bupbecaumua Kem Dâu Lâm Diệu Anh Ivy_Nguyen giovotinh_ji Tẫn Tuyệt Tình Phi Ánh Tuyết Triều Dương mời đọc chương mới nhé. Tiện thể chúc mừng năm mới.
Chương 8: Nịnh thần
Sáng mồng một năm Thiệu Bình thứ nhất, Phạm Nguyên vận long bào màu đỏ tía, đội mũ xung thiên, đeo đai ngọc dẫn theo văn võ bá quan đến bái yết Thái Miếu.
Thân mũ xung thiên khảm hơn ba mươi con rồng vàng, giữa những hoa văn lại đính đầy trân châu, hồng ngọc, nên sau nửa ngày làm lễ cả người Phạm Nguyên đều mỏi rã rời. Vừa về đến phòng, cậu ta đã lăn ngay xuống đệm, dang tay dang chân gọi tôi xoa bóp.
“Bên phải, xuống một chút… Không không, lên chút nữa… Sang trái… Mạnh hơn một chút… Ừm… Ừm… Ấn vào, đừng xoa… Chỗ đấy nhẹ một chút… Không, chỗ này phải mạnh hơn cho trẫm… Mạnh thêm chút nữa, mạnh nữa, tay chân ngươi sao cứ như con gái ấy!” Cậu ta vừa cằn nhằn vừa nằm ườn ra tận hưởng sức lao động của tôi, mắt lim dim. Nhìn bộ dạng yểu xìu, không có khả năng tự vệ nhưng kiêu ngạo trưởng giả của cậu ta, tôi chỉ muốn vung chân đạp cho cậu ta mấy cái. Đạp xong rồi chà, chà rồi lại đạp, cả ngày chà đạp không ngừng.
“Ngươi đang nghĩ gì đấy?” Phạm Nguyên chợt mở mắt nhìn tôi.
Tôi chột dạ, vội vội vàng vàng dùng hết sức mà xoa bóp tấm lưng của cậu ta, mi mắt cụp xuống ra vẻ đáng thương, lí nhí: “Bẩm, hôm nay mồng một nên thần nhớ mẹ và vú già ở quê nhà.”
“Mỗi lần nhớ đến mẹ và vú già ánh mắt ngươi đều có vẻ độc ác hả hê vậy à?”
Tôi nói dối không chớp mắt: “Không ạ, đó là ánh mắt ruột đau chín chiều của thần đấy bệ hạ.”
“Buồn thì khóc đi, không nên để trong lòng.” Giọng cậu ta chợt chuyển sang ân cần nhỏ nhẹ, dịu dàng như gió, khiến tôi không khỏi cảm thấy rùng mình.
“Thần không dám quấy nhiễu nhã hứng của bệ hạ.” Tôi khách sáo đáp.
“Không sao, trẫm đang có nhã hứng nhìn Đình Phương khóc.” Đôi môi cậu ta nở một nụ cười ngọt như đường.
Về sau, tôi rút ra một kinh nghiệm máu xương: Mỗi lần cậu ta gọi tên tôi với một nụ cười, phía sau đấy chắc chắn là một cái bẫy chết người đang chờ tôi ngã xuống.
Lệnh vua khó cãi. Lệnh của một vị vua mười một tuổi ngang ngược chẳng biết trắng đen lại càng khó cãi. Tôi cúi đầu vò vò gấu áo, cố làm cho nước mắt tuôn ra. Tâm hồn tôi tìm về những năm tháng tuổi thơ yên ả bên cây đa bến nước, nơi tôi thường cùng thầy đi hái quả bồ kết về cho mẹ gội đầu. Bàn tay thầy vừa to vừa ấm, âu yếm nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của tôi, mỉm cười trìu mến nhìn tôi. Giờ không còn được bàn tay ấy chở che bảo bọc nữa, tôi rất đau lòng, rất rất rất đau lòng. Môi tôi run run, nhắm mắt lại cố gắng mường tượng nụ cười và tiếng nói của thầy…
Thế nhưng đợi mãi, đợi mãi, nước mắt tôi vẫn không rơi xuống nổi. Có lẽ thầy biết tôi đang lợi dụng ông nên không phù hộ cho tôi.
Lúc mở mắt ra, nhìn thấy đôi môi đang mím chặt vì nén cười của Phạm Nguyên, tôi tức đến nỗi muốn bỏ hết tôn ti quy củ, đè ngay cậu ta xuống đạp như người ta giã bánh dày cho hả giận.
“Đồ ngốc!” Cậu ta nhoẻn miệng cười, đưa tay cốc lên trán tôi một cái. “Lời trẫm nói thật giả thế nào cũng không biết phân biệt. Chẳng lẽ trẫm bảo ngươi đi chết ngươi cũng chết?”
Tôi hèn mọn quỳ xuống lạy cậu ta: “Bệ hạ là đấng chí tôn, thần sao dám cả gan đoán thánh ý? Thần chỉ có thể tuân theo lời bệ hạ.”
Tôi biết Phạm Nguyên quá rõ những lời sáo rỗng này là giả dối, nhưng tôi vẫn nói. Cậu ta đang có hứng đùa, thì tôi phải đùa với cậu ta.
“Thật sao?” Cậu ta hỏi.
“Vâng ạ, chỉ mong bệ hạ cho phép thần chết dễ nhìn một chút. Nếu không ngay cả Hắc Bạch Vô Thường nhìn thấy cũng sợ thần, không dám dẫn thần xuống gặp Diêm Vương, thần sẽ phải trở thành hồn ma lang bạt, tội nghiệp thần lắm ạ.”
“Phụ hoàng lúc sinh thời rất ghét nịnh thần. Trước khi lâm chung cũng dặn trẫm cảnh giác những kẻ bề tôi dẻo mồm dẻo miệng, nếu cần thì giết không tha để trừ hậu hoạ.” Cậu ta cười nhạt, nhưng ánh mắt lại vô cùng nghiêm nghị, khiến tôi không dám chắc đấy chỉ đơn giản là một lời bông đùa để doạ tôi, hay thật sự là lời cảnh cáo sau này tôi nên biết rõ vị trí của mình.
“Bệ hạ, thần chỉ muốn diễn trò để làm người vui một chút thôi.” Tôi khúm núm. “Nếu bệ hạ không thích, sau này thần không dám nữa đâu.”
Chúng tôi quen nhau cũng sắp tròn năm, nhưng tôi biết những gì Phạm Nguyên thể hiện trước mặt tôi chỉ là một phần của cậu ta, nên nhiều lúc cũng không cố thông minh, cứ nghĩ sao nói vậy, khiến cậu ta an tâm vì cho rằng đã nhìn thấu lòng dạ của tôi. Có như thế, dần dần cậu ta mới tin tưởng mà chia sẻ thế giới phức tạp của cậu ta cùng tôi được.
“Trẫm có nói ngươi là nịnh thần à? Hay là ngươi có tật giật mình?” Cậu ta lại cốc đầu tôi cái nữa, sau đó nằm xuống nhìn ra cửa sổ. “Trẫm đang chán, mau nghĩ trò gì khiến trẫm vui đi.”
Lúc nói câu ấy, giọng lại chẳng có chút hào hứng tìm vui, chỉ có buồn man mác.
Từ lúc lên ngôi cậu ta vẫn thế, vui vui buồn buồn thay đổi nhanh chóng chẳng biết đâu mà lần, học hành lười hơn trước, nhiều lúc lại còn ngồi một góc trầm tư. Tôi nghĩ chuyện này có liên quan gì đó đến việc trong triều nhưng chưa dám hỏi, chỉ có thể bày ra vài trò giúp cậu ta tiêu khiển.
