Starlight Lâm Diệu Anh Lê La bupbecaumua Chim Cụt Tẫn Tuyệt Tình Phi Yumitoxic giovotinh_ji mEothMeoth có chương mới nhé.
Chương 27: Mật thám
Đây không phải lần đầu tiên Phạm Nguyên ra sắc chỉ chấn chỉnh trăm quan. Hồi tháng Giêng cậu ta từng ban một tờ tương tự. Chỉ là nội dung quá đơn giản, quá chung chung, cuối cùng vẫn chẳng cảnh cáo được ai(1).
Đây cũng không phải lần đầu tiên cậu ta nghiêm trị tham quan. Hồi tháng hai, sứ thần Nguyễn Tông Trụ lợi dụng công vụ mua nhiều hàng hoá phương Bắc mang về, vi phạm lệnh cấm từ thời tiên đế, bị cậu ta tịch thu toàn bộ hành trang chia cho quan lại trong triều, lưu đày biệt xứ. Có điều dù sao đây cũng là trường hợp cá biệt, không có tác dụng răn đe toàn thể quan viên(2).
Mọi người đều không ngờ lần này cậu ta lại tung một cái lưới to như vậy. Từ các nhân vật lớn như tuyên úy phiên trấn, tướng hiệu năm đạo, cho đến những nhân vật nhỏ như tuyên phủ, chuyển vận, tuần sát địa phương, tổng cộng năm mươi ba người, cả bắc lẫn nam, cả văn lẫn võ. Kèm theo mỗi cái tên là những tội danh được liệt kê chi tiết, đủ khiến họ nhẹ thì mất chức, nặng thì mất mạng(3).
Họ không phải đại thần, nhưng có thể mặc sức tác quai tác quái, dĩ nhiên phía sau họ phải là những đại thần quyền cao chức trọng.
Họ chỉ sống trong những phủ đệ nhỏ bé xa cách kinh thành, nhưng xa xôi đến thế còn bị hoàng đế tra ra, những đại thần sống ngay dưới chân thiên tử liệu có thể thoát chăng(4)?
Lúc Phạm Vấn đọc xong bảng danh sách ấy, cả điện Hội Anh không ai dám hé môi. Chỉ lẳng lặng cúi đầu, đôi ba ánh mắt lo âu nhanh như gió lướt qua nhau, cuối cùng trầm mặc vẫn hoàn trầm mặc. Trên chiếc sập vàng đặt ở vị trí cao quý nhất, đôi mắt vị hoàng đế trẻ con ánh lên nét cười tinh quái nhìn một lượt khắp văn võ bá quan. Cậu ta tuỳ hứng gọi tên vài vị, sau đó thích thú nhìn họ giật mình, rồi lại chuyển sang gọi tên người khác. Không tức giận, không một lời trách tội, chỉ thân thiết hỏi: “Ái khanh sáng nay ăn gì vậy?”
Đinh Thắng kể lại đầu đuôi chuyện trong triều với một nụ cười hả hê thấy rõ. Là một người tử tế, tôi thấy vậy liền ra hiệu cho hắn xung quanh tai vách mạch rừng. Mọi việc còn phải đợi pháp ty thẩm vấn thêm lần nữa, ngay cả những người được xem là trung thần lúc này cũng chưa dám tỏ rõ thái độ của mình. Ai biết được, trong số những kẻ bị khép tội kia, có bao nhiêu người về sau đông phong tái khởi?
…
Tôi trở về điện Trường Xuân lúc mặt trời vừa xuống núi. Ngồi trước thềm đón tôi là vị ấu chúa mười ba tuổi vừa ra oai với hàng trăm đại thần ban sáng, đang chống cằm chán nản trông xa, đầu cọ cọ vào cây cột sơn son thếp vàng, chân liên tục giẫm xuống đàn kiến đen hối hả bò ngang. Lúc này, phủ lấy tấm thân mảnh khảnh cậu ta vẫn là mảnh long bào sáng chói ánh vàng, thậm chí cả mũ xung thiên cũng chưa tháo xuống, nên cảnh tượng trông có chút buồn cười.
“Ngươi học hành gì ở đấy mà đến giờ mới chịu về?” Cậu ta ngẩng đầu lên, ném về phía tôi cái nhìn hậm hực, khiến tôi tưởng như chiến tích lẫy lừng lúc sáng của cậu ta trong lời Đinh Thắng kể chỉ là một câu chuyện bịa.
Tôi quỳ xuống: “Quan đại tư đồ nói thể lực của thần còn cần cải thiện nhiều, nên bắt thần ở lại tập bắn cung thêm một canh giờ.” Vừa nói, tôi vừa đưa tay áo lên lau lấy lau để mồ hôi trên trán, cố làm ra vẻ đáng thương. “Ôi, mệt chết thần mất thôi!”
