Chương 28: Đỗ Huy
Cứ đến tháng bảy, trời đêm lại chìm trong những đợt mưa ngâu rả rích.
Nước mưa tí tách rót xuống mái hiên, róc rách thành dòng qua những ô gạch vỡ, lặng lẽ quyện vào hương thơm âm ỉ của những chùm nguyệt quế rụng trắng bậc thềm. Hơi lạnh ngập ngừng phả vào phòng. Hương hoa thoang thoảng, nhưng dư vị điêu tàn của cỏ úa đất trôi lại nồng đậm đến miên man. Nến nương theo gió khi tỏ khi mờ. Nhiều lúc tưởng chừng như sắp tắt, rốt cuộc vẫn le lói đến tận canh tư.
Tôi chăm chú nhìn đôi chuông ngọc chính tay mình chôn xuống gốc cây ba tháng trước. Sắc ngọc trắng trong không tỳ vết, vốn là lời thề hẹn, hôm nay lại đại diện cho một lời cảnh cáo ngấm ngầm.
Từng yêu thương tôi thì sao? Từng được thầy chọn để phó thác tôi cả cuộc đời còn lại thì sao? Ai mà chẳng phải đổi thay! Trước mắt đã có hàng chục, hàng trăm tấm gương như thế, cớ sao tôi còn ngốc nghếch ôm hy vọng rằng sau bảy năm, một người vẫn có thể giữ được sự chân thành tốt đẹp của năm mười một tuổi?
Thậm chí còn nhớ lại những lời hứa vu vơ trẻ con năm ấy, nhớ lại những tháng ngày lên rừng xuống suối chẳng biết âu lo, gieo hạt trồng cây, hái hoa bắt bướm, tết lá làm vòng.
Chẳng khác gì lũ con gái suốt ngày chỉ biết mơ mơ mộng mộng.
Ngây thơ như thế, làm sao đưa được đội mật thám qua mắt tay chân Lê Sát? Làm sao trừ bỏ được những kẻ xum xoe bên Phạm Nguyên muốn ngáng đường mình? Làm sao phát giác được ý đồ của Phạm thái phi và Trịnh thái phi? Làm sao lập công? Làm sao ngăn người khác cướp công? Làm sao tránh bị mang ra làm vật thí?
“Thầy ơi, trước lúc lâm chung thầy dặn con dùng vật này để tìm người mang đến hạnh phúc cho con, nhưng không phải…”
Thế nào là hạnh phúc, thế nào là ái tình, tôi không biết, nhưng tôi biết bạc bẽo là gì.
“Người ta dùng vật này để uy hiếp con thầy ạ.”
Ngọc Phương, Ngọc Phương… Ngọc trong châu ngọc, phương của hương hoa.
Tiếng mưa át tiếng chuông. Rung mãi, vẫn không ra được thanh âm thánh thót thuần khiết của năm nào.
…
.
.
.
Đêm đằng đẵng mấy cũng phải sáng. Mưa dai dẳng mấy cũng phải tạnh.
Lúc tôi bước ra sân, mặt trời chỉ vừa lên, hơi mưa ẩm ướt vẫn còn vấn vít quanh những hàng cột gỗ chạm hình hoa. Những hoạn quan lo việc quét dọn tất bật lau rửa hành lang, chuẩn bị đón thánh giá đi qua. Một vết bùn, một cánh hoa rơi vãi cũng không dám lơ là. Vua ngồi trên kiệu, dĩ nhiên sẽ không để ý nhiều tiểu tiết, họ sợ là sợ những người hộ tống vua. Tôi thấy vậy đành vòng sang một con đường nhỏ khác đến phòng của Phạm Nguyên.
Trước đây kẻ hầu người hạ còn thưa thớt, mỗi ngày tôi đều lãnh nhiệm vụ đánh thức Phạm Nguyên, sau đó giúp cậu ta mặc long bào chuẩn bị vào triều. Nay hoạn quan cung nữ mỗi lúc một nhiều, độc chiếm cơ hội gần vua cũng chẳng tốt lành gì, nên tôi nhường Đinh Thắng phụ trách việc này, còn bản thân chỉ cần lo sửa soạn sách vở vào Quốc Tử Giám học đến trưa. Thế nên, hôm nay thấy tôi xuất hiện trước cửa phòng Phạm Nguyên vào sáng sớm, không ít người tỏ vẻ ngạc nhiên.
Nguyên nhân tôi đến cũng chẳng có gì to tát, chỉ là xin một tấm thẻ bài để xuất cung. Sau sự kiện phanh phui danh sách tham quan, Phạm Nguyên ban thưởng và thăng quan cho khá nhiều người. Vì công trạng cũng có, vì tình riêng cũng có. Việc xử lý bệnh dịch ở Lạng Sơn không được công khai nên phần thưởng của tôi có thể xem là vì tình riêng, có điều phần thưởng vì tình riêng này không hề do chữ “riêng” mà nhỏ.
Tôi được ban một căn nhà ở kinh thành.
Hiện tại tôi không quan không chức, mua nhà cũng không thể mua to, nên chỉ chọn một căn be bé trên đường lớn. Tôi ở trong cung suốt nên nhà thường xuyên để trống, muốn tránh lãng phí chỉ còn cách mở một hàng buôn bán vặt rồi thuê người giúp mình quản lý. Việc kinh doanh giao dịch tôi không hiểu lắm, nên nhà là tôi nhờ người anh họ của Đinh Thắng chọn, còn buôn bán thì nhờ em vợ của người thầy dạy ở Quốc Tử Giám tìm mối lấy hàng. Với những việc không lấy gì làm quan trọng thế này, đôi lúc nên để người ta có dịp ban ơn cho mình, để người ta có cảm giác đứng trên cao.
Rời khỏi cấm thành, tôi đi bộ một đoạn rồi đón xe bò đến bến đò. Chốn này lắm người qua kẻ lại, vừa nhộn nhịp vừa tấp nập nên bọn trẻ ăn xin cũng thường xuyên lui đến, nhiều đứa chỉ mới hai ba tuổi đã phải lăn lóc đầu đường xó chợ kiếm hạt cơm mẩu bánh sống qua ngày. Người đi đường không phải ai cũng có lòng nhân ái, nên cuộc sống của chúng khá bấp bênh. Bước vào một quán ăn hơi lụp xụp, tôi ra hiệu gặp riêng bà chủ quán, rồi đề nghị làm một bản khế ước mua năm mươi phần cơm cho bọn trẻ mỗi tháng ba lần, sau đó lại lên xe đến thăm căn nhà đang sửa chữa dở dang.
Ba ngày sau, tôi lại xuất cung lần nữa, giữa đường tình cờ nhìn thấy một gã cậu ấm áo xiêm loè loẹt, thoạt trông có vẻ là con cái nhà quan, đang đòi bắt em gái người ta gán nợ. Tôi nhìn một lần rồi cho xe đi thẳng đến một quán trà cách đấy năm ba dặm.
Lúc vào quán, nhân lúc gọi thêm một đĩa bánh phục linh, tôi thuận miệng kể cho tên bưng trà về chuyện vừa gặp trên đường. Bánh còn chưa mang đến, người đàn ông trung niên vận quan phục mới đấy vẫn nhàn nhã ngồi bên cửa sổ đã chạy ngay ra cửa, giục gia đinh nhanh chóng cáng võng đưa ông ta về phía con đường tôi kể.
Giá trị của mật thám chính là ở đấy!
Giải quyết xong phần trà bánh của mình, tôi lại bắt xe về. Lần này thì vô tình gặp phải một đứa trẻ ăn xin.
Tôi làm theo chỉ dẫn trên bức thư thằng bé vừa lén dúi vào tay, tìm đến quán trọ Bích Vân cạnh bến đò, rồi hỏi thăm phòng một thầy lang quê ở Thái Nguyên. Đón tôi sau cánh cửa là một người đàn ông choàng khăn nâu khắc khổ, tóc đã bạc gần nửa mái đầu, dáng đi hơi run rẩy. Sau khi thận trọng khoá cửa phòng, trên gương mặt già nua ấy chợt xuất hiện một nụ cười lạ mà quen. Ông ta nhẹ nhàng mở cửa sổ, kéo tay tôi leo ra ngoài, men theo hàng tre đến một con đường vắng, rồi đẩy cửa bước vào một căn nhà hoang yên ắng.
“Đã đến nơi rồi, anh còn định thần thần bí bí đến bao giờ?”
Người đàn ông cúi đầu, nhìn tôi thật lâu, bóng cây ngoài cửa phủ đi ánh mắt. Tôi im lặng làm mặt lạnh xoay người sang hướng khác, hạ tầm mắt liếc nhìn thanh nhuyễn kiếm ẩn dưới đai lưng, cẩn thận quan sát quang cảnh xung quanh.
Lúc quay đầu lại, đứng trước mặt tôi đã là một chàng trai trẻ.
Người tôi từng gặp dưới tàn hoa gạo vào một ngày mưa giăng sương dệt. Người từng ân cần chữa bệnh cho tôi suốt những ngày ở Lạng Sơn dưới thân phận một lão thầy lang.
Tên anh ta là… Đỗ Huy.
“Hồi trước em chỉ đứng đến thắt lưng tôi thôi, vậy mà mới mấy năm đã cao lớn vậy rồi.” Anh ta khom người định lau đi mẩu bánh vụn trên môi tôi, nhưng tôi gạt tay anh ta ra, cau mày nghiêng người tránh sang một phía.
Sau đó, nước mắt lã chã rơi.
“Em giận tôi gạt em phải không?” Anh ta định chạm vào tôi, nhưng có lẽ nhớ đến thái độ vừa rồi của tôi nên bàn tay hơi khựng lại. “Lúc ở Lạng Sơn tôi không nắm rõ tình hình nên không thể nói thật với em.”
Tôi vuốt nước mắt cười khẩy: “Tôi không phải con ngốc! Anh chẳng quan chỉ muốn giữ kín bí mật rồi đợi dịp dùng nó để uy hiếp tôi thôi, nếu không thì anh đào cặp chuông ngọc mà tôi chôn ở Lạng Sơn lên gửi vào cung để làm gì? Anh đừng nói với tôi là anh khờ đến nỗi không biết trong cung tai vách mạch rừng, người người chờ chực bắt lỗi nhau để hãm hại thế nào!” Lúc gặp anh ta trong rừng, tôi đang dùng một tấm vải lớn trùm kín cả người, chỉ lộ ra gương mặt, thoạt nhìn không rõ gái trai, càng không thể tra ra thân phận dù anh ta có quay lại và tìm được cặp chuông tôi chôn vội dưới đất đi chăng nữa. Đó là lý do tôi đoán ra anh ta từng tiếp xúc với tôi dưới một thân phận khác.
Trong số những người tôi từng gặp, chỉ có lão thầy lang nọ là gốc gác không rõ ràng, biết được chức vụ của tôi, cũng là người từng được tôi nhẹ dạ cả tin tiết lộ về hoàn cảnh gia đình nhiều nhất.
“Tôi chỉ gửi em cặp chuông kia, không hề viết thêm một chữ nào, ngoài em ra không ai có thể hiểu được ẩn ý của tôi.”
“Được, cứ xem như anh đủ lo lắng cho tôi, không để người trong cung bắt được điểm yếu của tôi, nhưng ý đồ uy hiếp của anh chẳng phải quá rõ ràng sao? Anh nghĩ tôi không tra ra được anh là ai, anh muốn gì ở tôi chắc? Thật tội nghiệp cho cha tôi, trước lúc lâm chung còn nhớ đến anh, bảo rằng mai này anh sẽ là người chăm sóc cho tôi.” Tôi vung tay rút cặp chuông gói kĩ trong chiếc khăn ra, ném về phía anh ta. “Tôi chẳng dám phiền anh chăm sóc, chỉ không ngờ có ngày người mang bí mật của tôi ra uy hiếp lại là anh.”
Anh ta dịu giọng, nhưng ngữ điệu không vì vậy mà thiếu phần kiên định: “Chúng ta đã bảy năm không gặp. Đối phương thay đổi thế nào so với trước đây, không ai biết được. Em lại sống trong cung, nơi hang hùm hổ huyệt, tuổi còn nhỏ địa vị đã hơn người, tính cách bị ảnh hưởng thế nào tôi càng không rõ. Nếu không thăm dò em một chút, tôi làm sao dám manh động gặp em.” Tia nắng trưa chói mắt xuyên qua mái lá, in một vệt dài trên vầng trán anh ta. “Em vốn là một đứa trẻ ngoan, năm ấy cùng tôi vào rừng, biết rõ con thú con nằm bên gốc cây là con sói thế mà vẫn mang nó về chữa thương cho nó. Sống trong cung không dễ dàng gì, tôi biết em không thể vẫn đơn thuần hồn nhiên như lúc nhỏ, nhưng trải qua mấy ngày quan sát, tôi vẫn thấy được thiện tâm trong em chưa biến mất. Ít ra em tra được thân phận của tôi nhưng đến giờ tôi vẫn còn sống sót đứng ở đây.”
“Anh muốn tôi giúp cha anh thoát tội?” Tôi ngước nhìn anh ta bằng đôi mắt đã không còn dấu vết giọt nước nào, cất giọng khô khốc.
“Cha tôi là người thẳng thắn thanh liêm, được dân kính dân yêu, lần này chắc chắn là bị người ta vu oan giá hoạ.” Tôi cảm nhận được mùi sát khí tản mát trong giọng nói có vẻ bình thản của anh ta.
“Danh sách này là do hoàng đế đưa ra, vậy anh đang buộc tội hoàng đế vu khống cha anh?” Tôi không dùng từ ‘vua’, mà dùng từ ‘hoàng đế’.
“Lúc vừa lên ngôi, tiên đế đã định ra luật lệ vô cùng nghiêm khắc để giữ kỉ cương phép nước, tham ô một quan tiền cũng bị mang đi chém. Danh sách năm mươi ba người, nếu đều kết tội chẳng lẽ cùng lúc giết ngần ấy người sao? Với tuổi tác và hậu thuẫn hiện tại của ấu chúa, thật chất cậu ta không đủ khả năng để thu tóm quyền lực lúc này, tạo nên một cơn cuồng phong lớn như vậy trong triều chỉ khiến bứt dây động rừng. Nếu cậu ta đã đủ thông minh để tra ra bấy nhiêu mầm mống, lẽ nào không đủ nhìn xa trông rộng để nhận ra giết đi một lượng quan viên đông như thế sẽ gây ra hậu quả gì đối với những nhân vật còn lại của quan trường? Tôi nghĩ, danh sách ấy có phải thật sự do chính cậu ta sai người thu thập hay không vẫn còn là một nghi vấn lớn.”
Tôi nhếch môi, xoay tròn thanh chuỷ thủ trong tay: “Biết nhiều khó sống, mấy ngày qua tôi không giết anh không có nghĩa là tôi sẽ tiếp tục tha cho anh.” Theo tin tình báo, người thanh niên đang đứng trước mặt tôi đây chỉ là một gã lông bông, không phải loại người quan tâm đến chính trường. Thế nên dẫu đã đoán được phần nào sự tỉ mỉ của anh ta qua hành động gửi cặp chuông ngọc vào cung nhưng không kèm theo bất cứ lời nào, sau đó chờ đợi để quan sát tôi lang thang ở kinh thành suốt mấy ngày qua, việc một người ngoài cuộc như anh ta có khả năng phân tích vấn đề như vậy không khỏi khiến tôi kinh ngạc.
Phạm Nguyên cũng chưa từng khẳng định với tôi danh sách ấy là do cậu ta tra.
Tôi nghĩ ra, anh ta nghĩ ra. Vậy, Lê Sát có khi cũng nghĩ ra…
“Cha tôi làm quan luôn nghĩ cho dân, không khỏi đắc tội nhiều người quyền quý, vô tội vào tay những người này cũng thành có tội.” Giọng anh ta chợt nhẹ hẫng đi. “Ngọc Phương, trước đây cha mẹ tôi đều rất tốt với em. Em có thể…”
Khi thì phô trương suy đoán, lúc thì dùng tình thân lay động. Người này xem ra cũng không tồi.
“Anh không nghe câu nói vừa rồi của tôi sao? Tôi bảo: Biết nhiều khó sống, mấy ngày qua tôi không giết anh không có nghĩa là tôi sẽ tiếp tục tha cho anh.” Tôi tuốt thanh nhuyễn kiếm ra khỏi đai lưng, chậm rãi đặt mũi kiếm lên má anh ta, ấn xuống, nhìn giọt máu đỏ tươi như màu hoa gạo từ từ chảy dọc theo sống kiếm.
“Em định giết tôi?” Anh ta mỉm cười, tia bông đùa trong đáy mắt chợt vụt sáng lên, khiến tôi cũng không rõ anh ta tự tin thật hay chỉ giả vờ. “Hay… định huỷ dung tôi?”
“Huỷ dung?” Tôi nhanh như chớp lướt mũi kiếm xuống yết hầu của anh ta. “Mấy ngày qua ta chưa ra tay, chẳng qua là chưa có dịp mà thôi.”
“Tôi là vị hôn phu đã qua mai mối, có song thân đính ước của em đấy, giết tôi tức là tội sát phu.” Anh ta mỉm cười yếu ớt, nhưng nét tự tin trong ánh cười vẫn chưa tàn lụi.
“Sát phu?” Mũi kiếm trên tay tôi lại ấn sâu hơn một chút. “Nơi này đồng không mông quạnh. Chỉ sợ là còn không ai biết ngươi chết ở đây, chứ đừng nói là vì sao chết, chết do ai.”
“Ngọc Phương, ở Lạng Sơn tôi từng cứu em một mạng, em định lấy oán báo ơn sao?”
“Ta sẽ cứu cha ngươi, nhưng ngươi thì không – thể – sống.” Tôi lạnh lùng nhấn mạnh ba chữ cuối.
“Giảng luân thường đạo lý em không chịu tiếp thu, vậy chúng ta chuyển sang bàn về độc dược đi.”
“Độc dược?”
“Lẽ nào em lại nghĩ tôi chỉ biết bốc thuốc cứu người?” Anh ta đưa tay đẩy nhẹ mũi kiếm của tôi ra, mặc cho lưỡi kiếm cắt vào da. “Sao em thánh thiện đến đáng yêu vậy Ngọc Phương?”
Tôi giật mình, hốt hoảng nhận ra sống lưng mình đang dần dần tê buốt. Cũng chẳng biết anh ta đã hạ độc lúc nào.
“Kim khắc mộc, thuỷ khắc hoả. Nếu vị hôn phu của em không có chút bản lĩnh thì làm sao sống sót để sau này rước em về? Ngoan ngoãn một chút, lấy tôi rồi mỗi ngày tôi sẽ cho em ăn dược thiện để em được đẹp da. Còn nếu cứ thích doạ tôi thế này…” Anh ta co rúm hai vai, nhăn mặt vờ sợ hãi. “Em cũng biết tôi là thư sinh yếu đuối mà. Tôi… tôi… tôi sẽ run tay bỏ nhầm thuốc đấy.”
“Đồ tiểu nhân!”
“Em nghĩ mục đích của tôi là dùng thân phận con gái của em để uy hiếp em sao?” Anh ta khoanh tay, lắc lắc đầu. “Em sai rồi.”
Thứ anh ta cần chính là cơ hội tiếp xúc để hạ độc tôi, sau đó dùng thuốc giải để làm điều kiện.
“Chắc em còn nhớ đám thầy mo phản loạn ở Lạng Sơn bị độc dược của tôi hành hạ thế nào.”
“Ngự y trong cung không thiếu, ta không tin không ai chữa được loại độc này!”
Anh ta tặc lưỡi: “Chậc chậc, sao em nghĩ xa xôi thế, trước hết em phải nghĩ đến việc mình có toàn mạng về cung không đã chứ!”
“Giết tôi anh chẳng được lợi gì, bệ hạ cũng sẽ nhanh chóng cho người điều tra để trả thù cho tôi, đến lúc đó người chết sẽ không phải chỉ một mình anh. Thậm chí chia nhỏ thuốc giải ra nhiều lần để khống chế tôi cũng không phải ý hay đâu! Ngự y không phải toàn một đám lão già vô dụng như anh tưởng.” Tôi gượng cười, thân thể lúc này đã lạnh ngắt, đầu đau như bị kim châm. Nếu không phải lúc ở Lạng Sơn từng chịu qua cơn đau thể xác dữ dội hơn, có lẽ lúc này tôi ngay cả đứng cũng không đứng nổi. “Chúng ta trao đổi điều kiện có lợi cho cả hai bên đi, như vậy sẽ có thể cùng sống tốt dài lâu.”
“Chúng ta từng lớn lên bên nhau, hôm nay thật sự phải đi đến bước này sao?” Anh ta thở dài, ánh nhìn sâu lắng lúc chiếu vào tôi dường như có chút gì tiếc nuối. “Có lẽ… không thể khác đi được nhỉ…”
Tôi vờ như không quan tâm đến những lời ấy của anh ta: “Anh là con trai quan phủ, tính tình lại phóng khoáng, hẳn là giao du với không ít công tử nhà quan. Tôi cần anh tiếp cận họ để dò hỏi tin tức về những việc cha mẹ họ làm.” Những mật thám của Phạm Nguyên dù trà trộn được vào nhà quan cũng không thể tra được loại tin tức vợ chồng con cái đóng cửa bảo nhau này.
Anh ta im lặng hồi lâu, chân cứ bước đều quanh chiếc bóng của tôi, một vòng rồi lại một vòng.
Một lúc sau, cuối cùng cũng dừng lại, gật đầu, khẽ rút từ ống tay áo ra một một mũi kim châm vào thái dương bên trái của tôi, trầm giọng.
“Được.”
Ai mà chẳng phải đổi thay…
Anh bế em mãi nhé? Anh róc mía cho em ăn cả đời nhé?
Gieo hạt trồng cây, hái hoa bắt bướm, tết lá làm vòng…
Ngọt ngào đấy, nhưng chỉ là quá khứ thôi. Tôi đã không còn là tôi của ngày xưa. Anh ta cũng không còn là anh ta của ngày xưa.
Ai mềm lòng, kẻ đó thua.
Ai tính toán trước, người đó thắng.
…
Tôi trở về cung lúc trời đã xế chiều. Vào phòng, việc đầu tiên tôi làm là đóng cửa đọc một mẩu giấy, thứ được tên bưng trà âm thầm đặt vào tay thậm chí còn sớm hơn cả bức thư của Đỗ Huy ban sáng.
Dĩ nhiên, đây không phải thư của Phạm Nguyên, cũng không phải thư của đội mật thám, càng chẳng phải thư của Đỗ Huy.
Tôi xếp gọn mẩu giấy, mở toang cửa sổ, chống cằm nhìn ra phía mặt sân nắng chang chang.
Đề nghị này… có thể là một cái bẫy không?
Tôi đáng để Lê Sát giăng một cái bẫy lớn vậy sao?