Chương 39
Mẹ của Peter sở hữu một cửa hàng đồ cổ tên là Linden & White ở khu buôn bán được rải đá cuội. Bà ấy bán hầu hết là đồ gia dụng, nhưng bà ấy cũng có những hộp trang sức, được sắp xếp theo các thập kỷ. Thập kỷ yêu thích của tôi là thập kỉ đầu tiên, có nghĩa là những năm 1900. Có một hộp trang trí nhỏ hình trái tim bằng vàng với một hạt kim cương ở giữa; nó trông như mô hình bức xạ của vì sao. Nó trị giá bốn trăm đô la. Cửa hàng thì ngay bên cạnh hiệu sách McCalls, nên thi thoàng tôi vào và thăm nó. Tôi luôn mong nó biến mất, nhưng rồi nó không bao giờ xảy ra.
Chúng tôi từng mua cho mẹ một cái ghim cài nhỏ hình cỏ ba lá bằng kim cương từ những năm 1940 vào ngày của Mẹ. Chị Margot và tôi đã mở một gian hàng bán nước chanh mỗi thứ Bảy trong một tháng, và chúng tôi có thể góp được mười sáu đô la nhờ đó. Tôi nhớ chúng tôi đã tự hào thế nào khi chúng tôi đưa cho ba số tiền đó, chúng tôi để nó tử tế và gọn gàng trong một cái túi có khóa kéo. Vào thời gian đó tôi từng nghĩ chúng tôi đã đóng góp rất lớn và ba tôi chỉ giúp một chút mà thôi. Giờ tôi nhận ra rằng cái ghim cài ấy trị giá lớn hơn nhiều so với mười sáu đô la. Tôi nên hỏi ba nó thực sự trị giá bao nhiêu. Nhưng rồi có lẽ tôi không muốn biết. Có lẽ tốt hơn hết là không biết. Chúng tôi chôn mẹ với nó bởi nó là thứ bà yêu thích.
Tôi đang đứng bên ngoài cái hộp, chạm tay vào tấm kính, thì Peter đi ra từ phía sau. “Chào,” cậu ấy nói, ngạc nhiên.
“Chào,” tôi nói. “Cậu làm gì ở đây thế?”
Peter nhìn tôi như một kẻ ngu ngốc. “Mẹ mình sở hữu chỗ này, nhớ chứ?”
“À ư. Mình chưa bao giờ nhìn thấy cậu ở đây trước kia,” tôi nói. “Cậu làm ở đây à?”
“Nah, mình phải đưa cho mẹ một số thứ. Giờ bà ấy nói mình phải đi lấy mấy bộ ghế ở Huntsburgh ngày mai,” Peter nói bằng giọng càu nhàu. “Mất hai giờ đồng hồ để đi tới đó và về. Thật phiền.”
Tôi gật đầu đồng tình và nghiêng người tránh xa cái hộp. Tôi giả vờ nhìn vào quả cầu màu hồng đen. Thực tế, chị Margot sẽ thích nó. Nó có thể là một món quà Giáng Sinh tuyệt vời cho chị ấy. Tôi đảo mắt qua nó. “Quả cầu này giá bao nhiêu vậy?”
“Giá nó ở trên nhãn đó.” Peter chống khuỷu tay vào cái hộp và ngả người về phía trước. “Cậu nên đi.”
Tôi nhìn lên cậu ta.”Đi đâu cơ?”
“Đi lấy bộ ghế với mình.”
“Cậu vừa phàn nàn về việc điều đó sẽ phiền thế nào thôi.”
“Yeah, một mình. Nếu cậu đi cùng, nó có lẽ sẽ bớt phiền hơn.”
“Gee, cám ơn nhá.”
“Không có chi.”
Tôi trợn mắt. Peter nói “không có chi” với mọi thứ! Không, Peter, đó không phải là cám ơn chân thật đâu, nên cậu không cần phải nói không có chi như thế.