“Trẫm cũng chẳng có ý định cho ngươi làm quan võ, học nhiều để làm gì? Lê Sát bận trăm công nghìn việc, thời gian đâu chỉ dạy cho ngươi? Hôm nào xin nghỉ học đi!” Cậu ta nói như ra lệnh. “Chiều ở lại đây còn chơi với trẫm.”
“Không được đâu ạ, thần nhất định phải học võ để có thể bảo vệ tốt cho người.” Tôi hùng hùng hổ hổ giở giọng nịnh thần, à không, trung thần. Dĩ nhiên là không quên nhìn thẳng vào mắt cậu ta để thể hiện sự chân thành. “À, hay là bệ hạ tạm chơi với thú cưng đi.”
“Thú cưng?”
“Vâng ạ, ví dụ như mèo này.” Tôi chớp chớp mắt. “Mèo rất dễ thương, vừa mềm vừa nhỏ, hai mắt long lanh. Chúng ta cùng nuôi một con, lúc thần đi học nó sẽ chơi với bệ hạ thay thần.”
“Không được, trẫm dù gì cũng là hoàng đế, nuôi một con vật ẻo lả yếu đuối như vậy còn ra thể thống gì.”
“Vậy bệ hạ thích con gì?”
Cậu ta lại chống cằm, ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ một hồi. Tôi cứ sợ cậu ta đòi mấy loài nguy hiểm như chó sói, báo đen, sư tử, nên định lên tiếng đề cử con rùa – một con vật vừa an toàn lại vừa gắn với nhiều truyền thuyết. Nào ngờ, vừa định mở miệng, cậu ta đã hai mắt sáng rực hào hứng ngước lên tuyên bố:
“Thỏ trắng đi!”
Tôi vuốt mồ hôi, gượng cười gật đầu tán thưởng. Thầm nghĩ: Tư duy thiên tử quả nhiên thâm sâu khó đoán, mỗi câu nói đều ẩn chứa huyền cơ. Chỉ là huyền cơ ấy kỳ diệu ra sao, mãi sau này tôi vẫn không hiểu nổi.
Rượu thịt đã được Đinh Thắng, Đinh Phúc chuẩn bị từ lâu, chỉ đợi tôi về để bày ra. Trên chiếc bàn lớn giữa phòng là một loạt các món chạo tôm, cơm lam, cua hấp, nem chua, phi xào, cháo lươn, canh đắng, cá rán, vịt quay, gỏi dê, bánh cuốn… Bàn bên cạnh thì la liệt những bánh cốm, bánh gai, bánh gio, chè bà cốt, chè con ong, xôi lạc, kẹo cau… Món nào cũng được giữ ấm trên một chiếc lò than nhỏ, khói bay nghi ngút, màu ớt màu rau điểm xuyết hài hoà. Mùi lạc rang, hành phi, mùi tỏi chấy, mùi thịt cháy sém, mùi ngũ vị hương cứ thế nhấn chìm tôi trong cơn đói cồn cào.
Tôi được ban một chiếc bàn trúc nhỏ, lại được thưởng một bộ bát đũa ly đĩa bằng bạc khắc hoa mai, quỳ trên đệm mà ăn. Nhìn dàn nhạc sư lũ lượt bước vào đại sảnh, đứng hai bên là lớp lớp cung nữ mắt ngọc mày ngài xúng xính áo xiêm, lần đầu tiên tôi có cảm giác Phạm Nguyên thật sự là một đế vương.
Hôm nay cậu ta rất vui. Không những thế, cậu ta còn muốn cả hoàng cung đều biết mình vui.
Những cung nữ hoạn quan hầu cận đều lần lượt được cậu ta ban rượu, thưởng tiền theo thứ bậc. Được đắm mình trong rượu quý, long ân cuồn cuộn, mọi người trong sảnh đều hứng khởi khác thường. Đặc biệt là Phạm Nguyên, con người vẫn còn được bao bọc bởi ánh hào quang chiến thắng. Vẻ tự mãn đong đầy trong từng tiếng cười, từng ánh mắt, từng cái phất tay, vô tình tạo cho cậu ta một loại khí chất vừa ngang tàng vừa hào sảng vượt lên cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới của mình.
Thưởng hết một vòng, bầu rượu sen đã vơi quá nửa, nên thật ra tôi và Phạm Nguyên uống không nhiều. Đêm xuống, trăng lên. Đến cuối buổi, sau khi đưa cậu ta trở về phòng ngủ, rốt cuộc trong phòng chỉ còn tôi và Đinh Thắng ở lại hầu. Mà Đinh Thắng thì chẳng hiểu do tửu lượng kém hay vì một nguyên nhân khác thường nào đấy, chẳng bao lâu cũng lảo đảo cười nói vô tri, nằm lăn ra sàn ngủ say như chết.
