Chương 3 – Hiểm Họa (1)
Tác giả: Melissa De La Cruz
Dịch giả: Liên Phụng
***
Những ngôi nhà cổ luôn biết cách làm phiền bạn, Joanna Beauchamp biết rõ vậy; không chỉ là làm phiền bạn mà còn quấy nhiễu cả tâm tư bạn nữa, giống như việc nó ngốn sâu vào cả túi tiền của bạn, bất chấp cả lý lẽ hay logic trong cuộc chạy đua theo sự hoàn hảo vĩnh viễn chẳng bao giờ kết. Trong những năm qua, trang viên nhà Beauchamp, một kiến trúc tư nhân trang nghiêm được xây dựng vào những năm 1740 với những đầu hồi xinh đẹp và những mái nhà theo kiểu saltbox (2) nằm ngay trên bãi biển, trong khu vực cổ của thị trấn, đã nhiều lần thay hình đổi dạng bằng nhiều cách: phá bỏ tường, chuyển vị trí nhà bếp, phân bố lại phòng ngủ. Đó là ngôi nhà đã vượt qua bao nhiêu năm tháng cùng bão tố, và những bức tường đổ nát thì chứa đựng biết bao ký ức lặp đi lặp lại – những lò sưởi bằng gạch lớn đã mang đến cho họ sự ấm áp qua vô số mùa đông, hằng hà sa số các vết bẩn bám trên những mặt bếp bằng đá cẩm thạch gợi nhớ lại biết bao bữa tiệc ăn ấm cúng khác nhau. Sàn phòng khách cũng đã bị tách bỏ, làm lại, sau đó lại tiếp tục tách bỏ. Sàn nhà từ gỗ sồi, thay bằng đá hoa, hiện giờ lại thay bằng gỗ một lần nữa – một màu đỏ anh đào lấp lánh. Đó chính là lý do mà những ngôi nhà cổ luôn được gọi là những cái hố chôn tiền, những con voi trắng, món đồ hao tiền tốn của.
Joanna thích sắp xếp căn nhà theo cách của riêng mình. Với bà, việc cải tiến lại ngôi nhà chính là sự không ngừng phát triển và chẳng bao giờ hoàn toàn kết thúc. Thêm vào nữa là bà thích tự mình làm việc đó; một tuần nào đó, bà đã một mình lợp lại mái nhà và trát vữa lỏng vào những vết hở trong phòng tắm dành cho khách. Hôm nay bà lại đang giải quyết luôn cả phòng khách. Bà nhúng con lăn vào trong khay sơn bằng nhôm. Các cô con gái cười lớn – họ chọc ghẹo bà vì cái thói quen thích thay đổi màu sơn tường vài lần mỗi năm chỉ vì cái tính tùy hứng của mình. Tháng này các bức tường trong phòng khách có màu đỏ tía xám xịt, ngay tháng sau nó đã chuyển sang một màu da trời trong xanh yên bình. Joanna đã giải thích với các cô con gái của mình rằng, nếu cứ sống trong một ngôi nhà tĩnh tại, một căn nhà chẳng bao giờ biến đổi, sẽ rất ngột ngạt và bức bối, và việc thay đổi môi trường sống quanh ta thậm chí còn quan trọng hơn cả việc thay trang phục nữa. Vì giờ là mùa hè cho nên những bức tường cần phải được sơn màu vàng.
Bà mặc loại trang phục chuyên dụng thường nhật: áo sơ mi kẻ sọc và quần jean cũ kỹ, đeo găng tay nhựa, mang đôi giày cao cổ kiểu Hunter màu xanh lá cây, đội một chiếc khăn màu đỏ trên mái tóc hoa râm của mình. Thật lạ, cái màu hoa râm ấy. Chẳng biết bà thường nhuộm tóc đến mức nào mà khi thức dậy vào buổi sáng chúng luôn có màu giống hệt nhau, một thứ màu xám bạc rực rỡ. Joanna, cũn giống như những cô con gái của mình, không cần bàn tới việc già hay trẻ, diện mạo bên ngoài của họ sẽ tương ứng với năng lực đặc biệt của mình. Tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể mà diện mạo của Freya có thể giao động trong khoảng từ mười sáu đến hai mươi ba tuổi, cái độ tuổi vẫn còn những bẽn lẽn của lần đầu biết yêu, trong khi Ingrid, người luôn biết làm chủ Trái tim, lại có ngoại hình và những hành động như của người từ khoảng hai mươi bảy đến ba mươi lăm tuổi; còn bà, thậm chí dù bà có những cảm nhận của một nữ sinh trung học từ sâu trong trái tim thì bà cũng có được Sự khôn ngoan thông qua những trải nghiệm cuộc đời, biểu hiện bên ngoài của Joanna lại mang dáng hình của những người phụ nữ trung niên ở độ tuổi đầu sáu mươi.
Còn gì tốt hơn khi được ở nhà với những cô con gái của mình. Thời gian trôi qua đã quá lâu và bà cũng đã đánh mất chúng nhiều lần đến nỗi sức chịu đựng của bà đã đến giới hạn mất rồi. Trong rất nhiều năm sau khi những hạn chế đầu tiên được áp đặt, những cô con gái của bà đã bỏ đi lang thang bên ngoài, một mình, không mục đích, và vô vọng, còn bà thì chẳng thể đổ lỗi cho chúng được. Chúng chỉ thử làm điều đó một lần trong một khoảng thời gian khi chúng cần thứ gì đó: không chỉ là tiền bạc, mà cả sự an tâm, sự khích lệ, và cả lòng trắc ẩn nữa. Joanna đã đặt cược thời gian của mình; bà biết các con gái của mình vui khi biết rằng chúng có thể đi đến bất cứ đâu – Ingrid đã đến Paris và Rome khoảng nhiều năm trong thế kỷ trước, trong khi Freya lại dùng khá nhiều thời gian ở Mahattan gần đây – mẹ chúng thì vẫn sẽ luôn luôn ở tại quầy bếp, xắt hành thành từng miếng, cuối cùng thì vào ngày nào đó, chúng sẽ trở về nhà với bà thôi.
Bà đã hoàn thành việc sơn các bức tường và tự đánh giá công việc của mình. Bà đã chọn một màu vàng nhạt yếu ớt của loài hoa thủy tiên, một chút gì đó rất Bouguereau (3): màu sắc như nụ cười của một nữ thần vậy. Hài lòng rồi, bà liền chuyển sang sơn tiếp bức khác. Khi bà cẩn thận sơn quanh các viền trang trí của khung cửa sổ, bà đã nhìn xuyên qua tấm kính cửa sổ, về hướng bãi biển đối diện bên kia, quan sát đảo nhà Gardiner và trang viên Fair Haven. Cơn lốc xung quanh chuyện đính hôn của Freya đã kết thúc, mọi thứ đang ngả nón cúi đầu và trở lên nhỏ bé hơn trước Qúy bà Grobadan, mẹ kế của Bran, người đã nhấn mạnh rất rõ ràng rằng bà ta nghĩ con trai bà quá tốt với Freya. Bà cũng cảm thấy vui cho con gái của mình, nhưng cũng cảm thấy sợ hãi nữa.
Cô con gái hoang dại của bà lúc này sẽ thực sự ổn định cuộc sống của nó chứ? Joanna hi vọng Freya nói đúng về Bran, rằng cậu ta chính là người đàn ông dành cho nó, người mà nó đã chờ đợi sau bao năm tháng dài đằng đẵng.
Không phải bất cứ ai cũng cần phải có một ông chồng. Bà biết điều đó. Đã trải qua việc đó, đã làm việc đó. Và nếu như trong một lúc nào đó bà cảm thấy mình giống như một mụ già khoắm khú nhăn nhúm, tâm hồn thì tẻ nhạt mà thân thể thì đã thiếu hơi ấm của người đàn ông quá lâu rồi, thì đó là những tháng ngày mà bà chỉ cảm thấy đáng tiếc cho chính bản thân mình. Điều đó không hẳn là bà phải sống cô đơn, có rất nhiều những quý ông đứng tuổi trong thị trấn đã thể hiện khá rõ ràng rằng họ luôn sẵn sàng cho những cơ hội có thể giúp bà bớt cô đơn hơn trong những đêm dài. Nhưng mà, bà không phải là một góa phụ, cũng không có hoàn toàn ly dị, điều này có nghĩa là, bà không hoàn toàn độc thân và được tự do như bà muốn. Bà li thân. Đó là từ mô tả khá tốt cho hoàn cảnh của bà. Bây giờ họ đã sống li thân, và đó chính là cách mà bà muốn.
Chồng bà là một người đàn ông tốt, một trụ cột gia đình tốt, là tảng đá vững chắc cho bà bấu víu khi mọi thứ sụp đổ. Nhưng ông đã chẳng thể giúp họ điều gì trong suốt cuộc khủng hoảng và vì thế bà sẽ không bao giờ tha thứ cho ông. Tất nhiên đó cũng không phải là lỗi của ông ấy, tất cả những cuộc đổ máu và cuồng loạn ấy, nhưng khi tro tàn yên vị và tội ác đã qua đi, ông cũng đã không thể ngăn chặn được Hội đồng ban xuống sự phán xét của họ. Những cô con gái đáng thương của bà: bà vẫn có thể nhìn thấy hình ảnh chúng khi đó, những cơ thể chẳng còn chút sinh khí nào của chúng in hằn trong bóng tối. Bà sẽ chẳng bao giờ quên chuyện đó, và thậm chí kể cả chúng đã trở lại gần như nguyên vẹn (cho dù một đứa có vẻ như đã bị rút móng, mất hết quyền năng và đã bị thuần hóa đến vô hại) thì dù có lục lọi hết ngóc ngách trong trái tim mình, bà vẫn chẳng thể tìm được nơi nào để cho ông có thể lần nữa bước vào cuộc đời bà.
“Được chứ? Gilly?”. Bà hỏi, quay mặt sang nhìn con quạ của mình, Gillbereth, con vật đã chia sẻ những bí mật thầm kín trong suy nghĩ của bà và hiện giờ thì nó đang đậu trên đỉnh cái đồng hồ quả lắc to đùng.
Gilly giũ nhẹ đôi cánh của mình và rướn cái cổ đen dài về hướng cửa sổ, và Joanna đã nhìn theo hướng ánh mắt nó. Khi bà nhìn thấy thứ mà con quạ muốn bà nhìn, bà dừng con lăn lại, một vài giọt sơn bị bắn tung tóe trên sàn đá. Bà còn day dí nó dưới đôi bốt của mình khiến nó trông càng tệ hại hơn.
Con quạ kêu lên.
“Được rồi, được rồi, ta sẽ xuống và kiểm tra nó mà.”. Bà nói, rời khỏi căn nhà, đi xuyên qua cửa sau và tiến thẳng xuống chỗ những cồn cát. Chắc chắn, chúng ở đó: ba con chim đã chết. Chúng bị chết đuối – những bộ lông lốm đốm và ẩm ướt, và vùng da xung quanh móng vuốt chúng trông như bị thiêu cháy vậy. Thi thể chúng được xếp thành hình một cây thánh giá xấu xí trên bãi cát hoang sơ.
Joanna nhìn xuống những thi thể nhỏ bé cứng ngắc. Thật đáng tiếc. Thật lãng phí. Chúng là những chú chim đẹp. Những chú chim ăn thịt lớn với những bộ ngực trắng tinh khôi và những cái mỏ đen như gỗ mun. Những chú ưng biển. Những chú chim bản địa và địa bàn sống chủ yếu của chúng chính là trên Đảo Gardiner, nơi chúng đã làm tổ ngay trên bãi biển. Những con chim này là những sinh vật nguy hiểm, là loại động vật ăn thịt tự nhiên, nhưng cũng loài dễ bị tổn thương vì tất cả những loài sinh vật hoang dã đều sẽ bị tấn công trong trận chiến phát triển và tiến hóa.
Cũng giống như những cô con gái của bà, Joanna đã đấu tranh để thích nghi với những ràng buộc của sự hạn chế. Họ đã thỏa thuận sẽ tuân thủ điều đó để đổi lấy sự bất tử của mình. Hội đồng đã thu hồi đũa phép và hầu hết những cuốn sách phép của họ, thiêu rụi những cây chổi và tịch thu những chiếc vạc của họ. Nhưng còn hơn cả thế, Hội đồng đã tước mất cả nhận thức của họ về chính bản mình. Họ đã hạ lệnh không cho phép bọn họ sử dụng bất cứ hình thức phép thuật nào ở thế giới này, và thực tế thì cũng chẳng có chỗ cho họ để không làm điều đó cả.