“Vậy cậu đi hay thôi?”
“Thôi.”
“Thôi nào! Mình sẽ đi lấy ghế từ chỗ bán đồ cũ tại gia. Chủ sở hữu của nó là loại người tàn tật ốm yếu không ra ngoài được. Đồ dùng đã ở đó như thể đã năm mươi năm rồi ấy. Mình cá sẽ có thứ mà cậu muốn ngắm. Cậu thích đồ cổ, đúng không?”
“Ừ,” tôi nói, ngạc nhiên rằng cậu ta biết điều đó về tôi. “Thực tế, mình là người luôn muốn đi tới khu bán đồ cũ tại gia. Người chủ đã mất như thế nào? Cũng như, bao lâu trước khi ai đó thấy ông ta?”
“Chúa ơi, cậu nghĩ thật không lành mạnh.” Cậu ta rùng mình. “Mình không biết là cậu có mặt này đấy.”
“Mình có rất nhiều mặt,” tôi nói với cậu ta. Tôi ngã về phía trước. “Cho nên? Ông ấy chết ra sao?”
“Ông ấy chưa chết, cậu thật lập dị. Ông ấy chỉ già đi thôi. Gia đình đưa ông ấy vào viện dưỡng lão.” Peter nhướng mày với tôi. “Nên mai mình sẽ đón cậu lúc bảy giờ nhé.”
“Bảy giờ á? Cậu chưa bao giờ nói cái gì về việc rời nhà vào sáng thứ Bảy!”
“Xin lỗi,” cậu ta nói một cách ăn năn. “Chúng mình phải đi sớm trước khi tất cả đồ tốt bị lấy đi.”
***
Tối đó tôi thu xếp bữa trưa cho Peter và tôi. Tôi làm bánh sandwich thịt bò quay với pho mát và cà chua, xốt mai-o-ne cho tôi, mù tạt cho Peter. Peter không thích xốt mai-o-ne. Đó là thứ nực cười bạn thu hoạch được trong một mối quan hệ giả.
Kitty phóng vọt vào bếp và cố để lấy một nửa cái sandwich. Tôi đánh tay nó ra xa. “Đó không phải cho em đâu.”
“Thế cho ai chứ?”
“Đó là bữa trưa ngày mai. Của chị và của Peter.”
Nó trèo lên ghế đẩu và nhìn tôi gói bánh sandwich trong giấy sáp. Những cái bánh sandwich nhìn đẹp mắt khi được gói trong giấy sáp hơn là cho vào túi có khóa. Lần nào cũng vậy, tôi đều sử dụng giấy sáp. “Em thích Peter,” Kitty nói. “Anh ấy khác nhiều so với anh Josh, nhưng em thích anh ấy.”
Tôi ngước lên. “Ý em là sao?”
“Em không biết. Anh ấy thật sự hài hước. Anh ấy làm trò nhiều. Chị chắc phải thực sự đang yêu khi chị làm bánh sandwich cho anh ấy. Khi chị Margot và anh Josh lần đầu trở thành một đôi, chị ấy làm món mì ống sốt pho mát suốt ngày bởi đó là món ưa thích của anh ấy. Món ưa thích của Peter là gì vậy?”
“Chị—chị không rõ. Ý chị là, cậu ta thích mọi thứ.”
Kitty liếc tôi. “Nếu chị là bạn gái anh ấy, chị nên biết món yêu thích của anh ấy là gì chứ.”
“Chị biết cậu ta không thích xốt mai-o-ne,” tôi đề nghị.
“Đó là bởi xốt mai-o-ne thật ngậy. Josh cũng không thích xốt mai-o-ne.”
Tôi cảm thấy day dứt. Josh rất ghét xốt mai-o-ne. “Kitty, em có nhớ Josh không?”