Lúc bấy giờ Phạm Nguyên mới ngẩng đầu ngồi dậy, ánh mắt bí hiểm rót vào tai tôi từng chữ: “Đố ngươi bên ngoài có người nghe lén hay không?”
Đinh Thắng đã như một pho tượng không hơn không kém. Căn phòng lúc này xem như chỉ còn lại mỗi chúng tôi, nên Phạm Nguyên không ngại vừa hỏi chuyện vừa hung hăng xoa đầu tôi đến rối tung lên.
Tẩm điện của vua lúc nào cũng có năm ba lớp cửa, gian nhỏ gian to, màn giăng trướng phủ tầng tầng lớp lớp, nhưng điều đó không có nghĩa là những âm thanh bên trong không có khả năng lọt vào tai người khác. Hoàng cung thứ gì có thể thiếu, nhưng tai mắt thì đảm bảo nhiều, bởi đó chính là con đường tiến thân nhanh nhất.
“Bệ hạ anh minh… tài giỏi… oai phong… oai phong lẫm liệt… giờ cả triều ai cũng sợ người rồi. Xin nhận của thần một lạy… Lạy một lạy này…” Tôi cất giọng nhừa nhựa, vờ như loạng choạng đứng lên rồi lại quỳ sụp xuống.
“Từ nay đố thằng nào dám khinh trẫm!” Cậu ta vừa cười ha hả vừa tự rót thêm cho mình ly nữa, miệng không ngừng tuôn ra những lời mông lung khó hiểu. “Trước đây trẫm không biết, nhưng giờ trẫm biết rồi nhá, đố thằng nào dám kinh trẫm…”
Tôi lại ê a: “Bệ hạ anh minh… tài giỏi… gì cũng biết…gì cũng giỏi… Xin nhận của thần thêm một lạy… Lạy thêm một lạy nữa này…”
“Hôm nay trẫm rất vui, thưởng cho ngươi…” Cậu ta cười hì hì tháo một chiếc nhẫn ngọc ra, đeo vào ngón áp út của tôi. Chẳng rõ là giả say, hay men rượu đã thật sự ngấm vào người mà thân thể chẳng mấy chốc đã đổ nhào xuống vai tôi. “Sau này nếu chịu khó phò trợ trẫm, giúp trẫm nở mặt nở mày, trẫm sẽ thưởng cho thật nhiều thật nhiều thật nhiều…”
“Ư… ư ư… thật ạ?”
Chúng tôi mỉm cười rồi im lặng gục xuống sàn, nghỉ lưng một chút cho đỡ mỏi. Một hồi lâu sau, nhắm chừng kẻ nghe lén đã mất kiên nhẫn bỏ đi, tôi mới gượng người ngồi dậy.
“Bệ hạ…” Tôi giật giật tay áo cậu ta. Thấy cậu ta không động đậy, bèn chuyển sang ôm lấy cánh tay cậu ta lắc lắc, tình cờ phát hiện…
Cậu ta có con chuột bao giờ nhỉ?
Tôi chưa có mà sao cậu ta dám có?
“Bệ hạ…” Tôi gọi cậu ta thêm lần nữa, nhưng cậu ta vẫn không đáp trả, xem ra là say thật.
Tôi bước sang lay lay Đinh Thắng, sau đó quay lại lay lay Phạm Nguyên. Thấy họ vẫn không có động tĩnh gì, bèn đinh ninh cả hai đã sai mèm. Hoàn cảnh thiên thời địa lợi nhân hoà này khiến ý niệm đen tối nung nấu bấy lâu trong tôi chợt bùng lên mãnh liệt.
Tôi… tôi muốn trả thù!
“Bệ hạ à…” Đặt cậu ta nằm lại ngay ngắn trên sàn, tôi nhếch mép cười tà.
Sau đó đứng dậy đá vào mông cậu ta một phát: “Mông vua hử? Ông đá nhá!”
Tiếp theo lại ngồi xuống véo má cậu ta: “Má vua hử? Ông véo nhá!”
Cuối cùng xoay xoay cổ tay, cốc một cái thật mạnh vào ngay giữa trán cậu ta: “Trán vua hử? Ông cốc nhá!”
Nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy mình vẫn còn quá thiệt thòi, tôi tiện tay vò luôn mái tóc đen mềm ngắn cũn của cậu ta thành ổ quạ. Thầm tiếc hận sao cậu ta không để tóc dài. Nếu tóc cậu ta dài, có phải lúc này đã bị tôi biến thành ổ ngỗng rồi không.
Gây án xong, tôi chột dạ rón rén bỏ đi. Thế nhưng ngay lúc chạm tay vào cánh cửa, nhìn lại cảnh tượng trong phòng, một cảm giác khác lại thôi thúc tôi trở lại.
Để cậu ta nằm dưới sàn như thế, cậu ta sẽ bệnh mất thôi!