“Chiều hôm qua thần thấy ngoài vườn có cái hang dế mới đào đấy bệ hạ.”
“Ừm.” Cậu ta gật đầu, rồi thong thả ngồi dậy, phóng xuống giường cùng tôi đi đào dế.
Tuy Phạm Nguyên từng sống nơi thôn dã, nhưng do sinh hoạt trong cung cũng đã sáu năm, lại phải tuân thủ theo những chuẩn mực giáo dục dành cho thái tử, những chuyện dò hang bắt dế cậu ta hơi vụng, thường phải đợi tôi làm trước rồi mới làm theo. Có lẽ mải chơi nên nhiều khi cậu ta cũng không câu nệ chuyện quân thần, tôi phân công cậu ta làm việc này việc nọ cậu ta cũng không phản đối. Những lúc ấy, cậu ta mặt mũi lấm lem, mồ hôi nhễ nhại, trông rất có khí phách đàn ông, chỉ là còn chưa được khí phách bằng tôi. Thỉnh thoảng để con dế xổng mất cậu ta cũng có mắng tôi một chút, nhưng rồi lại quên đi việc ấy rất nhanh, quệt mũi hỏi tôi: “Còn cách nào bẫy nó nữa không?”
Về sau, Phạm Nguyên càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, phong thái đế vương cao quý hiên ngang, nhưng nếu cho tôi chọn, tôi vẫn chỉ muốn cậu ta mãi mãi dừng lại ở khoảnh khắc này – nóng nảy, trẻ con, nhếch nhác, rong ruổi giữa trời chiều bắt dế cùng tôi. Không toan tính, không dày vò, không dằn vặt, mỗi nụ cười ánh mắt đều thuần khiết, đều thuộc về tôi. Đến khi chúng tôi có trong tay dường như tất cả, ngoảnh đầu nhìn lại, phát hiện thứ quý giá nhất đã mất đi, thứ ấy đã vĩnh viễn không thể nào tìm lại được.
…
Trong những ngày đầu năm Thiệu Bình thứ nhất, rất nhiều chỉ dụ đã được ban ra. Đa số là thăng quan cho người cũ, sắc phong cho người mới, còn lại là đốc thúc quan lại các cấp đắp đê, làm đường, giám sát việc phân chia ruộng đất. Những việc này đều do các vị tể tướng và đại thần bên dưới báo lên, ý kiến giữa các bên cũng không có nhiều xung đột, nên Phạm Nguyên chỉ việc đóng ngọc ấn thông qua.
Tôi không được dự chầu, hầu hết đều là nhờ mài mực cho Phạm Nguyên mà tình cờ đọc được tấu chương cậu ta đang phê duyệt, nên tình hình trong triều tôi không rõ lắm. Chỉ có thể qua sắc mặt của Phạm Nguyên mỗi đêm khuya khi dửng dưng nhìn chồng tấu sớ cao như núi, đóng ngọc ấn một cách thờ ơ mà cảm giác được dưới thế cuộc yên bình kia là một nguồn sóng triều mãnh liệt cậu ta không cách nào khống chế. Tiên đế để lại cho cậu ta ngai vị, nhưng ngai vị và quyền lực nhiều lúc không cùng một chỗ.
Bị cậu ta liên tục sai vặt, chê bai rồi mắng mỏ không nguyên cớ, nhiều khi tôi giận lắm, nhưng chỉ mấy câu “Xin lỗi”, “Thưởng cho ngươi”, “Tìm cái gì chơi với trẫm đi” của cậu ta, cùng với ánh mắt cô đơn có phần day dứt và chiếc túi nhỏ đựng mấy trăm đồng, cơn giận của tôi liền nhanh chóng tiêu tan. Tôi hiểu, chẳng qua ở chốn hoàng cung này cậu ta không tìm được ai vừa có thể tin tưởng vừa có thể giải toả nỗi phẫn hận trong lòng, nên cậu ta mới trút tất cả vào tôi.