Con bé gật đầu. “Em ước anh ấy vẫn đến chơi.” Một ánh nhìn ao ước lướt qua khuôn mặt nó, tôi sắp sửa ôm nó thì nó chống tay lên hông. “Đừng có dùng hết thịt bò quay nhé, vì em cần nó cho bữa trưa của mình tuần tới đấy.”
“Nếu chúng ta dùng hết, chị sẽ làm salad cá ngừ. Xí.”
“Xem chị làm sao,” Kitty nói, và vọt đi lần nữa.
“Xem chị làm sao”? Nó học cái này ở đâu thế?
***
Lúc bảy giờ ba mươi tôi đang ngồi bên cửa sổ, chờ Peter tới lôi đi. Tôi có một cái túi giấy màu nâu với bánh sandwich và máy ảnh, trong trường hợp có thứ gì đó cổ quái hay mới mẻ tôi có thể chụp hình. Tôi chụp hình một lâu đài xám cũ, đổ nát như bạn thường thấy ở phim kinh dị, với một cái cổng và cái ao âm u hoặc mê cung ở sân sau.
Chiếc xe tải nhỏ của mẹ Peter đỗ lại lúc bảy giờ bốn mươi, điều này thật phiền toái. Tôi lẽ ra có thể ngủ hẳn một giờ nữa. Tôi chạy ra ngoài tới chỗ chiếc xe và nhảy vào trong, và trước khi tôi kịp nói điều gì, cậu ấy nói, “mình xin lỗi, xin lỗi. Nhưng nhìn mình mang gì cho cậu này.” Cậu ta đưa tôi một cái bánh donut trong khăn , vẫn còn ấm, “Mình dừng lại và lấy cái đặc biệt, ngay khi họ mở cửa vào bảy giờ ba mươi. Nó là bánh vị cà phê mô-ca đường đấy.”
Tôi bẻ một miếng nhỏ và bỏ vào miệng. “Yum!”
Cậu ấy lén nhìn tôi khi cậu ấy lái xe ra khỏi đường vào nhà tôi. “Vậy mình đã làm điều đúng đắn khi đến muộn, phải không?”
Tôi gật đầu, cắn một miếng lớn. “Cậu đã làm điều thực sự đúng đắn,” tôi nói, miệng đầy bánh. “Này, cậu có nước không?”
Peter đưa tôi chai nước còn một nửa và tôi nốc cái ực. “Nó là cái bánh donut ngon nhất mà mình từng ăn,” tôi nói cho cậu ấy.
“Tuyệt,” cậu ta nói. Rồi cậu ấy nhìn tôi một cái và cười. “Đường lấm đầy ở trên mặt cậu kìa.”
Tôi lau miệng bằng mặt khăn còn lại.
“Má nữa,” cậu ta nói.
“Được rồi, được rồi.” Sau đó thật yên tĩnh, điều đó khiến tôi lo lắng. “Mình có thể bật chút nhạc không?” Tôi bắt đầu lôi điện thoại của mình ra.
“Thực tế, cậu có ngại nếu chúng mình chỉ lái xe yên lặng trong một lúc được không? Mình không thể để âm nhạc ầm ĩ trước khi chất cà-phê-in bắt đầu có tác dụng.”
“Ừ… chắc rồi.” Tôi không chắc đó có phải có nghĩa là cậu ấy muốn tôi im lặng nữa hay không. Tôi sẽ không đồng ý đi trong cuộc đi chơi nhỏ này nếu tôi biết tôi phải giữ im lặng.
Mặt Peter trông trầm tĩnh, như thể cậu ta là một thuyền trưởng thuyền đánh cá và chúng tôi đang trôi nổi yên bình giữa biển vậy. Ngoại trừ việc cậu ta không lái xe chậm rãi; cậu ta lái xe thực sự nhanh.
Tôi giữ yên lặng trong mười giây rồi nói, “chờ đã, cậu có muốn mình cũng im lặng nữa không?”
“Không phải, mình chỉ không muốn âm nhạc thôi. Cậu có thể nói nhiều như cậu muốn.”