Tôi cúi xuống oằn mình đỡ lấy thân thể thậm chí còn nặng hơn mình tám chín cân, nhích từng bước đến bên giường. Lúc này cậu ta đã say đến không biết trời trăng gì nữa, đôi gò má ửng hồng trông ngon mềm như một cái bánh trôi. Tôi vỗ vỗ cậu ta vài cái, thấy cậu ta không có phản ứng liền nhè nhẹ cúi xuống hôn. Hôn xong, thấy hai mắt cậu ta vẫn nhắm nghiền, tôi cũng không bỏ qua cơ hội, nghiến răng véo mạnh vào má cậu ta thêm một cái để trả thù rồi chạy biến ra ngoài.
Vào khoảnh khắc bàn tay gầy guộc kia bấu chặt lấy tay tôi, tôi những tưởng tim mình đã rơi xuống đất mất rồi.
“Chạy đi đâu đấy?” Cậu ta cất giọng tỉnh như sáo, một tay vẫy vẫy tôi, tay còn lại kéo tôi thật mạnh về phía giường mình. “Vô trách nhiệm thế? Phải còn bên này nữa chứ!” Nói xong thì chìa bên má tôi chưa hôn chưa véo ra, hất hàm chờ đợi.
“Bệ… bệ bệ bệ… hạ…” Tôi lắp ba lắp bắp, sợ đến nỗi ngay cả quỳ xuống van xin cũng lóng ngóng không quỳ được.
Không đợi tôi nói hết câu, cậu ta đã cười hắc hắc hôn chụt lên trán tôi một cái, khiến tôi đần cả mặt ra.
“Nàng là tiên nữ cung nào?” Cậu ta vừa dịu dàng vừa uy nghiêm cất giọng. “Nói trẫm nghe.”
Nàng?
Tiên nữ?
Cung nào?
Tôi hừ lạnh, thẳng tay xô cậu ta xuống giường rồi xăm xăm bước ra khỏi cửa.
Tưởng chi ghê gớm, hoá ra mặt thì tỉnh rụi nhưng vẫn còn đang say đờ say đẫn, ông đây cóc sợ!
Lần này ông nhân từ độ lượng. Nếu còn ăn hiếp ông, lần sau ông véo cho sưng má mới thôi!
…
Hai ngày sau khi bảng danh sách được công bố giữa điện Hội Anh, Lê Sát cáo bệnh nghỉ chầu. Hôm sau, vài ba quan viên khác cũng rục rịch học theo Lê Sát. Mọi người thấy vậy đều đinh ninh màn cáo bệnh tập thể như hồi dâng sớ đòi giết tổng quản Cung sẽ diễn ra lần nữa.
Không ngờ, chỉ sau một ngày, những người có ý định nối bước Lê Sát đều đột nhiên “khỏi bệnh”, ngày ngày chăm chỉ trở lại thiết triều, chỉ còn mỗi ông ta là vẫn đóng cửa nằm nhà không tiếp một ai. Nghe đâu lúc được tin những người kia giả bệnh, Lê Sát đã cho gia nhân đến nhà họ răn đe, bảo họ đã hưởng lộc vua thì phải dốc lòng dốc sức vì vua, không được cứ hở ra lại nghỉ chầu. Đến lúc này, mọi người lại mơ hồ chẳng biết Lê Sát bệnh thật hay bệnh giả. Nếu giả bệnh, thì dụng ý là gì?
Tôi trên danh nghĩa là học trò Lê Sát, nhưng đến cửa thăm vẫn bị gia nhân đuổi khéo về, chẳng dò hỏi được gì.
Trên đường đến Quốc Tử Giám vào mỗi sáng tôi luôn đi ngang một cây cầu gỗ, chân cầu được bao bọc bởi hàng chục loài hoa bạt ngàn hương sắc. Lúc bước lên cầu, tôi ngắt một chiếc lá đào, ngắm nghía vẩn vơ một chút rồi vờ như vô tình cắm chiếc lá vào một vết khuyết trên thành cầu, sau đó bỏ đi. Dù bên cạnh có người hay không, hành động tuỳ tiện của tôi cũng sẽ không bao giờ khiến bất kỳ kẻ nào chú ý.
Chiều hôm ấy, tin tình báo về những nhân vật ra vào nhà Lê Sát đến tay tôi.
Trước ngày ban sắc răn dạy các quan, Phạm Nguyên bằng cách nào đó đã bí mật xuất hiện ngay giữa phòng tôi lúc nửa đêm, ra lệnh cho tôi tiếp quản đội mật thám bấy lâu nay tổng quản Cung quản lý. Tôi nửa mê nửa tỉnh, cứ tưởng cậu ta đùa, nhưng suy nghĩ ấy tồn tại không lâu, bởi cậu ta đã cùng lúc tiết lộ cho tôi hai bí mật: Cậu ta có một đội mật thám, và người đứng đầu đội mật thám ấy trước đây là tổng quản Cung.