Năm nay hạn hán kéo dài, suốt mấy tháng liền không một hạt mưa dù đã làm lễ tế trời. Đầu tháng tư, trời nắng chang chang, nhưng Phạm Nguyên lại dẫn tôi đến thao trường xem cậu ta cưỡi ngựa, bắn cung, luyện kiếm.
Thao trường hôm ấy cát bụi mịt mù, cỏ vàng cháy nắng, cây cối xác xơ, dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt càng giống như một cái lò than. Tôi đứng một mình giữa khoảng sân rộng thênh thang, nhìn cậu ta từ sáng đến trưa hết luyện kiếm lại phi ngựa như bay, bắn hết mũi tên này đến mũi tên khác xuyên qua hồng tâm mà lòng lại không có chút vui mừng hăm hở, chỉ thấy tim càng lúc càng đập mạnh. Cậu ta không phải đang biểu diễn tuyệt kĩ, mà giống như một con ngựa điên chạy không ngừng nghỉ, chạy đến khi rơi xuống vực mới thôi. Cứ như thế, dù là thân thanh niên trai tráng cũng không chịu nổi, huống hồ là một đứa trẻ thân hình gầy gò mười một tuổi.
Cậu ta… Cậu ta giống như mất hết lí trí rồi.
“Bệ hạ! Dừng lại đi, bệ hạ!” Tôi hét lớn, ba chân bốn cẳng hối hả chạy theo ngựa của Phạm Nguyên. Tất cả cấm quân đều bị cậu ta bắt đứng bên ngoài, không ai có thể làm gì để giúp tôi, càng không dám lên tiếng cản cậu ta.
“Bệ hạ, dừng lại đi, đừng chạy nữa nguy hiểm lắm!”
Cậu ta không đoái hoài đến tiếng gọi khản cổ của tôi, vẫn phóng ngựa đi như cuồng phong bão táp.
“Bệ hạ! Aaa…” Tôi hốt hoảng thét lên một tiếng rồi ngã xuống, theo đà lăn vài vòng sân mặt sân nóng bỏng da.
Lúc tôi chống tay ngồi dậy, phủi phủi lớp cát bám trên người, Phạm Nguyên đã quay ngựa lại tự lúc nào, nhảy xuống chạy đến chỗ tôi.
“Ngươi bị sao vậy? Sao lại vụng về quá vậy?” Cậu ta tức giận kéo tôi dậy, nhíu mày nhìn vết thương rướm máu trên khuỷu tay tôi.
“Thần… Thần vấp phải cục đá trên đường.” Tôi cúi đầu, rụt rè đáp.
Thật ra tôi đã kịp nhìn thấy hòn đá ấy và tránh đi, nhưng sau đó vẫn cố tình ngã xuống.
Cậu ta buông tôi ra, vung mạnh tay áo, xoay người bước về phía con ngựa ô đang đứng chờ cách đó không xa.
Tôi sợ cậu ta lại tiếp tục cưỡi ngựa, liền lấy hết dũng khí chạy theo ghì chặt lấy cậu ta. “Bệ hạ nghỉ đi, đừng cưỡi nữa!”
“Buông trẫm ra!”
“Thần không buông!”
“Ngươi dám kháng chỉ?”
“Thần không buông! Không buông! Không buông!” Sự liều lĩnh của tôi hôm ấy từ đâu mà có, cả đời này tôi cũng không hiểu nổi.
Gió thổi phần phật, cát bay tán loạn dưới nắng như đổ lửa, tạt vào mặt tôi rát buốt. Tôi thở hổn hển, đầu óc trống rỗng, lúc lấy lại được chút bình tĩnh cũng chỉ nhìn thấy hai chiếc bóng sát nhau đổ dài trên nền đất, ngoài ra chẳng biết gì.
“Đồ chết tiệt nhà ngươi, được trẫm dung túng sinh hư.” Cậu ta hít một hơi thật sâu, hung hăng mắng tôi, nhưng cũng không bỏ tay của tôi ra.