“Được thôi.” Và rồi tôi im lặng, bởi thật lúng túng khi có ai đó nói với bạn rằng bạn có thể nói nhiều như bạn muốn. “Này, vậy cậu thích món ăn gì?”
“Gì mình cũng thích.”
“Nhưng thứ cậu ưa thích nhất là gì? Như, thứ cậu thích nhất của thứ cậu thích. Xốt mai-o-ne và pho mát, hay, ừm, gà rán, hay thịt nướng, hoặc pizza?”
“Mình thích hết những thứ đó. Như nhau.”
Tôi thở dài buồn phiền. Tại sao Peter không hiểu được khái niệm của lựa chọn một thứ ưa thích nhất chứ?
Peter bắt chước điệu thở dài của tôi và cười. “Được rồi. Mình thích bánh mì nướng nâu vàng. Đó là món mình ưa thích.”
“Bánh mì nướng nâu vàng?” Tôi lặp lại. “Cậu thích bánh mì nướng nâu vàng hơn chân cua? Hơn cả thịt băm pho mát ư?”
“Ừ.”
“Hơn cả thịt nướng ngoài trời?”
Peter lưỡng lự. Sau đó cậu ấy nói, “phải! Giờ ngừng việc phân tích lựa chọn của mình lại. Mình giữ vững lựa chọn.”
Tôi nhún vai. “Được thôi.” Tôi chờ, cho cậu ta cơ hội để hỏi tôi món ưa thích của tôi là gì, nhưng cậu ấy không. Nên tôi nói, “Món yêu thích của mình là bánh.”
“Loại bánh nào?”
“Không quan trọng. Tất cả loại bánh.”
“Cậu đã bực mình với mình khi không lựa chọn,” cậu ta bắt đầu.
“Nhưng thật khó để lựa chọn một loại!” Tôi thốt lên. “Ý mình là, có bánh dừa, loại rắc những hạt đường trắng trông như một quả cầu tuyết—Mình rất thích nó. Nhưng rồi mình cũng thích bánh pho mát, và bánh hương chanh, bánh cà rốt. Cả bánh màu đỏ nhung phủ kem pho mát, và bánh sô cô la với lớp sô cô la phết lên.” Tôi dừng lại. “Cậu đã bao giờ ăn bánh dầu ô liu chưa?”
“Chưa. Nó nghe thật kì quặc.”
“Nó thực sự, thực sự rất tuyệt. Thực sự mềm và ngon. Mình sẽ làm nó cho cậu.”
Peter rên rỉ. “Cậu đang làm mình đói đấy. Mình lẽ ra nên mua một túi bánh donut.”
Tôi mở túi giấy nâu của mình và lấy ra bánh sandwich của cậu ta. Tôi đã viết một chữ P trên cái của cậu ấy bằng Sharpie nên tôi sẽ biết được cái nào của ai. “Cậu có muốn một cái bánh sandwich không?”
“Cậu làm cho mình à?”
“Ý mình là, mình cũng làm một cái cho mình nữa. Thật tàn nhẫn khi chỉ mang một cái bánh sandwich và ăn nó trước mặt cậu.”
Peter nhận lấy chiếc bánh sandwich và ăn nó với một nửa phía dưới vẫn được bọc trong giấy. “Ngon thật,” cậu ta nói, gật đầu. “Nó là loại mù tạt nào vậy?”
Hài lòng, tôi nói, “Là mù tạt bia. Ba mình đặt mua nó từ trong danh sách một số thức ăn yêu thích. Ba mình thích nấu ăn.”
“Cậu không định ăn của cậu à?”
“Mình để dành nó cho sau này,” tôi nói.
Đi nửa đường, Peter bắt đầu len lỏi giữa luồng xe cộ, và cậu ta cứ nhìn vào đồng hồ ở bảng điều khiển.
“Tại sao cậu vội vậy?” Tôi hỏi cậu ấy.