Nguyên nhân Lê Sát muốn giết tổng quản Cung có lẽ không đơn giản như tôi từng nghĩ…
Vào những ngày đầu khởi nghĩa, tiên đế đã chiêu nạp được một người tàn tật từng làm quan cho tiền triều, tên là Phạm Ngũ Thư. Người này giỏi nhất là giả trang hành khất thu thập thông tin, về sau dần dần lập nên một mạng lưới tình báo rộng lớn phủ khắp cả nước phục vụ cho kháng chiến(5). Những gián điệp ở Lạng Sơn mà Trịnh Khả đang nắm trong tay chính là một nhánh của mạng lưới này. Phần còn lại của đội tình báo, gọi là mật thám, là lực lượng nòng cốt của nhóm tình báo cũ, nhưng sự tồn tại của họ là một điều bí ẩn đối với người ngoài. Chỉ có hoàng đế và một người thân tín phụ trách nhận tin là có quyền điều khiển và biết họ hoạt động thế nào.
Những mật thám này trực tiếp đào tạo một đội ngũ mới từ những đứa trẻ mồ côi, gọi là tình báo phổ thông, chuyên nghe ngóng thông tin trên phố hoặc trà trộn vào phủ đệ các quan với nhiều thân phận khác nhau. Họ chỉ biết cấp trên trực tiếp của mình, chứ không biết người đứng sau là hoàng đế. Nếu không có lệnh khẩn cấp, họ chỉ gặp và báo cáo thông tin với cấp trên vào những ngày nhất định được đề ra sẵn. Những thông tin này sau đó được thanh lọc lại, chuyển về các trụ sở trá hình chùa miếu, quán trọ… ở kinh thành.
Một nhóm người trong đội mật thám kinh thành sẽ đến các địa điểm này để lấy tin, sau đó chọn ra những tin quan trọng viết vào một tờ giấy nhỏ, nhét vào giữa một mảnh kim loại hai lớp bề ngoài trông như đồng Thiệu Bình Thông Bảo đang lưu hành rộng rãi. Nếu không nhìn kỹ, người ta sẽ khó lòng phát hiện ra loại đồng tiền này đặc biệt dày hơn những đồng tiền khác. Những đồng tiền chứa tin mật ấy sau đó sẽ vào tay những mật thám đóng vai lính canh giữ cấm cung, khi họ vờ ra đường mua ít đồ ăn vặt sau phiên canh gác, hoặc vào tay những mật thám đang vào vai cung nữ, hoạn quan có công vụ phải xuất cung. Vào cuối ngày, đúng giờ, đúng lúc, những đồng tiền nọ sẽ được chuyển đến tay nhân vật cao cấp nhất.
Người ta nếu xét chỉ xét hàng, chứ chẳng ai xét tiền bao giờ cả.
Đêm ấy, khi Phạm Nguyên kể xong chi tiết, cơn buồn ngủ vật vờ của tôi đã không còn nữa, thay vào đó là tim đập liên hồi. Chưa bao giờ tôi lại cảm giác sự hiểm nguy và hứng khởi lại hoà quyện vào nhau mãnh liệt đến vậy, nên cứ ngồi thừ người ra chẳng nói được lời nào. Cậu ta hỏi tôi có muốn làm không, nhưng dĩ nhiên tôi không có quyền nói tiếng “không”. Biết quá nhiều, nếu không xuôi theo dòng nước chỉ có con đường chết. Ngay từ lúc cậu ta bước chân vào căn phòng này, con đường của tôi đã được cậu ta vạch sẵn, không thể quay đầu lại.
Những đại thần chủ chốt trong triều đều được đại diện bởi một loại lá khác nhau. Sáng nay tôi cắm lá đào, tức là ra hiệu cho đội mật thám khẩn cấp báo cáo thông tin về Lê Sát. Chỉ là mấy ngày qua Lê Sát quả thật án binh bất động, không đi đâu, không tiếp một ai, cũng không có hành động gì kỳ lạ ngoài nằm miết trong phòng.
Đã năm sáu ngày rồi…
Suy cho cùng, nếu không có khả năng phân tích và liên kết, tin tức nhiều lúc chỉ là những dòng chữ rời rạc vô dụng mà thôi.
Càng nghĩ càng mờ mịt, tôi quyết định tạm thời không nghĩ nữa.
Tôi ngồi một mình dưới đình Phong Nguyệt, nhìn ra mặt hồ mênh mông nắng, vừa bâng quơ ngâm nga mấy câu thơ, vừa lười nhác tung hứng vài viên sỏi giết thời gian. Gió chiều thổi nghiêng bóng hạ vàng. Dưới nắng, trên hồ, đoá đoá sen hồng trải ra bát ngát. Hương hoa tản mát quyện vào hơi gió ấm. Tựa như chỉ cần đứng một chỗ bên bờ, nhàn nhã nhắm mắt, thư thái thả hồn, là có thể nuốt trọn lấy hương vị thuần khiết và ngọt ngào kia.