“Bệ hạ, chúng ta hồi cung đi, cũng đói rồi.”
“Ai đói?”
“Bệ hạ đói.” Tôi đáp, từ từ rút hai bàn tay không biết sống chết của mình về. “Thần cũng đói.”
“Đồ nịnh thần!” Cậu ta quay lại, cốc lên trán tôi một cái, sau đó chỉ tay về phía cây cung đang nằm lăn lóc bên chân ngựa. “Vác về cho trẫm, nó mà trầy xước gì trẫm lấy mạng ngươi.”
“Thần tuân chỉ.”
Tôi bước đến nhặt lấy cây cung, cẩn thận phủi sạch đất cát rồi chạy theo Phạm Nguyên ra xe ngựa. Cây cung này là do cố tể tướng Lưu Nhân Chú(1) tặng cho cậu ta, kĩ thuật cưỡi ngựa bắn cung của cậu ta nghe nói cũng là do ông ấy dạy. Từ ngày ông ấy bị người ta độc chết, cậu ta quý nó như vàng.
Lưu Nhân Chú không chỉ là thầy cậu ta, mà còn là anh họ cậu ta, là cháu gọi tiên đế bằng cậu, là hoàng thân quốc thích. Thế mà ngay cả khi ông ấy chết oan, cậu ta cũng không thể đòi lại công bằng, lại còn phải chính tay ra lệnh lưu đày người muốn đưa sự việc ấy ra ánh sáng. Triều đình kia trên danh nghĩa là của cậu ta, nhưng từ lâu người một tay che trời đã là kẻ khác.
Đối với cậu ta, đấy không chỉ là một nỗi đau, mà còn là nỗi nhục.
Ngày nào Phạm Nguyên không thể ngẩng cao đầu, ngày ấy tôi vẫn chỉ là một thư đồng nhỏ bé quanh quẩn nơi bốn bức tường của điện Trường Xuân, không quyền không thế, bị đám vương tôn quý tộc ở Quốc Tử Giám kia hiếp đáp. Tôi có thể nhịn một ngày, một tháng, một năm, nhưng chắc chắn sẽ không nhịn được cả đời.
Chú thích:
(1) Lưu Nhân Chú là một công thần quan trọng trong khởi nghĩa Lam Sơn, tham gia nghĩa quân ngay từ những ngày đầu, từng lập nhiều chiến công quyết định. Mẹ ông là chị ruột Lê Lợi, nên ông là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu. Vào giai đoạn cuối khởi nghĩa, Lê Lợi đưa Lưu Nhân Chú và con cả của mình là Lê Tư Tề làm con tin trao đổi với quân Minh, điều này vừa chứng tỏ vị trí quan trọng của ông trong nghĩa quân, vừa góp thêm một công lao của ông vào thắng lợi cuối cùng. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi phong cho ông làm bình chương (tể tướng) đồng thời nắm giữ binh quyền, đến nay vẫn còn chế văn lưu lại. Thế nên có thể nói, sau khi Lê Lợi chết, ông là nhân vật quyền lực số một triều đình. Có lẽ vì vậy mà ông bị Phạm Vấn và Lê Sát, vốn là hai nhân vật có quyền ngang ngửa đầu độc chết để nắm quyền, theo một lời tố cáo đương thời.
Lá thư tố cáo ấy là nặc danh, nhưng một học sinh Quốc Tử Giám bị nghi ngờ là người viết, nên người này bị Lê Sát đề nghị xử tử với tội danh vu cáo. Quan xử án thấy tình tiết vụ án còn nhiều điểm mập mờ nên xin đổi án tử thành án lưu đày.
Giai đoạn này đấu đá giữa vua - quan, quan - quan rất gay gắt, liên quan đến nhiều nhân vật, nên thực hư vụ án này thật ra vẫn không có bằng chứng rõ ràng.