“Gia đình Epstein,” cậu ấy nói, gõ ngón tay vào vô lăng.
“Gia đình Epstein là ai?”
“Họ là một đôi vợ chồng già với cửa hàng đồ cổ ở Charlottesville. Lần trước, Phil đã đến đó năm phút trước mình và mua sạch cả khu. Điều đó không được xảy ra hôm nay.”
Ấn tượng, tôi nói, “wow, mình không biết kinh doanh lại kịch liệt như thế đâu.”
Như một người tự cho rằng mình cái gì cũng biết Peter cười tự mãn và tiếp, “không phải là tất cả công việc kinh doanh chứ?”
Rôi đảo mắt nhìn ra cửa sổ. Peter vẫn rất là Peter mà.
***
Chúng tôi đang dừng lại trước cột đèn giao thông thì Peter chợt đứng lên lập tức và nói, “ôi, chết tiệt! Nhà Epstein!”
Tôi đang gật gù ngủ. Mắt tôi mở to và tôi kêu lên, “đâu cơ? Ở đâu?”
“Chiếc xe SUV
[1] màu đỏ! Cách hai chiếc xe ở trước phía bên phải đó.” Tôi nghển cổ ra để nhìn. Họ là cặp đôi tóc hoa râm, có lẽ khoảng sáu mươi hay bảy mươi tuổi gì đó. Thật khó để biết khi nhìn từ xa như vậy.
Ngay sau khi đèn chuyển xanh, Peter nhấn ga và lái xe vào dường dành cho trường hợp đỗ khẩn cấp. Tôi hét to, “đi nào đi nào!” và rồi chúng tôi phóng như bay vượt gia đình Epstein. Tim tôi đập rộn lên không kiểm soát được, tôi không thể làm gì ngoài ngả đầu ra khỏi cửa sổ và hét lên bởi đó thật sự rất mang cảm giác mạnh. Tóc tôi tung trong gió và tôi biết nó sắp trở thành một mớ rối tung, nhưng tôi không quan tâm. “Yahh!” Tôi hét lên.
“Cậu bị điên rồi,” Peter nói, kéo mép áo tôi vào phía trong. Cậu ấy đang nhìn tôi như cái ngày tôi hôn cậu ấy ở hành lang. Như thể tôi thật khác so với cậu ta vẫn nghĩ.
Chúng tôi dừng lại ở ngôi nhà và đã có vài chiếc xe đỗ phía trước. Tôi vươn đầu cố gắng để nhìn toàn bộ. Tôi mong đợi một ngôi biệt thự với cổng được làm bằng sắt và có thể có một hay hai con quái vật mình thú đầu dơi, nhưng nó chỉ trông như một ngôi nhà bình thường. Tôi chắc hẳn trông rất thất vọng, bởi khi cậu ấy để xe ở chỗ đỗ xe, Peter nói với tôi, “đừng đánh giá một khu bán đồ cũ tại gia chỉ bằng ngôi nhà. Mình từng nhìn thất tất cả những loại kho báu đều ở những ngôi nhà bình thường và rác ở những ngôi nhà đặc biệt.”
Tôi nhảy ra và cúi xuống buộc dây giày. “Nhanh lên nào, Lara Jean! Nhà Epstein sẽ ở đây bất kì giây nào sắp tới ngay thôi!” Peter nắm tay tôi và chúng tôi chạy trên con đường dẫn vào nhà; tôi thở dốc khi cố đuổi kịp cậu ta. Chân cậu ấy dài hơn chân tôi rất nhiều.
Ngay khi chúng tôi vào trong, Peter đi ngay tới bên một người đàn ông mặc com-lê và tôi cong người để lấy lại hơi. Một vài người đi loanh quanh để nhìn những đồ vật. Có một cái bàn ăn dài ở giữa phòng với cốc uống sữa từ Trung Quốc và đồ trang trí lặt vặt bằng sứ. Tôi đi tới đó và nhìn kĩ hơn. Tôi thích cái đĩa dùng để gạn kem nhỏ màu trắng với lá hình tim màu hồng nhưng tôi không chắc tôi có được chạm vào nó và xem giá cả của nó không. Nó chắc hẳn rất đắt.
Có một cái giỏ lớn với những dấu ấn của Giáng Sinh thời cổ xưa trong đó, ông già Noel và chú tuần lộc Rudolph bằng nhựa và những vật trang trí bằng thủy tinh. Tôi đang xem xét nó thì Peter đến chỗ tôi, một nụ cười toe toét trên mặt cậu ta. “Nhiệm vụ đã thành công,” cậu ta nói. Cậu ấy gật đầu với đôi bạn già đang nhìn vào cái tủ ly bằng gỗ. “Nhà Epstein,” cậu ấy nói thầm với tôi.
“Cậu đã lấy bộ ghế chưa?” Ông Epstein gọi lớn. Ông ta cố để giọng nghe bình thường và không bực mình, nhưng tay ông ta đang để trên hông và ông ấy đang đứng một cách rất cứng nhắc.
“Ông biết mà,” Peter trả lời lại. “Chúc may mắn lần sau nhé.” Với tôi cậu ta nói, “cậu có nhìn thấy thứ gì thú vị không?”
“Rất nhiều thứ.” Tôi nhấc một con tuần lộc màu hồng. Nó bằng thủy tinh, với một cái mũi màu xanh tươi. “Nó trông thật hợp với hộp đựng đồ trang điểm của mình. Cậu có thể hỏi người đàn ông kia nó giá bao nhiêu không?”
“Không, nhưng cậu có thể. Sẽ tốt cho cậu khi học cách thương lượng.” Peter nắm tay tôi và dẫn tôi tới người đàn ông trong bộ com-lê đó. Ông ấy đang vuốt lại mấy tờ giấy trên bìa kẹp hồ sơ. Ông ấy trông rất bận rộn và có quyền thế. Tôi thậm chí không chắc rằng tôi có nên ở đây hay không nữa. Tôi đang nghĩ tôi không thực sự cần con tuần lộc này.
Nhưng Peter đang nhìn tôi một cách mong đợi, nên tôi hắng giọng và nói, “xin lỗi bác. Nhưng con tuần lộc này giá bao nhiêu vậy?”
“Ồ, nó là một phần của rất nhiều thứ,” ông ta nói.
“Ồ. Ừm, cháu xin lỗi nhưng rất nhiều thứ là những gì ạ?”
“Có nghĩa là nó là một phần của cả một bộ,” ông ấy giải thích. “Cháu phải mua toàn bộ cả bộ trang trí ấy. Bảy mươi lăm đô la. Chúng thật cổ điển, cháu thấy đấy.”
Tôi bắt đầu bỏ cuộc. “Dù sao cũng cám ơn bác,” tôi nói.
Peter kéo tôi lại và cười chiến thắng với tôi và nói, “Bác không thể thêm nó vào với bộ ghế sao? Một món quà cho sự mua bán này?”
Người đàn ông thở dài. “Bác không muốn tách chúng ra.” Ông ấy quay lại để lật bìa kẹp hồ sơ của mình.
Peter nhìn tôi, như thể cậu là người muốn con tuần lộc đó; cậu nên tiến hành bước tiếp. Tôi nhìn lại cậu ta ý rằng tôi không quá muốn nó vậy đâu, và Peter lắc đầu kiên quyết và đẩy tôi ra phía người đàn ông. Tôi nói, “Làm ơn đi bác? Cháu sẽ trả mười đô cho nó. Không ai biết rằng chúng thiếu một con tuần lộc đâu. Và nhìn này, chân nó có một vết nứt nhỏ ở phía dưới, thấy không?” Tôi sẽ giữ nó.
“Được rồi, được rồi. Hãy lấy nó đi,” ông ta nói một cách bực dọc, tôi cười toét miệng với ông ấy và bắt đầu lôi ví của mình ra khỏi túi, nhưng ông ấy vẫy tay ngăn tôi lại.
“Cám ơn bác! Cám ơn bác nhiều ạ.” Tôi giữ chặt con tuần lộc trong ngực. Có lẽ việc mặc cả khoog khó như tôi tưởng.
Peter nháy mắt với tôi, và rồi cậu ấy nói với người đàn ông, “Cháu sẽ để xe của mình gần hơn để chúng ta có thể chất bộ ghế lên xe.”
Họ đi ra phía sau, và tôi đi loanh quanh, nhìn vào những bức ảnh được đóng khung trên tường. Tôi tự hỏi có phải chúng cũng đang được bán hay không. Một vài trong số đó nhìn rất cũ: những bức ảnh đen trắng chụp một người đàn ông đội mũ mặc com-lê. Có một bức ảnh chụp một cô gái trong bộ váy ngày lễ, nó màu trắng và làm bằng ren như một cái áo cô dâu. Cô gái ấy không cười, nhưng cô có một ánh nhìn tinh nghịch làm tôi nhớ đến Kitty.
“Đó là con gái tôi, Patricia.”
Tôi quay lại. Đó là một người ông lão trong chiếc áo len màu xanh hải quân và chiếc quần bò cứng nhắc. Ông ấy đang dựa vào cầu thang nhìn tôi. Ông ấy nhìn có vẻ rất yếu; làn da trắng như giấy và gầy.
“Con bé sống ở Ohio. Nó là một kế toán viên.” Ông ấy vẫn nhìn chằm chằm tôi, như thể tôi gợi cho ông ấy nhớ lại về ai đó.
“Ngôi nhà của ông thật xinh đẹp,” tôi nói, mặc dù nó không phải thực như vậy. Nó đã cũ; nó cần được dọn dẹp sạch sẽ. Nhưng những thứ bên trong thật xinh đẹp.
“Bây giờ nó thật trống rỗng. Tất cả mọi thứ đều bán đi. Không thể mang nó bên mình được, cháu biết đấy.”
“Ý ông là khi ông mất ư?” Tôi thì thầm.
Ông ấy trừng tôi. “Không. Ý ông là viện dưỡng lão.”
Húp. “Đúng thế,” tôi nói, và tôi cười khúc khích theo cách mà tôi làm khi tôi cảm thấy lúng túng.
“Cháu có được thứ gì ở đây trong tay không?”
Tôi nâng nó lên. “Cái này ạ. Ông ấy—người đàn ông mặc com-lê đã cho cháu. Ông muốn lấy lại nó ạ? Cháu không trả tiền mua nó. Nó là một phần của rất nhiều thứ nữa.”
Ông ấy cười, những nếp nhăn trên làn da trắng bệch sâu hơn. “Đó là thứ Patty thích nhất.”
Tôi đưa nó cho ông ấy. “Có lẽ cô ấy muốn giữ nó lại?”
“Không, cháu có nó. Nó là của cháu. Con bé thậm chí không phiền khi giúp ông rời đi.” Ông ấy gật đầu cay đắng. “Còn thứ gì cháu muốn lấy không? Ông có một rương đầy quần áo cũ của con bé.”
Á. Vở kịch về gia đình. Tốt nhất là không tham gia vào đó. Nhưng quần áo cổ điển! Nó thực sự cám dỗ.
***
Khi Peter thấy tôi, tôi đang ngồi khoanh trên trên sàn ở phòng âm nhạc, nhìn chằm chằm vào chiếc rương cũ. Ông Clarke thì đang ngủ gà gật trên chiếc đi-văng cạnh tôi. Tôi tìm thấy một chiếc vảy nhỏ hiện đại có màu sắc của vải bông màu hồng kẹo mà tôi rất yêu thích, và không tay có cúc cài với những bông hoa cúc nhỏ mà tôi có thể cài lại ở eo. “Nhìn này, Peter!” Tôi nâng chiếc váy lên. “Ông Clarke nói rằng mình có thể lấy nó.”
“Ông Clarke là ai?” Peter hỏi, giọng cậu ấy vang khắp cả phòng.
Tôi chỉ vào cậu ta và đưa ngón tay lên môi.
“Được thôi, chúng ta nên rời khỏi đây nhanh trước khi gã chịu trách nhiệm buôn bán nhìn thấy ông ấy cho không những đồ vật này.”
Tôi đứng dậy vội vã. “Tạm biệt, ông Clarke,” tôi nói, không quá to. Có lẽ tốt hơn là để cho ông ấy ngủ. Ông ấy đã rất buồn trước đó rồi, khi ông ấy nói cho tôi về việc ly hôn của ông ấy.
Mắt ông Clarke run run mở ra. “Đó là người đàn ông của cháu à?”
“Không, không hẳn vậy,” tôi nói, và Peter khoác tay lên vai tôi rồi nói, “đúng vậy, thưa ông. Cháu là người đàn ông của cô ấy.”
Tôi không thích cách cậu ta nói vậy, như thể cậu ta đang đùa cợt. Cả tôi và ông Clarke vậy. “Cám ơn ông về bộ quần áo, ông Clarke,” tôi nói, và ông ấy ngồi thẳng lên rồi vươn lấy tay tôi. Tôi đưa tay cho ông ấy và ông ấy hôn tay tôi, môi ông ấy cảm giác như cánh của một con bướm đêm khô héo.
“Không có gì, Patty.”
Tôi vẫy tay chào tạm biệt và nắm lấy vật sở hữu mới của mình. Khi chúng tôi đi ra khỏi cửa trước, Peter nói, “Patty là ai thế?” và tôi giả vờ như mình không nghe thấy.
Tôi phải nhắm mắt khoảng hai giây cho sự hào hứng của ngày này, bởi thứ tiếp theo tôi được biết, chúng tôi đỗ xe ở lối vào nhà và Peter lắc vai tôi, nói, “chúng ta đến, Lara Jean.”
Tôi mở mắt ra. Tôi ôm chặt bộ váy và chiếc áo của mình vào trong ngực như một tấm mền bảo vệ và con tuần lộc của tôi thì ở vạt áo. Kho báu mới của tôi. Tôi cảm thấy như mình vừa đi cướp ngân hàng và bỏ chạy với chúng. “Cám ơn vì ngày hôm nay, Peter.”
“Cám ơn vì đã đi cùng mình.” Sau đó, đột nhiên, cậu ta nói, “Chết. Mình quên không hỏi cậu mấy điều. Mẹ mình muốn cậu tới chơi vào bữa tối ngày mai.”
Miệng tôi rớt xuống. “Cậu đã nói cho mẹ cậu về chuyện của chúng mình à?”
Peter nhìn tôi khinh bỉ. “Kitty biết chuyện chúng mình! Ngoài ra, mẹ mình và mình khá thân. Chỉ có bà ấy và mình và anh tớ, Owen. Nếu cậu không muốn tới, thì đừng tới. Nhưng hãy biết rằng mẹ mình sẽ nghĩ cậu thật bất lịch sự khi cậu không tới.”
“Mình chỉ nói là… càng nhiều người biết, càng khó để xoay xở. Cậu phải giữ nói dối với ít người nhất có thể.”
“Cậu biết nhiều thế nào về nói dối chứ?”
“Ồ, mình đã từng nói dối suốt quãng thời gian còn bé.” Mặc dù tôi không nghĩ nó là nói dối. Tôi nghĩ nó chính là trò chơi làm-người-khác-tin. Tôi đã bảo Kitty là con bé bị bỏ rơi và gia đình thực sự của nó đang ở một rạp xiếc dạo. Đó là lí do tại sao nó theo đuổi thể dục dụng cụ.
[1] Xe thể thao đa dụng.