“Này cậu kia!” Đang mơ màng chợp mắt, tôi chợt nghe loáng thoáng tiếng cười trong trẻo hoà giữa tiếng lá cây xào xạc. Tôi he hé mắt, nhưng vẫn ngồi yên đấy, thờ ơ phẩy nhẹ chiếc quạt giấy trong tay, vờ như không nghe thấy. Nào ngờ màn giả ngủ chưa thành, thanh âm cộc lốc ban nãy đã biến thành một giọng mềm êm như tiếng mèo con, nũng nịu gọi tôi: “Tráng sĩ…”
Lúc xoay lưng lại, trước mắt tôi đã là một bóng dáng mỹ miều trong tà áo màu lam nhạt, đang nhè nhẹ phe phẩy cây quạt lụa thêu hoa.
“Tiểu thư Nhật Lệ?” Tôi ra vẻ ngạc nhiên.
Cô nàng thè lưỡi trêu tôi: “Người ta gọi cậu thì ứ chịu quay lại đâu, phải gọi tráng sĩ mới chịu quay lại.”
Tôi đứng dậy, khoan thai sải bước tiến đến chỗ cô nàng, khoanh tay nhoẻn miệng cười: “Tôi nào dám. Chẳng qua là người hơi mệt nên lãng tai một chút thôi, tiểu thư xin chớ hiểu lầm.”
Cô nàng bĩu môi rồi đấm nhẹ vào bả vai tôi một phát, sau đó nghiêng người kề sát vào tôi, gần đến nỗi tôi có thể cảm nhận được hương hoa hoàng lan từ mái tóc đen huyền kia phả đều đều qua cánh mũi mình: “Anh Khắc dặn gì chắc cậu không quên chứ?”
“Dĩ nhiên vẫn nhớ!” Tôi gật gật đầu, rồi ghé tai cô nàng thì thầm trong tiếng thở dài: “Cậu Khắc dặn, tôi tìm cách gì giúp cô không phải tiến cung thì tìm, nhưng nếu đụng vào cô dù chỉ một ngón tay thì sẽ mang tôi ra sông Bạch Đằng đóng cọc.”
Lê Nhật Lệ cười gian xảo: “Thế tôi đụng nhé?”
Tôi thản nhiên dang rộng hai tay: “Cậu Khắc cũng không bảo là sẽ trị tội tôi nếu người chủ động là tiểu thư.”
“Hừ, không đùa nữa, tôi chỉ trốn ra đây được một lúc thôi.” Cô nàng vừa nói vừa đảo mắt nhìn quanh, giọng chợt buồn xo. “Hôm trước về thăm nhà, cha và mẹ cả tôi đã mở lời rồi, định đến ngày Kế Thiên thánh tiết năm nay sẽ đưa tôi vào đoàn hiến vũ của dạ yến để gây ấn tượng, tiện đường dâng tôi lên bệ hạ.”
“Hay là hôm ấy cô giả bệnh, múa lung tung một chút?”
Cô nàng thất vọng lắc đầu: “Cha biết tôi thích anh Khắc rồi. Nếu tôi làm vậy, ông sẽ đoán được tôi cố ý, rồi trút giận vào mẹ đẻ tôi.”
Mãi đến giờ tôi mới sực nhớ ra Lê Nhật Lệ không phải con dòng đích của Lê Ngân. Mẹ đẻ cô nàng là một người man gốc ở Thái Nguyên, có lẽ vì tuổi không còn trẻ nữa nên không được Lê Ngân yêu thích lắm. Tuy nhờ vào nhan sắc lộng lẫy của mình mà được đối đãi đặc biệt hơn những đứa con khác trong nhà, nhưng thật ra làm việc gì Lê Nhật Lệ cũng phải cân nhắc kỹ để không phải mất lòng cha và mẹ cả.
Xem ra Lê Ngân cũng không phải loại người chịu an phận thủ thường. Lê Khắc tuy chỉ là con nuôi, nhưng được Lê Sát yêu thích còn hơn con ruột. Vậy mà biết rõ người con gái mình thích là Lê Khắc, ông ta vẫn một mực ôm mộng biến hoàng đế thành con rể của mình.
“Cô thích Lê Khắc, vậy đã lần nào ra mắt quan đại tư đồ chưa?” Tôi từ tốn hỏi. “Ngài ấy có tỏ ý hài lòng với cô không?”
“Cũng gặp năm sáu lần rồi, gần nhất là lúc đi săn hồi Tết đấy, nhưng khi ấy tôi vẫn còn hôn ước với người ta nên không thể tính là ra mắt.”
“Cô từng có hôn ước với ai?”
“Một tên thư sinh trói gà không chặt nào đó, ngay cả tên tôi cũng không nhớ nổi.” Ánh mắt cô nàng có một chút khinh miệt. “Gia cảnh cũng thường thôi, ngày xưa cha và mẹ cả nghe lời thầy bói nên đính ước cho tôi với hắn. Ba tháng trước ông thầy bói ấy bị người ta lật tẩy hay gì đấy, nên hôn ước cũng huỷ rồi.”
Ba tháng trước chẳng phải là lúc tôi đến Lạng Sơn sao?
Chả trách khi ấy Lê Khắc lại gấp rút đề nghị trao đổi lợi ích với tôi, muốn tôi can thiệp không để Lê Nhật Lệ phải tiến cung.
“Tôi nghe nói cô làm bánh gio khá ngon.” Tia mắt tôi đảo xuống chiếc giỏ tre trong tay Lê Nhật Lệ. Cô nàng thấy vậy liền cười cười vừa dúi vào tay tôi vài cái bánh vẫn còn âm ấm, bĩu môi: “Thì mang đến hối lộ cậu chứ ai!”
“Có lẽ nay mai cha cô sẽ cùng quan đại tư đồ và vài người khác đến ngự thư phòng bàn chuyện. Lúc ấy cô hãy làm một mẻ bánh mang đến đấy. Dĩ nhiên là đứng xa xa một góc thôi chứ người ta không cho cô đến gần đâu.” Tôi mỉm cười, vừa nói vừa lột bỏ lớp lá chuối bên ngoài. “Làm sao mà để cha cô thì nghĩ cô mang bánh đến cho ông ấy, còn quan đại tư đồ lại nghi ngờ cô mang bánh đến cho bệ hạ.”
“Ý cậu là… Nguyên phi vừa tiến cung chưa được bao lâu, nên…?” Cô nàng ngần ngừ, có vẻ cũng chẳng mất nhiều thời gian đã hiểu ra dụng ý của tôi. “Tôi sợ làm thế quan đại tư đồ sẽ thù ghét cha tôi.”
“Thư đồng của công chúa Trang Từ không phải chỉ có mình cô đúng không? Rủ thêm hai ba người đi theo là được, như vậy quan đại tư đồ sẽ ghét thêm vài người nữa chứ không chỉ tập trung lên mỗi cha cô. Hơn nữa, cha cô đã có ý để cô lọt vào mắt xanh bệ hạ thì hẳn phải nghĩ được lý do nào đó để về sau không xích mích với quan đại từ đồ rồi.”
Cô nàng trông vẫn còn hơi bối rối, nhưng xem chừng đã chịu chấp nhận ý kiến của tôi.
“Thôi, tôi phải về rồi.” Ngẩng nhìn sắc trời, cô nàng vội nói. Trước lúc đi lại dúi vào tay tôi thêm cái bánh nữa, cười hiền: “Không phải tôi không thích cậu đâu, cậu không cần phải sợ đắc tội với anh Khắc. Trước đây mẹ tôi từng sinh một đứa bé trai rất đáng yêu, nếu còn sống chắc giờ nó cũng bằng tuổi cậu rồi.”
Hoàng hôn thả nắng, gió đưa hương.
Nhìn theo bóng áo lả lướt như mây, lòng tôi bất giác trùng xuống, ngập chìm giữa những dòng hoài nghi lơ lửng chẳng biết từ lúc nào đã quấn vào tim.
Lê Nhật Lệ, người con trai mà cô đang thương nhớ ấy, liệu có bao nhiêu phần là thật lòng thật dạ với cô?
…
Bóng chiều dần tan, mặt trời khuất núi. Lúc tôi trở về phòng, một viên hoạn quan đã đứng chờ bên cửa, vừa nhác thấy bóng tôi liền vội vàng bước đến đưa cho tôi một chiếc hộp gỗ đàn hương.
Dưới lớp gấm trong chiếc hộp kia là thứ tôi vô cùng quen thuộc. Thứ mà tôi tưởng ba tháng trước đã sớm nằm sâu dưới những tầng đất chốn đại ngàn Tây Bắc…
Vào ngày mưa ấy, giữa mùa hoa gạo, trong tiếng chuông ngân, tôi gặp lại người.
Chú thích:
(1) Năm Thiệu Bình thứ 2 (1435), tháng Giêng, mồng 3:
“Ra lệnh chỉ cho đại thần và các quan văn võ, đại ý là: Các ngươi không chịu giữ phép nước như trước đây. Từ nay vế sau, coi quân, trị dân, hay làm việc gì đều nên hết lòng công bằng, yêu thương quân dân, không được riêng tư, nếu không sữa đổi lỗi lầm nhất định bị trị tội nặng.”