Joanna dùng những ngón tay của mình bắt đầu đào trên cát ướt, và nhẹ nhàng chôn những con chim đã chết. Nhẽ ra chỉ cần một vài từ, một câu thần chú tốt, là đã có thể hồi sinh chúng, nhưng cho dù bà chỉ vận dụng một tí tẹo cái khả năng đặc biệt của mình thôi thì ai mà biết Hội đồng sẽ lấy đi của bà thứ gì tiếp theo chứ.
Khi bà trở về nhà, bà đã phải lắc đầu khi nhìn vào phòng bếp. Thau chậu bẩn vung vãi khắp nơi, và các cô con gái của bà đã tận dụng mọi món đồ sứ và đồ bạc nào mà chúng có thể tự xoay xở bằng tay hơn là chạy máy rửa bát, cho nên, bồn rửa và kệ bếp chẳng khác nào một mớ bòng bong lộn xộn, ngập ngụa trong những chiếc đĩa bằng sứ cổ đắt tiền. Ngăn bát sứ trên trong căn phòng ăn lớn đã trống rỗng. Nếu chuyện này cứ tiếp tục như vậy, bữa tới đây họ sẽ phải ăn bằng khay cho xem. Không nên như vậy. Tất nhiên, người gây ra chuyện này là Freya, con bé luôn bừa bãi. Cả Ingrid luôn hoàn hảo đến không chê vào đâu được và thư viện của nó thì không có chút tì vết nào, nhưng cũng không thể khẳng định điều tương tự có thể xảy ra với cái kỹ năng vệ sinh nhà cửa của nó. Joanna đã nuôi dạy những cô con gái của mình thành những người có tính cách đáng yêu, thú vị và mạnh mẽ như những quyền năng phù thủy trước đây của chúng, và kết quả là, chúng chẳng biết chút gì về việc nhà hết.
Dĩ nhiên, là mẹ của chúng, bà không thể hoàn toàn trốn tránh trách nhiệm trong việc này. Suy cho cùng thì bà có thể dành cả buổi sáng để dọn dẹp đống hổ lốn này hơn là sơn lại phòng khách lần nữa. Có điều, mặc dù bà rất thích việc tân trang và cải tạo lại nhưng bà vẫn ghét cay ghét đắng những công việc nhà vặt vãnh thậm chí có thể khiến cho cuộc sống đảo lộn hàng ngày. Hoặc ít nhất thì bà cũng ghét việc vệ sinh. Bà đã nhìn thấy Siegfried, con mèo đen của Freya, quen thuộc lẻn qua cửa chui (4).
“Bọn trẻ đã dụ lũ chuột nhỏ đến cho chú mày hả?”. Bà mỉm cười, bế chú mèo lên và âm yếm vuốt ve lớp lông mềm mại của nó: “Xin lỗi vì phải nói với mày rằng, chuyện này sẽ không kéo dài đâu, cưng ạ.”.
Chỉ cần một cây đũa phép, cả căn nhà sẽ sạch sẽ tinh tươm, Joanna nghĩ. Nếu bà có thể sử dụng phép thuật để dọn dẹp ngôi nhà, bà sẽ chẳng cần đến máy rửa bát nữa. Chuông cửa vang lên. Bà lau tay vào chiếc quần jean đang mặc và chạy ra trả lời. Bà chậm rãi mở cửa và mỉm cười: “Gracella Alvarez?”.
“Vâng.”. Vột người phụ nữ tóc đen, nhỏ nhắn đang đứng ở cửa chính với một cậu bé mỉm cười trả lời.
“Tuyệt lắm! Mời vào, mời vào.”. Joanna nói, lùa họ vào trong phòng khách mới sơn được một nửa. “Cảm ơn đã đến sớm thế này. Cô thấy đấy, chúng tôi thực sự cần sự giúp đỡ ở đây.”. Bà nói, nhìn căn nhà cứ như thể đây là lần đầu tiên vậy. Bụi bặm bám đầy các góc nhà, những bao tải đồ cần đưa đi giặt là chất đống trên cầu thang, những tấm kính đã bám bụi dày đặc đến độ chẳng thể soi gương được nữa.
