Từ đó, tôi vô cùng kỳ thị thứ đầu môi chót lưỡi của bọn trai làng, dù là lời nói thật lòng đến đâu chăng nữa.

Tôi cười chán lại nghe bụng đang reo, đang tìm đường trèo xuống để về nhà ăn cơm thì bắt gặp một dáng người quen quen đang đứng nhìn tôi trân trối.

Quỷ tha ma bắt, hôm qua tôi biểu diễn trong mật thất, chân trái đã hơi đau, giờ Nguyễn Nam đứng trước mặt, tôi bèn cắn răng tung người đáp xuống lăn một vòng trên đất rồi phủi tay đứng dậy ngay, nghe nhoi nhói nơi chân phải. Tôi mặc kệ, hất hàm hỏi hắn:

- Ngươi là rùa hả, rời khỏi nhà ta từ sáng mà giờ mới bò đến đầu làng?

Hắn cười cười đáp:

- Tôi sang làng bên cạnh dạo khắp một vòng, thấy con gái làng này vẫn đẹp nhất.

Tôi nhếch mép mỉa mai, hắn tiếp:

- Không những đẹp, còn độc đáo hơn người nữa.

Tôi “ha ha” vài tiếng rồi quay lưng đi về phía Dưỡng Chân Trang. Nguyễn Nam lẽo đẽo theo sau, hồi lâu lại lên tiếng gọi:

- Em không định an ủi hoặc động viên tôi tiếng nào sao?

Tôi nhún vai rồi vẫn tiếp tục đi. Tên lang băm kia lại sải bước đến cạnh:

- Này, dù gì chúng ta giờ cũng ở cùng chiến tuyến, có phải em nên nói vài câu củng cố lòng tin của tôi không, ví dụ như sau này không dụ tôi vào bẫy nữa?

Tôi ngoảnh sang phía hắn:

- Ngươi mất lòng tin với ta thì còn quay lại làm gì?

Hắn suy nghĩ một lúc mới đáp:

- Tôi quay lại, nhưng vẫn là con chim sợ cành cong, bất an nhiều thứ lắm.

Tôi đứng lại, nheo mắt nhìn hắn, nghiêm túc bảo:

- Chỉ có con bò mới sợ cành cong thôi. Cả cái cây có đổ xuống thì con chim vẫn còn đôi cánh, hiểu chưa?

Nguyễn Nam im bặt, ngoan ngoãn theo sau. Chừng về đến gần nhà, hắn mới lại lên tiếng hỏi:

- Nhã Phong à, con bò nào leo lên cây mà biết sợ?

- Tại nó ngốc. Bò mà!


***


Khi bọn tôi về đến, không khí trong trang viện im ắng lạ thường. Anh Thân ngồi trên bậc cửa đợi tôi, thấy Nguyễn Nam cũng cùng về, anh hơi do dự.

- Bây giờ Nguyễn Nam đứng cùng phía với chúng ta. – Tôi cười nhẹ.

- Có mấy nhà sư phương Bắc mang lương khô đến biếu. Tiêu Dao đại sư và mợ cả đang tiếp họ.

Tôi nhìn anh phu xe lại nhìn sang Nguyễn Nam, thấp giọng bảo:

- Vậy chúng ta cứ đợi bên ngoài.

Ba chúng tôi đến bờ hồ ngồi đợi, mãi sau cũng thấy họ rời khỏi đại sảnh. Có hai người, một già một trẻ, gương mặt tương đối hiền từ phúc hậu. Rất nhiều người phương Bắc sống ở Đại Việt, tôi biết, còn gặp một vài người có tổ tiên đã sang đây từ xa xưa, họ nói thứ tiếng kinh trọ trẹ và rất tốt tính. Thế nhưng đó là chuyện của ngày thường, còn thời điểm bây giờ, sự nhiệt tình của họ có phải không được thích hợp không? Lão già từng dạy tôi, bọn quân Thát giỏi nhất là phái gián điệp trà trộn vào nước khác để dò la, tôi nhất định phải đề phòng.

- Phong! – Chị tôi vẫy tay gọi trong lúc tôi đang mải mê suy nghĩ.

Chúng tôi theo chị vào sảnh chính, sư ông đang xem phần lương khô chứa trong hai chiếc túi lớn. Đó là thịt lợn được cắt sợi lớn, ướp kỹ, phơi khô, có thể giữ được rất lâu. Nghe nói đây là cách bọn người Thát bảo quản lương thực để đi đường xa, vừa tiện, vừa nhẹ, nhiều nơi đã học theo.

- Nhưng họ là thầy tu, vốn dĩ nên chay tịnh. – Tôi tự nói với chính mình.

- Đúng vậy. Ban nãy chị cũng thắc mắc điều này, họ bảo nhờ dân làng chuẩn bị giúp để mang ủng hộ quân ta.

- Mợ cả, vậy chúng ta làm gì với số lương khô này đây, lỡ như… – Anh Thân hơi thấp thỏm.

- A di đà Phật, thức ăn quý giá, huống hồ đây còn là công sức của bao người, không thể tùy tiện bỏ đi. – Sư ông tôi nói rồi đưa tay cầm lấy một sợi thịt khô toan đưa lên miệng.

- Sư ông! – Tôi vội kêu lên.

Nguyễn Nam đã nhanh nhẹn hơn một bước, hắn nắm chặt cổ tay sư ông, cười cười bảo:

- Tiêu Dao đại sư là bậc cao tăng đắc đạo, không phá giới như Hưng Ninh vương. Đó là chưa kể…

Bọn tôi chưa kịp phản ứng, hắn đã vớ một mẩu quẳng vào miệng nhai ngấu nghiến. Trong một lúc tôi không biết làm gì, chỉ đành trân trân quan sát phản ứng trên mặt hắn.

- Ối! – Nguyễn Nam bỗng ôm bụng, cúi gập người.

- Cậu Nam! – Sư ông, anh Thân và chị tôi đồng loạt kêu lên.

Cái tên lang băm này lẽ nào lại bỏ mạng vì độc dược?

Hắn run run một lúc rồi chợt ngẩng lên nhìn:

- Em thật không quan tâm tôi sống chết thế nào à?

Bốn người chúng tôi thở hắt ra một lượt. Tôi giẫm mạnh lên chân hắn rồi bỏ ra ngoài. Xem ra số thức ăn này vô hại thật.

Khi bình tâm nghĩ lại, có thể hai vị hòa thượng kia là người Tống, muốn Đại Việt giúp cản chân quân giặc. Cũng có thể, thời gian dài sống ở đây đã khiến họ thật lòng yêu mến sông núi xứ này. Đằng nào thì họ cũng không dại dột đến mức tự đi nộp mạng mà gửi lương khô tẩm độc cho chúng tôi lộ liễu thế. Là tự chúng tôi đã đa nghi!

Hai chữ “tín nhiệm” buổi non nước gặp nạn xâm lăng sao mà xa xỉ quá…


[1] “Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”

Ca dao chỉ nỗi cơ cực của người dân khi xây lăng Vạn Niên Cơ cho vua Tự Đức. Ở đây Vạn Niên là tên ngôi làng nơi có Dưỡng Chân Trang.

[2] Ca dao
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên