Vạn Dặm Xuân - Cập nhật - Bí Bứt Bông

Bí Bứt Bông

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
30/9/14
Bài viết
163
Gạo
40,0
Chương 30: Sau ánh hào quang


Cũng ngày này, ba năm về trước, thầy tôi theo lời mẹ cưới người đàn bà kia làm lẽ.

Tôi không nói chuyện với thầy cả tháng trời, càng không nhìn mặt mẹ. Giận thầy một, tôi lại giận mẹ mười, bởi tôi biết rõ chính bà là người đã mang cái chết ra ép thầy làm thế. Bà không yêu thầy, bà sẵn sàng đẩy thầy cho người khác. Chưa bao giờ thầy nặng lời với mẹ, nhưng ngày ấy, qua khe cửa sổ, tôi đã nhìn thấy ánh mắt thầy vừa lạnh lùng vừa cay nghiệt: “Không có tôi, mạng nàng đã mất từ lâu, vậy mà hôm nay nàng còn muốn mang nó ra để uy hiếp tôi sao? Cách trả ơn của nàng cũng thú vị quá đấy.”

Thế nhưng rốt cuộc thầy vẫn cưới. Mặc cho tôi khóc, mặc cho tôi doạ cả đời này sẽ không tha thứ cho thầy. Hai tháng sau, người làng hớt hải khiêng thầy từ ngoài chợ huyện về. Mắt thầy thâm quầng, môi thầy tím tái. Thầy sốt đến mê man suốt mấy ngày sau đó, để rồi cuối cùng ra đi vào một ngày nắng ấm trời xanh duy nhất trong tháng Chạp.

Người thầy thuốc nổi tiếng nhất huyện Đông Sơn ấy từ giã cõi đời lúc tuổi còn chưa đến bốn mươi.

Lúc bé tôi vẫn thường vỗ ngực bảo rằng sau này sẽ kiếm thật nhiều tiền để thầy hưởng phúc, để thầy không phải lên núi hái thuốc, không phải đi khắp nơi chữa bệnh, nhưng thầy đã chẳng đợi được đến ngày này. Tôi không yêu mẹ như thầy, thậm chí còn có chút oán hận bà – người vợ đã không rơi đến một giọt nước mắt lúc người ta chôn chồng mình xuống đất, nhưng tôi sợ có một ngày rồi mẹ cũng như thầy. Ở đời sinh tử khó lường. Năm tháng vô tình, đến một ngày, quyết định quay đầu lại, biết đâu tôi còn chẳng có dịp nhìn mặt bà lần cuối.

Biết đâu, bà cũng nghĩ về tôi như thế…

Tiếng thét cảnh giới báo hiệu tan chầu lanh lảnh vang lên. Mùa đông, bình minh dường như cũng lười nhác hơn hẳn ngày thường. Đã qua thời điểm thiết triều mà mặt trời vẫn còn thoắt ẩn thoắt hiện sau những áng mây xám xịt, cái lạnh so với đêm qua chỉ có hơn chứ không có kém. Đình Vĩnh Ninh nằm cạnh bên hồ, ngoài mấy chiếc cột lớn thì chẳng có gì che chắn, cái lạnh cứ thế ùa vào, khiến tôi cứ chốc chốc lại phải xoa hai bàn tay vào nhau giữ ấm.

Gió vi vu luồn qua hàng liễu xanh um. Mỗi trận phất phơ, lại một trận rét căm căm. Dưới sương mờ nắng nhạt, người người vật vật chốn cấm cung đều nhoà đi như ảo ảnh, khiến những hối hả cũng thành khoan thai, khiến những gai góc cũng biến dịu dàng. Cũng có lẽ vì vậy mà khi Lê Sát thình lình bước ra từ phía sau rặng liễu, với ánh mắt thoáng chút mơ màng, với nụ cười phảng phất như có như không, tôi đã nghĩ, người đàn ông này thật ra không hề ngông cuồng hiếu sát như người ta vẫn ngầm liên tưởng tính tình ông với cái tên ông.

Tôi cất vội chiếc vòng ngọc vừa nhờ người ta mua tặng mẹ vào túi gấm, sau đó nhanh chân bước ra khỏi đình cúi đầu chào. Nhìn thấy tôi, Lê Sát ậm ừ khẽ gật đầu, nhưng có vẻ chẳng lưu tâm lắm. Chỉ thơ thẩn nhìn đông nhìn tây giống như đang ngắm cảnh, rồi thuận miệng lẩm bẩm mấy câu:

“Tương kiến thì nan biệt diệc nan,
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ty phương tận…
Đáo tử ty phương tận…
Ty phương tận…”(1)


Nhìn ông ta cứ ngẩn người, nhẩn nha lặp đi lặp lại mấy chữ cuối giống như đang cố nhớ nhưng nhớ mãi không ra, tôi sốt cả ruột lên, trong lúc bốc đồng bèn quên mất cả tôn ti, chợt lên tiếng nhắc:

“Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can.”

Lúc Lê Sát quay đầu lại, ánh mắt thâm trầm rọi thẳng vào tôi, tôi chỉ hận không thể dùng chỉ khâu môi mình lại mấy đường. Tôi sống trong cung cũng đã ngần ấy thời gian, những tưởng đã tu tâm dưỡng tính, nói năng thuần thục lắm rồi, không ngờ cái tật hay khoe chữ lúc còn quanh quẩn bên luỹ tre làng đến giờ vẫn chưa dứt được. Đi nhắc thơ một người quyền quý bình thường vốn đã chẳng phải việc sáng suốt gì, đằng này người tôi nhắc lại còn là Lê Sát, một kẻ- quyền- quý- không- biết– chữ, đúng là ngu không tả nổi. Huống hồ, chức quyền, tuổi tác giữa chúng tôi lại chênh lệch nhau như vậy. Tôi làm thế, khác nào đang giễu cợt ông ta?

Lê Sát vẫn nhìn tôi không nói, khiến tôi càng sợ ông ta ngoài miệng nhẫn nhịn nhưng trong bụng ghi thù. Trong lúc bối rối, ngoài cách giả dốt để tự đạp mình xuống ngang bằng với ông ta, tôi thấy mình chẳng còn con đường nào khác.

“Thơ của Lý Bạch con cũng thích bài này nhất ạ.” Tôi mỉm cười liến thoắn, ra vẻ vừa thấy người sang đã bắt quàng làm họ.

Kẻ có học đều biết, tác giả bài này là Lý Thương Ẩn, người sinh sau Lý Bạch cả trăm năm.

“Ra là thơ Lý Bạch à…” Ông ta dường như cũng chỉ hỏi cho có lệ.

“Đông phong, đông phong… Cảnh hợp với thơ, chỉ là ý thơ buồn quá nên con cũng ngại ngâm.” Nói xong, tôi khẽ thở dài.

Kẻ có học đều biết, chữ ĐÔNG trong câu “Đông phong vô lực bách hoa tàn” ấy chỉ hướng đông, không phải mùa đông, nên làm gì có chuyện cảnh hợp với thơ.

“Ừ, tao cũng chỉ từng nghe người khác ngâm thôi, cũng không rõ lắm…”

Ông ta không nhận ra tôi dốt, lại còn điềm nhiên tiếp nhận mớ kiến thức râu ông nọ cắm cằm bà kia của tôi, không khỏi khiến tôi vừa áy náy lại vừa dở khóc dở cười.

Tính Lê Sát tự cao tự đại, nhưng không vờ hiểu biết, cũng chẳng giả cao sang, có lẽ vì vậy mà tôi có chút thiện cảm với ông ta dù lẽ ra tôi phải rất ghét ông ta. Thiên hạ đua nhau trồng hoa, tự cho là tao nhã, ông ta lại chỉ thích trồng cây ăn quả, vừa có bóng mát vừa có quả ăn. Thiên hạ đua nhau sắm lụa sắm là, tự cho là cao quý, ông ta thì hở tan triều lại cởi ngay áo ra ném vào một góc, mình trần chân đất đi bắn chim làm mồi nhậu. Thậm chí, ông ta còn có thể vừa khinh ghét một người vừa thưởng thức tài năng người ấy, giống như có lần ông ta khen bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi viết nghe rất sướng tai, câu nào câu nấy ông ta đều thuộc nằm lòng, dù những chữ Hán trong bài ông ta chẳng hiểu được bao nhiêu.

Tôi lẳng lặng ôm sách nhìn Lê Sát chuyển dần ánh mắt sang phía mặt hồ, nhịp nhàng búng tay, thứ động tác gần như vô thức. Giữa hồ có chiếc cầu gỗ mới xây, có lẽ ông ta đang nhìn ra đấy. Cạnh bên cầu lại có một mái đình nho nhỏ, giữa đình có cô cung nữ đang chăm cá, có lẽ đấy mới là thứ đang thu hút sự chú ý của ông ta. Cũng có thể, ông ta chỉ đơn giản đang nhìn cây liễu ủ rũ dưới sương, cây liễu cách chúng tôi mấy bước chân. Cây liễu to nhất con đường, cây liễu sau cơn giông đêm qua đã trở nên tơi tả đến đáng thương.

Ðô môn hồi thủ thụ thương thương,
Lập mã tần châm khuyến khách trường.
Nhát đoạn ly tình câm bất đắc,
Tân đầu chiết liễu hựu tà dương. (2)

(Ngoảnh lại đế đô rợp bóng xanh
Dừng ngựa mời nhau chén tiễn hành
Ly biệt mà tình sao chẳng dứt
Bên sông bẻ liễu bóng chiều tan.)


Người xưa lúc chia ly vẫn thường bẻ liễu trao nhau để tỏ lòng lưu luyến. Tôi không rõ nơi hoàng cung hoa lệ này từng chứng kiến và chôn vùi bao nhiêu cuộc chia ly. Chỉ biết, vì nơi này, đã có quá nhiều máu đổ, cũng có quá nhiều người đã phải lạc mất nhau.


Hơi lạnh run rẩy tràn qua chóp mũi tôi, mang theo hương cúc nhè nhẹ phả ra từ mấy chiếc chậu sành con con đặt dọc lối đi. Tôi vốn không thích mùi hoa cúc, vừa ngửi thấy liền bước lên phía trước, nhăn mặt dùng tay áo che mũi lại. Trong lúc vội vàng, đi đứng thế nào lại suýt nữa va vào Lê Sát.


“Thằng nội thị chết tiệt nào quản lý khu này thế? Đặt cúc đầy đường thế này không sợ người ta hăng chết à?” Ông ta chợt chuyển sang mặt hầm hầm, vung chân đá một phát vào hòn sỏi nhỏ đang lăn lóc nằm dưới đất. “Hừ, mới sáng đã gặp chuyện bực mình.”

Nói xong, lại tiếp tục nghiền nát một chiếc nhánh khô bên cạnh, sau đó băng băng phất tay áo rời đi, bỏ lại tôi hết dụi mắt lại lắc đầu liên tục.

Chẳng phải mới đấy ông ta vẫn còn đang trầm tư phóng tầm mắt về phía xa sao?


Ánh mắt rất dịu dàng mà? Phong thái rất nhã nhặn mà?


Nghe đâu phụ nữ rất khó hiểu. Tôi không rõ phụ nữ thế nào, nhưng có vẻ đàn ông cũng khó hiểu chẳng kém đâu. Trên đời này chỉ có thầy tôi là tốt nhất thôi!

Tôi xoay xoay quyển sách trong tay, bước ra giữa ngã ba. Nhìn về phía cổng, nơi sẽ dẫn tôi đến Quốc Tử Giám, lại nhìn về phía vườn hoa, nơi sẽ dẫn tôi về chiếc giường ấm áp có túi trứng cút chấm muối tiêu.

Giắt sách vào cạp quần, tôi hất tóc, xăm xăm tiến về phía trước.

“Thầy ơi, bé Phương trốn học đây!”



Cuối tháng mười, Phạm Vấn cáo bệnh nghỉ chầu. Nghe đâu là do tuổi tác đã cao, việc nước nặng nề, lúc theo vua đến cửa Đông xem trăm quân thi vượt sông lại gặp phải cơn gió lạnh nên bị cảm suốt mấy hôm chưa khỏi.

Phạm Nguyên nghe tin xong liền tức tốc sai Đinh Thắng đi truyền ngự y đến chữa cho Phạm Vấn. Tuy lần trước Lê Sát cáo bệnh cậu ta cũng gọi ngự y, nhưng nét mặt của cậu ta lần này là lo lắng thật, nên tôi nghĩ Phạm Vấn không phải giả vờ. Dạo gần đây cậu tao giao công vụ cho Phạm Vấn hơi nhiều, hết thẩm án các quan viên phạm tội lại đến kiểm tra việc luyện tập của các trấn quân năm đạo, có lẽ vì vậy mà sức khoẻ ông ấy không chống đỡ nổi. Dự định chia rẽ Phạm Vấn và Lê Sát của cậu ta cũng đứt gánh giữa chừng.

Tuy Phạm Vấn và Lê Sát đều là quan phụ chính, giữ quyền tể tướng, nhưng vai trò của Phạm Vấn từ lúc tiên đế qua đời lại mờ nhạt hơn hơn nhiều. Ấn tượng của tôi về Phạm Vấn cũng chỉ có mỗi lần ông ấy cùng Lê Ngân xin gỡ tội cho một công thần khác là Lê Thụ – người đã vi phạm lệnh cấm, trong lúc cả nước đang để tang tiên đế lại cưới vợ lẽ xây nhà mới. Trong triều, Phạm Vấn cũng chỉ là người tập hợp ý kiến các quan, hầu như chưa từng tranh cãi với ai, cũng hiếm khi có thái độ gay gắt đối với việc gì. Điều ấy khiến tôi nhiều lúc quên mất ông ấy mới là người địa vị cao nhất trong các triều thần.


Cũng không hẳn là Phạm Vấn bị Lê Sát chèn ép đến nỗi không ngóc đầu lên được. Ngược lại, nhiều lần tôi còn thấy Lê Sát nghe lời Phạm Vấn khuyên, xử xự nhờ đấy mà bớt nóng nảy hơn, thái độ khi nói chuyện với Phạm Nguyên cũng có tôn ti hơn hẳn. Với một người vừa được thiện cảm của Phạm Nguyên vừa được người của Lê Sát xem là vây cánh như Phạm Vấn, tôi nghĩ, nguyên nhân chính khiến ông ấy đổ bệnh thật ra chẳng phải là do quốc sự nặng nề, mà chính là vì ngày ngày đều phải lao tâm khổ trí để được lòng cả hai phe. Bốn chữ “ngư ông đắc lợi” không phải cứ nói được là làm được. Dù làm được, cũng chẳng phải dễ dàng gì.


Nếu Phạm Vấn chết đi, trong triều sẽ không còn ai đủ sức kiềm hãm Lê Sát nữa, đây chính là điều khiến Phạm Nguyên lo lắng nhất. Thế nên cứ cách hai ngày cậu ta lại sai tôi đến phủ thăm ông ấy, đồng thời ra lệnh cho mật thám tích cực tra xét trong ngoài phủ, có gì khả nghi đều phải bẩm báo ngay lập tức. Có lẽ cậu ta đang sợ Lê Sát thấy Phạm Vấn được trọng dụng sẽ mang lòng ghen ghét, rồi ám hại, giống như ông ta đã từng làm với Lưu Nhân Chú, dù cái chết của Lưu Nhân Chú đến nay vẫn chưa xác minh được có đúng là do Lê Sát làm không.

Hôm trước vừa có nhật thực nên Phạm Nguyên sợ lòng dân không yên, sai tôi sau khi thăm Phạm Vấn thì rảo qua rảo lại quanh kinh thành xem xét dân tình một chút, đề phòng có kẻ lợi dụng việc này gieo rắc tin đồn có hại đối với cậu ta. Thấy có dịp xuất cung, tôi tranh thủ đi lòng vòng tìm xem có thứ gì mua được làm quà cho mẹ nữa không, rồi ghé vào hàng bún chả làm một bát to, sau đó bước vào quán trọ gọi một đĩa vịt quay, hai đĩa bánh phục linh, rồi thuê phòng ngả lưng một chút.

Tôi thuê phòng là vì nhìn thấy Đỗ Huy.

Chúng tôi theo cách cũ rời khỏi quán trọ trong bí mật, sau đó tôi ghé một cái miếu hoang, lấy bộ tóc giả anh ta đã chuẩn bị sẵn từ lâu để đội lên, cuối cùng đi bộ đến một quán trà nhỏ ở bến thuyền.

Càng nghĩ, tôi càng thấy những lời Đỗ Huy nói hôm nọ là có lý.

Thật ra trước đấy tôi cũng từng hoài nghi cái danh sách tham quan từ trên trời rơi xuống nọ, chỉ là không thể hỏi thẳng Phạm Nguyên, cũng không tiện bàn bạc với ai nên việc suy luận chẳng có tiến triển gì. Tôi đoán đến chín phần thì người trực tiếp chỉ huy việc điều tra không phải Phạm Nguyên, vì cậu ta suốt ngày ở kinh thành, dù có nhận được tin tức từ mật thám cũng rất khó có cái nhìn tổng thể và chính xác, càng không đủ kinh nghiệm để vạch ra một chiến dịch tung lưới tóm gọn nhiều quan viên tại khắp các địa phương như vậy. Tổng quản Cung cũng có một chút khả năng, nhưng suy cho cùng vẫn là người suốt ngày quanh quẩn ở điện Trường Xuân, trong thời gian ấy lại đang bị Lê Sát chèn ép, rất khó hành động, hơn nữa trước đây ông ấy quản lý đội mật thám, mà theo tôi biết thì danh sách ấy không xuất phát từ đội mật thám tôi tiếp quản. Ngoài ra, tôi cũng loại bỏ cả anh em Đinh Thắng và Đinh Phúc. Họ hầu hạ Phạm Nguyên chưa lâu, sẽ không đủ được tín nhiệm để phụ trách việc này.

Vừa có lực lượng, vừa có kinh nghiệm, người này rất có khả năng là quan lại trong triều, lấy danh nghĩa ra vào ngự thư phòng bàn việc nước để ngầm thảo luận tình hình điều tra với Phạm Nguyên.

Gió từ hồ Dâm Đàm lồng lộng thổi vào thuyền, khiến tôi khẽ rùng mình, vội vã kéo kín tấm áo bông lại che lấy cổ cho bớt lạnh. Ngồi đối diện tôi, người thành niên với gương mặt xương xương, khoé môi luôn thấp thoáng thứ nụ cười hờ hững đang liên tục vân vê miệng bát trà nghi ngút khói. Chỉ khi nào tôi hỏi anh ta mới trả lời. Suốt quãng thời gian còn lại, anh ta đều dành cho việc rót trà vào mấy chiếc ly nho nhỏ vừa xin được của bà chủ quán, dùng đũa gõ tới gõ lui mấy bận như tấu nhạc giết thời gian.

“Dạo này thái độ ông Nguyễn Trãi thế nào? Vẫn bất đắc chí như trước hay là tâm trạng đã tốt hơn?”

Chiếc đũa trên tay anh ta vẫn không buông xuống, chỉ liếc mắt nhìn tôi một thoáng rồi lại nhanh chóng trở về với ly trà, giọng hơi chán nản: “Nãy giờ tôi đã cho em thông tin gia đình của ba vị đại thần, vậy mà em chỉ đãi tôi uống trà. Em không thể rộng rãi hơn một chút, gọi cho tôi một đĩa bánh đậu xanh sao?”

Tôi lạnh giọng: “Chúng ta đến đây không phải để uống trà ngắm cảnh. Nếu không phải vì tránh người ta chú ý thì tôi cũng chẳng giả gái ngồi đây dây dưa này nọ với anh.”


Chiếc đũa trên tay anh ta lúc này mới trượt xuống bàn: “Này, em vừa nói GIẢ GÁI phải không?” Hỏi xong lại tủm tỉm cười ra vẻ lịch sự, nhưng lịch sự đâu chẳng thấy, chỉ thấy đôi mắt kia càng nhìn càng gian tà, khoé miệng kia càng trông càng đểu giả, nếu không phải tham quan thì cũng là chủ chứa. Chả trách anh ta lại phải hoá trang khi chu du khắp nơi chữa bệnh.


Không phải anh ta sợ bại lộ thân thế của mình. Chẳng qua là mặt mũi không được lương thiện lắm, sợ người ta không tin tưởng nên hoá trang thôi.

Nhận được cái liếc xéo của tôi, anh ta cũng không đùa nữa: “Ông ấy vẫn chẳng có gì khác trước. Vẫn nghiêm khắc với con cái, thỉnh thoảng làm vài bài thơ khuyên vợ dạy con, nói chung là vẫn còn trong tình trạng bất đắc chí mà em nói, dù bề ngoài luôn ra vẻ không lo nghĩ.”

Tôi gật đầu lắc lắc bát trà.

Nếu Nguyễn Trãi vẫn không có gì thay đổi, điều này chứng tỏ ông ta không phải là người vạch ra kế hoạch điều tra. Từ sau vụ Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo bị giết vì nghi ngờ mưu phản, vai trò của Nguyễn Trãi trong triều đã mờ nhạt rất nhiều, không còn khả năng ảnh hưởng việc triều chính như xưa nữa, chức thượng thư bộ Lại đảm nhiệm từ hồi kháng chiến cũng rơi vào tay người khác(3). Tiên đế băng hà, tình thế của ông ấy lại càng khó khăn hơn trước, ngay cả bọn chỉ giỏi khua môi múa mép trong Nội mật viện cũng có thể nấp bóng Lê Sát bắt bẻ ông ấy được. Giả sử việc điều tra lần này là do Nguyễn Trãi bí mật tiến hành, lẽ ra ông ấy phải thấy hứng khởi vì lại được tin dùng mới phải.

Đây chính là nguyên nhân tôi cần có Đỗ Huy.

Chưa kể đến việc không phải mật thám nào cũng trà trộn đuợc vào nhà các đại thần, có được một địa vị tương đối cao để điều tra họ. Sau sự kiện tra xét tham quan hồi đầu tháng bảy, các đại thần đa số đều an phận hơn trước rất nhiều, đấy là theo báo cáo của các mật thám kinh thành. Những người leo được lên địa vị cao dần dần đều học được cách sống kín kẽ, có nhiều chuyện kẻ hầu người hạ trong nhà không biết được. Các đại thần kia có thể đã luyện thành tinh, nhưng con cái họ đa số đều ăn sung mặc sướng không lo nghĩ, hoặc ít trải đời, dễ khai thác điểm yếu hơn nhiều. Đỗ Huy là con cái nhà quan, tính tình phóng khoáng, kết giao nhiều, sẽ có thể từ những cậu công tử còn non nớt ấy tra xét được tình hình gia đình họ.

Có lẽ chờ mãi vẫn thấy tôi keo kiệt không gọi bánh, rốt cuộc anh ta cũng đứng dậy, lững thững bước lên bờ mua một khúc mía người ta vừa gánh đi ngang, sau đó ngồi nhai ngon lành, cứ như đang cố tình chọc tức tôi.

“Chỉ có trẻ con mới thích mấy thứ này.” Tôi bĩu môi.

Anh ta quay sang tôi, nhún vai cười: “Tôi trẻ con, tôi thích ăn mía, thế thì can hệ gì em?”

Tôi lơ đễnh nhìn sang hướng khác.

Ngay từ đầu tôi đã không có ý định giết Đỗ Huy, càng không mang theo tâm trạng yếu đuối và đau khổ đến nỗi khóc sướt mướt để đến gặp anh ta. Có thất vọng thì cũng đã thất vọng đủ vào đêm trước đấy rồi.

Anh ta đã có gan đưa cặp chuông ngọc vào cung để cảnh báo tôi, thì hẳn cũng từng nghĩ đến khả năng tôi muốn giết người diệt khẩu. Theo kinh nghiệm của tôi từ những lần tiếp xúc với anh ta ở Lạng Sơn, người như anh ta thể nào cũng đã sớm đào sẵn một lối thoát cho mình, và rất có thể ngay sau khi tôi giết anh ta, bí mật của tôi cũng sẽ bị kẻ khác công khai. Vả lại, nếu ra tay, tôi lại cảm giác dường như mình đang làm chuyện có lỗi với thầy.

Đến khi gặp lại anh ta ở quán trọ, rồi cả hai cùng đến ngôi nhà hoang nọ, thứ linh cảm “Không nên giết” ấy lại càng thôi thúc tôi mãnh liệt.

Tôi nhận ra anh ta DÙNG ĐƯỢC.

Thứ Phạm Nguyên thiếu nhất, cũng là thứ Lê Sát dư dả nhất, chính là hậu thuẫn. Lê Sát chinh chiến nhiều năm, từng cùng bao tướng sĩ vào sinh ra tử. Những kẻ theo phe ông ta hôm nay phần nhiều là nịnh hót vì tư lợi, nhưng những người chịu ơn hay ngưỡng mộ ông ta, thật ra cũng không phải ít. Chưa kể thứ tâm lý “Ta cứu nước nên ta có quyền” của ông ta cũng là tâm lý chung của nhiều người, nên việc lật đổ Lê Sát không phải chỉ là giết hay bãi chức một người, mà phía sau đấy còn là vô số nhân vật sẵn sàng chống lưng cho một quyền thần có khả năng giúp họ giữ được lợi ích của mình. Lúc Lê Sát cầm đầu mấy chục đại thần cáo bệnh nghỉ chầu để bức Phạm Nguyên giết tổng quản Cung, chúng tôi đã thấm thía sự thật nghiệt ngã này. Thứ mà tiên đế truyền cho Phạm Nguyên chỉ là ngai vị, không phải giang sơn. Thứ mà cậu ta nắm trong tay chỉ là ngọc ấn, chứ không phải là quyền lực.

Cậu ta cần những người thật sự xem cậu ta là lãnh đạo.

Thế nhưng, người không theo phe Lê Sát tuy không hiếm, người dám chống đối ông ta lại chẳng mấy ai. Sau khi Lưu Nhân Chú chết không rõ ràng, Trịnh Khắc Phục bị tước binh quyền, Bùi Ư Đài lưu đày biệt xứ, Trịnh Khả và Bùi Cẩm Hổ bị đẩy đến Lạng Sơn, nỗi sợ của những người định theo “chính nghĩa” đã lên đến đỉnh điểm(4). Lòng trung của họ đối với thiên tử giờ đây chỉ gói gọn vào việc không làm gì sai trái. Họ không dám thay đổi, cũng không dám đứng lên. Ngay cả người từng quyền cao chức trọng, nổi tiếng vì nhân nghĩa như Nguyễn Trãi cũng chỉ dám hành động cầm chừng. Hoàng thân quốc thích như Lê Khôi, Đinh Liệt cũng chỉ dám quyền ai nấy giữ(5).

Đặt cược mạng sống của bản thân vào một ấu chúa chưa rõ tài năng đức độ thế nào, họ thấy không xứng đáng.

Phạm Nguyên muốn chứng tỏ mình cũng quan tâm quốc sự để thử lòng Lê Sát và các đại thần, nên công khai danh sách quan viên phạm tội, tuyên bố rằng mình đã ngầm phái người tra hỏi nên dò la được. Tôi thuận nước đẩy thuyền, trong danh sách vốn dĩ chỉ có bốn mươi tám cái tên, tôi kiến nghị đưa vào thêm năm tên nữa, để những quan viên tốt nhưng quá an phận thủ thường cũng bị cuốn vào vòng xoáy.

Cây xanh tốt quá thì khó mà ra quả. Phải để những người này chịu oan một chút, khiến họ thất vọng và phẫn nộ, sau đó tôi mới xuất hiện, đóng vai kẻ ngưỡng mộ vì nghe tiếng họ từ lâu, dựa vào thanh thế Phạm Nguyên để chạy đi tìm người này người nọ giúp họ giải oan. Cuối cùng, âm thầm chuyển lời xin lỗi của Phạm Nguyên đến họ vì đã tiếp nhận nguồn tin không chính xác, khiến những thanh quan như họ bị hàm oan, đồng thời nhắn nhủ họ tiếp tục dốc lòng lo cho dân cho nước, ngoài họ ra cậu ta chẳng còn biết trông cậy vào ai giữa một rừng quan lại bất lương này.

Nghe tôi nói xong, có người còn rơm rớm nước mắt lúc rời đi.

Việc cha của Đỗ Huy vô tình có tên trong số ấy thật ra không nằm trong dự tính của tôi, vì tuy viết thêm tên là do tôi đề xuất, nhưng viết tên ai lại do Phạm Nguyên quyết định. Không ngờ, vì việc ấy, tôi lại gặp anh ta.

À không, phải nói là GẶP LẠI.

“Triều đình lúc này vẫn còn rất loạn, không phải là nơi tốt để dung thân.” Anh ta chợt nghiêm túc nhìn tôi, chậm rãi cất lời. “Tôi chịu ơn cha em, tôi không mong em chọn con đường tự làm khổ chính mình. Nếu muốn, có thể đến nhà tôi, gia đình tôi nhất định sẽ đối xử tốt với em. Tuy không thể cho em vinh hoa phú quý, nhưng chắc chắn em sẽ được ăn học đến nơi đến chốn, sống trong sung túc, cả đời không cần lo nghĩ.”

“Tôi không có hứng thú làm vợ của anh.” Tôi khoanh tay, nghiêng đầu kiêu ngạo đáp.


Đã phải chịu bao nguy hiểm, cố gắng nhiều như thế, sao tôi có thể vì một cuộc sống an nhàn mà bỏ qua tất cả?


Anh ta phì cười: “Này bé con, tôi có bảo em về làm vợ tôi đâu, ý tôi là em về làm em gái nuôi mà. Em nghĩ đi đâu vậy?” Rồi lại làm ra vẻ lịch sự dùng tay áo cố giấu nụ cười đang lan toả trên môi.

Tôi cúi xuống dán mắt vào bát trà, sau đó lại ngẩng mặt lên: “Anh có tiếp cận được đứa con nào của Lê Ngân không?”

“Vẫn chưa.” Anh ta lắc đầu, nhưng vẫn che tay áo. Tức là vẫn đang cười.

Tôi uống cạn chén trà rồi đứng dậy ra về. Lúc đi ngang qua anh ta, thấy anh ta lại bắt đầu gặm mía, tức mình lầm bầm trù ẻo: Ăn đi, ăn đi, ăn cho kiếp sau thành cây mía luôn đi!




Trên đường trở về cung, lúc đi tắt qua một con ngõ vắng, tôi tình cờ đụng phải một tên móc túi đang bị người ta truy đuổi, khiến cả hai đều ngã sóng soài. Những người phía sau đã đuổi đến rất gần nên tên móc túi vừa đứng dậy được đã hốt hoảng vụt đi ngay, quên mất cả tang vật vừa bị rơi ra.

Tôi cũng đứng dậy.

Vừa nhìn thấy thứ tang vật rơi trên mặt đất, ánh mắt liền bị hút chặt vào.

Đây chẳng phải là mảnh ngọc thầy trao cho tôi trước lúc lâm chung sao?

Mảnh ngọc quý giá mà thầy từng bảo được đựng trong tã lót của tôi lúc nhặt tôi về, đẹp đến nỗi hai năm trước cả tiên đế cũng từng nhìn không rời mắt.

Không lâu sau đó, bị người ta trộm mất cùng gia tài nhỏ bé mà tôi dành dụm dược.

“Chào cậu, cậu có thể cho tôi nhận lại mảnh ngọc được không, tôi xin hậu tạ.” Một cô gái áo nâu xinh đẹp thở hổn hển dừng lại trước mặt tôi, dịu dàng cất tiếng. “Mảnh ngọc này là của phu nhân tôi đang đứng ở kia, vừa ra phố chưa được bao lâu thì bị người ta giật mất.”

Tôi tò mò nhìn theo ánh mắt cô gái nọ, trong lòng ngổn ngang những câu hỏi không tìm nổi lời giải đáp.

Bóng dáng người thiếu phụ dần hiện lên rõ rệt theo mỗi bước chân bà tiến đến gần tôi.


Xiêm áo trang nhã nhưng phấn son nhợt nhạt, cử chỉ cao quý nhưng điềm đạm giản đơn. Có chút gì đấy giống như người bệnh.

Ánh mắt bà ấy, cũng giống như tôi ban nãy, chăm chăm dán vào mảnh ngọc.


Chú thích:


(1) Đây là bài “Tương kiến thì nan biệt diệc nan” của nhà thơ Lý Thương Ẩn (813-858) thời Đường.


Nguyên tác:


“Tương kiến thì nan biệt diệc nan,
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ty phương tận,
Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can.
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.”


Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:


“Khó thay khi hợp khi tan,
Gió đông yếu ớt để tàn trăm hoa.
Con tằm đến chết hết tơ,
Sáp cây chảy cạn, lệ đà ráo ngay.
Sáng soi mái tóc đổi thay,
Đêm ngâm dưới nguyệt, mới hay lạnh lùng.
Một đường đi đến non Bồng,
Chim xanh đưa đón cậy lòng dò thăm.”


(2) Đây là bài thơ “Tống nhân bắc hành” (Tiễn người đi phương Bắc) của nhà thơ Nguyễn Ức thời Trần.


(3) Đầu thời Lê nước ta chỉ có hai bộ: bộ Lễ và bộ Lại. Trong đó chức năng của bộ Lại là tìm kiếm nhân tài, bổ nhiệm, bãi miễn, kiểm tra, thăng giáng và điều động các quan.


Năm 1427 (Năm cuối cùng của khởi nghĩa Lam Sơn), Lê Lợi phong Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. (ĐVSKTT)


Năm 1429, ra lệnh bắt Hữu tướng quốc Trần Nguyên Hãn để giao quan lại xét hỏi. Trên đường về kinh, Trần Nguyên Hãn nhảy khỏi thuyền tự sát.


Trần Nguyên Hãn là cháu Trần Nguyên Đán (tức em cô cậu với Nguyễn Trãi), có học thức, giỏi binh pháp, giúp Lê Thái Tổ khởi nghĩa, từng lập được chiến công. Về sau thấy Lê Lợi không phải là người có thể cùng hưởng phú quý nên xin về hưu sớm, được nhà ưng thuận; nhưng vì là dòng dõi nhà Trần nên bị nghi kỵ. Khi đã về ấp Sơn Đông, Trần Nguyên Hãn xây dựng phủ đệ xa hoa, đóng thuyền lớn, nên có người mật tấu ông tạo phản.


Bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư trong Nội mật viện đón biết ý vua, dâng sớ mật khuyên Lê Lợi quyết ý giết đi. Nếu có ai không vui, bọn Quốc Khí liền chỉ vào họ mà bảo họ là bè đảng của hai nhà ấy, nên rất nhiều người bị xử tử và đi đày. Các quan đều sợ miệng bọn chúng không dám nói gì. Nhưng Lê Lợi biết rất rõ bọn Quốc Khí đều là loại tiểu nhân xảo quyệt, trong bụng vẫn ghét chúng. Sau này bọn chúng đều có tội, lần lượt bị đuổi đi, song lại lo chúng đuợc dùng lại cho nên ra lệnh sau này triều đình không được dùng chúng nữa. (Khi Lê Thái Tông lên ngôi, Lê Sát từng tâu xin cho bọn này về làm quan lại vì thấy chúng có tài, nhưng các ngôn quan đã lấy ý chỉ của tiên đế ra ngăn lại.)


Năm 1431, thượng thư bộ Lại là Hà Lật, không phải là Nguyễn Trãi nữa. (ĐVSKTT)


(4) Lưu Nhân Chú là một trong những công thần lớn nhất của khởi nghĩa Lam Sơn, từng được Lê Lợi ban chế văn phong làm tể tướng, nắm binh quyền. Ông chết một cách bí ẩn không lâu sau khi Lê Thái Tông lên ngôi, có người viết thư nặc danh dán ở chợ, kết tội Lê Sát và Phạm Vấn đã giết Lưu Nhân Chú. Sau đó Lê Sát đã đề nghị giết một nho sinh bị xem là chủ bức thư, nhưng người tra án kết luận không đủ chứng cứ rằng bức thư ấy của anh ta viết, nên này chỉ bị xử tội lưu đày.


Trịnh Khắc Phục là em cùng mẹ khác cha của Lưu Nhân Chú, bị Lê Sát bãi chức Nam đạo Hành khiển, cho làm chứ Phán đại tông chính.


Những sự kiện của Bùi Ư Đài, Trịnh Khả, Bùi Cầm Hổ truyện đều đã đề cập qua. Họ là những người có xích mích, hoặc có tư tưởng trái với Lê Sát nên bị Lê Sát tâu vua giáng chức hoặc lưu đày.


(5) Đinh Liệt là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, cũng là một khai quốc công thần.


Lê Khôi là cháu gọi Lê Lợi bằng chú, cũng là một khai quốc công thần, tính tình thâm trầm ít nói, rất được Lê Lợi tin yêu. Lúc cuối đời, Lê Lợi đã gọi Lê Khôi đến bàn xem nên truyền ngôi cho Quận vương Lê Tư Tề hay cho Thái tử Lê Nguyên Long, Lê Khôi đã khuyên Lê Lợi chọn Nguyên Long. Cuối cùng Lê Nguyên Long được truyền ngôi.
 

bupbecaumua

gà luộc
Nhóm Biên tập
Tham gia
9/12/13
Bài viết
3.401
Gạo
2.000,0
Chả nhẽ Đình Phương lại là con ông cha chú nào đấy. Đến cả tiên đế cũng biết miếng ngọc ấy.
Đỗ Huy thật là gian, Đình Phương lại càng không kém.
Chị Bí ơi, cái người mà lần trước chị sì poil là Đỗ Huy hả?
Đình Phương đau đớn vì phải giả gái :)). Phạm Nguyên giờ cũng biết xấu hổ rồi cơ.
P/S. Vẫn còn lỗi chính tả chị ạ, nhưng mà em on điện thoại nên không nhặt họ chị được.
 

Bí Bứt Bông

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
30/9/14
Bài viết
163
Gạo
40,0
Chả nhẽ Đình Phương lại là con ông cha chú nào đấy. Đến cả tiên đế cũng biết miếng ngọc ấy.
Đỗ Huy thật là gian, Đình Phương lại càng không kém.
Chị Bí ơi, cái người mà lần trước chị sì poil là Đỗ Huy hả?
Đình Phương đau đớn vì phải giả gái :)). Phạm Nguyên giờ cũng biết xấu hổ rồi cơ.
P/S. Vẫn còn lỗi chính tả chị ạ, nhưng mà em on điện thoại nên không nhặt họ chị được.

Chị cũng đang hoa mắt vì chữ, nên không soát hết lỗi được.
 

Lâm Diệu Anh

Gà BT
Nhóm Tác giả
Tham gia
2/8/14
Bài viết
1.705
Gạo
600,0
Bí ơi, đúng khúc hay. Đoạn Phương nhớ lại kỉ niệm của em và Đỗ Huy ở chương 28 cảm động quá. Ngậm ngùi mãi, ai sẽ rọc mía cho em cả đời!
 

mEothMeoth

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
21/10/14
Bài viết
278
Gạo
0,0
Đỗ Huy quá nhanh quá nguy hiểm.:tho3:
 

Bí Bứt Bông

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
30/9/14
Bài viết
163
Gạo
40,0
Chim Cụt Lâm Diệu Anh Lê La ngocnungocnu bupbecaumua giovotinh_ji mEothMeoth Tẫn Tuyệt Tình Phi, Bí siêng năng tập 2 đây.

Chương 31: Quá khứ


Lúc tôi tỉnh dậy, trời đã kéo mây đen kịt.


Gió thổi rào rào qua con đường nhỏ vắng bóng người, cuốn theo lớp lớp bụi mù, chẳng mấy chốc đã nhấn chìm khoảng không trước mắt tôi vào một vòng xoáy âm u ngây ngấy mùi bùn. Tiếng kêu răng rắc của những cành cây gãy dồn dập vang lên ngay phía sau tôi, nhưng tôi lại ngơ ngơ ngẩn ngẩn chôn chân ở đấy. Như một đứa trẻ vô tri, không suy nghĩ, không ký ức. Mãi đến khi những viên đá cuội sắc cạnh vùn vụt lao đến chỗ tôi, lạnh lẽo cắt qua tôi. Đau buốt.


“Thầy ơi! Mẹ ơi! Cứu bé Phương…” Tôi run rẩy khóc oà lên, lẫm chẫm bước ra đường, nhưng chưa được mấy bước đã bị gió quật đến ngã lăn trên đất.

Giữa bốn bề hỗn độn, dường như ai đó đã dừng lại bên tôi.


Người ấy hỏi: “Bé con, thầy mẹ cháu đâu?”


Tôi thút tha thút thít: “Không… không biết…”


Người ấy không hỏi nữa, cứ thế bế xốc tôi lên, vừa giữ chặt lấy tôi vừa hối hả chạy đi giữa cơn giông đang chực chờ ập đến.


Tôi gồng cứng người, lại càng khóc to hơn, vừa giãy giụa vừa gân cổ gào lên: “Không! Muốn thầy cơ! Muốn mẹ cơ! Mẹ bảo chờ mà…”


Đáp lại tôi chỉ có tiếng sấm vang rền như xé toạc bầu trời. Mưa như trút nước, và vạn vật cũng nhoà đi trong tấm màn mưa ấy. Từng ngọn cây, từng tảng đá, từng chiếc cầu, từng ngã rẽ đều lần lượt tan đi theo nhịp nhấp nhô của bờ vai xương xẩu nồng mùi cỏ cháy đang cố đỡ lấy tôi. Tất cả đều biến mất, chỉ còn mưa. Cả người tôi ướt sũng. Máu tươi theo nước mưa nhỏ giọt xuống môi tôi, vị tanh rất nhạt. Vết thương trên trán mỗi lúc một đau, nhưng rất nhanh sau đó, tâm trí tôi lại chẳng còn chỗ cho cơn đau ấy nữa.


Tôi mệt mỏi khép mắt lại, miệng lệ nhệ gọi thầy gọi mẹ.


Và người ta lại hỏi tôi: “Nhà cháu ở đâu? Thầy mẹ cháu tên gì?”


Thế nhưng, mãi đến lúc thiếp đi, tôi vẫn chẳng thể trả lời câu hỏi ấy.





Trong bóng tối, có một bàn tay lành lạnh vỗ vỗ má tôi.


“Củ Cải…”


Không phải thứ âm thanh ban nãy, nhưng tôi lại có cảm giác vô cùng quen thuộc. Hết vỗ má, bàn tay ấy lại lay lay cánh tay tôi. “Củ Cải, ngươi sao vậy?”


Dưới ánh nến lờ mờ, tôi từ từ mở mắt, thất thần nhìn trân trân tấm màn màu xanh sẫm. Cuối cùng, nhận ra mình đang ở trên giường.


Không có con đường nào cả. Và dĩ nhiên, cũng chẳng có cơn giông nào cả.


“Bệ hạ…” Tôi quay sang Phạm Nguyên, cất giọng khàn khàn.


Cậu ta lo lắng áp tay lên trán tôi: “Thấy ác mộng à? Sao lại khóc?”


Đầu tôi vẫn còn hơi mông lung, nhưng đại khái cũng nhớ ra một chút: “Thần nằm mơ thấy mình bị lạc. Thần muốn về nhà, nhưng khi người ta hỏi tên cha mẹ thần, thần không biết.”


Cậu ta siết nhẹ tay tôi: “Mơ thôi, đừng sợ.”


Tôi lắc đầu: “Không đâu, là thật đấy.” Trông thấy ánh nhìn chăm chú của cậu ta, tôi lại tiếp: “Tuy mơ là giả, nhưng quả thật nếu giờ người hỏi tên cha mẹ ruột của thần, thần cũng không biết trả lời.”


“Lúc ấy chiến tranh, có nhiều chuyện không lường trước được, ngay cả phụ hoàng trẫm cũng mất con, huống hồ là bình dân bá tánh.” Cậu ta nhẹ nhàng đáp. “Chẳng phải sau đấy ngươi cũng được cha nuôi nhặt về sao, lại còn rất yêu thương ngươi nữa, có nhiều người sống với cha mẹ ruột cũng không được chăm sóc tốt đến thế đâu.”


Hai tay tôi nắm chặt lấy mép chăn, kéo lên đến tận cằm, lí nhí: “Thần cũng biết cha nuôi thương thần lắm…” Nói xong câu ấy, nhớ đến thầy, mắt tôi chợt rơm rớm nước, nhưng thấy Phạm Nguyên vẫn còn ngồi đấy nên dằn lòng không dám khóc. “Thần muốn biết cha mẹ ruột của thần là ai, có phải họ không thích thần nên bỏ thần không, có phải thần là đứa trẻ đáng ghét nên cả cha mẹ ruột lẫn mẹ nuôi đều không thích thần không…”


Cậu ta đặt tay lên miệng tôi, đè chặt môi tôi lại: “Còn nói thế nữa là trẫm cũng ghét ngươi luôn đấy.”


Một lúc sau, thấy tôi đã ngoan ngoãn nghe lời, cuối cùng cậu ta cũng bỏ tay ra, cười nhàn nhạt nhìn tôi bí hiểm.


“Bệ hạ cười gì thần thế?” Tâm trạng tôi lúc này cũng đã khá hơn nhiều, có lẽ trí tò mò đã chiến thắng thứ tự ti vu vơ của trẻ con.


“Cười cái đứa trán sưng như tổ mối.” Đôi chân mày cậu ta lém lỉnh nhướn lên, ra vẻ như đang khinh tôi lắm.


Tôi bật người ngồi dậy, đến lúc này mới chợt nhớ ra, sờ sờ lớp vải băng trên trán: “A, sao trán thần bị gì đau thế?”


“Không nhớ à?” Cậu ta nhếch mép, giọng điệu vờ như rất quan tâm, nhưng ý giễu cợt thì sờ sờ ra đấy. Cầm lấy cây quạt đang đặt trên đùi, cậu ta hưng phấn huơ huơ mấy cái: “Một canh giờ trước kinh thành vừa xảy ra động đất. Lúc ấy trẫm đang chợp mắt ở ngự thư phòng, bên cạnh có tên nịnh thần họ Nguyễn đứng hầu. Chắc là do dạo này hay trốn học, lười đọc sách, lại chưa trải qua động đất bao giờ, nên tên nịnh thần họ Nguyễn kia vừa thấy trời mù đất tối, dưới chân nghiêng ngả, đồ đạc thi nhau rơi xuống đất liền đinh ninh là trời sập, hớt hải nắm tay kéo trẫm chạy ra ngoài. Có lẽ vì vừa chạy vừa nhắm mắt la oai oái nên chưa ra khỏi phòng thì tên nịnh thần kia đã va đầu vào cột, bất tỉnh, trán sưng vù.”(1)


Tôi ngẩng đầu nhìn trần nhà, nhè nhẹ hít vào.


Hình như cũng hơi nhơ nhớ…


“Ơ, sao thần chẳng có chút ấn tượng nào…” Tôi ôm trán xuýt xoa, ra vẻ đang bối rối ghê gớm lắm.


Cậu ta vỗ vai tôi, giọng hết sức chân thành, mà sự chân thành của đế vương thì luôn khiến người ta cảm động đến nước mắt lưng tròng: “Không sao, đừng cố nhớ nữa kẻo lại đau đầu. Lúc ấy ngươi la lớn lắm, tất cả mọi người đều nghe thấy cả. Từ nay, trẫm và mọi người ở điện Trường Xuân sẽ nhớ giúp ngươi.”


Tôi xấu hổ gục đầu xuống gối, cố giấu mặt đi, chỉ hận sao chiếc giường này không có thêm cái lỗ để tôi chui xuống.


Phạm Nguyên phì cười, nhưng không cố trêu tôi nữa, mà đứng dậy bước ra ngoài.


“Lần sau có động đất thì phải chui xuống gầm giường hoặc gầm bàn để trú, đừng chạy lung lung.” Cậu ta chợt xoay người lại.


Tôi quỳ trên giường, đầu gật liên hồi như mổ thóc.


“Có thèm món gì không? Sẵn tiện trẫm dặn ngự trù.”


Tôi tròn mắt ngạc nhiên vì sự tử tế bất ngờ của cậu ta, nhưng bản năng đã nhanh chóng lệnh cho tôi vẫy vẫy đuôi cười toe toét: “Bệ hạ anh minh, bệ hạ cho thần xin một đĩa vịt quay với một bát chè đỗ đen của ông bếp Thăng nhé!” Lại còn liều lĩnh ăn gan gấu, được voi đòi tiên: “Bệ hạ cho thần xin bát to to ấy nhé!”


Cậu ta lườm tôi, ánh nhìn đầy cảnh cáo. Tôi hèn mọn rụt đầu vào chăn như con rùa nhỏ, lại tiếp tục màn rên rỉ: “Ôi ôi, sao trán thần đau quá, không biết có bị ngu không nữa… Cứ thế này làm sao hầu bệ hạ được đây…”


Lúc tôi giở chăn ra, cậu ta đã đi rồi.


Hừ, cậu ta lại còn biết tôi thích ngọc cơ đấy, để lại mảnh ngọc vừa to vừa bóng.


Một cảm giác ngọt ngào rất lạ chầm chậm len lỏi trong tôi…




NGỌC?




Vết thương trên trán chợt nhói lên một cái, khiến tôi mơ mơ hồ hồ không biết đoạn ký ức lúc chiều mà mình đang nghĩ đến là có thật, hay chỉ là ảo ảnh trong lúc mình nửa tỉnh nửa mê đã tự vẽ ra.


Tôi vội vàng kéo tay áo, lật khuỷu tay lên.


Vết xước mờ mờ ấy vẫn còn, dù rất nhạt. Tức là, tôi thật sự đã va vào tên trộm ngọc, bị ngã, sau đó gặp vị phu nhân áo xanh kia.


Bà ấy nói: Đây là mảnh ngọc hai năm trước bà tình cờ mua lại được ở hiệu cầm đồ. Bà ấy còn nói: Mảnh ngọc này rất quan trọng đối với bà, không thể bán lại cho tôi, vì nó từng được đeo trên cổ đứa con gái thất lạc của bà.


Là CON GÁI.


Tôi ngồi bó gối trên giường, trong đầu nghĩ đến rất nhiều chuyện, nhưng chẳng chuyện nào ăn nhập với chuyện nào, rốt cuộc lại giống như chẳng nghĩ gì.


Những thứ tôi nghĩ đều không có thật.


Tôi được mẹ dẫn đi phố đèn lồng. Tôi bị mẹ trêu, chạy đi mách thầy, vừa cười vừa trốn sau lưng thầy trêu lại mẹ. Tôi được mẹ dạy thêu khăn, mẹ chê tôi thêu xấu, sau đó mỉm cười tỉ mỉ chỉ lại cho tôi. Đó không phải quá khứ của tôi, nhưng lại hiện ra vô cùng sống động, đan xen vào những điều tôi đã trải qua. Có lúc, tôi mặc đồ con gái. Có lúc, tôi mặc đồ con trai. Lúc tôi ở làng lúc tôi ở phố. Lúc tôi đọc sách lúc tôi thêu hoa. Lúc tôi chọn hài lúc tôi luyện kiếm…


Tôi cũng chẳng hiểu tại sao mình nghĩ thế. Chỉ biết mình đang cảm giác rất bứt rứt, rất khó chịu, muốn chạy khỏi căn phòng này, chạy khỏi cấm cung này, chạy đến một nơi nào đó… đang cháy lên trong tim tôi càng lúc càng mãnh liệt.



Đêm ấy, tôi đã ra ngoài. Đi bộ một canh giờ chỉ để nhìn lên tấm biển một căn nhà.


Phủ nhà họ Trịnh.





Trận dịch ở Lạng Sơn ngày ấy tuy sau cùng đã được khống chế thành công, nhưng số người chết cũng không phải ít. Chỉ riêng đoàn sứ thần được cử sang phương Bắc đã có bảy người thiệt mạng(2).


Hoàng Nguyên Ý được xem là kẻ khả nghi lớn nhất trong việc kích động người Man nổi loạn trong trận dịch, nhưng mãi đến giờ trấn binh vẫn chưa truy lùng được hắn, chỉ bắt được bọn tay sai lẩn trốn trong rừng. Cũng may, Trịnh Khả là người kinh nghiệm đầy mình, lại từng giao du với một số thủ lĩnh người Man trong kháng chiến, nên từ số manh mối ít ỏi ấy vẫn tra ra được chân rết của Hoàng Nguyên Ý đang ẩn nấp tại các địa phương. Cuộc truy quét diễn ra thuận lợi, nhưng đầu dây mối nhợ của việc này lại không thể giải quyết bằng thế lực của triều đình ở Lạng Sơn.


Bởi, nó bắt nguồn ở Nghệ An.


Lạng Sơn ở phía bắc, Nghệ An lại ở phía nam, vốn dĩ không có nhiều liên hệ, nhưng với những kẻ cùng mục tiêu chống đối triều đình, thì chỉ cần đạt được ý đồ, dù kẻ trong nước người ngoài nước chúng vẫn có thể móc nối như thường. Cuộc phản loạn của Hoàng Nguyên Ý năm ngoái ban đầu là do triều đình nghĩ oan cho hắn, khiến hắn túng quá hoá liều, làm phản thật, chứ cái gan của hắn vẫn chưa đủ lớn. Lần này cũng vậy, kẻ đủ gan và đủ lực gây sóng gió ở Lạng Sơn cũng không phải hắn. Hắn chẳng qua chỉ nhận chút lợi lộc, kèm theo một lời hứa hão huyền để ra lệnh cho số tàn binh của mình hỗ trợ cho mưu đồ của một người. Tù trưởng châu Ngọc Ma: Cầm Quý.


Châu Ngọc Ma nằm ở phía tây đất Nghệ An, giáp với Ai Lao. Lúc tiên đế dẫn binh đến chiếm Nghệ An, Cầm Quý từng đưa quân đến giúp, đồng thời tiến cử Trần Cảo – một người tự nhận là hậu duệ hoàng thất nhà Trần. Để đối phó với yêu sách của giặc Minh, ban lãnh đạo của nghĩa quân Lam Sơn đã lập Trần Cảo làm vua, nhưng hai năm sau, lúc tấm bình phong này đã không còn giá trị, Trần Cảo liền bị triều đình âm thầm bức tử. Có lẽ vì vậy mà Cầm Quý cũng chột dạ theo. Trong một đêm, thu lại hết quân binh, băng rừng vượt suối trở về châu Ngọc Ma hùng cứ một phương, về sau lại cậy đất hiểm đường xa, không thần phục.


Sau khi lên ngôi, tiên đế cũng từng nghĩ đến việc diệt trừ mối hoạ này, nhưng việc hệ trọng cần xử lý quá nhiều, chuyện của Cầm Quý đành gác một bên. Chính những tháng ngày thảnh thơi ấy đã tạo điều kiện cho hắn tích trữ của cải, đút lót quan viên. Mấy năm sau, thời thế đổi thay. Nhận thấy nguy cơ mình bị diệt trừ đã không còn xa nữa, hắn bắt đầu lập mưu gây rối vùng biên cương phía bắc để triều đình tiếp tục không có thời gian hướng ánh mắt xuống phương nam của hắn.


Quân của Cầm Quý chỉ chừng một vạn, tính ra cũng không phải là con số lớn, trừ khi hắn cấu kết được với Ai Lao. Không may cho hắn, lúc này nội bộ Ai Lao lại đang lục đục, đánh nhau còn chưa xong thì làm gì còn đủ binh cho hắn mượn. Thế nên, ngay sau khi Bồn Man, vùng đất giáp với châu Ngọc Ma vừa dâng cống vật xin thần phục, triều đình liền quyết định nhổ đi cái gai nhiều năm là Cầm Quý ngay lập tức.


Bữa tiệc ở nhà Lê Sát chính là để tiễn hữu bật Lê Văn Linh nhận chức tham đốc đi bắt tên phản nghịch này(3).


Số người dự tiệc không nhiều lắm, chỉ vừa đủ hai chiếc sập, nhưng tất cả đều là tai to mặt lớn trong triều. Trước khi vào tiệc, hai cô con gái của Lê Sát từng được lệnh cha ra dâng trầu mời khách một hồi, không rõ là có dụng ý gì không. Tôi để ý thấy họ đều đẹp hơn Nguyên phi, so ra cũng chỉ kém hơn Nhật Lệ mấy phần, chẳng hiểu sao Lê Sát lại đưa đứa con gái nhan sắc không mấy nổi bật nọ vào cung thay vì hai người họ.


Tuổi tác và quyền thế của tôi đều kém những vị quan khách ấy quá xa, không thể ngồi cùng, chỉ có thể đứng phía sau họ hầu trà hầu rượu, đáp lại vài lời xã giao xã giao sáo rỗng, chủ yếu là những lúc họ chợt nhớ ra tôi là học trò Lê Sát. Tôi không thích hầu người khác, nhưng đây lại là dịp tốt để tôi quan sát những nhân vật chủ chốt của triều đình. Ai nóng nảy, ai trầm tĩnh, ai thân ai, ai thích mỉa mai ai, tôi đều cố gắng ghi nhận lại, bởi những thứ này mật thám có rất ít cơ hội điều tra được, Đỗ Huy lại càng không. Đôi khi, ngoài những chi tiết được xem là hữu ích, đầu óc tôi cũng bị xao nhãng bởi những chuyện bên lề. Ví dụ như việc Lê Văn Linh trước khi ăn cá luôn có thói quen gắp ra đĩa gỡ xương sạch sẽ, bị mọi người trêu là kĩ tính còn hơn mẹ già mớm con thơ.


“Ông Linh này, ngày mốt là ông ra trận rồi, ăn uống thế này không sợ bọn lính thấy nó cười cho à?” Lê Thụ vừa nói vừa cười ha hả.


“Ông Thụ chưa già mà đã lẫn.” Ngồi ở sập kế bên, một vị tướng mà tôi nhất thời quên mất tên lên tiếng. “Ông không nhớ lần ấy vây thành Nghệ An, bọn võ tướng chúng ta lúc lên lưng ngựa thì bên hông giắt cây đao, còn ông Linh giắt cây gì sao?”


Mọi người đều phá lên cười, đồng thanh: “Cây quạt!”


Trở thành nhân vật tiêu khiển của mọi người, Lê Văn Linh vẫn mặt không biến sắc, vừa nho nhã vừa điềm tĩnh, chăm chỉ gỡ xương: “Đao thì sao? Còn quạt thì sao? Chẳng phải đều được dùng để phòng thân? Các ông ngại cung kiếm nên mang đao, còn tôi ngại nóng, nên mang quạt. Ông nào hôm ấy đánh trận xong mượn quạt của tôi quạt lấy quạt để thì không có tư cách giễu tôi đâu.” Giọng điệu chậm rãi, vô cùng chậm rãi, cứ như đang ngâm một bài từ.


Đám võ tướng lại chuyển sang chỉ trỏ nhau ai là người mượn quạt Lê Văn Linh ngày ấy.Cùng là quân sư phò tá tiên đế từ những ngày đầu khởi nghĩa, thế mà vận làm quan của Lê Văn Linh và Nguyễn Trãi lại thật khác nhau. Kẻ, như diều gặp gió. Người, khi nổi khi chìm.


Khó mà biết được con đường của họ bắt đầu rẽ sang hai hướng lúc nào. Có lẽ là từ lúc Nguyễn Trãi tạo nên tám chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” trên lá cây, giúp tiên đế thu phục lòng người, nhưng đồng thời lại khiến không ít võ quan bất mãn, cho rằng ông ngạo mạn. Có lẽ là từ lúc Lê Văn Linh cầm quân vây đánh Nghệ An, cùng các binh tướng da đen tóc cháy, trong khi Nguyễn Trãi vẫn chuyên tâm với việc bày mưu trong màn trướng của mình. Cũng có lẽ là từ lúc Nguyễn Trãi được giao chức Lại bộ thượng thư, giữ trọng trách chiêu mộ hiền tài, nhưng tính tình lại quá cương trực, quá thanh liêm, không chấp nhận được những người nửa trong nửa đục, nên bị người ta ganh ghét. Hoặc cũng có thể, chỉ là từ một bữa cơm nào đó vào những ngày đầu khởi nghĩa. Khi cánh võ tướng thô lậu chợt nổi hứng trêu chọc cánh quan văn, Nguyễn Trãi chọn cười trừ, cúi đầu nói: “Xin thất lễ”, trong khi Lê Văn Linh lại điềm nhiên dùng cái giọng ngâm nga giống như hôm nay vậy, khiến tất cả đều cười.


Vào tiệc được gần nửa canh giờ, thấy bọn trẻ chúng tôi đứng đấy cũng đã lâu, Lê Sát sai người hầu dọn cho tôi và hai cậu con trai thứ một chiếc chiếu riêng, không cần phải hầu khách nữa. Được thả lỏng tay chân, tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng niềm vui ấy lại bị dập tắt rất nhanh.


“Tao muốn đấu với mày.” Đứa con trai nhỏ của Lê Sát thình lình bước đến chắn trước mặt tôi, giương cằm bảo.


Tôi lặng lẽ quan sát thân hình nó, lại nghĩ đến mớ võ èo uột mà từ hồi bị thương ở Lạng Sơn vẫn chẳng tiến bộ được chút nào của mình, cười gượng đáp: “Mọi người vẫn còn đang ăn tiệc, chúng ta đánh nhau như thế không nên.”


Nó không vì vậy mà bỏ ý đồ: “Tao nói đấu, không phải đánh.” Giọng không đến nỗi gay gắt, nhưng lại không muốn cho tôi thoát. Tôi có cảm giác nó rất ghét tôi.


Là vì lúc nãy Lê Sát đã khoe tôi vừa biết võ vừa học giỏi sao?


Tôi đưa ánh mắt cầu cứu về phía Lê Sát, chỉ mong ông ta nhớ đến phép lịch sự mà ngăn cản trận đấu này. Nào ngờ, Lê Sát còn chưa lên tiếng, một ông khách ngà ngà say đã hứng chí vỗ tay: “Khá, khá lắm, hậu sinh khả uý!”


Mọi người nghe vậy cũng hùa nhau vỗ tay theo, mồm năm miệng mười nào là lâu rồi không được xem đấu võ, nào là con nhà võ thì dù lớn nhỏ cũng không được lơ là luyện tập.


Lê Sát có vẻ không hài lòng, nhưng mọi người đều đã góp lời nên ông ta cũng buông xuôi: “Đánh có chừng mực thôi!”


Tôi nhắm mắt, thầm than: Chết chắc!


Ngay từ lúc thằng oắt con kia giương tay thủ thế, tôi đã biết mình không thể nào thắng nó. Nó kém tôi một tuổi, nhưng là con nhà nòi, ba tuổi đứng tấn bảy tuổi luyện đao, trong khi tôi từ bé đã ốm lên ốm xuống suýt chết mấy lần, đến mười tuổi mới bắt đầu tập võ, hoàn toàn chỉ dựa vào siêng năng chứ chẳng có chút năng khiếu bẩm sinh nào. Mỗi quyền nó xuất ra đều nhanh như chớp, mấy lần đánh sượt qua má tôi đau điếng, còn tôi lại chẳng đánh trúng nó được cái nào. Có đôi ba lần hy hữu tôi đạp được vào chân nó, nhưng nó tránh rất nhanh, rốt cuộc kể chịu đòn nhiều nhất vẫn là tôi.


Nhất là khi tôi luôn phải tránh để nó không thể đánh trúng ngực mình.


Tiếng reo hò trong sảnh khiến tôi tức đến nghiến răng, nhưng mắt tôi chỉ có thể dán chặt vào kẻ địch đang dồn dập tấn công mình, không thể liếc nhìn xem ai là người đang hào hứng cười đùa trên nỗi khổ của tôi. Má tôi lại bị trúng một đòn, máu trong miệng rỉ ra tanh tưởi. Sự tủi thân và ấm ức khiến tôi tức điên lên, lao về phía trước.


Một con chó mực chạy vụt qua chắn ngang tôi.


Tôi mất đà, ngã nhào, lăn đến chỗ bồn hoa.


Tên oắt con cười đắc thắng phóng đến chỗ tôi, nhưng tiếng quát của Lê Sát đã ngăn nó lại.


“Người ta đã ngã thế rồi mà mày còn muốn đánh?” Ông ta trừng mắt, vung tay chỉ thẳng vào nhà. “Cút ngay về phòng cho tao! Thằng mất dạy!”


Tôi dứng dậy, thở hổn hển, máu trong người vẫn còn sôi sùng sục, mắt mờ đi.Nhìn nó hậm hực chạy vào nhà, tôi đột nhiên tôi muốn khóc.


Nó có nhà, có cha bênh, còn tôi không có. Tôi có muốn đánh nó cũng không dám đánh thẳng tay. Nếu không phải Lê Sát lên tiếng, đám người ở đây có lẽ cũng chẳng ai nói một lời, cứ thế giương mắt nhìn tôi bị đánh.


“Thằng Hổ đâu, vào nhà lấy thuốc cho khách nhanh lên!” Lê Sát đưa mắt sang tên hầu đang đứng chờ ngoài cửa.


“Vết thương nhỏ thôi, không cần đâu ạ.” Tôi ôm cánh tay bị tróc một mảng da dài, cúi gầm mặt đáp.


Lê Sát dường như cũng phát bực với tôi: “Bị thương mà không chịu chữa không phải anh hùng. Gọi là NGU.”


Tôi nghe vậy, cũng tự thấy mình ngốc nghếch, đành ngồi xuống đợi người ta mang thuốc đến băng bó lại vết thương.





Được Lê Sát cho về trước, nhưng tôi không lập tức trở lại hoàng cung, mà đứng chờ ở một góc đường, nép sau một thân cây lớn. Mãi đến khi hữu bật Lê Văn Linh ra cửa, từ từ tiến đến gần, tôi mới bước ra, cúi đầu kính cẩn:


“Con đội ơn ngài đã giải vây cho con ban nãy.” Con chó nhà Lê Sát không tự nhiên chạy đến chắn đường tôi. Khúc xương gà ấy là do Lê Văn Linh quẳng ra sân, cố tình dụ con chó đến. Việc này sau khi băng bó vết thương, bình tâm lại quan sát xung quanh tôi mới nhận ra.


Bước chân ông ta vẫn đều đều, khẽ phe phẩy quạt, giọng không nóng không lạnh: “Nếu đã hiểu rồi, sao còn đợi ở đây!”


Nói xong, cũng vừa lúc đi lướt qua tôi.


Ban đầu tôi không hiểu ý ông ta, nhưng hôm sau, lúc Lê Sát mắng tôi về việc lén gặp Lê Văn Linh để xin một chức quan, tôi đã hiểu ra ẩn ý của câu nói nọ.





Đầu tháng Chạp là ngày giỗ của thầy tôi.


Hành lý đã được tôi chuẩn bị từ lâu, ngay cả vài thức riêng tư dành cho con gái cũng được tôi gói ghém kĩ càng, phòng trường hợp cần dùng đến giữa đường. Số tiền tôi mang theo thật ra cũng không nhiều lắm, nhưng với điều kiện ở quê thì cũng đủ cho mẹ và vú già sống dư dả một năm. Dù sao cũng không thể cho mẹ biết tôi đã vào cung. Nếu mang về quá nhiều tiền, mẹ tôi sẽ nghi ngờ, tôi không muốn quan hệ giữa tôi và bà lại có thêm khoảng cách.


Giữa tiếng lá reo nước chảy bên bến đò vắng khách, thình lình, một giọng nói quen thuộc chợt vang lên phía sau tôi, khiến tôi suýt nữa đánh rơi cả hành lý xuống sông.


“Cũng về Lam Kinh hả?”



Chú thích:


(1) Năm Thiệu Bình thứ 2, tháng 11,mồng 9, trời có tiếng như sấm. Kinh sư và các huyện bên cạnh động đất.


(2) Năm Thiệu Bình thứ 2, tháng 8, ngày 28, Lê Bính và Nguyễn Thiên Tích vâng mệnh đi sứ phương Bắc trở về, tâu là phó sứ Phan Ninh, hành nhân Nguyễn Cát Phú và người đi theo, gồm 7 người bị bệnh dịch chết, nước Minh đều có điếu tế.


(3) Lê Văn Linh (1376-1448) là một khai quốc công thần nổi tiếng của triều Lê, quê ở huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân), Thanh Hoá. Từ thời Hồ, ông đã nổi tiếng là người hay chữ của huyện Lôi Dương, nhưng sử sách không ghi lại chuyện ông thi cử hay làm quan cho nhà Hồ.


“Ông vốn là người có khí tiết cao. Lúc ấy, dân trong làng thường khổ vì nạn cọp. Ông liền nhân đó viết bức thư trách cọp. Từ đó, cọp bỏ đi hết. Vì lẽ ấy, người ta ví ông như Hàn Thuyên là người đã làm thơ đuổi cá sấu đi nơi khác. Khi Lê Thái Tổ còn đang trong thời kì bí mật chuẩn bị ở Lam Sơn, ông đã hăng hái theo về. Đến năm Mậu Tuất (1418), vua dấy nghĩa binh, thường cùng Nguyễn Trãi luôn ở bên cạnh để bàn mưu bày kế thần diệu trong màn trướng. Việc tính toán vận trù quyết thường có công lao. Khi Vua vây thành Đông Quan, ông bàn mưu kín mà lấy được thành, khiến cho người Minh cuối cùng phải xin hàng, Vương Thông phải rút về, nước nhà nhờ đó mà thái bình yên tĩnh.”[LTHCLC]


*Thật ra việc đuổi cọp là ông dùng mẹo, không phải chỉ vì một bài văn mà cọp bỏ đi*


Trong chiến dịch vây đánh Nghệ An, ông từng được tiên đế giao nghiệm vụ ở lại vây thành cùng các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Bùi Quốc Hưng (cũng là một văn thần)…


Năm 1428, Lê Thái Tổ lên ngôi, ông được phong tước Hương Thượng hầu, tên chỉ xếp sau những võ tướng kì cựu là Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo, Lê Ngân, và Lưu Nhân Chú. Năm 1429, Lê Văn Linh được phong làm Nhập Nội Thiếu Phó, một chức trong “Tam thiếu” (Là trọng chức trong triều, trên hai ban văn võ), sau đó chuyển sang làm Hữu bật.


Năm Thiệu Bình thứ 2 (1435) Triều đình lấy Tư mã Tây đạo Lê Bôi làm Tổng quản; hữu bật Lê Văn Linh làm Tham đốc, đốc suất các vệ quân năm đạo và hai vạn trấn quân Nghệ An đi đánh tên phản nghịch Cầm Quý ở châu Ngọc Ma. Vua răn bảo phải nghiêm cấm tướng sĩ, vỗ yên nhân dân, tổng quản, đồng tổng quản, tổng tri nào trái lệnh thì bắt giam mà tâu xin xử tội. Từ vệ đồng tri trở xuống, người nào ra trận mà trái lệnh hoặc lùi lại thì cho chém trước tâu sau. [ĐVSKTT]
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Lâm Diệu Anh

Gà BT
Nhóm Tác giả
Tham gia
2/8/14
Bài viết
1.705
Gạo
600,0
Lê Sát dường như cũng phát bực với tôi: “Bị thương mà không chịu chữa không phải anh hùng. Gọi là NGU.”
Chuẩn cơm mẹ nấu nè Bí!
Giữa tiếng lá reo nước chảy bên bến đò vắng khách, thình lình, một giọng nói quen thuộc chợt vang lên phía sau tôi, khiến tôi suýt nữa đánh rơi cả hành lý xuống sông.
Hông lẽ là Phạm Nguyên hay Đỗ Huy? =_=
Phủ họ Trịnh? càng lúc càng mùi nha. Không tra bác Gồ để dành đọc cho nó hồi hộp! ^^
 
Bên trên