Trung tâm môi giới đã nhấn mạnh đề nghị mộ sự giúp đỡ từ gia đình Alvareze. Gracella sẽ dọn dẹp nhà cửa trong khi chồng cô, Hector, sẽ chăm sóc khuôn viên, bao gồm cả hồ bơi, cảnh trí xung quanh, các khu vườn và cả mái nhà nữa. Gracella giải thích rằng chồng cô đang hoàn thành nốt công việc bên ngoài thị trấn nhưng họ sẽ gặp nhau vào buổi chiều. Gia đình họ sẽ ở trong ngôi nhà tranh ở sân sau và đồ đạc của họ thì được đặt trong xe hơi.
Joanna gật đầu: “Còn thiên thần này là ai đây?”. Bà hỏi, cúi xuống cù vào bụng cậu bé. Cậu bé nhảy ra ngoài, vỗ tay đen đét và cười khúc khích.
“Đây là Tyler.”.
Được sự khuyến khích của mẹ mình, cậu bé đã nói chuyện. “Cháu bốn tuổi.” Cậu bé nói một cách từ tốn, lắc lư lên xuống đôi giày bốt cao gót của mình. “Bốn Bốn. Bốn. Bốn bốn.”.
“Tuyệt lắm.”. Joanna nhớ đến con trai mình, thời gian trôi qua đã quá lâu rồi. Bà ước gì bà có thể gặp lại nó lần nữa.
Chiếc áo phông cộc tay có hình Mickey Mouse của Tyler đã bạc màu còn đôi mắt cậu bé thì lại tươi sáng và vui vẻ. Khi Joanna định bắt tay cậu bé thì cậu đã tránh đi, nhưng đồng ý cho bà vỗ đầu cậu. “Rất vui được gặp cháu, Tyler Alvarez. Ta là Joanna Beauchamp. Bây giờ, cháu có muốn đi dạo bãi biển với ta trong khi mẹ cháu làm việc không?”.
Tyler đã chạy vòng vòng cả một buổi chiều. Joanna nhìn cậu bé một cách trìu mến. Cứ một lúc cậu bé lại ngoái ra sau một lần để chắc chắn rằng bà vẫn còn ở đó. Dường như ngay lập tức cậu bé đã thích bà, đây là điều mà mẹ cậu đã nhận xét trước khi đồng ý cho cậu đi cùng bà đến bãi biển. Khi cậu chạy mệt rồi, họ đã cùng nhau nhặt vỏ sò. Joanna đã tìm thấy một nửa chiếc vỏ sò có hình dạng hoàn hảo mà cậu bé ngay lập tức đã ghé tai vào nghe. Cậu cười lớn khi nghe những âm thanh từ nó và bà cũng mỉm cười khi nhìn thấy cảnh này. Nhưng mà, ngay cả khi niềm vui vì có được một người bạn trẻ mới đang tràn ngập thì bà không thể không cảm thấy sợ hãi. Sự sợ hãi ngầm rung lên trong chính những khoảnh khắc bình dị, ngay dưới bề mặt yên bình.
Có điều gì không đúng về ba con chim chết trên bãi biển sáng nay, những con chim bà đã chôn cất một cách sơ sài trên nền cát, nhưng Joanna đã không thể chạm những ngón tay mình lên nó ngay sau đó.
Là một mối đe dọa? Hoặc là một lời cảnh báo chăng? Nhưng cảnh báo điều gì? Và từ ai?
***
Chú thích:
(1) – Nguyên văn: Home Fires
(2) - Saltbox: Hộp đựng muối, những căn nhà kiểu thế này:
(3) -
William-Adolphe Bouguereau(1825 - 1905) là một họa sĩ Kinh việnPháp. Ông là một họa sĩ truyền thống có nhiều bức họa về chủ đề hiện thực và chủ đề Thần thoại Hy-Lap. Đó là những chủ đề cực kỳ mang tính Kinh viện tập trung mô tả cao độ về vẻ đẹp của cơ thể nữ giới. ( Chú thích theo wikipedia)
(4) – Nguyên văn: Petdoor, chính là cửa này đây:
---------------------------------------------------------------
Thesun.nguyen tag
bupbecaumua vào đọc bài góp vui này.