[Trích “ĐVSKTT”]
(2) Năm Thiệu Bình thứ 2 (1435), tháng hai, Thái Quân Thực và Nguyễn Tông Trụ nhận lệnh triều đình đi sứ nhà Minh, nhưng lại nảy sinh xích mích vì đố kỵ nhau đến nỗi đánh nhau trên đất Bắc. Nguyễn Tông Trụ còn lén đến nhà quan viên nhà Minh nhận lễ vật. Tôi hai người đều đáng phải xử tử, nhưng vì từng có công nên chỉ xử lưu đày. Nhân lúc đi sứ, Nguyễn Tông Trụ mang theo nhiều bạc và lụa mua hàng phương Bắc, vua ghét Trụ vi phạm lệnh cấm mà làm tiền, liền lấy hết hành trang chia cho các quan.
[Tóm lược từ “ĐVSKTT”]
(3) Theo luật từ thời Lê Thái Tổ, nếu ăn hối lộ 1 quan sẽ bị mang đi xử trảm.
Vào thời này, 1 quan = 10 tiền = 500 đồng.
[ĐVSKTT]
(4) Sử ghi: “Trước kia, nhà vua bí mật sai đi dò hỏi về thực trạng thanh liêm hay tham nhũng của các quan lại ở trong kinh đô và ngoài các lộ để tâu vua biết. Đến đây, ban thưởng cho những người làm việc lâu năm mà siêng năng chịu khó. Còn những kẻ tham ô, làm trái phép nước, từ Tuyên uý, tướng hiệu đến Tuyên phủ, Chuyển vận và Tuần sát gồm 53 người đều bắt giao cho quan pháp ti xét hỏi.”
[Trích “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”]
(5) Phạm Ngũ Thư quê ở Hưng Yên, là cháu ba đời của danh tướng Phạm Ngũ Lão triều Trần. Khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, Phạm Ngũ Thư từ quan về ở ẩn rồi xuất gia tu hành trên Yên Tử với pháp danh là Trí Lâm. Về sau quân Minh kéo sang xâm lược, nước nhà loạn lạc, dân chúng lầm than, ông quyết định hoàn tục. Nghe tin về khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ, ông tìm vào Thanh Hóa xin đầu quân cho Lê Lợi.
Để thăm dò sự điều động binh lực cũng như nắm tình hình của giặc, Phạm Ngũ Thư đề nghị và được Lê Lợi chấp thuận cho thiết lập “hệ thống tình báo” với nhiều đối tượng cài vào hàng ngũ ngụy quan, ngụy quân cũng như trong xã hội dưới các vai nhà buôn, học trò…
Trực tiếp điều hành mạng lưới thu thập thông tin, Phạm Ngũ Thư còn giả trang thành người ăn xin để đi lại khắp nơi mà giặc chẳng nghi ngờ, cũng nhờ đó mà ông nhận thấy lợi thế của những người hành khất vì càng dơ dáy, cùi hủi ghẻ lở thì lại càng được việc, họ có thể “một gậy, một bị khắp nơi tung hoành”, “liều mạng cùi” xông bừa vào chỗ đóng quân, kho lương của địch để quan sát và la cà khắp nơi để chuyển tin nhanh chóng mà an toàn, từ đó Phạm Ngũ Thư tạo dựng thêm nhiều tai mắt trong giới cái bang.
“Hệ thống tình báo” này hoạt động đắc lực, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn. Khi nước nhà độc lập, ông được phong Trung lượng tả phụng thần vệ quân, nhưng ông viện cớ tàn tật để khước từ quan chức xin về quê sinh sống, chỉ nhận tước và phần thưởng là hai trăm mẫu ruộng rồi đem chia hết cho dân nghèo để trồng cấy.
Dặn vợ con làm nhiều hơn nữa việc thiện, phát tâm giúp đỡ kẻ khó, ông ra đi. Tay chống gậy trúc, áo quần rách rưới, ăn xin sống qua ngày nay đây mai đó, để hiểu nỗi đau thương mà san sẻ, an ủi họ người cùng cảnh ngộ, lựa lời nhắc nhở họ về lý nghiệp báo, khuyên họ xả bỏ thù hằn, nghi kị, chán nản mà khơi nguồn cho niềm lạc quan và tình người tuôn chảy. Trên bia mộ của ông về sau chỉ khắc dòng chữ: “Phạm khất sĩ chi mộ” (mộ của người ăn mày họ Phạm).
Ngày nay tại làng Thư Lang (nay thuộc xã Thư Lang, tỉnh Hà Nam) vẫn còn đền thờ Phạm Ngũ Thư, để ghi ơn công lao và ân đức của vị thành hoàng làng mình, người có cuộc đời đặc biệt một như huyền thoại. [Trích đăng từ Q
uangngai.gov.vn]
Tuy nhiên, đây chỉ là dã sử.